Việt Nam đang dẫn đầu thế giới về thành công trong kinh tế kể từ khi áp dụng cải cách thị trường vào những năm cuối của thập kỉ 80, ngày nay thường được thế giới biết tới như chính sách "Đổi mới". Sự thành công về kinh tế của Việt Nam được tạo ra bởi các nhân tố tương tự như các nhân tố đã tạo nên “phép mầu về kinh tế” tại các nước Singapore, Đài Loan và Hàn Quốc vào những năm 70 và 80. Những nhân tố này chủ yếu nhấn mạnh vào phát triển xuất khẩu, ổn định chính trị và một nền kinh tế thị trường có kế hoạch thực hiện theo chiến lược đã đặt ra. Xuất khẩu càng đóng vai trò quan trọng thì hoạt động xúc tiến thương mại nhằm hỗ trợ cho xuất khẩu càng được chú trọng , đặc biệt với mục tiêu mở rộng thị trường và đa dạng hoá các mặt hàng như Đảng và nhà nước ta đã đặt ra.
Mối quan hệ của ta với Hoa Kỳ tuy cũng đã có từ lâu nhưng chưa bao giờ được coi là “bình thường” cả. Tuy vậy đây vẫn được xác định là một thị trường lớn, giàu tiềm năng với hàng xuất khẩu Việt Nam. Do đó công tác xúc tiến thương mại vào thị trường này cần có sự chuẩn bị kĩ càng và cẩn thận hơn bao giờ hết dù rằng Hiệp định thương mại Việt- Mỹ đã đi vào thực thi và mở ra các cơ hội cho doanh nghiệp của cả hai nước.
Khoá luận này chỉ phần nào xem xét đến hoạt động xúc tiến thương mại của các tổ chức xúc tiến thương mại Việt Nam để chuẩn bị hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu vào thị trường Mỹ từ đó đưa ra một số biện pháp có thể cân nhắc áp dụng nhằm giúp cho hoạt động này hiệu quả hơn.
113 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1734 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lưới này chỉ có thể phát triển bằng việc kết hợp với giới kinh doanh. Có thể làm việc này bằng cách tham vấn trực tiếp với cả các doanh nghiệp và cộng đồng xuất khẩu thông qua các hiệp hội kinh doanh và hiệp hội ngành hàng nơi đại diện và phản ánh lợi ích và nhu cầu của các nhóm nhà xuất khẩu cụ thể. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy rằng những hiệp hội này là những vệ tinh quan trọng để có thể tổ chức mối liên kết chặt chẽ giữa chính phủ và khu vực kinh doanh và đây chính là chìa khoá để phát triển thương mại thành công.
Vì các nhà xuất khẩu Việt Nam sẽ cần tới một phạm vi rất rộng các dịch vụ hỗ trợ thương mại (chứ không đơn thuần là xúc tiến thương mại) nên không một tổ chức nào trong mạng lưới phát triển thương mại có đủ nguồn lực, năng lực, nhiệm vụ hoặc quyền hạn để thoả mãn được tất cả những nhu cầu này. Trên thực tế vấn đề cốt yếu của việc xây dựng mạng lưới phát triển thương mại là tập hợp đông đảo các thành viên của nó, mỗi thành viên với những “lợi thế so sánh” khác nhau, để có thể cung cấp những dịch vụ hỗ trợ có chọn lọc cho doanh nghiệp. Lợi thế so sánh này có thể dựa trên nhiệm vụ hoặc quyền hạn đặc biệt của tổ chức đó, dựa vào khả năng tài chính, nguồn nhân lực kĩ thuật, khả năng tiếp cận đặc biệt với một nhóm các doanh nghiệp được xác định rõ, hoặc điển hình là sự pha trộn của những lợi thế khác nhau này.
Trong giai đoạn này một mục tiêu của việc tổ chức mạng lưới là tăng cường khả năng của bất cứ doanh nghiệp nào tiếp cận với những năng lực phổ biến này khi họ cần, nâng cao năng lực thể chế sẵn có, xây dựng năng lực còn thiếu và đảm bảo mối liên kết có hiệu quả giữa các TSIs trong toàn bộ mạng lưới nói chung, nhằm phục vụ và hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu tốt hơn.
Sự hợp tác trong cộng đồng TSIs hiện nay còn yếu và cần được củng cố. Tuy nhiên cũng có dấu hiệu cho thấy rằng một số TSIs đã ngày càng nhận thức được rằng họ sẽ đạt được kết quả tốt hơn nhiều nếu biết hợp tác với nhau. Hiện nay một số trung tâm xúc tiến thương mại cấp tỉnh đã phát triển mối kiên kết hợp tác không chính thức, và chính thức trong lĩnh vực quảng bá bán hàng ở nước ngoài và cố gắng cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm có được. Chắc chắn sự trùng lặp về chức năng và dịch vụ mà những TSIs khác nhau trong mạng lưới cung cấp là khó tránh được. Nhưng xét toàn cục thì đây là sự phát triển lành mạnh vì cạnh tranh sẽ khuyến khích các tổ chức tập trung tốt hơn nguồn nhân lực và tài chính vốn rất hạn chế của mình vào những gì họ có thể làm được một cách tốt nhất. Cạnh tranh thường diễn ra theo hướng tích cự. Tuy nhiên vẫn cần một môi trường cạnh tranh bình đẳng không bị bóp méo bởi các biện pháp phi thị trường- chỉ tạo điều kiện cho một số tổ chức này nhưng không tạo điều kiện cho những tổ chức khác.
Nhìn chung cạnh tranh và hợp tác phải được xem là một mục tiêu đem lại lợi ích cho mọi đối tượng. Cạnh tranh làm cho chất lượng dịch vụ hỗ trợ các nhà xuất khẩu trở nên tốt hơn. Hợp tác làm cho các nhà xuất khẩu nhận được nhiều dịch vụ hỗ trợ hơn. Các dịch vụ hỗ trợ càng nhiều và chất lượng càng tốt thì càng xuất khẩu được nhiều hơn và sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cần đến dịch vụ hỗ trợ của mạng lưới. Có thể phân loại lợi thế so sánh giữa các tổ chức hỗ trợ thương mại như sau:
Các tổ chức vệ tinh như là các tổ chức xúc tiến thương mại địa phương, các sở thương mại địa phương, các chi nhánh của VCCI và các hiệp hội ngành hàng và các hiệp hội kinh doanh nhỏ hơn, các chi nhánh của các tổ chức dịch vụ chuyên nghiệp thường là những tổ chức mà các doanh nghiệp xuất khẩu tìm đến nhờ đầu tiên. Nói cách khác , các tổ chức này ở vị trí tiên phong trong mối quan hệ qua lại giữa mạng lưới tổ chức xúc tiến thương mại và các khách hàng của nó- các doanh nghiệp xuất khẩu.
Các tổ chức nòng cốt có 3 loại: (1) các tổ chức thuộc chính phủ trung ương trong đó có các bộ ngành liên quan, bộ Thương mại và Cục xúc tiến thương mại (2) các hiệp hội ngành hàng và VCCI;(3) các tổ chức dịch vụ chuyên ngành ( có thể là các đơn vị nhà nước, tổ chức phi chính phủ hoặc tư nhân.)
Hình 3: Các tổ chức hỗ trợ thương mại nòng cốt và vệ tinh
Các bộ quản lí chuyên ngành, hiệp hội ngành hàng, VCCI,các nhà cung cấp dịch vụ chuyên, Cục xúc tiến thương mại
Các TSIs nòng cốt
Xí nghiệp xk
Các tổ chức xúc tiến thương mại địa phương, dịch vụ thương mại địa phương, chi nhánh của các TSIs nòng cốt, văn phòng chi nhánh của VCCI
Các TSIs vệ tinh
Đánh giá đúng tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam, bổ sung bằng kế hoạch xúc tiến thương mại theo ngành vững chắc
Về cơ bản việc thực hiện một kế hoạch phát triển xuất khẩu ngành hàng được triển khai thông qua các dịch vụ hỗ trợ, kể cả thông qua việc xây dựng và phổ biến các dịch vụ hỗ trợ. Các dịch vụ này phải đáp ứng được đòi hỏi của các doanh nghiệp và của một kế hoạch phát triển xuất khẩu ngành hàng.Nói cách khác, các hoạt động xây dựng và định hướng bởi các kế hoạch phát triển xuất khẩu ngành hàng. Những ngành hàng khác nhau do đặc thù sản phẩm khác nhau cần những kế hoạch phát triển khác nhau và những dịch vụ hỗ trợ sẽ phải đáp ứng các nhu cầu cụ thể khác nhau của các ngành hàng. Điều này nghĩa là việc triển khai và tăng cường các tổ chức xúc tiến thương mại phải xoay quanh nhu cầu của các ngành hàng hoặc dịch vụ xuất khẩu cụ thể.
Tuy rằng không có một nhà lập kế hoạch nào (chính phủ hay nhà lập kế hoạch kinh doanh) lại có thể mong đợi dự báo chính xác mọi cơ hội xuất khẩu có thể có nhưng mạng lưới hoàn toàn có thể tạo ra môi trường cho cho dịch vụ thương mại để hỗ trợ bất cứ nhà xuất khẩu tiềm năng nào.
Việc phát triển kế hoạch xuất khẩu ngành hàng với từng ngành hàng mục tiêu bao gồm:
- Đưa ra kế hoạch tiếp thị xuất khẩu ngành hàng (tập trung xác định những sản phẩm- thị trường mục tiêu của ngành hàng).
- Chính sách và các biện pháp hỗ trợ (tập trung vào khả năng cung ứng trong nước)
- Những điều kiện tiếp cận của ngành hàng và các chính sách thương mại nói chung (tập trung vào khía cạnh nhu cầu)
Điều chỉnh kế hoạch phát triển xuất khẩu ngành hàng thích nghi với từng địa phương.
Trong giai đoạn tiếp theo có thể xác định các khu vực thị trường mục tiêu với sản phẩm phù hợp, đồng thời xác định những hạn chế về tiếp cận thị trường của ngành hàng để điều chỉnh kế hoạch xuất khẩu ngành hàng phù hợp với cấp tỉnh. Sau đó các tổ chức xúc tiến nòng cốt có thể phối hợp với các tổ chức xúc tiến thương mại địa phương, các hiệp hội ngành nghề, các hiệp hội doanh nghiệp khác cùng phổ biến kế hoạch xuất khẩu ngành rộng rãi. Các bộ quản lí chuyên ngành và Bộ thương mại nghiên cứu và sửa đổi các chính sách cần thiết, để tháo gỡ những hạn chế về tiếp cận thị trường và chính sách thương mại nói chung. Đồng thời các tổ chức thương mại nòng cốt sẽ đánh giá việc thực hiện kế hoạch ngành hàng nửa năm một lần để điều chỉnh kế hoạch xuất khẩu ngành hàng.
Tạo hành lang pháp lí và hỗ trợ pháp lí
Như đã biết khi hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ có hiệu lực ta phải chỉnh sửa lại rất nhiều quy định trong luật pháp của chúng ta, đặc biệt là một số nội dung của bộ Luật lao động, Luật Doanh nghiệp… Đây không phải là công việc ngày một ngày hai mà đòi hỏi một sự cẩn trọng, lâu dài. Như tại chương hai đã nêu hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp hiện tại còn rất nhiều vướng mắc mà một trong những trở ngại là thiếu một khung pháp lí cho việc xây dựng và phát triển hiệp hội. Khung pháp lí hiện hành còn thiếu thống nhất và phức tạp làm việc đăng kí cũng phức tạp đòi hỏi làm việc với nhiều cơ quan và nhiều bước nên cản trở việc thành lập các hiệp hội có tiềm năng phát triển mạnh, đóng góp vào phát triển kinh doanh. Hơn nữa các hiệp hội đã thành lập không được nhận những ưu đãi như miễn giảm thuế thu nhập từ các hoạt động chính của hiệp hội và khấu trừ thuế cho hội viên tính trên hội phí thu được. Những ưu đãi này nếu có được sẽ nâng cao năng lực tài chính của các hiệp hội và cho phép họ dành nhiều nguồn lực hơn cho các hoạt động hỗ trợ hội viên. Cuối cùng là cơ cấu hiện hành dành cho việc thực hiện các dịch vụ kinh doanh trong tay các doanh nghiệp nhà nước, mặc dù các hiệp hội doanh nghiệp có thể thực hiện với chi phí thấp hơn và hiệu quả hơn. Chính phủ cần quy định hoá và mở rộng việc tham gia của hiệp hội doanh nghiệp vào quá trình hoạch định chính sách và luật pháp thông qua tăng cường thực thi các quy định hiện hành. Khi có một khung pháp lí tốt các hiệp hội doanh nghiệp sẽ có cơ hội thành lập phát triển và thực thi chức năng chính của mình. Chính phủ cũng nên xem xét việc tăng cường uỷ thác những nhiệm vụ và hoạt động khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho các hiệp hội doanh nghiệp.
Các bộ quản lí chuyên ngành và Bộ thương mại có nhiệm vụ chính là xây dựng một môi trường chính sách đối nội và đối ngoại để thúc đẩy phát triển xuất khẩu của Việt Nam. Đây là nhiệm vụ chính và là lợi thế so sánh của họ trong phát triển mạng lưới thương mại. Để thực hiện được chức năng của mình, các Bộ quản lí chuyên ngành và Bộ thương mại phải tăng cường liên kết với cộng đồng kinh doanh xuất khẩu và đáp ứng yêu cầu của họ chủ yếu thông qua đối thoại với các tổ chức kinh doanh đại diện cho lợi ích của các doanh nghiệp hơn là trực tiếp tiếp xúc với các doanh nghiệp đơn lẻ.
Khó khăn lớn nhất hiện nay cho các doanh nghiệp Việt Nam là thiếu hiểu biết thông tin về thị trường và pháp luật thương mại của Mỹ. Do đó, trong thời gian qua tuy chúng ta có tăng trưởng một vài mặt hàng ít ỏi vào thị trường Mỹ nhưng ta đã gặp không ít khó khăn như vấn đề Catfish với cá tra, cá ba sa; Việc hiệp hội cá da trơn Mỹ kiện chúng ta bán phá giá và gần đây nêu việc bán phá giá tôm. Những vụ việc này chứng tỏ rằng trong thương mại quốc tế khi kém khả năng cạnh tranh doanh nghiệp Mỹ thường mượn luật pháp để giành lợi thế. Từ đó đặt ra một yêu cầu cần được tư vấn về pháp luật và các biện pháp vượt qua được các rào cản kĩ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm của các doanh nghiệp xuấtkhẩu, đặc biệt trong lĩnh vực có thể cạnh tranh trực tiếp với nhà sản xuất Mỹ mà cá ba sa là một điển hình. Vì thế ta cần phải có các biện pháp như để vượt qua rào cản chống bán phá giá như phải biết điều tiết dung lượng thị trường sao cho không vượt quá 3% mà luật Mỹ đã quy định; cố gắng bán sát giá của các nước để không bị coi là bán phá giá. Tất nhiên muốn làm được điều này không đơn giản vì muốn bán như giá các nước ta phải có các sản phẩm tốt tương đương.
Đối mặt với thị trường Mỹ là đối mặt trực tiếp với pháp luật của họ. Ngoài pháp luật toàn liên bang còn có pháp luật của từng bang riêng biệt. Như đã trình bày trong phần đặc điểm hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ ta thấy rằng đây là nước có hệ thống pháp luật đồ sộ, nhưng trung tâm vẫn là Bộ luật Thương mại thống nhất (UCC). Quy chế bảo vệ người tiêu dùng rất nghiêm ngặt mà nhiều khi các doanh nghiệp xuất khẩu nếu không có sự tìm hiều trước dễ mắc phải sai lầm mà kết quả thường rất bất lợi. Qua hệ thống luật này ta có thể thấy rằng người bán hàng trên đến nước này phải rất lưu tâm đến trách nhiệm với người tiêu dùng và việc bảo hành là không thể coi thường. Trong bộ luật thương mại thống nhất quy định hai loại bảo hành: bảo hành rõ ràng (express warranties) và bảo hành ngầm hiểu (Implied warranties). Hàng hóa ở Mỹ khi bị người tiêu dùng khiếu nại mà lỗi thuộc về người bán thì toà án Mỹ sẽ ra tay ngay. Phán quyết của toà có hiệu lực kể cả tịch biên tài sản , tịch biên mọi tín dụng thư của nhà xuất khẩu có mặt trên nước Mỹ. Nếu nơi bán hàng không chấp hành phán quyết thì không bao giờ có thể bán hàng vào thị trường Mỹ, kể cả thông qua một nước thứ ba; người bảo lãnh cũng bị tịch biên tài sản.
Hỗ trợ tài chính một cách hợp lý
Như đã nói ở trên cộng đồng các tổ chức phát triển thương mại hiện nay gồm các tổ chức chính phủ trung ương, chính quyền tỉnh và đại phương (uỷ ban nhân dân), các tổ chức phi chính phủ phi lợi nhuận (hầu hết là các hiệp hội kinh doanh) cũng như các công ty cung cấp dịch vụ của nhà nước (SOE) và tư nhân hoạt động trên cơ sở thu lợi nhuận. Mỗi tổ chức có nguồn ngân sách riêng của mình. Các tổ chức của nhà nước thường được tài trợ từ nguồn ngân sách của nhà nước (trung ương hoặc điạ phương) được thanh toán các hoạt động cơ bản (gồm chi trả lương và chi văn phòng). Trái lại các tổ chức phi chính phủ hoặc vì lợi nhuận hoạt động trên nguyên tắc tự trang trải, bằng cách thu phí hội viên hoặc phí dịch vụ khác. Vì nhiều nhà xuất khẩu Việt Nam chỉ có nguồn lực hạn chế dành cho phát triển thương mại và xúc tiến thương mại nên rõ ràng là các tổ chức phi chính phủ hoặc những nhà cung cấp dịch vụ kinh doanh vì lợi nhuận khởi sự trong điều kiện kém thuận lợi hơn so với các tổ chức của chính phủ khi phải tính phí với hoạt động họ cung cấp.
Tình hình này càng trầm trọng hơn bởi chính phủ trung ương có xu hướng trợ cấp ngày càng nhiều cho các hoạt động của mình bằng việc tài trợ cho cả hoạt động của các tổ chức này, gây bất lợi cho các tổ chức khác. Việc làm này không thực sự khuyến khích các tổ chức trên tự trang trả cho các chương trình của họ thông qua các dịch vụ thu phí. Chính sách bao cấp nặng nề chỉ đem lại lợi ích cho một số ít tổ chức, trong khi đó lại đang gây trở ngại cho việc phổ biến rộng rãi tập quán trả phí dịch vụ, điều mà các tổ chức xúc tiến thương mại rất cần để có thể phát triển dịch vụ chất lượng cao hơn. Vì thế quan điểm của chính phủ cho rằng cần phải hỗ trợ nhà xuất khẩu nghèo khó lại thường ảnh hưởng xấu đến việc phát triển và nâng cấp mạng lưới tổ chức hỗ trợ. Đây là sự phát triển không lành mạnh và cần phải được giải quyết. Chính phủ trung ương cần khuyến khích việc thu phí dịch vụ một cách rộng rãi hơn và khuyến khích các tổ chức của mình cạnh tranh vì khách hàng. ở điểm này chúng ta có thể học tập kinh nghiệm của một số nước. Ví dụ như Singapore cho rằng phải mất tiền mua thì doanh nghiệp mới quý thông tin, nhưng phải bán với giá thấp vì doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhỏ rất cần thông tin để điều chỉnh và phát triển sản xuất. Do đó các tổ chức xúc tiến thương mại chỉ bán thông tin cho doanh nghiệp với giá rẻ, bằng 30-5-% chi phí.
Thực tế, nếu các nhà xuất khẩu nghèo và các dịch vụ hỗ trợ cần được bao cấp thì việc này cần phải được thực hiện càng nhiều càng tốt bằng cách cung cấp trực tiếp các ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp xuất khẩu trên cơ sở không phân biệt đối xử. Các nhà xuấtkhẩu có thể dùng nguồn tài trợ trên để thuê các dịch vụ hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức hỗ trợ thượng mại mà họ lựa chọn, thường là từ những tổ chức cung cấp tốt nhất hoặc dịch vụ phù hợp với nhu cầu của họ nhất. Quá trình này sẽ góp phần phát triển và nâng cấp mạng lưới xúc tiến thương mại.
Một điều đáng mừng là chính phủ đang thực hiện các bước đi theo hướng này. Cụ thể, chính phủ đang xem xét một đề án hoàn thế, theo đó nhà nước sẽ hoàn lại cho doanh nghiệp 0,2% tổng kim ngạch xuất khẩu để họ có thể chi trả cho các chi phí phát triển xuất khẩu và xúc tiến xuất khẩu. Mặc dù loại này có nhiều lợi ích như đã kể trên cũng không thể phủ nhận là nó cũng có hạn chế là có xu hướng dành ưu ái hơn cho các doanh nghiệp đã xuất khẩu trong khi lại bỏ qua các doanh nghiệp tiềm năng nhưng chưa xuất khẩu được. Với những doanh nghiệp này, Việt Nam có thể xem xét thành lập Quỹ phát triển xuất khẩu như các nước khác đã làm. Các nhà xuất khẩu có thể tiếp cận quỹ này bằng nhiều cách. Quỹ có thể khuyến khích các nhà xuất khẩu tiềm năng đưa ra các đề xuất khinh doanh của mình. Hoặc các tổ chức xúc tiến có thể đưa ra các đề xuất đối với hoạt động phát triển kinh doanh thương mại, nhắm vào một nhóm nhà xuất khẩu mới tiềm năng. Nguồn của quỹ phát triển xuất khẩucó thể huy động bằng đánh một khoản thuế thấp đối với tất cả hàng hoá xuất khẩu. Như vậy thì cuối cùng thì chính cộng đồng doanh nghiệp là người thanh toán chi phí cho các hỗ trợ mà họ được cung cấp. Ngoài ra các bộ, ngành, UBND các tỉnh cần nhanh chóng đưa quỹ hỗ trợ xúc tiến thương mại và họat động để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường trong và ngoài nước và thưởng xuất khẩu cho các mặt hàng có tiềm năng phát triển, đồng thời cải tiến chi hỗ trợ phát triển thị trường và xúc tiến thương mại.
Việc chuyển đổi sang hình thức thu phí và hỗ trợ doanh nghiệp trực tiếp tuy không thể thực hiện ngay được nhưng cần dần dần chuyển đổi theo hướng này để củng cố mạng lưới phát triển thương mại. Hơn nữa khi nhiều hình thức hỗ trợ xuất khẩu hiện nay đang được áp dụng có thể không còn phù hợp với hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ và các quy định của WTO thì ta cần phải xem xét việc này một cách cẩn thận hơn.
Bên cạnh sự hỗ trợ về tài chính theo đánh giá của ông Ngô Văn Thoan, Cục trưởng Cục xúc tiến thương mại, việc cần làm nhất cho công tác xúc tiến thương mại hiện nay là xây dựng cơ sở hạ tầng cho xúc tiến thương mại. Hiện nay trong nước, kể cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh rất thiếu địa điểm có trang thiết bị, phương tiện và tiện nghi để có thể tổ chức các cuộc triển lãm thương mại tầm cỡ khu vực và quốc tế. Điều này là trở ngại không nhỏ bởi từ 2004 trở đi Việt Nam sẽ phải đăng cai các cuộc triển lãm với quy mô lớn mà cơ sở hạ tầng ở những địa điểm hiện có không đáp ứng được. Trước hết tại các tỉnh thành phố như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế… nên xây dựng các trung tâm thương mại quốc tế với quy mô từ nhỏ đến lớn đề vừa làm nơi giới thiệu sản phẩm của Việt Nam, vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giao dịch với nhau. Đây cũng là nơi giới thiệu cơ chế chính sách của Việt Nam với thế giới và hoạt động của trung tâm này nên phục vụ cho cả 3 nhu cầu là thương mại, đầu tư, và du lịch.
Đào tạo
Việc tăng cường đội ngũ cán bộ pháp lí cũng không thể xem nhẹ vì đã là cạnh tranh thương mại tất phải có sự tranh tụng. Nếu chúng ta không có đội ngũ luật sư giỏi thì khó có thể bảo vệ được quyền lợi của mình, vì không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng thuê luật sư nước ngoài với chi phí tính theo giờ và là chi phí quá cao so với doanh nghiệp.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp hiện tại rất cần có các chuyên gia giỏi về thị trường mới có thể đàm phán và kí những hợp đồng có lợi nhất, đồng thời tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại theo đúng định hướng của công ty. Tuy nhiên việc này một mình doanh nghiệp làm thì sẽ không hiệu qủa mà rất cần sự phối hợp của các cơ quan tổ chức xúc tiến thương mại nhà nước.
Rõ ràng là việc nâng cao chất lượng các doanh nghiệp cả về cơ sở vật chất, sản phẩm cũng như về phía người quản lí, công nhân là cực kì quan trọng. Đây là yếu tố cần thiết không những để tiến hành các hoạt động xúc tiến thành công mà còn là yếu tố cần thiết để ta hội nhập có hiệu quả, nhưng đây cũng là điểm yếu của ta. Chúng ta không thể hội nhập về kinh tế trong khi con người không đủ kiến thức gồm cả kiến thức về ngôn ngữ.
Như phần trên đã đề cập về mạng lưới hỗ trợ thương mại mà một trong các việc cần làm để hình thành nó là xây dựng năng lực mới hoặc tăng cường năng lực nòng cốt trong các tổ chức nòng cốt nhằm đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp đòi hỏi phaỉ có sự đào tạo nhân sự toàn diện và học hỏi kĩ năng mới. Nhu cầu đào tao xuất phát từ nhu cầu ở 3 cấp xúc tiến thương mại: Cục xúc tiến; các đơn vị hỗ trợ thương mại nhà nước, tư nhân; doanh nghiệp xuất khẩu. Cục xúc tiến thương mại cần giữ vai trò là nơi đào tạo các cán bộ đào tạo và các cán bộ làm tư vấn tại các tổ chức xúc tiến thương mại địa phương, các tổ chức xúc tiến vệ tinh về kĩ thuật xúc tiến thương mại. Đồng thời nhà nước cũng phải có sự hỗ trợ về thể chế cho mạng lưới cán bộ đào tạo để đảm bảo có thể phát triển hệ thống này một cách bền vững. Đào tạo hiện nay vẫn là vấn đề khó khăn với các tổ chức xúc tiến thương mại việc thiết lập mạng lưới cán bộ đào tạo chuyên nghiệp cho từng dịch vụ hỗ trợ là việc cần có kế hoạch đẩy mạnh hơn nữa.
Các biện pháp ở doanh nghiệp
2.1 Tích cực sử dụng thương mại điện tử
Như nhiều người nhận xét để có chiến lược làm ăn lâu dài ở Mỹ, tiếp cận đựơc các kênh phân phối tại thị trường Mỹ nhanh chóng và hiệu quả, đỡ tốn kém nhất là qua Internet, trong đó chú trọng đến việc thiết lập các trang chủ. Theo thống kê hiện nay trên thế giới có khoảng 500 triệu người sử dụng Internet mỗi ngày thì có khoảng 160 triệu người ở Mỹ. Việc mở các trang chủ ngày càng phổ biến hơn bao giờ hết. Theo các chuyên gia thì việc các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp thị và quảng bá bằng trang chủ sẽ tiết kiệm chi phí rất nhiều so với việc tham quan thị trường, đi chào hàng bên Mỹ và quảng cáo bằng các phương tiện thông tin đại chúng. Ông Tony Nong, giám đốc giám đốc điều hành công ty thương mại với Mỹ cho rằng : có một trang chủ đẹp, bắt mắt là thành công bước đầu trong việc tiếp thị của doanh nghiệp. Cũng vì thế nên khi thiết kế trang chủ doanh nghiệp phải rất chú ý đến hình ảnh màu sắc, cách trình bày để lôi kéo khách hàng. Thực tế hiện nay một số doanh nghiệp đã làm sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh nhưng khả năng tiếp thị còn yếu. Trong khi đó một thực tế là dù sản phẩm có chất lượng cao nhưng không biết cách tiếp cận để thu hút sự quan tâm của thị trường Mỹ thì khó mà bán hàng vào thị trường này. Việc có một trang web ngoài ý nghĩa tạo ra hình ảnh một tổ chức hiện đại còn cung cấp khả năng thể hiện sinh động và không gian quảng cáo. Lí lịch các công ty, các tài liệu, catalog có thể số hoá và đưa vào trang web. Bằng việc đưa vào trang web một số tài liệu hỗ trợ một công ty có thể tiết kiệm được chi phí in. Nhưng một trang web còn chưa đủ, nó chỉ hiệu quả nếu doanh nghiệp chủ động thu hút các nhóm khách hàng mục tiêu tham quan trang web. Do đó có thể coi sử dụng thương mại điện tử là công cụ tốt đối với mỗi doanh nghiệp để tạo ra lợi thế cho mình.
Hơn nữa hiện nay nhiều tổ chức và các cơ quan rất sẵn lòng giúp doanh nghiệp tham gia thương mại điện tử. Trong cuộc gặp ngày 06/03/2002 giữa chuyên gia của tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản và ATI_ HCM ông Lê Văn ái cho biết trước mắt ATI sẽ đẩy mạnh hơn nữa việc giúp các doanh nghiệp Việt Nam đưa sản phẩm vào thị trường Hoa Kỳ. Một trong những cách ông cho là hiệu quả nhất là giúp doanh nghiệp quảng bá sản phẩm trên mạng điện tử BVOM, bước đầu giúp các doanh nghiệp làm quen với phương thức kinh doanh hiệu quả đang được áp dụng rộng rãi tại các nước phát triển. Việc tạo được một thói quen tốt cho doanh nghiệp sử dụng Internet, thích ứng với các khái niệm Website, web hosting cũng là một trong các việc làm hiệu quả cuả ATI trong thời gian qua. Khi trở thành thành viên của những tổ chức như thế này (là thành viên của BVOM) doanh nghiệp có thể đạt được một số lợi ích, và gần như được tham gia diễn đàn doanh nghiệp trên trang web thương mại này. Các doanh nghiệp có thể nhanh chóng thể hiện mình qua Brochures, catalogues điện tử trực tuyến sinh động; kết hợp với việc trợ giúp thông tin tư vấn theo ngành nghề cụ thể kết nối phân bổ hợp lí các nhu cầu đặt hàng của các đối tác Mỹ quan tâm về mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nay thực tế là đã có một số doanh nghiệp Việt Nam đăng kí tham gia vào Cầu nối thương mại điện tử Việt Nam –Hoa Kỳ thông qua WWW.BVOM.com để quảng bá sản phẩm, tự tin hội nhập vào thị trường thương mại thế giới. Gần đây, vào tháng 10/2002 trong cuộc hội thảo: “doanh nghiệp trong chiến lược thương mại điện tử quốc gia” các chuyên gia đã đánh giá là các doanh nghiệp cần đề ra một chiến lược cụ thể nhằm thực hiện thương mại điện tử. Doanh nghiệp phải hình dung ra lộ trình và chia ra từng giai đoạn thực hiện. Doanh nghiệp là người thực hiện , các tổ chức xúc tiến thương mại và các cơ quan khác sẽ tham gía hỗ trợ.
Tích cực tham gia các hiệp hội ngành nghề – kinh doanh:
Các hiệp hội ngành nghề và kinh doanh sẽ hình thành nên một dạng liên hiệp các doanh nghiệp hoạt động độc lập song gắn kết với nhau để xúc tiến thương mại và xuất khẩu. Hiệp hội sẽ là nơi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp gặp gỡ nhau, trao đổi thông tin, kinh nghiệm. Trong giai đoạn hiện nay khi mà một số doanh nghiệp Việt Nam giành được các đơn đặt hàng lớn của Mỹ nhưng công suất hoạt động của nhà máy lại không đủ để đáp ứng thì các doanh nghiệp có thể tìm được sự giúp đỡ từ các doanh nghiệp khác trong hiệp hội và từ chính hiệp hội. Với các doanh nghiệp nhỏ đây chính là cơ hội có được cơ hội thử sức mình. Có thể nhờ đó mà sẽ không còn việc may Đức Giang phải từ chối đơn đặt hàng, 10 doanh nghiệp chế biến cá ba sa và cá tra của Việt Nam có cơ hội hợp sức để có đủ năng lực chế biến.
Hơn nữa khi các doanh nghiệp phối hợp với nhau chung lưng chia sẻ chi phí thành lập văn phòng đại diện hay gian hàng tại Mỹ thì một mặt doanh nghiệp đảm bảo được việc có đầu mối giao dịch tại Mỹ mặt khác chi phí từng doanh nghiệp phải chịu sẽ thấp hơn. Hơn nữa có thực tế là nhiều đối tác muốn mua hàng của Việt Nam nhưng ta và họ đều khó vì không thoả thuận được số lượng ban đầu. Ví dụ một doanh nhân nước ngoài rất thích sản phẩm mĩ nghệ trang trí của Việt Nam nhưng không có khả năng mua một lần cả container hàng nên hai bên chỉ dừng ở bản ghi nhớ chờ cơ hội. Các gian hàng của các hiệp hội hay nhóm doanh nghiệp sẽ là nơi trưng bày và giới thiệu hàng Việt Nam. Mỗi doanh nghiệp sẽ đóng hàng mẫu theo từng kiện và gộp chung từng container, gửi sang văn phòng đại diện. Chi phí cho hàng mẫu và phí gửi hàng do doanh nghiệp chịu, chi phí hải quan và thủ tục nhập hàng, gian hàng và nhân sự tại Mỹ do phía cộng tác đảm nhận. Sau đó mọi phát sinh mua bán sẽ được kí hợp đồng với công ty đại diện ở Việt Nam như hoạt động kinh doanh bình thường. Ưu điểm còn ở chỗ người mua có thể mua với số lượng nhỏ ban đầu, không nhất thiết cả container, doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ có cơ hội giới thiệu hàng và tiếp xúc với bên ngoài với chi phí không quá cao. Các doanh nghiệp tham gia cũng không cần tham dự nhiều hội chợ triển lãm và không cần có đại diện thương mại riêng của mình cho hoạt động tiếp thị và kinh doanh.
Tăng cường hợp tác quốc tế với kiều bào ở nước ngoài
Để tăng khả năng tiếp cận thị trường chúng ta có thể tìm kiếm sự hỗ trợ của Việt kiều và mời họ làm việc như những nhà trung gian thương mại. Sau Trung Quốc và Isarel, không một quốc gia nào có nguồn nhân lực và lực lượng tiếp thị mạnh như Việt Nam với hơn 2 triệu người Việt sống tại 150 nước, trong đó tại Mỹ là hơn 1 triệu người. Đây chính là những người am hiểu các tập quán thương mại tại nước sở tại, cũng như ngôn ngữ của những nước này. Nếu thực hiện một chính sách quốc gia (giống như Trung Quốc) đối xử bình đẳng với những người Việt Nam sống ở hải ngoại, giao dịch với họ trên cơ sở hai bên cùng có lợi, Việt Nam có thể phát triển một lực lượng đại diện thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là sang Mỹ như là một mũi nhọn của sự phát triển trong tương lai. Đây chính là nhân tố quan trọng giúp các doanh nghiệp mở kênh tiêu thụ, tìm đại lí cung cấp thông tin và tiêu thụ hàng đến các vùng miền theo tập quán, thị hiếu của các đối tượng tiêu dùng.
Nâng cao chất lượng sản phẩm và năng lực sản xuất
Việc mở ra thị trường Mỹ là một cơ hội cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt những doanh nghiệp các ngành may mặc, giày dép, thuỷ sản…Mặc dù chỉ mới qua khoảng gần 1năm Hiệp định có hiệp lực nhưng nhiều doanh nghiệp đã nắm bắt được cơ hội chủ động xuất khẩu vào Mỹ mà ngành may là một ví dụ. Theo thống kê, doanh nghiệp trong ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất vào Mỹ đạt 30 triệu USD. Một số doanh nghiệp như May Việt Tiến, May Đức Giang, May 10, May Tân Châu…có kim ngạch đat trên 10-20 triệu USD. Từ đầu năm 2002 có nhiều công ty may Việt Nam phải từ chối khá nhiều đơn hàng vào Mỹ vì không có khả năng đáp ứng, dù cồng ty đã phát huy hết năng lực sản xuất. Trên trực tế để tận dụng cơ hội vào thị trường Mỹ năm 2002, năng lực sản xuất của ngành đã được tăng mạnh. Nhiều nhà máy mở rộng quy mô sản xuất lên 2-3 lần hoặc được thành lập mới nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng hết các đơn hàng của đối tác Mỹ. Cũng vì có nhiều đơn hàng, các doanh nghiệp phải phát huy hết công suất, mở rộng quy mô nên cần nhiều công nhân trong khi đào tạo không kịp đã xẩy ra tình trạng tranh giành công nhân giữa các nhà máy trong thời gian qua. Điều này đã thể hiện những yếu kém bất cập trong ngành may hiện nay. Các chuyên gia cho rằng để đáp ứng được hết các đơn hàng vào Mỹ ngành dệt may Việt Nam cần đầu tư nâng cao năng lực sản xuất lên khoảng 30 % so với năng lực hiện có. Hơn nữa theo khảo sát của trung tâm kinh tế Châu á- Thái Bình Dương thì trong số gần 1000 doanh nghiệp dệt may của Việt Nam đang hoạt động chỉ có 50 doanh nghiệp (5%) có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và khu vực mà nguyên nhân chính là do năng suất lao động của ta còn thấp (chỉ bằng 50- 70% so với năng suất lao động của Singapore, Malaixia, Thái Lan), trình độ công nghệ thấp, mẫu mã chưa đa dạng. Nhưng để thực hiện việc này không phải là chuyện dễ dàng. Với mục tiêu của ngành dệt may Việt Nam là nâng cao giá trị xuất khẩu hàng dệt may lên 4-5 tỉ USD vào năm 2005, trong đó thị trường Mỹ đạt 2 tỉ USD thì ngoài việc đầu tư nâng cao năng lực sản xuất ngành dệt may còn có 3 lợi thế cần tận dụng: lợi thế phi quota, ổn định chính trị, lao động rẻ. Mà việc tận dụng các lợi thế đó lại hoàn toàn phụ thuộc vào nỗ lực của từng doanh nghiệp.
Tuy vậy cũng cần thấy rằng việc tăng lượng xuất khẩu hiện thời là việc rất quan trọng khi sắp tới Mỹ sẽ áp đặt hạn ngạch theo số lượng chứ không phải giá trị. Để đạt được mục tiêu này các doanh nghiệp có thể hợp tác với bên thứ ba làm gia công, làm OPA mỗi nước làm một công đoạn nhưng công đoạn của mình được Mỹ công nhận là có xuất xứ ở Việt Nam
. Chỉ khi các doanh nghiệp có liên kết chặt chẽ với nhau thì các doanh nghiệp ở trung ương mới có thể giúp các doanh nghiệp địa phương nâng cao trình độ quản lí và nâng cao chất lượng hướng tới mục tiêu là tất cả các doanh nghiệp đều có thể làm được hàng xuất khẩu sang Mỹ.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng để có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường khó tính này thì chất lượng vẫn là vấn đề cũ mà không cũ, đặc biệt khi các doanh nghiệp xuất khẩu bước sang giai đoạn hai: tăng giá trị xuất khẩu ở thị trường này. lúc này yêu cầu ta phải chuyển từ làm gia công cho một bên thứ ba sang kinh doanh FOB trực tiếp với nhà mua hàng của Mỹ. Giai đoạn này doanh nghiệp vừa phải quan tâm đến chất lượng vừa phải quan tâm đến nhãn hiệu và đẳng cấp của sản phẩm. Khi đã có chỗ đứng trong thị hiếu của người tiêu dùng thì vẫn phải giữ uy tín bởi một khi thương hiệu đã bị người tiêu dùng bài trừ vì chất lượng thì khó có cơ hội thứ hai trên thị trường. Và như đã trình bày ở trên về hệ thống hàng rào phi thuế của Hoa Kỳ ta thấy rõ chất lượng là vấn đề cần quan tâm như thế nào đặc biệt với ngành thực phẩm, nông lâm thuỷ sản.
Bên cạnh đó ta cũng phải thấy rằng bên cạnh những mặt hàng chủ lực có rất nhiều mặt hàng khác ta có thể xuất khẩu được sang Mỹ. Đơn cử như các mặt hàng tưởng như nhỏ như : bulông, con tán…hay như hàng nhôm nhựa, dụng cụ nhà bếp, trang trí nội thất, đồ gỗ…các mặt hàng này với chủng loại đa dạng và phong phú lại là những mặt hàng lẽ ra có thể chiếm ưu thế trên thị trường thế giới vì tính độc đáo.Và chính đây cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ nhanh nhạy trước nhu cầu của thị trường. Vì vậy việc đa dạng sản phẩm là điều rất cần với doanh nghiệp Việt Nam. Chúng ta không chỉ cần đáp ứng tốt nhu cầu cuả thị trường mà còn phải tạo ra thị trường cho sản phẩm cuả chính chúng ta. Ngay trong điều kiện nền kinh tế Mỹ có nhiều khó khăn, tâm lí người tiêu dùng không thuận, mức độ đầu tư và tiêu dùng của Mỹ đều giảm, thì với mức xuất khẩu chưa tới 0.1 % dung lượng nhập khẩu của thị trường Mỹ, Việt Nam vẫn có khả năng mở rộng xuất khẩu sang thị trường này, điều quan trọng là ta biết đa dạng hoá sản phẩm, nắm bắt yêu cầu và thị hiếu của các đối tượng tiêu dùng cụ thể chúng ta định nhằm vào.
Kết luận
Việt Nam đang dẫn đầu thế giới về thành công trong kinh tế kể từ khi áp dụng cải cách thị trường vào những năm cuối của thập kỉ 80, ngày nay thường được thế giới biết tới như chính sách "Đổi mới". Sự thành công về kinh tế của Việt Nam được tạo ra bởi các nhân tố tương tự như các nhân tố đã tạo nên “phép mầu về kinh tế” tại các nước Singapore, Đài Loan và Hàn Quốc vào những năm 70 và 80. Những nhân tố này chủ yếu nhấn mạnh vào phát triển xuất khẩu, ổn định chính trị và một nền kinh tế thị trường có kế hoạch thực hiện theo chiến lược đã đặt ra. Xuất khẩu càng đóng vai trò quan trọng thì hoạt động xúc tiến thương mại nhằm hỗ trợ cho xuất khẩu càng được chú trọng , đặc biệt với mục tiêu mở rộng thị trường và đa dạng hoá các mặt hàng như Đảng và nhà nước ta đã đặt ra.
Mối quan hệ của ta với Hoa Kỳ tuy cũng đã có từ lâu nhưng chưa bao giờ được coi là “bình thường” cả. Tuy vậy đây vẫn được xác định là một thị trường lớn, giàu tiềm năng với hàng xuất khẩu Việt Nam. Do đó công tác xúc tiến thương mại vào thị trường này cần có sự chuẩn bị kĩ càng và cẩn thận hơn bao giờ hết dù rằng Hiệp định thương mại Việt- Mỹ đã đi vào thực thi và mở ra các cơ hội cho doanh nghiệp của cả hai nước.
Khoá luận này chỉ phần nào xem xét đến hoạt động xúc tiến thương mại của các tổ chức xúc tiến thương mại Việt Nam để chuẩn bị hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu vào thị trường Mỹ từ đó đưa ra một số biện pháp có thể cân nhắc áp dụng nhằm giúp cho hoạt động này hiệu quả hơn.
Với sự hạn chế thời gian, kinh nghiệm cũng như thực tế khoá luận này chắc chắn không thể không có những thiếu sót. Tôi rất mong được sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của thầy cô, bạn bè.
Một lần nữa tôi xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành tới thầy giáo, Thạc sĩ Bùi Ngọc Sơn, người đã rất nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tài liệu tham khảo
Luật thương mại năm1997
NXB Chính trị – Quốc gia
Giáo trình Marketing lí thuyết
Trường đại học Ngoại Thương
Xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ
(Một số thông tin nên biết)
Cục xúc tiến thương mại
Khởi sự công việc xuất khẩu
Trung tâm thương mại quốc tế (ITC)
Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam- chi nhánh Cần Thơ
Giáo trình kinh tế ngoại thương
Trường Đại học Ngoại thương
Kinh doanh với Hoa Kỳ
Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam
Thời báo kinh tế Việt Nam
Các số năm 2000,2001,2002
Tạp chí nghiên cứu Châu Mỹ
Các số năm 2001,2002
Tạp chí thương mại
Các số năm 2002
Thời báo ngân hàng
Số 78 ngày 28/9/2002, số 86 ngày 26/10/2002
Tạp chí cộng sản
Số 25 (9/2002)
Niên giám xuất khẩu 2001
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
Báo Diễn đàn doanh nghiệp
Các số năm 2001, 2002
Tạp chí ngoại thương
Các số năm 2001,2002
Thông tin thương mại
Các số năm 2001, 2002
Thời báo kinh tế Sài Gòn
Các số năm 2001,2002
Cục diện kinh tế thế giới 2001- dự báo thương mại 2002
Bộ thương mại
Đánh giá sơ bộ tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam
Cục xúc tiến thương mại
Danh bạ doanh nghiệp Việt Nam
Công ty phát triển thông tin- VCCI
Một số trang web của Bộ thương mại, Bộ tài chính, Cục xúc tiến thương mại, Hải quan Hoa Kỳ, Đại sứ quán Mỹ…
Phụ lục
Phụ lục 1: So sánh việc thực hiện công tác xúc tiến thương mại qua việc xuất bản một dạng ấn phẩm của các tổ chức xúc tiến Việt Nam: “Một số so sánh giữa VBD và các đối thủ cạnh tranh”
VBD
VIETBIG
VICB
YELLOW PAGES
Cơ quan xuất bản
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Công ty TNHH Kiến Long (Klinco Co., Ltd.)
---> Đánh giá sơ bộ:
Klinco rất chuyên nghiệp trong lĩnh vực quảng cáo thông tin.
VIETBIG là đối thủ cạnh tranh chính của VBD
Nhà xuất bản Thống Kê
---> Đánh giá sơ bộ: So với VBD và VIETBIG, chất lượng thông tin của VICB kém hơn rất nhiều, VICB yếu thế hơn hai ấn phẩm trên trong cạnh tranh.
Bưu điện Thành phố
---> Đánh giá sơ bộ:
Đặc thù của YP là niên giám điện thoại, không phải là niên giám doanh nghiệp, đối tượng phát hành của YP là các thuê bao nên YP khác với VBD và VIETBIG
Vị trí đặc thù
+ Theo tập quán quốc tế, danh bạ doanh nghiệp do Phòng Thương mại - tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư phát hành. Như vậy, VBD được biên soạn và phát hành theo đúng thông lệ quốc tế.
+ Phòng Thương mại là tổ chức gần gũi với các doanh nghiệp ---> Doanh nghiệp dễ bị thu hút và thuyết phục hơn.
+ Khi tiếp cận với khách hàng, VIETBIG không có được lợi thế như VBD vì KLINCO không có chiêu bài là một tổ chức xúc tiến thương mại có uy tín.
+ Tương tự như VIETBIG
Số lượng thông tin giới thiệu
1. Gần 13.500 doanh nghiệp
2. 1.500 văn phòng đại diện
3. Bộ, UBND, Đại sứ quán, Tổ chức qtế
1. 17.000 doanh nghiệp
1. 11.000 doanh nghiệp tại 4 thành phố Hà Nội, TP.HCM, Hải phòng, Đà Nẵng
2. 2000 văn phòng đại diện
1. Trang vàng: Khách hàng quảng cáo
2. Trang trắng: Thuê bao thuộc khối cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế xã hội
Chất lượng thông tin
+ Thông tin được chọn lọc và biên soạn công phu.
+ Chất lượng thông tin đựoc đánh giá là tốt nhất và mang tính tổng thể
+ VBD được đánh giá là cuốn danh bạ có chất lượng thông tin, biên tập, trình bày và in ấn đạt tiêu chuẩn
so với các cuốn danh bạ quốc tế.
(Ví dụ: Trước đây, hàng năm Bộ thương mại xuất bản cuốn Danh bạ doanh nghiệp, nhưng từ khi VBD được phát hành rộng rãi (1995) thì cuốn Danh bạ của BTMại không có khả năng cạnh tranh và đã ngừng xuất bản từ năm 1997)
+ Lượng doanh nghiệp được giới thiệu nhiều nhưng thông tin về từng công ty sơ lược và thiếu chọn lọc.
+ Phân loại ngành nghề không hợp lý và doanh nghiệp được giới thiệu trong mỗi ngành không đại diện cho ngành hoạt động đó.
+ VIETBIG thực chất là một hình thức biến thể của YP.
+ Nguồn dữ liệu từ niên giám điện thoại. Bản chất của cuốn này là niên giám điện thoại có chọn lọc
+ Thông tin thiếu cập nhật (Sai khoảng 40%)
+ Thiếu các chỉ số của một cuốn danh bạ doanh nghiệp. Nặng về các tham số thống kê.
Đối tượng phát hành
Phát hành trong nước và quốc tế qua mạng lưới phát hành:
+ Hệ thống VCCI trong, ngoài nước và Phòng Thương mại các nước
+ Các tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư trong nước và quốc tế
+ Đại sứ quán, thương vụ nước ngoài tại Việt Nam
+ Đại sứ quán và thương vụ Việt Nam ở nước ngoài
* Chính sách phát hành hiện nay:
Số lượng phát hành miễn phí còn hạn chế và có chọn lọc.
--->Nhược:
+ Lượng phát hành ít và hạn chế biếu rộng dẫn đến cuốn sách chưa được biết đến nhiều.
* Chính sách khắc phục:
Chỉ phát hành trong nước
Chiến lược của VIETBIG trong năm nay và năm 2001 là biếu ồ ạt và rộng rãi cho các
doanh nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng.
--->Ưu:
+ VIETBIG được các doanh nghiệp trong nước biết rất nhiều do chiến lược phát hành rộng và ồ ạt. Đây là một lợi thế cạnh tranh quan trọng. Khách hàng dễ bị thuyết phục vì VIETBIG đã nhắm vào đúng đối tượng
Chỉ phát hành cho các doanh nghiệp tại 4 thành phố Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng
---> Nhược:
+ Lượng phát hành nhỏ
+ Không phát hành tại nước ngoài
Yellow Pages phát hành tại từng địa phương:
--->Ưu:
+ YP đã có chỗ đứng vững trên thị
trường vì tra cứu thông tin trên YP đã trở thành tập quán. YP đã quá quen thuộc với khách hàng
+ Lượng phát hành rất lớn nhắm tới cả doanh nghiệp và người tiêu dùng.
---> Nhược:
+ Vì đặc thù của mỗi YP là được phát hành tại mỗi địa phương, dẫn đến khi tham gia quảng cáo trên YP nào là chỉ đơn thuần là nhắm vào khách hàng thuộc địa bàn đó.
Đối tượng phát hành
+ Kể từ VBD 2002, Sách đã được phát miễn phí rộng rãi cho các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt phủ kín tại HN, HCM, ĐN, HP thông qua chiến dịch phát hành rầm rộ vào tháng 03/2002.
khách hàng quảng cáo hiện nay tại các ấn phẩm là doanh nghiệp trong nước.
---> Nhược:
Không có kênh phát hành ở nước ngoài
+ YP có phát hành tại nước ngoài nhưng lượng phát hành nhỏ.
Số lượng phát hành
15.000 cuốn
15.000 cuốn
3.000 cuốn
200.000 cuốn
Doanh số QC năm 2001
3tỉ 1
0
5 tỉ
Doanh số QC năm 2002
2tỉ 7
Đã chết
5 tỉ
(Nguồn: Công ty phát triển thông tin- Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam)
Phụ lục 2: Những mặt hàng dễ và khó nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ
1-Ba mươi mặt hàng có thể nhập khẩu dễ dàng
Dụng cụ gia đình
Nghệ thuật: HS 96 Tác phẩm nghệ thuật
Chổi lông: HS 96 Hàng công nghiệp khác
Li e HS 45 Li e và vật làm bằng li e
Hoa giả: HS 67 lông vũ , vịt , hoa giấy, tóc giả
Máy cắt kim loại: HS 82 máy cắt
Lông giả: HS43 lông thú giả
Trang sức và đá quý: HS 71 đồ trang sức vàng bạc, đá quý
Thuỷ tinh: HS 70 thuỷ tinh và hàng làm bằng thuỷ tinh
Đồ trang sức: HS 71 đồ trang sức
Đồ da: HS 42 hàng bằng da
Da thô: HS41 da, lông thú thô
Đồ thắp sáng: HS94 đồ trang trí phòng ở
Vali, túi đựng: HS 42 bằng da
Máy công cụ: HS84 máy lớn công nghiệp
Kim loại cơ bản: HS72-81
Nhạc cụ : HS 92 nhạc cụ
Dụng cụ quang học: HS90 công cụ quang học, y học,chính xác
giấy và sản phẩm bằng giấy: HS 47-49 bột giấy , giấy phế thải, giấy in
Ngọc trai: HS 71
Nhựa và sản phẩm nhựa: HS39
Cao su và sản phẩm bằng cao su: HS 40
Yên cương : HS 42 yên cương ngựa
Hàng thể thao: HS95 đồ chơi, thiết bị thể thao
Đá và sản phẩm bằng đá: HS 68
Gạch lát tường, nền và sành sứ: HS68
Máy cầm tay: HS 82 máy tiện kim loại
Ô dù: HS 66
Đồ dung nhà bếp , dụng cụ dùng để nấu ăn: HS 82
Giấy dán tường: HS 48
2- Mười bảy mặt hàng nhạy cảm khó nhập khẩu:
Ma tuý: HS 30
Vật liệu phóng, phát xạ: HS 84
Vũ khí đạn dược: HS 93
Rượu và đồ uống có rượu: HS 22
Sản phẩm sữa: HS 40
Gia súc và trứng: HS 02 và 04
Thịt : HS 2
Đồ chơi: HS 95
Động vật sống: HS 01
Dệt may: HS 50-63
Xe máy: HS87
Phương tiện hàng không: HS88
Thực phẩm chế biến: HS 16,19,20 và 21
Phương tiện thiết bị phát sáng: HS 84,85,90, 92
Phân bón: HS 31
Sơn và các sản phẩm liên quan: HS 32
Thuốc nổ, pháo, vật liệu dễ cháy: HS 36
Phụ lục 3: Cơ sở hạ tầng xúc tiến thương mại ở Việt Nam
Đại diện thương mại
Bộ KHCN& MT
* TCTCCL&ĐL
(Các cơ quan Chính phủ: cung cấp môi trường vĩ mô)
Bộ NG
Bộ NN&PTNT
Bộ TM
Cục XTTM
Viện NCTM
TT thông tin thương mại
Bộ tư pháp
Tổng cục hải quan
Bộ KHĐT
Bộ CN
(Các cơ quan hỗ trợ thương mại: trực tiếp cung cấp sự hỗ trợ và dịch vụ)
Các sở thương mại
Phòng thương mại và công nghiệp
Trung tâm phát triển ngoại thương tp.HCM
Hh thuỷ sản
Vitranet
Các TCTv
Hh da giày
Hh công kĩ nghệ gia
Các nhà cung cấp dịch vụ thương mại khác
Các tổ chức nghiên cứu và đào tạo khác
Các hiệp hội ngành nghề khác
(Các doanh nghiệp : kinh doanh)
DNTN
DNNN
Phụ lục 4: Các hàng hoá khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ phải có hạn ngạch.
1- Hạn ngạch thuế quan:
0404.20.20 : sữa và kem
1604.16: Anchovies
9603 : Brooms
9901.00.50: Ethyl alcohol
Chương 20: Oliver
2008.30.20: Satsuma(amndarin)
1604.14.20: cá ngừ
9903.52: Bông cao nguyên
9904.70: lúa mì (Duram and other)
Một số mặt hàng thuộc các nước Nafta: Mêhicô, Canada
Một số mặt hàng theo quy định WTO
Một số mặt hàng nông sản theo hiệp định Hoa Kì- Ixarael
2- Hạn ngạch tuyệt đối:
Thức ăn gia súc, có thành phần sữa hoặc các sản phẩm sữa:
Sản phẩm thay thế bơ, có chứa 45% bơ béo theo HTS 2106.90.15, và bơ từ đàu ăn
Bơ pha trộn , trên 55,5 % nhưng không quá 45% trọng lượng là bơ béo
Pho mát, Chedder thiên nhiên, làm từ sữa chưa thanh trùng để thời gian chưa quá 9 tháng.
Sữa khô có chứa 5.5 % hoặc ít hơn bơ béo.
Sữa khô theo HTS 9904.10.15
Chocolate crumb và các sản phẩm có liên quan có chứa trên 5,5 % trọng lượng là bơ béo
Cho colate crumb chứa 5,5% hoặc ít hơn trọng lượng bơ béo
Ethyl ancohol và các sản phẩm dùng chất này trong nhiên liệu nhập từ vùng Caribean và các vùng lãnh thổ phụ thuộc Hoa Kì, theo HTS9901.00.50
Thịt (từ Australia và New Zealand)
Sữa và kem dạng lỏng hay đông lạnh , tươi hoặc chua ( từ New Zealand)
3- Hạn ngạch hàng dệt may:
Hải quan Hoa Kì kiểm soát việc nhập khẩu bông, len, sợi dệt, tơ lẫn loại và các mặt hàng làm từ các sợi lấy từ cây hoặc được sản xuất từ một số nước. Việc kiểm soát hạn ngạch hàng dệt may dựa trên những văn bản hướng dẫn của Chủ tịch uỷ ban Hải quan trong quá trình thực hiện các hiệp định hàng dệt (Textile agreements)
A/ Hạn ngạch (visa) hàng dệt may và giấy phép xuất khẩu:
Visa hàng dệt may là một sự chấp nhận dưới dạng một tem/ dấu do chính phủ nước ngoài đóng trên hóa đơn hoặc trên giấy phép xuất khẩu. Visa được dùng để kiểm soát nhập khẩu các sản phẩm dệt may vào Hoa Kì. visa có thể dùng cho mặt hàng cần hạn ngạch hoặc không cần hạn ngạch. Ngược lạimặt hàng cần hạn ngạch có thể cần hoặc không cần visa, tuỳ theo nước xuất xứ.
B/ ELVIS(electronic transmission of visa information) hay visa điện tử đối với hàng dệt may nhập khẩu vào Hoa Kì:
Tuỳ theo thoả htuận từng nước , hầu hết hàng dệt may khi vào Hoa Kì phải có visa dệt may, trừ các hạng mục 300-369 , nhằm chống chuyển tải bất hợp pháp và giao hàng sai với hạn ngạch.
“Visa dệt may” là việc đóng dấu vào một hoá đơn hoặc giấy kiểm soát xuất khẩu do một cơ quan của chính phủ nước xuất khẩu thực hiện. Visa có thể áp dụng cho hàng nhậnp vào theo hạn ngạch hoặc ngời hạn ngạch, hàng theo hạn ngạch có thể cần hoặc không cần visa tuỳ thuộc vào nước xuất xứ được Hoa Kì chấp thuận theo một Hiệp định về visa kí với từng nước. Hàng từ các nước chưa có hiệp định về visa không cần có visa nhưng sẽ được tính theo hạn ngạch phù hợp. Tuy nhiên có visa không có nghĩa là hàng chắc chắn được làm thủ tục nhập khẩu vào Hoa Kì. Nếu hạn ngạch bị hết hạn trong thời gian vận chuyển (tức giữa thời gian sau khi hnàg đã được đóng dấu visa ở nước xuất khẩu và thời gian hàng đến Hoa Kì), thì người nhập khẩu ở Hoa Kì cũngkhông được làm thủ thục nhận hàng cho đến khi hạn ngạch đựoc bổ sung hoặc gia hạn lại.
C/ Hạn ngạch hoặc giấy phép phải xin ở các cơ quan nhà nước khác:
Đồng hồ và các linh kiện đồng hồ được nhập từ các vùng lãnh thổ thuộc Hoa Kì được miễn thuế sẽ do Bộ thương mại Hoa Kì cấp giấy phép nhập khẩu.
Các sản phẩm có nguồn gốc từ sữa sau đây phải do Bộ Nông nghiệp Hoa Kì cấp hạn ngạch : bơ, sữa khô, sữa váng khô, sữa có bơ, pho mát Chedder, các loại pho mát khác và các sản phẩm thay thế pho mát…
Phụ lục 5: Các mặt hàng xuất nhập khẩu chính của Hoa Kỳ
(Đơn vị : triệu USD)
Năm
2000
1999
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Theo cán cân thanh toán
707.638
1.222.880
621.441
937.868
Tăng tuyệt đối
8.366
5.490
10.548
4.546
Theo số thống kê
716044
1.117390
632.988
933.322
Hàng công nghiệp
571.140
933.488
513.985
804.643
Hàng nông sản
45.866
34.615
42.711
33.392
Nhiên liệu
11.890
120.042
8.786
67.841
Một số hàng hoá chính
Máy thiết bị văn phòng
42.020
84.568
36.790
76.678
Phụ tùng máy bay
13.728
5.111
13.982
5.405
Máy bay
22.236
10.747
28.524
8.328
Rượu bia
394
2.696
394
2.366
Nhôm
3.482
6.547
3.268
5.786
Thức ăn gia súc
3.459
546
3.022
518
Nghệ thuật
1.319
5.473
1.016
4.511
Nhựa
18.048
9.837
15.336
8.455
Quần áo
7.621
58.848
7.443
52.028
Cà phê
2.024
746
2.104
613
Dầu thô
425
82.135
659
45.3216
Hải sản
2.622
9.044
2.585
8.054
Giày dép
609
13.774
640
12.943
Máy công nghiệp
30.220
32,096
27.306
28.814
Sắt thép
5.285
14.772
4,670
12.184
Khoáng sản
2,964
2.064
2.380
1.146
Giấy
9958
14.070
9.024
12.282
Sản phẩm dầu mỏ
5.260
22.911
2.931
12.877
Hàng nhựa
7.017
7.429
5.788
6.416
Gạo
761
162
858
170
Thiết bị nghiên cứu khoa học
27.893
20.101
23.30
316.001
Máy chuyên dụng
28.235
20.839
22.657
19.818
Tivi, video
25.506
64.387
21.880
46.099
Vải sợi
9.718
14.061
8.535
12.455
Rau quả
6.848
8.436
6.532
8.434
(Nguồn: Tổng cục thống kê Hoa Kỳ- 2001)
Phụ lục 6: Đánh giá tiềm năng xuất khẩu một số mặt hàng của Việt Nam
Sản phẩm
/ dịch vụ
Thứ tự ưu tiên
Điểm
ưu tiên trợ giúp xuất khẩu
Đánh giá tiềm năng xuất khẩu
Dầu thô
Trung bình (TB)
15
Thấp
Hầu như khả năng cung cấp phụ thuộc vào khả năng sản xuất
Than
Thấp
10
Thấp
Cung cấp đình trệ, thị trường xác định
Gạo
Thấp
12
Thấp
Khả năng cung cấp, xuất khẩu đang tăng lên, có tiềm năng nâng cao chất lượng và giá cả, nhu cầu thế giới tăng chậm.
Cà phê
Thấp
12
TB
Nguồn cung trên thế giới bão hoà, nỗ lực tìm kiếm việc mở rộng nguồn cung, có tiềm năng nâng cao chất lượng và chuyển sang loại abrica giá cao hơn.
Cao su
Thấp
12
TB
Có khả năng mở rộng nguồn cung đáng kể, phát triển xuất khẩu nên tập trung vào sản xuát có giá trị gai tăng cao hơn thông qua các sản phẩm chế tạo.
Hạt điều
TB
15
TB
Vấn đề về nguyên liệu thô, có tiềm năng nâng cao chất lượng và tạo sản phẩm có giá trị gia tăng cao, triển vọng thị trường tốt
Hạt tiêu
TB
14
Thấp
Có vị thế cao trên thị trường thế giới. Triển vọng phát triển về trung hạn không tốt do điều kiện thị trường.
Chè
TB
14
Thấp
Có tiềm năng mở rộng nguồn cung và nâng cao chất lượng.
Rau quả
Cao
20
Cao
Có tiềm năng tăng mạnh nguồn cung và nâng cao giá cả đáng kể, triển vọng thị trường tốt.
Hải sản
Cao
18
Cao
Tiềm năng phát triển mạnh nguồn cung nuôi trồng hải sản có giá trị cao, tiềm năng nâng cao chất lượng và chế biến thành sản phẩm có giá cả và giá trị gia tăng cao, triển vọng thị trường tốt, thị trường tốt, thị trường Mĩ có triển vọng rất lớn.
Thủ công
Tb
17
Cao
Có tầm quan trọng lớn về mặt xã hội, có tiềm năng tăng xuất khẩu thông qua khâu thiết và nâng cao chất lượng. Mĩ và EU là rất có tiềm năng.
Dệt may
Cao
18
Cao
Có tiềm năng nâng cao giá trị gia tăng thông qua việc tăng đầu vào trong nước, có tiềm năng nâng cao chất lượng và chuyển thành nước xuất khẩu chủ động có giá trị gia tăng tiên phong cho mặt hàng giá trị tăng cao hơn. Thị trường Mĩ rất có tiềm năng.
Giày da
Cao
18
Cao
Cạnh tranh mạnh mẽ với hàng Trung Quốc, nhưng có tiềm năng lớn để đa dạng hoá sản xuất tăng giá trị sản phẩm thông qua việc tăng đầu vào trong nước, triển vọng lâu dài là có chiến lược marketing năng động và mẫu mã riêng. Mĩ là thị trường có tiềm năng lớn.
Điện tử
Cao
19
Thấp
Đây sẽ là mặt hàng xuất khẩu mới có tăng trưởng cao của Việt Nam trong thời gian trung dài hạn. phụ thuộc rất lớn cào đầu tư trực tiếp của nước ngoài, có tiềm năng cải thiện môi trường cho đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Sản phẩm từ gỗ
Cao
18
Cao
Một ngành xuất khẩu có tiềm năng
Du lịch
Cao
18
Cao
Có cơ hội lớn do nhu cầu tăng nhanh, sản phẩm độc đáo trong một khu vực năng động. Tuy nhiên sẽ có những bất ổn do những do những sự kiện gần đây trên thế giới.
Xuất khẩu lao động
Tb
16
Thấp
Có tiềm năng tăng nguồn cung thông qua đào tạo ngoại ngữ
Dịch vụ công nghệ thông tin
Tb
15
Thấp
Có tiềm năng thông qua việc tăng nguồn cung bằng việc tạo môi trường phát triển tốt hơn.
(Nguồn: Đánh giá sơ bộ tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam – Claes Lindahl- Cục xúc tiến thương mại)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoaluan.doc
- BIA.DOC