Đẩy mạnh xuất khẩu là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Bài khoá luận này đề cập cụ thể đến hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ- một thị trường tiềm năng nhưng cũng đầy thách thức, đặc biệt trong bối cảnh có nhiều diễn biến thay đổi trong quan hệ thương mại 2 nước. Trong phạm vi giới hạn về thời gian, không gian và địa điểm, đề tài “ Tăng cường khai thác thị trường Mỹ sau khi hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ được kí kết” chỉ dừng lại đề cập đến một số vấn đề sau:
1. Khoá luận đã khái quát về thị trường Mỹ gồm đặc điểm thị trường Mỹ, hệ thống luật thương mại Mỹ và hệ thống chính sách thương mại Mỹ. Trên cơ sở đó, khoá luận có thể giúp người đọc có những hiểu biết tổng hợp về một thị trường rộng lớn và phức tạp này.
2. Khoá luận đã phân tích thực trạng xuất khẩu của DNVN vào thời điểm trước và sau khi kí kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ, đánh giá được tình hình hoạt động xuất khẩu của DNVN sang thị trường Mỹ vào 2 thời điểm trên, từ đó cũng đưa ra được ảnh hưởng của hiệp định đối với hoạt động xuất khẩu của DNVN. Đó là:
+ Những cơ hội như thị trường rộng lớn, khả năng quan hệ với nhiều nước khác tăng, khả năng tiếp cận với công nghệ và nâng cao tiến trình hội nhập thế giới.
+ Những thách thức như năng lực cạnh tranh yếu, rào cản về pháp luật và những quy định phức tạp của thị trường Mỹ, sức ép cạnh tranh trên sân nhà.
3. Khoá luận cũng nêu ra các giải pháp để nắm bắt lấy cơ hội và vượt qua các thử thách. Các giải pháp bao gồm những giải pháp vĩ mô mà Nhà Nuớc cần phải làm, những giải pháp vi mô gợi ý cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, khoá luận cũng nghiên cứu một số thị trường xuất khẩu cụ thể của DNVN tại nước Mỹ để trực tiếp đề xuất một số biện pháp tham khảo.
111 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1742 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tăng cường khai thác thị trường Mỹ sau khi Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ được ký kết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh của ngân hàng thương mại bằng việc thành lập một ngân hàng chính sách và uỷ thác cho các tổ chức tín dụng cho vay theo các mục tiêu chương trình đối với các đối tượng ưu đãi.
* Cần phải mở rộng việc bảo lãnh tín dụng đầu tư của quỹ hỗ trợ phát triển cho các doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình có sản xuất, chế biến thu mua hàng xuất khẩu, nhất là những mặt hàng mũi nhọn của nước ta. Cần sớm triển khai hình thức cho thuê tài chính nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn cho doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiện nay.
Tóm lại, Nhà Nước phải thực hiện các biện pháp tài chính đẩy mạnh xuất khẩu nói chung, sang thị trường Mỹ nói riêng một cách đồng bộ và toàn diện. Tuy nhiên, các doanh nghiệp không được ỷ lại vào sự hỗ trợ và bảo trợ của Nhà Nước mà phải tự quyết định được chiến lược sản phẩm và công nghệ đúng đắn, có kế hoạch cụ thể về sản xuất kinh doanh những hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà Nước.
1.2. Giải pháp về luật pháp
Pháp luật thương mại Việt Nam còn quá nhiều bất cập. Thứ nhất, thiếu tính hệ thống và còn quá tản mạn, chắp vá và bị chia cắt một cách manh mún. Thứ hai, thiếu nhiều chế định, nhiều qui định cơ bản điều chỉnh hoạt động thương mại hiện hành. Thứ ba, vị trí của pháp luật thương mại Việt Nam chưa được định hình rõ trong hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam. Thứ tư, luật thương mại Việt Nam năm 1997- đạo luật cơ bản đầu tiên của Việt Nam hiện nay cũng đã và đang có nhiều bất cập như phạm vi điều chỉnh quá hẹp, một số khái niệm dùng trong luật chưa rõ, khó áp dụng vào thực tế, một số quy định còn mang tính hình thức.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế với Mỹ và thế giới, pháp luật thương mại Việt Nam phải được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện. Dưới đây là một số giải pháp cụ thể.
1.2.1.Sửa đổi bổ sung luật thương mại Việt Nam 1997
Ta cần phải thức hiện một số sửa đổi, bổ sung vào bộ luật thương mại. Đơn cử lấy một ví dụ, cần phải mở rộng đối tượng và phạm vi điều chỉnh của luật. Điều 1, luật thương mại Việt Nam năm 1997 quy định phạm vi điều chỉnh của luật là “ các hành vi thương mại, địa vị pháp lý của thương nhân và những nguyên tắc chuẩn mực trong hoạt động thương mại của Việt Nam” Tại điều 45, luật giới hạn phạm vi điều chỉnh của luật là chỉ có 14 hành vi thương mại. Nói cách khác, khi giải thích về hành vi thương mại, luật nêu rõ “ hành vi thương mại là hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại” (điều 5, điểm 1 của luật). Và hoạt động thương mại là “ hành vi của thương nhân liên quan đến mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích thu lợi nhuận”. Khi giải thích khái niệm về dịch vụ thương mại, luật giới hạn chỉ ở những dịch vụ gắn liền với việc mua bán hàng hoá. Như vậy, phạm vi điều chỉnh của luật rất hạn hẹp.
Việc giới hạn phạm vi điều chỉnh như nói ở trên là phù hợp vào năm 1997, khi luật thương mại lần đầu tiên được ban hành. Tuy nhiên, hiện nay tình hình thực tiễn thương mại của Việt Nam đã có những thay đổi. Ngoài các hoạt động thương mại hàng hoá, hoạt động thương mại dịch vụ đang được hình thành, đang phát triển và đang tự khẳng định vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân. Rất nhiều các hoạt động thương mại dịch vụ trên được thừa nhận và đánh giá cao. Đặc biệt, Việt Nam hiện nay đã là thành viên của ASEAN, đã kí kết và phê chuẩn hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ, đã và đang tích cực đàm phán để gia nhập WTO.
Do vậy, để luật phù hợp hơn, cần mở rộng đối tượng và phạm vi điều chỉnh của luật bằng cách khẳng định ngay ở điều 1 rằng đối tượng điều chỉnh của luật là tất cả các quan hệ phát sinh từ các hoạt động thương mại, bất kể đó là hoạt động thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại trong sở hữu trí tuệ hay trong đầu tư. Đồng thời, luật phải quy định rõ những nguyên tắc cơ bản có tính chỉ đạo xuyên suốt tất cả các hoạt động thương mại tại Việt Nam mà không phân biệt đó là thương mại hàng hoá hay thương mại dịch vụ
1.2.2 Cần khẩn trương ban hành đầy đủ các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành luật thương mại Việt Nam năm 1997
Trong thời gian từ năm 1998 tới nay rất nhiều văn bản hướng dẫn thi hành luật thương mại Việt Nam 1997 đã được ban hành. Tuy nhiên còn nhiều lĩnh vực mà văn bản dưới luật hiện nay vẫn còn bỏ trống. Ví dụ về vấn đề đấu giá hàng hoá. Mục 8 chương 2 của luật thương mại 1997 về đấu giá chỉ quy định có hai điều: điều 139 về kinh doanh dịch vụ đấu giá hàng hoá và điều 140 về đấu giá hàng hoá. Chỉ với hai điều khoản này thì khó có thể thực hiện được hoạt động đấu giá trong thực tế. Do đó cần khẩn trương ban hành văn bản dưới luật về: đấu giá hàng hoá kinh doanh dịch vụ, đấu giá hàng hoá, thương phiếu, hối phiếu, lệnh phiếu, đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại.
1.2.3. Tích cực, chủ động tham gia các kí kết các điều ước quốc tế về thương mại
Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới nói chung và vào các lĩnh vực hoạt động thương mại quốc tế nói riêng. Trong xu thế tự do hoá thương mại ngày nay, các quốc gia trên thế giới dù là đang phát triển hay kém phát triển, đều đang nỗ lực đàm phán ký kết các điều ước quốc tế đa phương về thương mại. Mục tiêu của các điều ước quốc tế đa phương về thương mại là xây dựng các quy tắc pháp lý quốc tế điều chỉnh các hoạt động thương mại trong phạm vi toàn cầu: là làm giảm bớt sự xung đột giữa luật pháp các nước khác nhau, là tạo môi trường pháp lý ổn định bình đẳng giữa các doanh nghiệp của tất cả các nước trong các hoạt động thương mại quốc tế, là tiến tới có thể đạt được những luật chơi chung cho các lĩnh vực hoạt động thương mại.
Sau khi hoạt động thương mại Việt - Mỹ đã được chính thức thông qua vào tháng 12 năm 2001, chính phủ cần xúc tiến một cách tích cực nhất các công việc liên quan đến việc gia nhập WTO từ nay đến 2005, gia nhập GATT 1994 và GATS, từ 2005 đến 2007 gia nhập TRIPs và TRIMs. Chậm nhất là vào 2010 gia nhập các hiệp định đa phương còn lại của WTO.
Trong số các điều ước cụ thể về thương mại, đáng kể nhất là Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Tuy nhiên điều đáng tiếc là Việt Nam cũng chưa phê chuẩn công ước này, do đó đã đến lúc chúng ta cần tham gia công ước Viên 1980 một cách khách quan, công ước này bảo vệ quyền bình đẳng và nghĩa vụ giữa người bán và người mua. Công ước cũng có những quy định cho phép những nước tham gia được bảo lưu một số điều khoản. Đây là công ước đa phương có tính chất chuyên môn hẹp, không mang màu sắc chính trị, vì thế chậm nhất vào năm 2005 Việt Nam nên tham gia vào công ước này.
Bên cạnh những sửa đổi bổ sung pháp luật thương mại Việt Nam cho phù hợp với thông lệ quốc tế như cam kết trong hiệp định thương mại, chính phủ cần chú ý phổ biến về những quy định luật pháp Mỹ, những phức tạp rắc rối mà DNVN dễ gặp phải để tránh gặp những trường hợp đáng tiếc xảy ra.
1.3 Một số chính sách cụ thể
1.3.1 Thành lập cơ quan xúc tiến thương mại nước ngoài tại Mỹ
Khi lần đầu tiên xâm nhập vào một thị trường mới như Mỹ, các nhà xuất khẩu phải nhờ đến các tổ chức xúc tiến thương mại. Hiện nay, chúng ta chưa có các tổ chức xúc tiến thương mại ở nước ngoài. Nếu sử dụng dịch vụ nước ngoài thì rất tốn kém và ít DNVN có thể đáp ứng được.
Để giúp đỡ các doanh nghiệp vào thị trường Mỹ, Nhà Nước nên lập ra một cơ quan xúc tiến thương mại ở nước ngoài. Theo điều 5, chương I hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ, trong mục hoạt động thương mại có ghi “ Hai bên cam kết khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại tại mỗi nước, đảm bảo cho công dân nước chủ nhà quyền tiếp cận và làm việc cho văn phòng thương mại của bên kia”. Do đó, chúng ta có thể tranh thủ cam kết này để mở rộng xúc tiến thương mại cho Việt Nam. Cơ quan này có chức năng xúc tiến thương mại, là cầu nối cho các doanh nghiệp, đối tác gặp nhau để mua bán hàng hoá, hợp tác, liên kết... Nó cũng phải thực hiện nhiệm vụ thu nhập thông tin, phục vụ trực tiếp cho mục đích trên. Nó còn thực hiện các hoạt động cụ thể khác như trưng bày, quảng cáo, giới thiệu... và tìm kiếm bạn hàng cho các nhà xuất khẩu Việt Nam.
Để đảm bảo cho các hoạt động hỗ trợ, đây không nên là cơ quan kinh doanh vì nếu như vậy thì có lúc nhiệm vụ kinh doanh sẽ lấn át nhiệm vụ hỗ trợ, xúc tiến xuất khẩu. Cơ quan này phải được Nhà Nước cung cấp kinh phí hoạt động. Nó cũng có thể thu phí từ hoạt động hỗ trợ nhưng không nhằm mục đích kinh doanh.
Cơ quan xúc tiến thương mại tại Mỹ cần được quan tâm và đầu tư đầy đủ, tránh tình trạng chung là kém hiệu quả, thiếu chất lượng của hoạt động xúc tiến thương mại trong nước hiện nay. Về hỗ trợ xúc tiến thương mại, ta còn phải học tập các nước trong khu vực. ở Thái Lan, ngoài phòng xúc tiến thương mại của Ban thương mại còn có Ban Phát Triển Xuất Khẩu do thủ tướng trực tiếp chỉ đạo và có quỹ xúc tiến thương mại quốc tế do ban thương mại quốc tế quản lý.
1.3.2 Phải thành lập cơ quan chuyên xử lý tranh chấp thương maị
Sau khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ được kí kết và có hiệu lực, trong một số lĩnh vực đã xuất hiện một số dự án như khai thác dầu khí, sản xuất vật liệu xây dựng, hoạt động xuất nhập khẩu, các sản phẩm công nghiệp nhẹ...Các hoạt động này sẽ được triển khai trong thời gian tới. Tuy nhiên, phần lớn mới là các thoả thuận sơ bộ với nhau. Thời gian tiếp theo các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp sẽ phải chuẩn bị triển khai tiếp các dự án này. Tuy nhiên trong qúa trình kinh doanh với Việt Nam, phía Mỹ còn phàn nàn về việc xảy ra các tranh chấp. Lý do bởi Mỹ là một thị trường lớn mà hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam còn quá ít. Phía ta thường xuyên bị thua thiệt bởi ở ta việc xử lý tranh chấp còn chưa tốt. Do vậy, không còn con đường nào khác là phải qua một hệ thống tư vấn pháp luật và cũng đồng thời là cơ quan xử lý tranh chấp luôn.
1.3.3 Khuyến khích đầu tư phát triển nguồn hàng xuất khẩu
Có một thực tế là hàng xuất khẩu của ta thường là nguyên liệu thô, nông sản có hàm lượng chế biến thấp vì những mặt hàng này có thuế suất phi MFN xấp xỉ MFN. Loại hàng này luôn phải chịu thua thiệt khi thị trường biến động không có lợi. Để tránh tình trạng này, chúng ta nên chú ý phát triển theo chiều sâu, nâng cao giá trị sản phẩm bằng cách chế biến sâu. Khi thuế suất nhập khẩu vào Mỹ đối với hàng chế biến sâu giảm do MFN thì đây sẽ là cơ hội lớn Nhà Nước cần tạo thêm ưu đãi về thuế, về tín dụng cho các nhà chế biến.
Để tạo uy tín cho hàng Việt Nam, ta cần chú ý đến khâu chất lượng. Người tiêu dùng Mỹ đặc biệt quan tâm đến vấn đề này khi mua sắm. Có thể áp dụng chế độ đăng kí và kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với hàng xuất khẩu. Điều này buộc các nhà sản xuất hàng xuất khẩu phải nâng cao chất lượng, tự hoàn thiện mình.
Muốn đảm bảo nguồn hàng xuất khẩu được ổn định, đáng tin cậy hơn, Nhà Nước có thể mở rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào sản xuất hàng xuất khẩu. Khi hiệp định thương mại được phê chuẩn và thực thi, sẽ có nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ để khai thác thị trường đầy tiềm năng này. Nếu khai thác được xu hướng này, chúng ta sẽ có nguồn hàng xuất khẩu phong phú hơn, có chất lượng tốt hơn.
2. Đối với các DNVN
2.1 Giải pháp về chất lượng
Năm 1999, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chỉ đạt 601 triệu USD trong khi đó Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philipines đạt tương ứng là 14321, 9514, 21429, 12380 triệu USD Nguồn: Vụ Kế Hoạch -Thống Kê- Bộ Thương Mại
. Những con số đó cho thấy mặc dù mặt hàng của Việt Nam đang tăng nhanh về cả giá trị tuyệt đối và tương đối nhưng thị phần của Việt Nam so với các nước khác còn quá nhỏ bé. Điều đó cũng cho thấy một thực tế là khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn thấp. Trong khi đó, thị trường Mỹ vốn là một thị trường khó tính, đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Đó cũng là điều dễ hiểu vì Mỹ là một trong nhiều nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người cao nhất thế giới. Thu nhập quốc dân/ người năm 2000 là khoảng 33.800 USD. Với mức thu nhập như vậy, người Mỹ hoàn toàn có quyền tiêu dùng những hàng hoá cao hơn so với một số khu vực thị trường khác.
Bởi các DNVN muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ thì vấn đề đầu tiên phải quan tâm là chất lượng hàng hoá của mình có đảm bảo yêu cầu về chất lượng và vệ sinh công nghiệp hay không. Những lô hàng sau có giữ được chất lượng như các lô hàng trước hay không. Thực tế cho thấy đã có nhiều sản phẩm của các công ty lớn xâm nhập vào thị trường Mỹ nhưng không đáp ứng được chất lượng hoặc không duy trì được chất lượng lâu dài nên đã nhanh chóng bị mất thị trường. Do đó vấn đề đặt ra là các DNVN cần xem xét một cách nghiêm túc chất lượng của các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu của mình cũng như các điều kiện để được thị trường Mỹ chấp nhận.
Thứ nhất, do người tiêu dùng Mỹ chưa quen với hàng Việt Nam nên các doanh nghiệp cần chọn mua hàng có tính chất cạnh tranh cao và không bị khống chế bởi các quy định pháp lý cũng như chịu ảnh hưởng của thời tiết môi trường
Thứ hai, khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ thì DNVN phải tuân thủ các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật của Mỹ do các cơ quan chuyên ngành ban hành, đa dạng hoá mẫu mã và năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm và nâng cao trình độ công nghệ bảo quản chế biến sau thu hoạch. Thực tế người tiêu dùng Mỹ gồm nhiều đẳng cấp ít cầu kỳ như các nước Nhật Bản, EU nhưng đòi hỏi hàng hoá phải luôn đổi mới phong phú về chủng loại. Vì thế nhiều siêu thị như Walmart, Kmart có đến 80% sản phẩm là của Trung Quốc và đã trở nên rất quen thuộc với lớp tiêu dùng bình dân Mỹ. DNVN do vậy cần phải xác định các sản phẩm mũi nhọn và đối tượng khách hàng của mình để từ đó đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng. Ví dụ những khách hàng bình dân Mỹ thì cần phải hạ giá thành để nâng cao năng lực cạnh tranh. Với khách hàng Mỹ trung và cao cấp thì cần tạo ra chất lượng sản phẩm đáng tin cậy, nâng cao uy tín nhãn hiệu và thương hiệu của doanh nghiệp. Để nâng cao năng lực chế biến, trước mắt doanh nghiệp nên nâng cao hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài đặc biệt là các doanh nghiệp có hàng xuất khẩu sang Mỹ để học tập từng bước công nghệ chế biến của họ. Nhưng về lâu dài, cần phải đầu tư chiều sâu vào nghiên cứu công nghệ chế biến nông lâm hải sản để đầu tư vào các dự án chế biến nông lâm hải sản.
Đây cũng chính là chính sách lựa chọn mặt hàng thích hợp dựa trên các thông tin thị trường chính xác, đảm bảo uy tín với người tiêu dùng Mỹ. Để có được các thông tin cần thiết và có độ tin cậy cao, các DNVN có thể sử dụng các dịch vụ môi giới tư vấn thương mại và pháp luật của các công ty tư vấn có uy tín. Phòng thông tin thương mại đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam cũng có thể cung cấp các thông tin cơ bản về một số doanh nghiệp Mỹ.
2.2 Giải pháp về nguyên vật liệu
Các DNVN cần đẩy mạnh việc sử dụng nguyên vật liệu trong nước. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc làm tăng giá trị hàng hoá của các doanh nghiệp, vì hiện nay DNVN muốn sản xuất phải nhập một lượng lớn nguyên phụ liệu từ nước ngoài khiến ngoại tệ thực tế thu được từ các sản phẩm xuất khẩu sang Mỹ là không nhiều. Đặc biệt cần chú trọng ngành dệt may và giầy da. Ví dụ, đối với ngành giày da, ta cần xây dựng một số khu công nghệ liên hoàn, thành phẩm và giày da để hỗ trợ và tạo hiệu quả kinh tế tối ưu. Đối với ngành dệt may, cần có kế họach xây dựng vùng trồng nguyên liệu như xây dựng quỹ đất cho việc phát triển cây ngô, điều hành kế hoạch giữa bông nhập khẩu và bông sản xuất trong nước. Sau khi đã giải quyết được vấn đề nguyên liệu thì ta giảm bớt được hình thức giao hàng xuất khẩu gia công. Các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam sẽ sản xuất chính nguyên vật liệu sản xuất trong nước và liên hệ trực tiếp với các nhà bán lẻ của Mỹ thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay để bán hàng theo giá FOB. Hình thức này vừa giúp các DNVN tăng giá trị xuất khẩu, vừa tạo thuận lợi cho các nhà bán lẻ Mỹ khi định hướng nhu cầu hay thay đổi của người tiêu dùng.
Do vậy, sau khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ được kí kết và có hiệu lực thì triển vọng xuất khẩu hàng Việt Nam sang Mỹ là rất lớn. DNVN phải nhanh chóng đầu tư để nâng cao khả năng sản xuất hàng hoá, định hướng nhu cầu thị trường Mỹ.
2.3 Giải pháp về thị trường
Hiện nay, người quyết định chất lượng hàng hóa là người mua chứ không phải là người sản xuất, bởi vậy nhà sản xuất phải nắm chắc nhu cầu từ phía khách hàng. Trong khi đó, công tác nghiên cứu thị trường của các DNVN hiện nay nhìn chung là không hiệu quả. Rất nhiều doanh nghiệp còn thụ động, chậm thích ứng với sự thay đổi của thị trường, của thị hiếu người tiêu dùng. Thị trường Mỹ lại rất năng động và phức tạp. Các DNVN do đó phải luôn tìm hiểu về thị trường Mỹ, tìm cách cung cấp theo yêu cầu của khách hàng Mỹ. Việc đáp ứng nhu cầu luôn dễ hơn so việc tạo ra nhu cầu đó.
Ngoài ra, việc hiểu biết về đối thủ cạnh tranh là hết sức quan trọng vì “biết người biết ta trăm trận trăm thắng”. Nhà xuất khẩu cần biết rõ sản phẩm nào đang cạnh tranh với sản phẩm của mình. Những đối thủ cạnh tranh là ai? ở đâu? Các sản phẩm của họ được giới thiệu ra sao? Bằng cách nào? Tại sao tiếp thị của họ lại thành công hay lại thất bại? Họ đang gặp khó khăn gì trong kinh doanh? Họ có lợi thế khác thường nào không? Những sản phẩm mới nào của họ đang được triển khai? Nhà cung cấp hàng cho họ là ai ? ở đâu? Dịch vụ hậu mãi của họ tốt ở mức nào? Chính sách của họ ra sao so với mình? Sản phẩm của chúng ta so với sản phẩm của họ ra sao?
Bên cạnh đó, các DNVN cần phải thực hiện hàng loạt các hoạt động xúc tiến thương mại. Hoạt động này khá tốn kém và đòi hỏi khá nhiều kinh nghiệm, chính vì thế mà các DNVN còn yếu về nhiều mặt. Phần giải pháp vĩ mô trên có kiến nghị Nhà Nước nên thành lập cơ quan xúc tiến thương maị ở Mỹ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động của cơ quan này chỉ mang tính chất định huớng, nhà xuất khẩu phải tự vận động là chính. Họ nên phối hợp với các Bộ ngành liên quan để thu thập thông tin, hưởng các ưu đãi, hỗ trợ chính sách bộ ngành và cơ quan xúc tiến thương mại, cung cấp và kịp thời đề đạt những nguyện vọng của mình để giúp Nhà Nước hoàn thiện chính sách.
Cách xúc tiến thương mại chi phí nhỏ nhất có lẽ là Internet. 47% máy tính thế giới thuộc về người Mỹ và tỉ lệ sử dụng Internet của họ cũng vượt xa các nước khác. Nhà xuất khẩu cần lập ra các Website riêng của công ty mình để tìm đối tác, cũng có thể gửi thư điện tử để quảng cáo. Cũng với Internet, nhà xuất khẩu cũng nên phối hợp các phương pháp khác. Theo lời một thương nhân Mỹ tại hội chợ triển lãm “ Diễn đàn giao lưu kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ diễn ra tại hội trường thống nhất (thành phố HCM) từ 12-16/7/2001 thì “thương nhân Mỹ không thích mua hàng qua Internet, các trang Web chỉ mang tính chất tham khảo, khi quyết định tìm mặt hàng thì họ đến tận nơi, tận tay sờ, tận mắt thấy sản phẩm”. Các trang Web chỉ có giá trị tham khảo nhưng các doanh nghiệp vẫn nên khai thác vì cách này rẻ và là con đường ngắn nhất để tìm đối tác. Các nhà xuất khẩu cũng nên tích cực tham gia các hội chợ triễn lãm và hội thảo quốc tế trong và ngoài nước, tranh thủ gặp gỡ tiếp xúc trực tiếp với khách hàng để giới thiệu sản phẩm của mình.
Hiện nay, các DNVN vẫn phải lệ thuộc tương đối nhiều vào thị trường trung gian. Để xúc tiến thương mại có hiệu quả trên thị trường Mỹ, nhà xuất khẩu cũng nên học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm để bán hàng trực tiếp. Thông qua kênh phân phối này, họ sẽ tiếp xúc trực tiếp khách hàng, đánh giá được đúng đắn nhu cầu của người tiêu dùng để có kế hoạch sản xuất kinh doanh cho phù hợp. Hệ thống phân phối và bán hàng trực tiếp ở Mỹ có thể chia thành 7 nhóm theo thứ tự các mặt hàng sau:
1. Các công ty chuyên doanh với hệ thống cửa hàng về một nhóm sản phẩm có chất lượng cao, nhãn hiệu nổi tiếng và giá bán cao.
2. Các công ty siêu thị với hệ thống bán lẻ tổng hợp hàng tiêu dùng.
3. Các công ty bán lẻ: thường nhắm vào tầng lớp trung lưu, được tổ chức mạng lưới rộng khắp toàn quốc.
4. Các công ty siêu thị bình dân: như loại 2 nhưng quy mô rất lớn, dân số cũng lớn vì bán hàng với giá đại chúng.
5. Các công ty bán hàng giảm giá: như loại 4 nhưng giá rẻ hơn.
6. Các công ty bán hàng qua bưu điện, TV, catalogue, Internet tổ chức giới thiệu sản phẩm thông qua các phương tiện thông tin đại chúng nhận đơn đặt hàng qua điện thoại và giao nhận tại nhà.
7. Các cửa hàng bán lẻ của các cộng đồng dân cư người Trung Quốc, ấn Độ, Việt Nam… với các đặc điểm: hàng không có nhãn hiệu nổi tiếng, giá rẻ ( chỉ bằng 20-30% so với giá ở các siêu thị) do nhập thẳng từ các nước Châu á, Nam Mỹ ở dạng không có bao bì và được trang trí thêm ở cửa hàng.
DNVN cần định hướng đi vào một nơi trong 7 loại trên, tuỳ thuộc vào hàng hoá của mình thuộc loại cao cấp, trung bình hay đại chúng. Đồng thời, bằng cách tham gia các loại tổ chức hiệp hội chuyên ngành hay liên kết với các nhà sản xuất tại chỗ ở Mỹ, hoặc tính đến việc liên doanh hình thành các công ty bán lẻ của Việt Nam đóng vai trò bắc cầu cho hàng Việt Nam chen chân vào các thị trường cuối cùng này (vì Mỹ vẫn được coi là thị trường đích của hầu hết các công ty, các nước trên thế giới). Thông qua kênh phân phối và bán hàng trực tiếp, chúng ta sẽ làm cho người tiêu dùng Mỹ quen dần với hàng Việt Nam.
Tóm lại, công việc nghiên cứu thị trường cũng như xúc tiến thương mại đều rất khó khăn đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam bởi vì chúng phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố khách quan cũng như chủ quan. Tuy nhiên, nếu chúng ta có thể làm tốt các khâu này thì việc bán hàng trên thị trường Mỹ sẽ không còn khó khăn.
2.4 Giải pháp về luật pháp
Mỹ là một nước điển hình trong hệ thống pháp luật bất thành văn nên hệ thống pháp luật thương mại của Mỹ rất phức tạp. Muốn xâm nhập thị trường Mỹ một cách có hiệu quả nhất, các DNVN tối thiểu cần có những kiến thức cơ bản về các đạo luật quan trọng như Luật thuế quan, Luật bồi thường thương mại, Luật điều tiết nhập khẩu, các Quy định hải quan. Qua nhiều năm, quy trình nhập khẩu của Mỹ đã được đơn giản hoá và ngày càng tự động hoá. Có tới 98% các loại hàng hoá nhập vào Mỹ hiện nay đã làm thủ tục bằng hình thức điện tử. Cơ quan hải quan Mỹ áp dụng các kỹ thuật “ quản lý rủi ro” và xem xét các thông tin nhận được để quyết định có cần trực tiếp kiểm tra thực tế lô hàng hay không. Tất nhiên, nhiều vi phạm trong lĩnh vực hải quan tại Mỹ có thể bị phạt dân sự, bị bắt giữ hoặc bị tịch thu hàng hoá, trường hợp nghiêm trọng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định. Một số sản phẩm như nông sản phải dán nhãn hàng hoá, sản phẩm tiêu dùng như bàn ủi, máy sấy phải đáp ứng quy định về bảo toàn năng lượng và an toàn, phải dán nhãn hàng hoá với các sản phẩm làm từ vàng bạc. Nếu không ghi đúng hàm lượng, có thể bị quy lỗi lừa dối khách hàng. Các sản phẩm là vải, len phải ghi chi tiết sản phẩm có chứa ?% cotton, ?% polyester và hướng dẫn cách sử dụng. Các sản phẩm có đính lông thú cũng phải tuân theo nguồn gốc nguyên vật liệu cấu thành sản phẩm là để làm căn cứ áp mã thuế. Do đó, chỉ cần sai một li là có thể bị đóng thuế rất cao.
Đặc biệt, vì Mỹ là thành viên của WTO nên rất nghiêm khắc trong việc nhập khẩu hàng giả, hàng ăn cắp bản quyền. Đồng thời, vì là thành viên của CUQT về các loài bị tuyệt chủng nên Mỹ cũng có những quy định đặc biệt về nhập khẩu các loài động vật.
Một quy định quan trọng mà các nhà xuất khẩu vào Mỹ cũng phải biết, đó là những quốc gia đang bị Mỹ cấm vận trừng phạt sẽ không được xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này. Không chỉ thế, nhiều quốc gia có sử dụng các vật liệu từ những nước đang bị cấm vận, trừng phạt để sản xuất hàng hoá và xuất khẩu vào Mỹ có thể cũng không được xuất khẩu vào thị trường này.
Việc nắm vững và thông thạo luật pháp Mỹ là công việc rất khó bởi vì ngay tại Việt Nam không phải doanh nghiệp xuất khẩu nào cũng nắm vững luật pháp Việt Nam. Tuy nhiên đây thực sự là điều kiện cần để các nhà xuất khẩu Việt Nam từng bước thâm nhập thị trường này.
III. Tăng cường khai thác một số thị trường cụ thể tại Mỹ
1. Thị trường dệt may
1.1.Nhu cầu của thị trường Mỹ
Mỹ có dân số hơn 280 triệu người. Đây thực sự là một con số không nhỏ, với trên 200 triệu dân ở độ tuổi trưởng thành- tình trạng hoàn toàn trái ngược so với cơ cấu dân số của Việt Nam với dân số trẻ là chủ yếu. Về cơ cấu dân số Mỹ thì 2 giới ngang nhau nhưng dẫu thế ai cũng thấy phụ nữ Mỹ chủ yếu đi mua sắm và phần nhiều phục vụ cho mục đích của chính họ.
Nhu cầu nhập khẩu dệt may của Mỹ rất lớn so với các nước trên thế giới. Kim ngạch nhập khẩu dệt may năm 2001 đạt 70 tỷ USD trong đó hàng dệt 14 tỷ và hàng may sẵn 14,3 tỷ (đứng vị trí thứ 2 trên thế giới, sau EU nhập khẩu 140,5 tỷ USD). Riêng trong năm 2001, các khách hàng Mỹ đã tiêu dùng 15,2 triệu bộ quần áo với chi phí lên tới 272,3 tỷ USD. Người Mỹ đã mua 4,2 triệu áo; 2,3 triệu quần và 1,2 triệu bộ đồ lót năm 2001. Do vậy, trong năm này, mỗi người dân Mỹ tiêu thụ 54 bộ quần áo, mỗi phụ nữ Mỹ trung bình mua 17 bộ áo các loại (sơ mi/áo lót trong/áo phông). Đàn ông Mỹ tiêu dùng 13 bộ áo (sơ mi và áo lót trong), mua trung bình 8,7 bộ trang phục lót nam Nguồn: Trang web của Thời báo kinh tế: www.vneconomy.com.vn
.
Bất chấp các con số đáng ngạc nhiên này, thị trường may mặc Mỹ vẫn suy giảm nhẹ năm 2001 (- 0,2%) do sự suy giảm kinh tế chung sau sự kiện 11/9. Lý do là người Mỹ thôi không lui tới các trung tâm thương mại, các khu buôn bán lớn vốn dĩ có thể là mục tiêu của bọn khủng bố. Tuy nhiên, tính chung thì thị trường hàng dệt may Mỹ vẫn tăng trong thập kỷ 90 với tỷ lệ tăng hàng năm đạt 18,3%. Năm 2002 các dấu hiệu ban đầu cho thấy thị trường này chững lại song sẽ trở lại mức tăng tốc trong năm 2003 và các năm tiếp theo.
1.2.Khả năng đáp ứng của các DNVN
Sau khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ được thông qua thì xuất khẩu của DNVN sang Mỹ tăng mạnh, tuy nhiên đối với một thị trường rộng lớn như Mỹ thì tiềm lực của các DNVN còn rất nhỏ. Về chủng loại mặt hàng, chủ yếu các DNVN mới chỉ xuất khẩu có 8 cat: 331, 338, 340, 435, 438, 444, 636, 644, tức là con số mới chỉ đếm trên đầu ngón tay và chủ yếu là hàng may chứ hàng dệt thì không nhiều lắm.
Về kim ngạch xuất khẩu: như phân tích ở phần 2, kim ngạch xuất khẩu dệt may đến tháng 6/ 2002 tăng 902% nhưng mới chỉ đạt có 223 triệu USD, ước tính cả năm 2002 đạt 1,2 tỷ USD - một con số vẫn còn quá khiêm tốn, không tương xứng với tiềm năng của một đất nước gần 80 triệu dân. Mục tiêu của dệt may Việt Nam là nắm lấy cơ hội trong những năm tới và năm 2005 đạt 4-5 tỷ USD. Nhằm đạt được mục tiêu trên, tác giả xin kiến nghị một số giải pháp sau:
1.3 Giải pháp tăng cường xuất khẩu sang thị trường dệt may Mỹ
1.3.1 Nâng cao khả năng cung cấp nguyên vật liệu
Tại Việt Nam, có nhiều doanh nghiệp tự sản xuất nguyên vật liệu sợi cho sản phẩm may mặc. Cũng có nhiều doanh nghiệp khác sản xuất hàng may mặc xuất khẩu với nguyên liệu nhập ngoại. Thời gian qua, hàng dệt may Việt Nam chủ yếu là hàng gia công. Điều này dẫn tới nhiều bất lợi như sau:
+ Hàng sản xuất bằng nguyên liệu nhập chiếm tỷ lệ cao trong giá có thể sẽ không được hưởng GSP ( nhưng nếu nguyên phụ liệu nhập từ ASEAN thì vẫn coi như là không phải hàng nhập)
+ Do phải nhập ngoại nguyên phụ liệu nên hàng sản xuất bị động, ảnh hưởng nhiều đến tiến độ giao hàng.
+ Lợi nhuận xuất khẩu giảm đáng kể.
Chính vì thế, Việt Nam phải nâng cao khả năng sản xuất nguyên phụ liệu sợi với chất lượng tương ứng cho các nhà máy sản xuất hàng may mặc. Hiện nay, chính phủ Việt Nam dự định đầu tư khoảng 100 triệu USD cho ngành trồng bông nội địa, với mục tiêu mở rộng năng lực sản xuất nội địa lên thêm 60% vào năm 2010. Thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu bông và sợi chỉ đáp ứng được 10 % nhu cầu của các nhà sản xuất hàng may mặc
1.3.2.Sát nhập theo ngành dọc của các công ty
Hiện nay, ta có rất nhiều nhà máy sát nhập 2 khâu là sản xuất sợi và hàng may mặc thành một doanh nghiệp sản xuất, điều này rất tốt. Thậm chí còn tốt hơn nếu chúng ta đảm bảo tính thống nhất giữa các loại sợi và chủng loại hàng may. Ví dụ, nếu chúng ta chuyên sản xuất len thì ta nên chuyên vào cung cấp các mặt hàng len.
Các công ty nói chung rất thích đa dạng hoá sản phẩm của mình và cố gắng tạo ra nhiều chủng loại càng nhiều càng tốt. Ví dụ, vừa sản xuất áo, vừa sản xuất cả quần. Như thế đôi khi chẳng có sản phẩm nào thực sự tốt cả. Các doanh nghiệp nên thu hẹp dòng sản phẩm, tập trung sản xuất, chú trọng vào nhưng sản phẩm mà khả năng sản xuất có thể đạt mức tối đa.
1.3.3 Một số giải pháp khác
a.Nâng cao chất lượng:
Đối với hàng dệt may, thị trường Mỹ có những đòi hỏi chặt chẽ về chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, các quy định về nhãn hiệu hàng hoá, xuất xứ sản phẩm. Đây là một trở ngại không nhỏ trong việc tăng xuất khẩu sang Mỹ. Các doanh nghiệp Việt Nam do đó cần chú ý tất cả các khâu như chuẩn bị nguyên phụ liệu đầu vào, khâu sản xuất , khâu đóng gói, ghi nhãn hiệu và ghi xuất xứ hàng hoá đầy đủ để tránh những rắc rối đáng tiếc xảy ra
b. Đầu tư công nghệ và trang thiết bị:
Đơn đặt hàng Mỹ thường lớn nên chủ hàng phải có lượng lớn để kịp cung ứng. Số lượng hàng lớn mà thời gian cung ứng lại ngắn nên doanh nghiệp khó có thể tự mình đảm đương nổi một đơn đặt hàng. Vì vậy, DNVN cần sớm tính chuyện tập hợp lại cùng đầu tư trang thiết bị chuyên dùng đồng bộ để cho ra những lô hàng lớn, tiêu chuẩn giống nhau.
c.Giá cả
Ngoài những mặt hàng cao cấp của những nhãn hiệu nổi tiếng, thị trường Mỹ còn tiêu thụ cả những mặt hàng giá rẻ. Vì vậy hàng Việt Nam sẽ gặp khó khăn trên thị trường Mỹ do các sản phẩm của Trung Quốc vào Mỹ thường rất rẻ, mẫu mã lại đa dạng.
d.Tích cực tham gia hoạt động liên quan dệt may quốc tế
Hiệp hội Dệt May Việt Nam cần tăng cường hoạt động, từng bước khắc phục những yếu điểm của ngành dệt may Việt Nam, tích cực tham gia hiệp định dệt may quốc tế và khu vực như AFTEX (hiệp hội dệt may ASEAN), diễn đàn ngành dệt may vùng Châu á Thái Bình Dương để trao đổi thông tin và kiến nghị những chính sách về mậu dịch của ngành dệt may trong nước đối với khu vực và thế giới.
2. Thị trường giày dép
2.1 Nhu cầu thị trường giày dép Mỹ
Người Mỹ cũng quan tâm đến giày dép chẳng kém gì chuyện quần áo. Trong năm 2001, số tiền người Mỹ bỏ ra mua 18 tỷ đôi giày là 47 tỷ USD. Trung bình mỗi người Mỹ cả nam giới lẫn nữ giới và trẻ em mua 6,4 đôi giày trong năm 2001. Một phụ nữ mỗi năm có mức tiêu thụ trung bình là 8 đôi, đàn ông là 4 đôi. Nguồn: Trang web của Thời báo kinh tế: www.vneconomy.com.vn
Năm 2001 là năm kỷ lục đối với thị trường giày dép Mỹ. Đây là năm tăng trưởng thứ 4 về quy mô thị trường mặt hàng này. Thị trường giày da tăng trưởng trên 13% kể từ 1997 và đạt 2,1% vào cuối năm 2001. Năm 2002, thị trường Mỹ dự báo một lần nữa tăng dù tốc độ có chậm hơn.
Hiện nay , Trung Quốc là nhà cung cấp khổng lồ về mặt hàng giày da cho Mỹ , chiếm 57,3% thị trường vốn đã khổng lồ. Hồng Kông đứng thứ 19 và đang cùng với Trung Quốc phối hợp nhịp nhàng trong tiến trình tận dụng ưu thế chi phí thấp.
2.2 Khả năng đáp ứng của DNVN:
Sau khi hiệp định được kí kết, khả năng xuất khẩu giày da Việt Nam sang Mỹ có tăng nhưng tốc độ tăng không bằng các ngành khác. Lý do là chênh lệch mức thuế MFN và phi MFN không quá cao nên hàng giày da Việt Nam vẫn xâm nhập thị trường Mỹ kể cả trước khi hiệp định thương mại được kí. Tổng kim ngạch xuất khẩu giày da của Việt Nam năm 2001 là 1,5 tỷ, trong đó xuất khẩu sang thị trường Mỹ là 114 triệu USD. Đây vẫn là con số nhỏ so với kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU và Nhật Bản (chiếm 81% tổng kim ngạch xuất khẩu) và con số này càng nhỏ khi đáp ứng nhu cầu tiêu thụ giày da trị giá 47 tỷ của người Mỹ.
DNVN đúng là đã được hưởng rất nhiều ưu đãi từ bản hiệp định thương mại Việt Mỹ hiệu lực từ tháng 12/2001 và rất có triển vọng trong hoạt động xuất khẩu sang thị trường này. Tuy nhiên, mặt hàng này còn gặp rất nhiều trở ngại cần có biện pháp giải quyết.
2.3 Biện pháp nâng cao hoạt động xuất khẩu giày dép sang thị trường Mỹ
2.3.1 Nâng cao tỷ lệ nội địa hoá
Các DNVN gặp khó khăn trong khâu nguyên liệu để sản xuất. Cả nước chỉ có 2 nhà máy thuộc da nhưng cũng không đủ da để chế biến, phải nhập da muối từ nước ngoài. Phần nguyên liệu trong nước chỉ chiếm khoảng 20% nhu cầu sản xuất. Trong khi đó, nếu ta muốn hưởng mức thuế GSP thì bắt buộc phải có 35% nguyên liệu sản xuất trong nước kèm theo các yêu cầu phức tạp khác cho từng loại sản phẩm. Hiện tại, ta chỉ có mặt hàng giày vải đế cao su và dép là được hưởng quy chế GSP nhưng giá trị lại thấp. Còn những sản phẩm có giá trị lớn hơn như giày thể thao, giày da nam nữ… thì nguyên liệu chủ yếu là nhập khẩu, khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ thì chỉ được hưởng thuế suất NTR cao hơn thuế suất GSP.
Do vậy, các DNVN phải tăng cường sản xuất các loại nguyên phụ liệu cho ngành. Mục đích là để các công ty Việt Nam có thể bán FOB cho công ty của Mỹ vì lẽ các doanh nghiệp Mỹ chỉ thích mua thành phẩm FOB.
2.3.2 Cải tiến công nghệ máy móc
Ngành giày da sử dụng chủ yếu là những thiết bị, máy móc phần lớn thuộc thế hệ trung bình của thế giới, chưa phải là thế hệ hiện đại nên năng suất còn thấp. Khi thiết bị được thay thế mới, kỹ năng sử dụng, vận hành và khai thác cần được nâng cao, nếu không sẽ không đảm bảo được chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm đầu ra, làm giảm năng suất lao động.
2.3.3 Nâng cao trình độ cán bộ quản lý, trình độ tay nghề lao động
Việc thiết kế mẫu mã cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng ở từng thị trường còn yếu. Đặc biệt là kỹ thuật làm mũ giày còn phải thuê thợ nước ngoài với chi phí trả công cao. Do vậy, cần phải tích cực mở lớp đào tạo thiết kế giày dép, tuyển chọn và đào tạo chuyên ngành. Nhờ vậy, ta sẽ có đội ngũ thợ tay nghề cao, có thể đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ ngày càng tăng của người tiêu dùng Mỹ.
3. Thị trường thuỷ sản
3.1 Tình hình thị trường thuỷ sản Mỹ
Mỹ là nước có vai trò lớn trên thị trường hải sản quốc tế. Hàng năm nhập khẩu và xuất khẩu nhiều tỷ USD trị giá hải sản. Mỹ là nước xuất khẩu hải sản lớn nhất thế giới (trong đó trên 60% xuất sang Nhật Bản) và cũng là nước nhập khẩu lớn thứ 2 thế giới sau Nhật Bản. Trong những năm qua, các nước đang phát triển chuyển dần thành những nước xuất khẩu chính và các nước phát triển trở thành những nước nhập khẩu hải sản chính trên thế giới.
Các hải sản nhập khẩu chính của Mỹ là nhóm vỏ cứng gồm tôm (shrimp), tôm hùm (lobster), sò (scallop) và cua( crab) trong đó tôm có giá trị lớn nhất, hàng năm nhập trên 2 tỷ USD.
Mức tiêu thụ hải sản ở Mỹ cho đến 2000 vẫn có xu hướng tăng với tổng tiêu thụ hải sản trong nước và nhập khẩu tăng 2,3% năm 2000, đạt 4,3 tỉ lb hay 15,6 lb/người. Trong 15,6 lb hải sản mà mỗi người tiêu thụ có 10,5 lb là cá tươi hoặc đông lạnh hoặc sò điệp; 4,8 lb là hải sản đóng hộp và 0,3lb là hải sản bảo quản bằng phương pháp khác như sấy khô, ướp muối hay xông khói. So với năm 1999, mức tiêu thụ của các sản phẩm tươi/ đông lạnh và đóng hộp đều tăng 0,1lb. Tiêu thụ tôm (chế biến) đạt kỉ lục 3,2lb/người năm 2000.
Năm 2000 cung thuỷ sản thực phẩm của Mỹ tăng 1,9%, tính theo khối lượng. Trong đó đánh bắt thuỷ sản thực phẩm tăng 1,2%, nhập khẩu cá và sò điệp tăng 2,6%, chiếm 68% thuỷ sản tiêu thụ ở Mỹ
Bảng 13: Số liệu thống kê về tiêu thụ thuỷ sản Mỹ trung bình tính theo đầu người
Đơn vị: lb
Năm
Thuỷ sản tươi và đông lạnh
Đóng hộp
Các hình thức bảo quản khác
Tổng cộng
1996
1997
1998
1999
2000
10,0
9,9
10,2
10,4
10,5
4,5
4,4
4,4
4,7
4,8
0,3
0,3
0,3
0,3
0,3
14,8
14,6
14,9
15,4
15,6
Nguồn: Tạp chí Ngoại Thương số 11- ngày 20/8/2001
Năm 2001, kinh tế Mỹ nằm trong tình trạng khủng hoảng. Theo báo cáo từ các nguồn tin thương mại ở Mỹ cho thấy giá trị hàng thuỷ sản quan trọng nhất là tôm hiện nay thấp hơn so với 15 năm trước. Trong khi đó các nhà sản xuất ở Mỹ không thành công trong việc thiết lập nhà máy chế biến cá trê ở Việt Nam, do vậy nhu cầu nhập khẩu hải sản vào thị trường Mỹ giảm. Đặc biệt nếu các nhà nhập khẩu biết giá họ có thể bán cho khách hàng được thì họ sẽ chỉ nhập khẩu hàng với giá khuyến mãi để bù rủi ro của thị trường đang suy yếu. Nếu các nhà nhập khẩu thấy bất cứ hàng hoá nào họ nhập mà có thể bán với giá lỗ thì họ sẽ rút lui khỏi thị trường.
Năm 2002, nền kinh tế Mỹ phục hồi và chúng ta hi vọng vào sự phục hồi nhanh của nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ.
3.2 Khả năng đáp ứng của các DNVN đối với nhu cầu thuỷ sản tại Mỹ
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu hải sản vào Mỹ từ năm 1994 với trị giá 5,8 triệu USD, đến năm 1997 đạt 46,4 triệu USD. Năm 1998 , Việt Nam xuất vào Mỹ đạt 79,5 triệu USD, tăng 14 lần so với năm 1994 và tăng 71,5% so với năm 1997 nhưng mới chỉ chiếm 1% tổng trị giá hải sản nhập khẩu vào Mỹ. Năm 1998, Việt Nam đứng thứ 19 trong số các nước xuất khẩu hải sản vào Mỹ, trong đó thứ nhất là Canada 1,2 tỷ USD, thứ hai là Thái Lan 770 triệu USD. Năm 1999 xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Mỹ đạt 150 triệu USD, tăng 90% so với 1998 và năm 2000 có khả năng đạt trên 200 triệu USD.
Năm 2001, xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ đạt 482 triệu USD, chiếm 26,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam với khoảng 1,8 tỷ USD. Năm 2002 sau khi hiệp định thương mại Việt Nam chính thức có hiệu lực thì xuất khẩu của Việt Nam chắc chắn sẽ tăng.
Trong năm 2001 khi nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản Mỹ giảm đối với các thị trường nuớc ngoài thì Việt Nam quả là một ngoại lệ vì kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ vẫn tăng mạnh. Tuy nhiên con số đó vẫn còn quá bé nhỏ so với nhu cầu thị trường Mỹ. Hơn nữa, thực tế thì trong năm nay xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam gặp rất nhiều rắc rối khó khăn, làm giảm khả năng xuất khẩu mà thực tế chúng ta có thể làm. Dưới đây sẽ đề xuất một số biện pháp giải quyết.
3.3 Giải pháp nâng cao xuất khẩu thuỷ sản
3.3.1 Biện pháp bảo vệ uy tín sản phẩm thuỷ sản Việt Nam
Vừa qua, hiệp hội cá Nheo Mỹ (CFA) đã tăng cường chiến dịch chống nhập khẩu cá của Việt Nam. Hạ viện Mỹ đã thông qua dự luật HR-2964, quy định chỉ cho phép cá Nheo nuôi tại Mỹ được dùng tên Catfish. Một dự luật khác cũng quy định tương tự đang được trình lên thượng viện. CFA đã dành 5,2 triệu để chống lại việc nhập khẩu cá Basa, cá Tra từ Việt Nam và ráo riết vận động áp dụng luật chống bán phá giá đối với mặt hàng này của Việt Nam. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng bị giảm uy tín và chất lượng hàng thuỷ sản xuất sang EU do EU quy tội hàng Việt Nam có quá dư lượng chất Chloranphenicol khiến hàng trăm Container đang ách tắc ở hải cảng. Hiện nay, các nhà nhập khẩu Mỹ đang tạm ngừng việc thực hiện các hiệp định đã kí kết về mặt hàng tôm và chưa kí kết các hợp đồng mới.
Trước tình hình như vậy, trước mắt Việt Nam phải sử dụng con đường ngoại giao, thương mại để giải thích tình hình kiểm soát dư lượng độc hại trong nuôi, bảo quản và chế biến sản phẩm thuỷ sản. Đồng thời nhanh chóng giải quyết vấn đề tên cá catfish và có các động thái cần thiết phản ứng lại phía Mỹ. Bộ thương mại cũng phải xây dựng chiến lược quảng bá mặt hàng này tại Mỹ, nhằm vào hệ thống siêu thị và nhà hàng lớn, mở rộng các đối tượng cũ là Việt Kiều và Hoa Kiều.
Để giữ uy tín sản phẩm thuỷ sản Việt Nam, Bộ thương mại có đưa ra một số biện pháp lâu dài như giao cho cơ quan chức năng của ngành tăng cường thanh, kiểm tra, cấm triệt để việc đưa hoá chất vào khâu nuôi, bảo quản và chế biến, ban hành danh mục các chế phẩm cấm sử dụng.
3.3.2 Tăng cường đầu tư khai thác để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu thuỷ sản
Mỹ có truyền thống kinh doanh lớn. Vì vậy, một trong những yêu cầu khi làm ăn với Mỹ là phải làm với số lượng lớn, cung cấp ổn định. Đây quả là một thách thức đối với doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Do thiếu nguyên liệu để làm hàng xuất khẩu nên khả năng đáp ứng đòi hỏi này là khó khăn, trong khi đó phía Mỹ lại yêu cầu mấy chục Container/tháng và kết quả là các DNVN chỉ có thể đáp ứng một phần trong số đó.
Việt Nam do vậy cần phải ưu tiên chuyển dịch cơ cấu nuôi trồng thuỷ sản, tăng nhanh và ổn định nguyên liệu cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Nhà Nước cần đầu tư vốn vào các lĩnh vực sau: xây dựng và quy hoạch cơ sở hạ tầng (chủ yếu là hệ thống thuỷ lợi), đầu tư cho công nghệ sản xuất giống sạch với giá thành hạ, đầu tư cho dự án nuôi tôm bán thâm canh, thâm canh và nuôi công nghiệp, sản xuất thức ăn cho thuỷ sản với công nghệ mới, chất lượng cao, giảm giá thành, xây dựng các cơ sở sản xuất thuốc phòng trừ bệnh cho nuôi trồng thuỷ sản.
Về khai thác thuỷ sản, Bộ Thuỷ Sản cần đầu tư vào hệ thống thông tin liên lạc cho khai thác hải sản, hoàn thiện hệ thống phòng tránh trú bão cho tàu thuyền neo đậu và xây dựng 30 cảng cá mới. Tiếp đến là đầu tư chiều sâu cho các đội tàu khai thác xa bờ, đóng sửa tàu thuyền, đồng thời đầu tư mới một số nhà máy đóng sửa tàu thuyền với công nghệ và kỹ thuật hiện đại.
3.3.3 Nâng cao chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đối với mặt hàng thuỷ sản
Mỹ luôn đặt chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm lên hàng đầu. Hệ thống đảm bảo chất lượng theo HACCP là quy định bắt buộc của Mỹ đối với hàng thuỷ sản nhập khẩu. Trên thực tế, những quy định này là rào cản rất lớn mà nhiều khi hàng thuỷ sản Việt Nam chưa vượt qua được. Chẳng hạn như quy định hàng thuỷ sản sơ chế phải không có Salmonella (một loại vi sinh vật gây bệnh) trên 25 gram mẫu. Tuy nhiên, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ bị trả về khá nhiều do phát hiện có khá nhiều chất Salmonella. Sở dĩ có tình trạng trên là do nguồn nước nuôi thuỷ sản chưa được đảm bảo.
Để đảm bảo thuỷ sản có chất lượng tốt, chúng ta phải quy hoạch, nuôi thuỷ sản bằng nguồn nước sạch và nâng cấp điều kiện sản xuất, chế biến thuỷ sản. Các doanh nghiệp cần quan tâm đến liệu thực phẩm được sử dụng và sản xuất trong điều kiện vệ sinh, được ghi nhãn và đóng gói đúng, đầy đủ thông tin và không làm cho người mua nhầm lẫn. Các doanh nghiệp xuất hàng cần chú ý đến tiêu chuẩn HACCP. Tiêu chuẩn này yêu cầu mỗi nhà chế biến phải tiến hành phân tích mối nguy để xác lập mối đe doạ về an toàn thực phẩm có thể xảy ra đối với từng loại sản phẩm thuỷ sản do nhà máy của họ chế biến và để xác định các biện pháp phòng ngừa. Vì vậy, các nhà sản xuất phải xây dựng và thực hiện kế hoạch HACCP.
Kết luận
Đẩy mạnh xuất khẩu là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Bài khoá luận này đề cập cụ thể đến hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ- một thị trường tiềm năng nhưng cũng đầy thách thức, đặc biệt trong bối cảnh có nhiều diễn biến thay đổi trong quan hệ thương mại 2 nước. Trong phạm vi giới hạn về thời gian, không gian và địa điểm, đề tài “ Tăng cường khai thác thị trường Mỹ sau khi hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ được kí kết” chỉ dừng lại đề cập đến một số vấn đề sau:
1. Khoá luận đã khái quát về thị trường Mỹ gồm đặc điểm thị trường Mỹ, hệ thống luật thương mại Mỹ và hệ thống chính sách thương mại Mỹ. Trên cơ sở đó, khoá luận có thể giúp người đọc có những hiểu biết tổng hợp về một thị trường rộng lớn và phức tạp này.
2. Khoá luận đã phân tích thực trạng xuất khẩu của DNVN vào thời điểm trước và sau khi kí kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ, đánh giá được tình hình hoạt động xuất khẩu của DNVN sang thị trường Mỹ vào 2 thời điểm trên, từ đó cũng đưa ra được ảnh hưởng của hiệp định đối với hoạt động xuất khẩu của DNVN. Đó là:
+ Những cơ hội như thị trường rộng lớn, khả năng quan hệ với nhiều nước khác tăng, khả năng tiếp cận với công nghệ và nâng cao tiến trình hội nhập thế giới.
+ Những thách thức như năng lực cạnh tranh yếu, rào cản về pháp luật và những quy định phức tạp của thị trường Mỹ, sức ép cạnh tranh trên sân nhà.
3. Khoá luận cũng nêu ra các giải pháp để nắm bắt lấy cơ hội và vượt qua các thử thách. Các giải pháp bao gồm những giải pháp vĩ mô mà Nhà Nuớc cần phải làm, những giải pháp vi mô gợi ý cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, khoá luận cũng nghiên cứu một số thị trường xuất khẩu cụ thể của DNVN tại nước Mỹ để trực tiếp đề xuất một số biện pháp tham khảo.
Trên đây là những nội dung chính mà khoá luận đã đề cập đến. Do kinh nghiệm và thời gian còn hạn chế, khoá luận không khỏi tránh khỏi những khuyết điểm. Em mong nhận được sự đóng góp quý báu để tiếp tục nghiên cứu và phát triển đề tài cũng như nâng cao trình độ nghiệp vụ trong công tác sau này.
Tài liệu tham khảo
A. Danh mục các sách:
1. “Xuất khẩu sang thị trường Mỹ” – Trung Tâm thông tin kinh tế (BIZIC) thuộc Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam (VCCI) - Bộ Tài Chính Mỹ, Tổng Cục Hải Quan ấn hành - 2002
2. “Kinh doanh với Hoa Kỳ” – Phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) - Bộ Tài Chính Mỹ, Tổng Cục Hải Quan ấn hành- 2002
3. “Hiệp định thương mại song phương Hoa Kỳ - Việt Nam có hiệu lực”(The BTA takes effect) - Đại sứ quán Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ – Phòng thông tin văn hoá - 2002
4. “Xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ - Một số thông tin nên biết” - Vụ Chính sách Thương mại Đa Biên – NXB Thống Kê - 2002
5. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ ( The Bilateral Trade Agreement)
6. “Hiệp định thương mại Việt Nam và Hoa Kỳ, Thị trường và doanh nghiệp Hoa Kỳ” – Trung tâm đào tạo, tư vấn và thông tin kinh tế ( CETAI) – 9/2000
7. “Nhịp cầu doanh nghiệp Việt Mỹ” – Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp – NXB Thống Kê – Hà Nội 1999
8. “Khái quát và Soạn thảo các đạo luật thương mại của Mỹ” – Tiểu ban Phương Pháp và Phương tiện về Thương Mại, Hạ nghị viện Mỹ – NXB Thống Kê - 1996 .
B. Danh mục các báo cáo tham khảo
9. “Việt Nam - kết quả hoạt động xuất khẩu năm 1999 và dự báo trong những năm tiếp theo” – Báo cáo không chính thức của Ngân hàng thế giới – Hội nghị giữa kỳ nhóm các nhà tư vấn tài trợ cho Việt Nam – thành phố Đà Lạt – 22-23/6/2000
10. “Bản điều trần của đại diện thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam, Bà Charlene Barshfsky trước thượng viện về thoả thuận thương mại với Việt Nam” - Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam – 2002
11. “Các báo cáo về tình hình xuất nhập khẩu và định hướng đến năm 2005 và 2010 của Vụ xuất nhập khẩu”– Vụ Âu Mỹ – Bộ Thương Mại
12. Tài liệu phục vụ nghiên cứu: “Tác động của việc Mỹ dành Tối Huệ Quốc cho Việt Nam” – Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương – năm 1999
13. “Bài phát biểu của bà Fawn Evesnon”, phó chủ tịch hiệp hội dệt may và da giày Hoa Kỳ, phụ trách kinh doanh và dịch vụ toàn cầu.
14. Tài liệu về cuộc hội thảo dành cho các nhà xuất khẩu việt Nam :" Nhập khẩu vào thị trường Mỹ”, người trình bày là ông Nicole Bivens Collinson
C. Danh mục tham khảo các công trình nghiên cứu
15. Kỷ yếu hội nghị khoa học – Khoa kinh tế ngoại thương – Tên đề tài: “Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào thị trường Âu-Mỹ” - 04/2002
16. Kỷ yếu hội nghị khoa học – Trường đại học Ngoại Thương – Khoa quản trị kinh doanh – 10/2000
17. Công trình sinh viên nghiên cứu khoa học 2000 – Tên công trình: "Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản thông qua tiến trình đẩy nhanh việc áp dụng có hiệu quả tiêu chuẩn HACCP ".
D. Danh mục tham khảo các báo và tạp chí
18. Tạp chí Ngoại Thương, có các bài viết sau
Bài viết “ Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng đáng kể” của Nguyễn Thành ra ngày 10/11/2001,
“ Vấn đề tiêu thụ hải sản ở Mỹ” của T.Hải ra ngày 20/8/2001
“ Đánh giá về hoạt động thương mại của Việt Nam sau sự kiện 11/9” của NT số ra ngày 20/11/2001
“ Thực trạng ngành dệt may của Mỹ” của Quốc An ra ngày 30/11/2001
“ Mỹ là thị trường cạnh tranh nhất năm 2002” của Quốc An ra ngày 30/6/2002
19. Tạp chí thương mại
Bài viết “ Một số biện pháp để các doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam thậm nhập thị trường Hoa Kỳ” của Trần Hà, số 4/2001
Bài viết “ Thị trường hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam trước những cơ hội và thách thức” của Lê Văn Đạo, số 4/2001
Bài viết “ Hàng rào phi thuế quan- các rào cản đối với thương mại quốc tế ” của Nguyễn Thanh Hưng và Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, số 18/2002
Bài viết “ Những vấn đề cần lưu ý khi xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ”, số 10/2002
Bài viết “ Xuất khẩu hàng dệt may” năm 2001 và triển vọng năm 2002 “ của Lê Văn Đạo, số 3+4/2002
Bài viết “ Ngành dệt may khởi động năm 2002 vào thị trường Mỹ” của Mai Hoàng Ân, số 3+4/2002
20. Tạp chí Pháp Luật
Bài viết “ Hoàn thiện cơ sở pháp lý thương mại cho việc thực hiện Hiệp định Việt - Mỹ” của Bạch Quốc An, số 1/2002
Bài viết “ Da giầy Việt Nam chinh phục Mỹ” của Đức Trường, số 1/2002
21. Tạp chí kinh tế đối ngoại
Bài viết “ Những bất cập của Pháp luật thương mại Việt Nam trước yêu cầu Việt Nam hội nhập về thương mại- Kiến nghị về phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện” của PGS.TS Hoàng Thị Mơ, số 1/2002
22. Thời báo kinh tế:
Bài viết “ Xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ” của Nguyễn Anh Thi, số 143 ngày 28/11/2001
Bài viết : “ Giày dép, ngành xuất khẩu mũi nhọn” của Dương Ngọc, số 111 ngày 16/9/2002
23.Tạp chí Thuỷ sản
Bài viết “Xuất khẩu hải sản sang thị trường Hoa Kỳ” của tổ chức AMCHAM tại Việt Nam, số 5/2002
Bài viết “ Thuỷ sản, lợi thế và cơ hội cho một thời kỳ phát triển” của TS. Hà Xuân Thông, số 9/2002
24. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
Bài viết “ Những điểm cơ bản của pháp luật thuế quan Hoa Kỳ” của LG. Trịnh Hữu Thịnh, số 5/2002
Bên cạnh đó, khoá luận còn tham khảo một số các báo và tạp chí sau :
25. Báo Quốc Tế: số 27/2002
26. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay: số 1, số 2, số 5, số 6, số 8 năm 2002
27. Tạp chí Nhà Nước và Pháp luật: số 1 ( 165) /2002, số 5 (169) /2002
28. Tin kinh tế năm 2002 ra các ngày 25/7/02, 05/7/02, 11/08/02, 04/09/02, 01/07/02, 29/08/02, 03/10/02, 14/07/02
29. Tạp chí kinh tế và dự báo: số 4, số 11/ 2002
E. Danh mục tham khảo các địa chỉ trang web
30. Bộ Thương mại (Department of Commerce): www.doc.gov
Cục quản lý xuất khẩu (Bureau of Export Administration): www.bxa.doc.gov
Cục kinh tế và thống kê (Economics and Statistics Administration): www.esa.doc.gov
Cục phân tích kinh tế (Bureau of Economic Analysis): www.bea.doc.gov
Cục quản lý thương mại quốc tế (International Trade Administration): www.ita.doc.gov
Cục quản lý bằng sáng chế và nhãn hiệu thương mại
(Patent and Trademark Office): www.uspto.gov
Cục công nghệ (Technology Administration): www.ta.doc.gov
31. Bộ Tài chính (Department of the Treasury): www.ustreas.gov
Tổng cục Hải quan (Customs Service)
32. Bộ Ngoại giao (Department of State): www.state.gov; www.ftc.gov
33.Phòng thương mại Mỹ (U.S Chamber of Commerce): www.uschamber.org
34. Phòng thương mại công nghiệp Việt Nam (VCCI)
35. Cục xúc tiến thương mại
36 Thời báo kinh tế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van cua Nguyen Hoang Phuong.doc
- trang bia.doc