Khi phân tích về mặt tài chính của dự án cần phải hoàn thiện hơn nữa các chỉ tiêu phân tích hiệu quả tài chính của dự án. Không chỉ tính toán đến các chỉ tiêu phản ánh mức sinh lời và nguồn trả nợ của dự án mà còn cần phải quan tâm đến mức độ an toàn của dự án. Không chỉ đơn thuần sử dụng các chỉ tiêu phân tích giản đơn mà phải sử dụng phân tích tài chính bằng giá trị hiện tại, các chỉ tiêu hiệu quả tài chính cơ bản cần được sử dụng để thẩm định tất cả các dự án là: NPV,IRR, phân tích độ nhạy của dự án. Khi thẩm định tài chính của bất kỳ dự án vay vốn trung và dài hạn nào cần phải tính toán đầy đủ, chính xác 3 chỉ tiêu trên mới có thể đánh giá chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp, vì nếu chỉ sử dụng một chỉ tiêu NPV thì mới chỉ phản ánh quy mô lãi của dự án, NPV còn phụ thuộc lãi suất vay, chưa phản ánh tỷ suất sinh lời của bản thân dự án phải sử dụng chỉ tiêu IRR thì mới cho biết được điều đó. Nếu như không sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy sẽ không cho ta kết luận chính xác về dự án có còn hiệu quả hay không khi những nhân tố ảnh hưởng đến dự án thay đổi theo chiều hướng tiêu cực.
Trong phương pháp phân tích độ nhạy khi thẩm định dự án đầu tư ngành Điện, Nếu như dự án “Đường dây 220KV Cát Lái – Nhà Bè” chỉ vay có 60 tỷ đồng nên có thể chỉ cần xem xét sự thay đổi của 2 chỉ tiêu IRR, NPV; nhưng với các dự án sản xuất điện, dự án truyền tải và phân phối điện lớn hơn nữa thì MBHK nên xem xét thêm một số chỉ tiêu khác như thu nhập thuần hay lợi nhuận của dự án, thời gian hoàn vốn. hoặc bổ sung trường hợp thay đổi về số năm xây dựng dự án bị chậm trễ, lãi suất ngân hàng tăng (giảm) . để từ đó có thể định hướng được một cách đúng đắn và chính xác hơn trong việc ra quyết định tài trợ dự án
118 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2034 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thẩm định dự án đầu tư của các Doanh nghiệp ngành Điện tại Ngân hàng TMCP Quân đội – Chi nhánh Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định dự án đầu tư, kể cả những dự án nhỏ. Khi sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy của dự án, cán bộ thẩm định đã xác định được đúng các yếu tố cơ bản mà dự án nhạy cảm hay yếu tố nào gây lên sự thay đổi nhiều nhất của các chỉ tiêu xem xét (IRR, NPV) của các dự án thẩm định nói chung và dự án ngành Điện nói riêng. Điều này góp phần giảm thiểu những rủi ro tiềm ẩn của dự án mà nếu không sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy, cán bộ thẩm định sẽ không thể nhận ra và đánh giá được, có thể dẫn đến những sai lầm làm giảm hiệu quả việc tài trợ dự án.
Thứ sáu: Một số thành tựu khác.
Mặc dù hiện nay chi nhánh MBHK chưa chính thức có phòng quản lý rủi ro tín dụng mà công tác quản lý rủi ro tín dụng này do chính Trưởng/Phó Phòng QHKH và kiểm soát viên đảm nhiệm. Tuy nhiên, Hoạt động quản lý tín dụng tại MB được xây dựng theo chiều dọc đang được hình thành và có quan hệ chặt chẽ với Phòng Quản lý rủi ro tín dụng Hội sở, Việc này khiến, việc quản lý rủi ro tín dụng, ngày càng phát huy những hiệu quả tốt trong việc thẩm định cho vay, kiểm soát chất lượng các khoản vay và cơ cấu nợ…
Công tác thu hồi, xử lý nợ xấu được thực hiện quyết liệt đã đưa tỷ lệ nợ xấu giảm thấp đáng kể so với trước đó từ 2.7% xuống còn 1.01%. Chi nhánh cũng đã nghiêm túc thực hiện chỉ thị 03 và quyết định 18 của Ngân hàng Nhà nước.
Việc sử dụng hệ thông xếp hạng tín dụng nội bộ theo chuẩn mực quốc tế và cùng với sự hỗ trợ của tư vấn giàu kinh nghiệm là Công ty kiểm toán Ernst & Young Việt Nam; hoạt động quản lý rủi ro tín dụng được tăng cường hiệu quả. Từ đó, giúp chi nhánh hoạch định chính sách tín dụng và chính sách quản lý rủi ro tín dụng cho phù hợp, thực hiện việc phân loại nợ. Tiến hành các chương trình an toàn kho quỹ tại hai điểm giao dịch, kiểm tra đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh khác, được thực hiện kịp thời phát hiện các sai sót và đưa ra các ý kiến tham mưu lên hội sở.
Để làm nên những thành công ấy là nhờ sự quan tâm, giúp đỡ, chỉ đạo sát sao của Ban lãnh đạo MB. Bên cạnh đó là ý chí quyết tâm, sức trẻ, tinh thần đoàn kết cũng như sự tâm huyết. lòng say mê và những nỗ lực không ngừng của tập thể cán bộ nhân viên chi nhánh. Ngoài ra, còn là nhờ sự yêu mến và tin cậy của khách hàng.
MB Hoàn Kiếm đã khẳng định được vị trí của mình trong lòng khách hàng và có được sự tin cậy từ phía khách hàng.
MB Hoàn Kiếm cũng đã xây dựng được cho mình một nét văn hóa riêng. tạo được môi trường làm việc năng động. thân thiện. góp phần xây dựng MB ngày một “ Vững vàng – Tin cậy”. khẳng định vị trí hàng đầu trong khối ngân hàng thương mại.
Riêng đối với các dự án đầu tư ngành Điện, thì hiện nay tại MBHK đang chiếm tỷ trọng lớn về số lượng và chất lượng dự án, cũng tổng vốn Đâu tư trên tổng số dự án đầu tư mà MBHK đã tiến hành thẩm định. Đồng thời, chất lượng thẩm định các dự án ngành Điện tại MBHK cũng tương đối đồng đều, không phân biệt là dự án Điện hàng chục tỷ đồng hay dự án Điện hàng trăm tỷ đồng. Điều nay cho thấy ý thức cũng như tinh thần trách nhiệm của Cán bộ thẩm định tại MBHK rất tốt.
Những thành công kể trên xuất phát từ một chiến lược nhất quán, những mục tiêu đã được hoạch định và những giải pháp linh hoạt được điều chỉnh phù hợp qua từng giai đoạn. Có thể nói nguyên nhân của những thành công trong những năm vừa qua của MBHK xuất phát từ các chương trình tập trung đầu tư cho nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản trị, đầu tư vào công nghệ, mở rộng kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm…
1.2.4.2. Những tồn tại trong thẩm định dự án ngành Điện.
Bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác thẩm định dự án nói chung và công tác thẩm định dự án ngành Điện nói riêng tại MBHK còn tồn tại không ít những hạn chế.
Thứ nhất: Cán bộ thẩm định tại MBHK chưa tốt về kỹ năng thẩm định dự án; còn hạn chế về hiểu biết và kỹ thuật chuyên môn đối với các dự án ngành Điện.
Đa số cán bộ thẩm định cũng như đội ngũ nhân viên trong ngân hàng đều có trình độ từ đại học trở lên, tuy nhiên đa số họ là đội ngũ trẻ, chưa nhiều kinh nghiệm thực tế về dự án, về thương trường. Mặt khác các cán bộ thẩm định tại chi nhánh MBHK mới chỉ được đào tạo trong lĩnh vực kinh tế, chưa được đào tạo cơ bản về kỹ thuật. Thiếu kiến thức về lĩnh vực này nên khía cạnh thẩm định kỹ thuật đối với những dự án lớn thường phải đi thuê các chuyên gia tư vấn điều này gây ra nhiều hạn chế đối với công tác thẩm định tại chi nhánh.
Mặt khác, hoạt động tài trợ dự án đầu tư mới bắt đầu từ năm 2008, nên số lượng các dự án đầu tư được thẩm định tại MBHK còn rất ít, một số cán bộ thẩm định chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực thẩm định tài trợ dự án đầu tư. Chưa có sự tách biệt giữa cán bộ tín dụng chuyên thẩm định các món vay ngắn hạn, trung hạn với cán bộ thẩm định chuyên thẩm định các dự án đầu tư tại MBHK. Đây cũng là một hạn chế đáng kể trong công tác thẩm định do chính sự hạn chế về năng lực và kinh nghiệm của cán bộ thẩm định tại MBHK. Nhiều trường hợp cán bộ thẩm định quen thẩm định các hồ sơ vay vốn của các doanh nghiệp, thẩm định các món vay ngắn hạn, trung và dài hạn nên khi gặp các dự án đầu tư có quy mô tương đối lớn ; cán bộ thẩm định lúng túng trong quy trình và phương pháp cũng như nội dung thẩm định dự án đầu tư. Các cán bộ thẩm định chưa có nhiều kinh nghiệm tài trợ dự án có thể không xác định được với ngành, lĩnh vực hoạt động của dự án này thì cần thẩm định những nội dung gì ? Phương pháp thẩm định áp dụng đối với dự án đó như thế nào thì phù hợp và hiệu quả nhất ; Trình tự các bước tiến hành thẩm định dự án ra sao và khác gì so với trình tự thẩm định các món vay của doanh nghiệp. Vì vậy, có những trường hợp cán bộ tín dụng đã mượn một tờ trình thẩm định dự án, một phân tích dự án của các cán bộ thẩm định, cán bộ đầu tư trên Hội sở hay các chi nhánh khác làm mẫu, rồi sau đó áp dụng một cách dập khuôn, máy móc quy trình, nội dung và phương pháp của dự án đã được thẩm định (kể cả là dự án đó ở một lĩnh vực hoạt động khác, ngành khác...) vào dự án mình đang tiếp nhận. Việc làm này chắc chắn sẽ có những điểm không phù hợp mà cán bộ thẩm định không nhận ra được. Làm giảm hiệu quả thẩm định dự án đầu tư và có thể đưa ra kết luận phê duyệt chưa chính xác trong quá trình thẩm định dự án đầu tư.
Thứ hai: Nội dung thẩm định tài chính dự án chưa thực sự toàn diện.
Nội dung thẩm định tài chính dự án, việc sử dụng các chỉ tiêu tài chính chưa thực sự có hiệu quả. Điều này đôi khi gây ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của MBHK trong tương lai, kết quả thẩm định tài chính nói chung vẫn chưa cao, việc tính toán các chỉ tiêu tài chính chỉ tập trung chủ yếu vào 3 chỉ tiêu NPV, IRR, thời gian thu hồi vốn… đôi khi còn chưa đủ cơ sở để đưa ra kết luận về tính khả thi và hiệu quả tài chính của dự án. Điều này dẫn đến việc quyết định cho vay một số dự án không có hiệu quả, làm tăng nợ quá hạn và nợ khó đòi của ngân hàng. Một số chỉ tiêu tài chính như: Điểm hòa vốn vay; tỷ số lợi ích / Chi phí (B/C), tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư hoặc hệ số hoàn vốn (RR), chỉ số đánh giá khả năng trả nợ dài hạn … chưa được quan tâm.
Trong thẩm định tài chính dự án, một số chỉ tiêu như NPV, IRR,… được dùng để đánh giá, xếp hạng dự án, tuy đã được đề cập đến nhưng không được MBHK sử dụng một cách thường xuyên, và nếu có thì cũng chỉ dừng lại ở giai đoạn tính toán mà chưa đi sâu vào phân tích mối quan hệ giữa chúng, chưa so sánh với các chỉ tiêu khác. Hơn nữa, giá trị thời gian của tiền không được đề cập đến trong nhiều dự án, Sở giao dịch chú trọng nhiều đến việc tính toán thời gian thu hồi vốn và xác định nguồn trả nợ của dự án mà chưa quan tâm đến vòng đời dự án. Chính vì vậy, MBHK sẽ có thể gặp nhiều khó khăn khi thị trường có biến động về tài chính như lạm phát, đồng tiền mất giá,… Điều này sẽ tác động không nhỏ đến khả năng hoạt động tốt, có hiệu quả của MBHK
Thứ ba: Về phương pháp thẩm định.
Tất cả các dự án gửi đến Ngân hàng xin vay vốn đều được tiến hành thẩm định, tuy nhiên chất lượng thẩm định không đồng đều. Bên cạnh những dự án được xem xét nghiêm túc và toàn diện vẫn còn không ít những dự án mà việc thẩm định chỉ mang tính xem xét hời hợt, trong nhiều dự án Ngân hàng chỉ dựa vào phương pháp phân tích hiệu quả kinh tế đơn giản như tính lãi ròng mà dự án đem lại trong một năm nhất định, thời hạn thu hồi vốn vay và số tiền thu một năm bỏ qua phương pháp phân tích giá trị hiện tại NPV,IRR hoặc nếu có cũng chỉ là hình thức. Đây là phương pháp xác định hiệu quả đầu tư tương đối chính xác vì nó có tính đến yếu tố thời gian của tiền, đến thời gian hoạt động của dự án. Nhiều dự án Ngân hàng chỉ thẩm định trong mấy năm đầu khi dự án đi vào hoạt động khi mà doanh nghiệp vẫn còn nợ Ngân hàng, còn thời gian sau đó dự án có lãi hay lỗ thì Ngân hàng lại không xem xét đến. Hiệu quả của hoạt động đầu tư tín dụng không chỉ được xem xét ở việc nó mang lại lợi nhuận cho ngân hàng mà còn xem xét cả ở việc nó đem lại lợi nhuận gì cho doanh nghiệp vay vốn nữa. Đôi khi kết luận về hiệu quả của dự án được cán bộ thẩm định đưa ra chỉ dựa trên khả năng trả nợ, trên việc phân tích thị trường, trên mối quan hệ của Ngân hàng với doanh nghiệp vay vốn mà chưa thực sự chú ý đến bản thân dự án.
Việc phân tích thị trường sản phẩm của nhiều dự án vẫn còn sơ sài đánh giá còn mang tính hình thức. Trong phân tích kỹ thuật của dự án, Ngân hàng hầu như không có kinh nghiệm, chủ yếu vẫn dựa vào phần phân tích trong luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án do doanh nghiệp gửi đến. Nên nhiều khi ngân hàng đã không xác định được chính xác tiên tiến phù hợp của máy móc thiết bị của từng dự án.
Thứ tư: Độ chính xác, tin cậy của nguồn thông tin còn nhiều hạn chế.
Nguồn thông tin mà cán bộ thẩm định sử dụng để thẩm định dự án còn nhiều hạn chế, độ tin cậy chưa cao. Nguồn dùng trong thẩm định vẫn chủ yếu là do Doanh nghiệp cung cấp cho MBHK, chính bản thân cán bộ thẩm định cũng gặp nhiều khó khăn trong việc xác định lại độ chính xác và cập nhật của các thông tin này. Tình hình chung hiện nay là một số doanh nghiệp nhà nước quyết toán và duyệt quyết toán chậm. Số tiền quyết toán chưa được kiểm toán nên việc phân tích tình hình tài chính của các doanh nghiệp căn cứ vào báo cáo của các doanh nghiệp cung cấp thường chỉ có tính tương đối. Ngoài ra một số doanh nghiệp tư nhân thường lên đồng thời 2 cân đối lỗ riêng và lãi riêng. Để đối phó với cơ quan thuế tài chính thì doanh nghiệp sẽ sử dụng cân đối lỗ để chịu thuế thấp đối với ngân hàng xin vay vốn thì doanh nghiệp lại sử dụng cân đối lãi. Do đó ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong quá trình thẩm định tài chính của doanh nghiệp. Nguồn thông tin này không được các cơ quan độc lập chứng nhận, do đó dễ gây ra tình trạng gian lận từ phía khách hàng để việc vay vốn của mình được thuận lợi hơn, dễ gây ra sai lệch trong quá trình đánh giá hiệu quả tài chính của sự án và nhầm lẫn trong quyết định cho vay của MBHK.
Thứ năm: Chưa có sự phân tích sâu về rủi ro của dự án đầu tư.
Trong báo cáo thẩm định dự án đầu tư nói chung và dự án ngành Điện nói riêng, mới chỉ tập trung vào việc mô tả và phân tích các số liệu chứ chưa tập trung nhiều nhiều vào việc phân tích rủi ro của Dự án đầu tư. Các dự án ngành Điện là dự án thường có quy mô lớn, phải có quá trình xây dựng và thử nghiệm, vận hành. Nên tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có những rủi ro mà CV QHKH cũng như cán bộ Quản lý tín dụng không thể nhận biết được ; Đồng thời, các dự án Điện hiện nay tại MBHK đều nằm ở vùng sâu, khó khăn trong vấn đề đi lại và quản lý tiến trình thi công dự án. Đây chính là một vấn đề đặt ra cho các nhà Quản lý rủi ro tín dụng và các Cán bộ thẩm định để quy chuẩn hóa công tác thẩm định đối với riêng các dự án ngành Điện, giảm thiểu rủi ro có thể gặp phải.
Thứ sáu: Hệ thống trang thiết bị, phần mềm chưa được khai thác triệt để.
Hệ thống máy tính – trang thiết bị tuy đã được trang bị đầy đủ nhưng các tính năng vẫn chưa được khai thác triệt để mới chủ yếu dùng để soạn thảo và tính toán mà chưa sử dụng các phần mềm hiện đại vào phân tích dự báo, chưa sử dụng một hệ thống quản trị dữ liệu đa dạng và đủ mạnh để quản lý việc lưu trữ thông tin
Chúng ta đã nghiên cứu và chỉ ra một số hạn chế trong công tác thẩm định dự án cũng như thẩm định dự án tại MBHK. Vậy nguyên nhân gây ra những hạn chế đó là gì? Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu, tìm hiểu kỹ hơn về nguyên nhân gây ra các hạn chế đó.
Thứ bảy: Việc định giá TSĐB đôi khi mang tính chủ quan.
Đối với nhiều dự án xây dựng nói chung và dự án đầu tư phát triển ngành Điện nói riêng, phần Tài sản đảm bảo ngoài phần thế chấp tài sản hiện có của chủ đầu tư, thì còn phần lớn là chính việc thế chấp các tài sản hình thành từ vốn vay. Chính vì vậy, việc đánh giá tài sản đảm bảo, thế chấp CV QHKH gặp khá nhiều khó khăn. Và đây cũng là khâu tiềm ẩn nhiều rủi ro của món vay dài hạn đối với các dự án ngành Điện. Hiện nay chi nhánh chưa có đội ngũ cán bộ chuyên sâu về việc định giá tài sản thế chấp. Do đó, việc định giá tài sản thế chấp đôi khi không chính xác, nên ngân hàng dễ gặp phải rủi ro về khả năng luân chuyển khi phát mại tài sản thế chấp.
1.2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại.
Những hạn chế trong công tác thẩm định tài chính dự án tại MBHK là do sự tác động của nhiều nguyên nhân, tuy nhiên chúng ta có thể quy gọn chúng vào hai nhóm nguyên nhân chính như sau: Nguyên nhân khách quan và Nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân khách quan.
Hệ thống thông tin trong nền kinh tế giúp cho công tác thẩm định tài chính dự án chưa có hệ thống, thiếu tính cập nhật và độ chính xác cần thiết. Các Ngân hàng vẫn phải dựa vào các nguồn thông tin từ phía khách hàng là chủ yếu mà đa số các nguồn thông tin đó thiếu tính khách quan cần thiết, và nhiều khi cán bộ thẩm định còn gặp nhiều khó khăn trong việc thẩm định lại tính chuẩn xác của các nguồn thông tin đó.
Tình trạng lập dự án thiếu tính chính xác, thiếu căn cứ khoa học của chủ đầu tư đã làm cho công tác thẩm định gặp không ít khó khăn để có thể đánh giá một cách chính xác nhất các dự án đó. Một số các chủ đầu tư khi lập dự án thường chỉ tập trung vào một số những nội dung chính mang tính nghiên cứu chủ đạo, thiếu sự hợp lý cần thiết và rất chiếu lệ. Điều này một phần là do sự thiếu hụt về thông tin cũng như sự hạn chế về công nghệ, một phần cũng là do trình độ còn hạn chế của các cán bộ quản lý ở các Doanh nghiệp. Hạn chế này cũng là một nguyên nhân khách quan tác động đến quá trình hoàn thiện công tác th tài chính dự án của Ngân hàng.
Tình hình thị trường giá cả nói chung, thị trường giá cả tiền tệ nói riêng tuy đã có sự ổn định tương đối nhưng vẫn còn không ít khó khăn, nhiều bất ổn đã gây ảnh hưởng xấu đến công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư do quy trình thẩm định vẫn chưa thực sự quan tâm đến giá trị của đồng tiền qua các thời kỳ.
Môi trường Pháp lý trong hoạt động tín dụng ngân hàng còn nhiều bất cập. Một số cơ chế chính sách, các Quyết định - Nghị định, các văn bản chế độ luật của ngân hàng còn nhiều kẽ hở dễ bị khai thác trong quá trình thực hiện các mối quan hệ tín dụng của Doanh nghiệp với Ngân hàng.
Nguyên nhân chủ quan.
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan ở trên, những nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng cũng là những nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến công tác thẩm định dự án tại MBHK. Có một số nguyên nhân chủ quan sau:
Hệ thống tổ chức, quản lý điều hành thẩm định dự án còn chưa hoàn chỉnh và hạn chế. Mặc dù MBHK đã thành lập Phòng thẩm định và phòng quản lý rủi ro tín dụng riêng nhưng do mới được thành lập, lượng cán bộ có kinh nghiệm và trình độ cao còn ít nên chưa thực sự phát huy được hiệu quả lớn. Mặt khác, tuy phòng quản lý rủi ro đã được lập nhưng chưa có cán bộ phụ trách mà chỉ do ban kiểm soát đảm nhận nhiệm vụ này, và nếu vượt mức phán quyết thì phải lên đến phòng tái thẩm định và quản lý tín dụng trên Hội sở; Gây mất nhiều thời gian và giảm thiểu hiệu quả của một số dự án, đồng thời tiềm ẩn những rủi ro. Hiện nay, MBHK đang đề nghị Hội sở cử cán bộ quản lý rủi ro tín dụng về chi nhánh và đã có quyết định bổ nhiệm các bộ vào tháng 4/2009.
Đội ngũ cán bộ thẩm định đa số còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn, chỉ mới nghiên cứu công tác thẩm định dự án qua tài liệu tự nghiên cứu, tự tham khảo mà không được đào tạo một cách bài bản.
Việc áp dụng trang bị hiện đại cho công tác thẩm định còn nhiều hạn chế. Mặc dù MBHK đã và đang được trang bị hệ thống máy tính khá đầy đủ nhưng do năng lực còn nhiều hạn chế nên các cán bộ thẩm định chưa khai thác được hết các công dụng của hệ thống máy tính trong công việc của mình, chưa ứng dụng được thành thạo các phần mềm chuyên dụng trong công tác thẩm định.
Nói tóm lại, trong thời gian qua, bên cạnh những thành tựu thu được thì MBHK cũng gặp phải không ít khó khăn, hạn chế trong công tác thẩm định dự án cũng như thẩm định tài chính dự án. Để hoàn thiện công tác thẩm định dự án trong thời gian tới, MBHK phải có được các giải pháp kịp thời và nhanh chóng, phù hợp với NH TMCP Quân đội, từng bước nâng cao chất lượng của công tác thẩm định và giúp MBHK cũng như Ngân hàng TMCP Quân đội có được một công cụ tốt nhất để có thể hoạt động – kinh doanh đạt hiệu quả cao, phát triển vững mạnh trong tương lai.
Chương 2:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐỐI VỚI CÁC DN NGÀNH ĐIỆN TẠI MBHK TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1. ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA CHI NHÁNH
Với những biến động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu như hiện nay. dự kiến trong thời gian tới sẽ có thêm nhiều biến động phức tạp. Trước những thức thách đó. MB lựa chọn mục tiêu và định hướng phát triển trong thời gian tới là:
Ổn định. tập trung mọi nguồn lực để vượt qua thử thách. chuẩn bị cho sự tăng trưởng. thực hiện tốt mục tiêu đến hết năm 2010 đã được đại hội thông qua. Bên cạnh những giải pháp tăng cường kiểm soát. hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh. MB đã. đang và sẽ nỗ lực để cải tổ và tái cấu trúc. tăng năng lực tài chính. năng lực quản trị. tiếp tục đầu tư công nghệ. xây dựng MB hướng tới tăng trưởng bền vững của một tập đoàn tài chính trong tương lai.
Theo kế hoạch đến năm 2010 đã được Đại hội cổ đông thông qua. Vốn điều lệ của MB sẽ là 7.300 tỷ đồng. Để hoàn thành các mục tiêu đã định. MB sẽ tập trung cho các chương trình mang tính chất quyết định:
2.1.1. Hoàn thiện chiến lược:
Trên cơ sở đánh giá chiến lược phát triển và tái cơ cấu MB. tiếp tục hoàn thiện chiến lược phát triển đến 2010. tầm nhìn 2015 để đưa MB thành một tập đoàn tài chính có thương hiệu hàng đầu ở Việt Nam.
2.1.2. Tái cơ cấu mô hình tổ chức:
Tiến hành đánh giá mô hình tổ chức hiện tại để hoàn thiện. bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của MB trong tương lai theo hướng tổ chức khoa học. nâng cao năng lực quản trị rủi ro. đáp ứng yêu cầu mở rộng kinh doanh trên hai mảng: Thị trường Ngân hàng truyền thống và Ngân hàng đầu tư; hướng tới khách hàng. đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động hiệu quả và tăng trưởng bền vững.
2.1.3. Củng cố Tổ chức – Nhân sự:
Tập trung hoàn thiện chiến lược nhân sự. xác định Tổ chức – Nhân sự là vấn đề trọng tâm hàng đầu trong 2 năm tới. Tổ chức lại các khối. cơ quan Hội sở. chuẩn hóa lại mô hình tổ chức của hệ thống…
2.1.4. Tiếp tục hoàn thiện dự án công nghệ thông tin:
Khai thác một cách có hiệu quả những ưu việt cảu hệ thống Corebanking (T24): đầu tư tiếp các module về quản trị kinh doanh. tài chính và nhân sự. Tích cực phát triển hệ thống kênh phân phối bao gồm các điểm giao dịch. hệ thống ATM. POS. kênh ngân hàng điện tử …
Phát triển các sản phẩm mới như dịch vụ thanh toán và thương mại điện tử. hệ thống chuyển mạch và quản lý thẻ.
Đẩy mạnh phát triển thương hiệu MB trên toàn quốc. đặc biệt ở khu vực phía Nam. Nâng cao chất lượng dịch vụ. chuẩn hóa phong cách phục vụ của nhân viên theo hướng chuyên nghiệp. Duy trì và phát triển văn hóa doanh nghiệp.
2.1.5. Phát triển quy mô MB:
Chuẩn bị các điều kiện để hướng MB thành một tập đoàn tài chính. trước mắt: Tổ chức cơ quan tư vấn để hỗ trợ MB và các thành viên về hoàn thiện chiến lược. mở rộng quan hệ, phát triển công nghệ, hợp tác đầu tư, tìm kiếm giải pháp phát triển kinh doanh…
Nghiên cứu đề án thành lập công ty cho thuê Tài chính theo hướng liên doanh.
2.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN CÁC DN NGÀNH ĐIỆN TẠI MBHK
Trong bối cảnh thị trường cạnh tranh như hiện nay, cộng với sự biến động không ngừng của nền kinh tế Thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng đã có ảnh hưởng rất lớn đến lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng, sức cạnh tranh ngày càng gia tăng và đòi hỏi của thị trường ngày một gắt gao hơn MB nói chung và MB Hoàn Kiếm không phải là ngoại lệ trước những thử thách khốc liệt đó. Đứng trước vấn đề này MB Hoàn Kiếm cần đưa ra một số giải pháp để giữ vững vị thế của mình. tiến tới tăng trưởng ổn định; Đồng thời cũng cần có một số giải pháp nhất định để định hướng phát triển trong thời kỳ khủng hoảng và các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác thẩm định và nâng cao chất lượng thẩm định các dự án đầu tư đặc biệt là các dự án đầu tư của các Doanh nghiệp ngành Điện tại MBHK.
2.2.1. Khai thác hiệu quả và nâng cao chất lượng hệ thống thông tin.
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng của các ngân hàng rất đa dạng và phức tạp từ các doanh nghiệp nhà nước đến doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các hộ gia đình, yếu tố đầu tiên mà các doanh nghiệp dựa vào để có quyết định đầu tư vốn hay không đó chính là sự hiểu biết nhất định về khách hàng và dự án vay vốn. Mức độ hiểu biết về khách hàng cũng như về dự án vay vốn phụ thuộc vào lượng thông tin thu thập được. Có thể nói thông tin là cơ sở để cán bộ thẩm định tiến hàng các bước phân tích và đánh giá thẩm định dự án vay vốn. Thông tin đầy đủ nhiều chiều với độ tin cậy cao có ảnh hưởng lớn đến kết quả thẩm định. Để thẩm định một dự án cho vay vốn đòi hỏi ngân hàng cần thu thập các thông tin cần thiết về khách hàng vay vốn, dự án đầu tư, thị trường tiêu thụ…Ngoài ra còn có thông tin liên quan đến quá trình đầu tư xây dựng cơ bản và quá trình sản xuất kinh doanh.
Việc tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế, việc chấm điểm tín dụng nội bộ, đánh giá các chỉ tiêu tài chính hay các chỉ tiêu phi tài chính…đều được thực hiện trên cơ sở những thông tin mà cán bộ thẩm định ngân hàng thu thập được, nếu những thông tin đó là chính xác thì kết quả mà các chỉ tiêu này phản ánh là đáng tin cậy, ngược lại cho dù việc tính toán các chỉ tiêu này có đưa ra kết quả rất cao nhưng bản thân nó lại dựa vào những nguồn thông tin không trung thực thì kết quả đó sẽ không có ý nghĩa gì, có thể nó sẽ đưa ngân hàng đến những quyết định sai lầm khi cho vay vốn. Do vậy việc thu thập thông tin là điều rất cần thiết để nâng cao chất lượng thẩm định các dự án đầu tư tại MB.
Trước đây, nguồn thông tin của ngân hàng chủ yếu chỉ lấy từ doanh nghiệp, thông thường cán bộ tín dụng căn cứ vào các báo cáo tài chính, báo cáo khả thi của dự án do doanh nghiệp cung cấp để tiến hành đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp vay vốn. Song rất khó xác định được độ chính xác của các báo cáo đó vì theo chế độ hạch toán hiện nay các doanh nghiệp đều là những đơn vị hạch toán độc lập, kết quả thu nhập của họ có liên quan đến phần thuế mà doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước, cho nên thu nhập thực tế của họ thường không được phản ánh đúng nó thường lớn hơn so với các số liệu mà doanh nghiệp đưa ra cho các cơ quan thuế. Khi lập dự án đầu tư xin vay vốn ngân hàng, các doanh nghiệp đều muốn vay vốn mà tính toán hiệu quả của đầu tư không phản ánh đúng thực chất của dự án, khai giảm chi phí và tăng thu nhập, giảm những rủi ro tiềm ẩn. Như vậy khi khách hàng cung cấp thông tin không chính xác sẽ dẫn đến kết quả tín dụng của ngân hàng thiếu chính xác
Hiện nay, hệ thống thông tin của MBHK tuy đã phát triển song vẫn chưa hoàn thiện và còn tồn tại những hạn chế nhất định; đây là nguyên nhân gây ra một số hạn chế trong công tác thẩm định dẫn đến một số dự án chưa đem lại hiệu quả mà còn tạo ra nợ xấu cho ngân hàng. Do đó, việc nâng cao chất lượng thu thập thông tin và hoàn thiện việc xử lý thông tin là nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư. Cụ thể:
Gia tăng nguồn cung cấp thông tin, đồng thời phải tìm cách chuẩn hóa độ chính xác của các thông tin, xử lý lưu trữ thông tin một cách hữu hiệu.
Ngoài trung tâm thông tin tin dụng CIC của Ngân hàng Nhà nước, NHQĐ cũng nên thành lập thêm trung tâm nghiên cứu thông tin tín dụng, NHQĐ cần thành lập tổ nghiên cứu riêng về các chủ đầu tư lớn mà trong tương lai sẽ phát sinh nhiều quan hệ với NHQĐ.
Đưa ra các báo cáo nghiên cứu tổng hợp các thông tin về ngành Điện (tổng quan chung về các doanh nghiệp ngành Điện; tình hình cung, cầu, sản phẩm, giá thành sản phẩm trong hiện tại và dự kiến trong tương lai; các rủi ro và biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro đối với các dự án Điện; chiến lược phát triển của ngành trong thời gian tới; …) cũng như các ngành khác mà NHQĐ đã, đang và sẽ thực hiện. Các báo cáo này mang tính chất nghiên cứu sâu và đảm bảo độ chính xác. Để từ đó, nghiên cứu thêm về tính phù hợp của nội dung, phương pháp các dự án đã thẩn định. Phân tích những điểm đã được và chưa được trong công tác thẩm định dự án Điện; thử nghiệm phân tích và thẩm định theo những hướng tiếp cạnh khác về nội dung cũng như phương pháp thẩm định; qua đó có thể tìm ra những cách thức thẩm định phù hợp và hiệu quả hơn của riêng các dự án ngành Điện. Các nghiên cứu chính xác sẽ là tiền đề để cán bộ thẩm định dự án ngành Điện có thể đưa ra những quy trình chuẩn tắc dành riêng cho dự án ngành Điện, vì thực tế hiện nay, NHQĐ vẫn chưa xây dựng được một quy trình thống nhất chung và riêng cho các doanh nghiệp ngành Điện. Quy trình cũng như nội dung mà NHQĐ áp dụng trong thời gian mới chỉ là quy trình tín dụng chung áp dụng đối với hầu hết các dự án đầu tư, và căn cứ vào dự án Điện cụ thể tại chi nhánh mà cán bộ thẩm định và ban lãnh đạo chi nhánh tự đề xuất quy trình thẩm định đó, song đều mang tính tạm thời và chưa xây dựng hoàn thiện thành một quy trình thống nhất dành riêng cho việc thẩm định các dự án đầu tư ngành Điên. Việc này sẽ giúp việc đánh giá, thẩm định các dự án ngành Điện trở nên hiệu quả hơn, chất lượng thẩm định các dự án đầu tư nói chung và dự án đầu tư ngành Điện nói riêng được nâng cao hơn nữa.
Điều quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi mà mỗi cán bộ tín dụng lại đang phụ trách một mảng khách hàng, thì chính các cán bộ tín dụng phải thường xuyên lưu ý vấn đề thu thập và lưu trữ thông tin một cách khoa học những ngành nghề do mình phụ trách, theo dõi sát sao đến quá trình hoạt động của các chủ đầu tư.
2.2.2. Bổ sung số lượng, nâng cao thái độ, ý thức trách nhiệm của cán bộ thẩm định.
Trong công tác thẩm định một trong những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định là trình độ cán bộ. và có ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thẩm định dự án đầu tư. Để nâng cao trình độ và năng lực của cán bộ tín dụng cần phải có sự nỗ lực của hai bên: chi nhánh và năng lực của cán bộ tín dụng. Đội ngũ cán bộ tín dụng muốn thực hiện tốt công tác thẩm định phải thoả mãn những yêu cầu về trình độ kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp.
2.2.2.1. Tuyển chọn nhân sự đầu vào có chất lượng cao
Trong thời gian qua, đa số đội ngũ nhân viên được tuyển chọn vào NH TMCP Quân đội đều có trình độ chuyên môn tương đối cao, tuy nhiên trong thời gian tới ngân hàng nên chú ý tiếp tục thực hiện công tác bổ sung, tuyển mới những người có năng lực thực sự vào làm việc. Cán bộ được tuyển chọn cần có sự kết hợp hài hoà giữa năng lực chuyên và tư cách đạo đức. Sau khi tuyển dụng, ngân hàng cần phổ biến để mỗi cán bộ đều nắm bắt được các mục tiêu, các quy định của ngân hàng cũng như các quy định của luật pháp có liên quan, đồng thời cần được hướng dẫn, đào tạo chuyên sâu cho họ về công việc sẽ được giao
Ngân hàng cũng cần có các chính sách thu hút nhân tài vào làm việc lâu dài hoặc mời làm cố vấn hoặc làm cộng tác viên cho các hoạt động của mình
Đào tạo, trao đổi chuyên môn
Ngân hàng nên mở các lớp đào tạo, tổ chức các buổi hội thảo, mời các chuyên gia về nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm với các ngân hàng bạn, tìm nguồn tài liệu cho cán bộ tham khảo. Bên cạnh khuyến khích động viên cán bộ tự trau dồi kiến thức, ngân hàng có thể cử những nhân viên có đủ năng lực đi đào tạo ở nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định, từ đó giúp cán bộ có điều kiện học hỏi, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ.
2.2.2.2. Giáo dục về nhận thức, tư cách đạo đức
Ngân hàng TMCP Quân đội cần thường xuyên giáo dục về ý thức, đạo đức và kỷ luật nghề nghiệp cho các cán bộ của mình để họ nhận thức được vai trò và ý nghĩa to lớn của công tác thẩm định dự án, đồng thời có ý thức tự giác, trung thực và tinh thần trách nhiệm cao hơn
Ngân hàng cũng nên có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với nhân viên, kịp thời khen thưởng về vật chất lẫn tinh thần đối với các cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời phát hiện ra những biểu hiện sa sút về đạo đức để kịp thời uốn nắn. Xử lý nghiêm minh đối với các cán bộ có hành vi tiêu cực, vô tình hay cố ý làm trái các quy định chung dẫn đến những thiệt hại cho ngân hàng.
Việc làm tốt công tác thẩm định không chỉ phụ thuộc vào bản thân mỗi cán bộ thẩm định mà còn phải có sự kiểm tra, giám sát thường xuyên của ngân hàng. Do vậy ngân hàng cũng phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát, lựa chọn và đào tạo các cán bộ thanh tra có năng lực, có phẩm chất tốt và có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng.
Trong quá trình công tác: Hàng tháng, quý ngân hàng cần tiến hành tổ chức các buổi tổng kết hoạt động trong tháng, quý ở đó cán bộ tín dụng sẽ đưa ra các vướng mắc gặp phải trong quá trình thẩm định của mình từ đó đúc kết kinh nghiệm cho các lần sau. Đây cũng là một trong những biện pháp giúp cho cán bộ thẩm định học hỏi lẫn nhau, bổ sung thêm kiến thức kinh nghiệm cho mỗi người trong công việc thẩm định.
Thường xuyên tổ chức các lớp học ngắn hạn nhằm bồi dưỡng những kiến thức mới nhất chuyên sâu về thẩm định dự án do các chuyên viên trong và ngoài nước giảng dạy cho các cán bộ đang làm công tác thẩm định tại MBHK. Tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ đi học tập nghiên cứu dài hạn, giúp cho cán bộ thẩm định cập nhật những thông tin mới về phương pháp thẩm định, đồng thời tạo điều kiện để cán bộ thẩm định tự nâng cao trình độ nghiệp vụ của mình. Ngân hàng cần bổ sung thêm các kỹ sư có trình độ chuyên môn cao nhằm chủ động nắm bắt được những thông tin về mặt kỹ thuật của dự án về máy móc thiết bị, chứ không chỉ thụ động tiếp nhận những thông tin về mặt kỹ thuật của dự án do doanh nghiệp cung cấp.
Ngân hàng cần gắn trách nhiệm vật chất với hiệu quả của công tác thẩm định, bởi quá trình ký duyệt, xét duyệt các dự án đầu tư đều căn cứ trên tài liệu do cán bộ thẩm định đưa ra, có thể đem lại hiệu quả cao cũng có thể gây ra những tổn thất lớn cho ngân hàng. Do đó ngân hàng cần phải có những chính sách ưu đãi khen thưởng thoả đáng đối với những cán bộ tín dụng giỏi, làm việc có trách nhiệm hiệu quả công việc cao, đồng thời cần kỷ luật nghiêm minh đối với những cán bộ thẩm định có hành vi tiêu cực gây hậu quả xấu cho ngân hàng.
Ngân hàng cần có những chính sách khuyến khích sự năng động sáng tạo, tạo điều kiện phát huy tối đa năng lực của các cán bộ thẩm định trẻ.
Ngân hàng cần phân công các cán bộ tín dụng giỏi, có kinh nghiệm kèm cặp những cán bộ trẻ ít kinh nghiệm đây là cách thiết tực nhất để kết hợp giữa lý thuyết với thực tiễn của các cán bộ trẻ.
2.2.2.3. Chuyên môn hoá hơn nữa trong công tác thẩm định.
Trong hoạt động kinh doanh chyên môn hoá được coi là một yêu cầu cần thiết để có hiệu quả cao hơn khi mà quy mô và trình độ công nghệ đã đạt đến mức độ nhất định. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn đối với công tác thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng. Như ta đã biết thẩm định là một công việc phức tạp nó ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của hoạt động đầu tư tín dụng tại Ngân hàng, đòi hỏi các cán bộ thẩm định phải tiến hành thẩm định trên tất cả các phương diện: Tư cách pháp lý năng lực tài chính của doanh nghiệp vay vốn, các mặt thị trường tiêu thụ sản phẩm, kỹ thuật của dự án, nội dung hiệu quả tài chính hiệu quả kinh tế xã hội của dự án. Để tiến hành những công việc trên cần phải có những cán bộ có kiến thức chuyên sâu vào từng lĩnh vực.
Trước mắt, MBHK nên có sự phân tách rõ ràng giữa cán bộ thẩm định dự án đầu tư với cán bộ tín dụng cho vay Doanh nghiệp, vay tiêu dùng, bảo lãnh… Đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ thẩm định các dự án đầu tư lớn cho các cán bộ thẩm định, để từ đó, dần thành lập tổ Dự án chỉ chuyên tập trung về mảng dự án đầu tư, có thể chịu trách nhiệm cả công tác thẩm định lẫn quản trị rủi ro. Đồng thời trong Tổ dự án lại chia từng mảng cụ thể do từng người phụ trách để lại tiếp tục được cử đi đào tạo chuyên sâu về mảng mình phụ trách.
Mặt khác, mỗi người đều có điểm mạnh, điểm yếu riêng nên một người không thể có những hiểu biết đầy đủ về các khía cạnh của dự án như có những cán bộ tín dụng rất giỏi trong lĩnh vực thẩm định tài chính nhưng lại không hiểu biết nhiều về mặt công nghệ kỹ thuật của dự án. Ngân hàng cần phải tiến hành phân công từng công việc cho mỗi cán bộ thẩm định để họ đi chuyên sâu về một mảng nào đó phát huy tối đa những điểm mạnh của họ, nâng cao sức mạnh tập thể trong việc thẩm định dự án, giúp cho công tác thẩm định của Ngân hàng được xem xét một cách kỹ lưỡng ở tất cả mọi khía cạnh, từ đó tổng hợp các kết luận từ các cán bộ thẩm định để đưa ra những ý kiến đúng đắn tới ban lãnh đạo Ngân hàng để quyết định có cho vay vốn hay không. Việc thực hiện chuyên môn hoá đối với từng cán bộ thẩm định phải được thực hiện đồng thời với việc phân loại khách hàng.
Làm được những điều ở trên, công tác thẩm định dự án của NHQĐ chắc chắn sẽ đạt hiệu quả cao hơn và mức độ chính xác hơn trong thời gian tới.
2.2.2.4. Giải pháp khác.
Cần hạn chế thay đổi cán bộ tín dụng thẩm định và phụ trách cho vay đối với từng khách hàng, bởi trong quá trình thẩm định có những thông tin không được lưu trữ bằng văn bản hay bằng bất kỳ phương tiện lưu tin nào. Trong đó những thông tin do việc đi kiểm tra tình hình thực tế ở doanh nghiệp đóng một vai trò rất quan trọng, những thông tin này được hình thành bằng trực giác và linh cảm nghề nghiệp của các cán bộ trong quá trình tiếp xúc, quan hệ với khách hàng, khi bàn giao giữa các cán bộ tín dụng những thông tin đó có thể bị lãng quên.
2.2.3. Từng bước thực hiện chuyên môn hoá trong thẩm định dự án ngành Điện.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động đầu tư tín dụng nói riêng luôn gắn liền với hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. Đây là mối quan hệ tạo tiền đề và hỗ trợ cho nhau cùng phát triển hoạt động đầu tư tín dụng của NHTM luôn gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của nhà nước. Việc đầu tư tín dụng vào những dự án trung và dài hạn thường kéo theo sự huy động nguồn lực lớn của xã hội cho việc thực hiện mục tiêu cụ thể nào đó. Chính sự huy động này nếu đạt hiệu quả sẽ đem lại lợi ích lớn cho bản thân ngân hàng, doanh nghiệp cũng như toàn xã hội ngược lại nó có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Nên đầu tư tín dụng theo dự án phải đảm bảo phương châm lấy hiệu quả chung của nền kinh tế và hiệu quả riêng của khách hàng làm mục đích hoạt động. Hoạt động kinh doanh của MBHK cũng không nằm ngoài phương châm đó, nên khi tiến hành thẩm định dự án đầu tư không chỉ thẩm định đến những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của chi nhánh như khả năng trả nợ và thời gian thu hồi vốn mà cần phải quan tâm đến các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả riêng của doanh gnhiệp và hiệu quả chung của nền kinh tế.
Trong đầu tư tín dụng ngân hàng cần tiến hành kiểm tra sự hoạt động của dự án, giám sát việc sử dụng vốn vay, quá trình kinh doanh, tình hình sử dụng bảo quản tài sản thế chấp. Chi nhánh cần tiến hành xây dựng riêng cho mình một quy trình thẩm định cụ thể, cập nhật các phương pháp tính toán các chỉ tiêu mới giúp cho ngân hàng nâng cao được chất lượng cuả công tác thẩm định dự án đầu tư. Có thể định kỳ phân tích tình hình tài chính của dự án để có những yêu cầu giúp đỡ đề ra những phương án thu hồi vốn nếu dự án không đem lại hiệu qủa như mong muốn.
Khi phân tích về mặt tài chính của dự án cần phải hoàn thiện hơn nữa các chỉ tiêu phân tích hiệu quả tài chính của dự án. Không chỉ tính toán đến các chỉ tiêu phản ánh mức sinh lời và nguồn trả nợ của dự án mà còn cần phải quan tâm đến mức độ an toàn của dự án. Không chỉ đơn thuần sử dụng các chỉ tiêu phân tích giản đơn mà phải sử dụng phân tích tài chính bằng giá trị hiện tại, các chỉ tiêu hiệu quả tài chính cơ bản cần được sử dụng để thẩm định tất cả các dự án là: NPV,IRR, phân tích độ nhạy của dự án. Khi thẩm định tài chính của bất kỳ dự án vay vốn trung và dài hạn nào cần phải tính toán đầy đủ, chính xác 3 chỉ tiêu trên mới có thể đánh giá chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp, vì nếu chỉ sử dụng một chỉ tiêu NPV thì mới chỉ phản ánh quy mô lãi của dự án, NPV còn phụ thuộc lãi suất vay, chưa phản ánh tỷ suất sinh lời của bản thân dự án phải sử dụng chỉ tiêu IRR thì mới cho biết được điều đó. Nếu như không sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy sẽ không cho ta kết luận chính xác về dự án có còn hiệu quả hay không khi những nhân tố ảnh hưởng đến dự án thay đổi theo chiều hướng tiêu cực.
Trong phương pháp phân tích độ nhạy khi thẩm định dự án đầu tư ngành Điện, Nếu như dự án “Đường dây 220KV Cát Lái – Nhà Bè” chỉ vay có 60 tỷ đồng nên có thể chỉ cần xem xét sự thay đổi của 2 chỉ tiêu IRR, NPV; nhưng với các dự án sản xuất điện, dự án truyền tải và phân phối điện lớn hơn nữa thì MBHK nên xem xét thêm một số chỉ tiêu khác như thu nhập thuần hay lợi nhuận của dự án, thời gian hoàn vốn... hoặc bổ sung trường hợp thay đổi về số năm xây dựng dự án bị chậm trễ, lãi suất ngân hàng tăng (giảm) ... để từ đó có thể định hướng được một cách đúng đắn và chính xác hơn trong việc ra quyết định tài trợ dự án
Với những dự án sản xuất thì chi nhánh cần phải tiến hành tính toán điểm hoà vốn nhằm xác định công suất huy động tối thiểu cần có để dự án không bị lỗ không mất khả năng thanh toán.
Về cách tính dòng tiền: cần phải tính cho cả đời dự án chứ không chỉ tính trong thời gian dự án còn vay của ngân hàng. Bởi khi tính dòng tiền trả nợ trong dự án là tính cho tương lai, nếu như trong phân tích dự án chỉ có hiệu quả trong thời gian trả nợ còn trong suốt thời gian conf lại của dự án hoạt động không có hiệu quả thì khả năng trả nợ tính ở trên sẽ là không chắc chắn. Mặt khác đối với những dự án vay trung và dài hạn cần phải tính đến yếu tố lạm phát trong tỷ suất chiết khấu nhằm xác định tỷ suất phù hợp cho việc phân tích các chỉ tiêu tài chính nhằm đảm bảo những thông tin mà chúng phản ánh là chính xác, ví dụ như với chỉ tiêu NPV nếu tỷ suất chiết khấu càng lớn thì NPV càng nhỏ và ngược lại.
Ngoài ra, MBHK cần tăng cường áp dụng các phương pháp hiện đại trong công tác thẩm định dự án đầu tư, có sự so sánh, học hỏi phương pháp thẩm định của các ngân hàng có uy tín. Tiếp tục bổ sung và xây dựng một số các tiêu chuẩn thẩm định tài chính dự án đầu tư ngành Điện.
2.2.4. Hoàn thiện hệ thống Xếp hạng tín dụng nội bộ - Corebanking (T24).
Tiếp tục hoàn thiện dự án CNTT, khai thác một cách có hiệu quả những ưu việt của hệ thống Corebanking (T24), có kế hoạch đầu tư tiếp các module về quản trị kinh doanh, tài chính và nhân sự. Phát triển các sản phẩm dịch vụ mới như dịch vụ thanh toán, thương mại điện tử, hệ thống chuyển mạch và quản lý thẻ.
2.2.5. Hiện đại hoá cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ thẩm định dự án.
Có thể nói thẩm định dự án là một công việc khá phức tạp, khối lượng công việc lớn đòi hỏi nhiều thời gian và công sức của cán bộ thẩm định. Bởi vậy việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong công tác thẩm định là rất cần thiết, có thể giúp cho mỗi cán bộ thẩm định tiết kiệm được nhiều thời gian và sức lực. Do đó trong tương lai ngân hàng cần đẩy mạnh ứng dụng các phần mềm trong phân tích, dự báo như Crustal Ball kết hợp với Excell hoặc đặt thiết kế một chương trình hỗ trợ nghiệp vụ thẩm định từ các công ty trong và ngoài nước.
Cần có chiến lược đầu tư mua sắm các phần mềm quản lý lưu trữ thông tin phần mềm hỗ trợ thẩm định để cán bộ thẩm định tiến hành việc xử lý đánh giá thông tin một cách nhanh chóng và chính xác.
2.2.6. Tăng cường công tác thẩm định sau dự án và công tác tư vấn chủ dự án qua kết quả thẩm định.
Sau khi đã có báo cáo kết quả thẩm định và có quyết định phê duyệt tài trợ dự án, và quá trình giải ngân phải được thực hiện theo đúng tiến độ thi công công trình xây dựng các dự án Điện, và mỗi lần khách hàng đề nghị giải ngân, cán bộ tín dụng MBHK lại làm một tờ trình giải ngân và trình phê duyệt lãnh đạo chi nhánh Hoàn Kiếm, lãnh đạo NHQĐ. Vì vậy, cán bộ tín dụng không được nơi lỏng công tác thẩm định sau dự án; qua đó có thể đưa ra những tư vấn hợp lý cho chủ đầu tư trong suốt quá trình xây dựng và vận hành dự án. Cũng đồng thời là cách mà cán bộ thẩm định có thể tích lũy những hiểu biết sâu hơn về các dự án ngành Điện.
2.2.7. Một số giải pháp khác:
MBHK cần xây dựng định hướng đúng đắn đối với công tác thẩm định các dự án đầu tư của doanh nghiệp Điện. Xác định rõ ràng quan điểm của chi nhánh khi tài trợ các dự án ngành Điện.
Đẩy mạnh các hoạt động Marketing đối với các doanh nghiệp Điện, mở rộng phong phú hơn các loại hình sản phẩm dịch vụ, có thể tiến tới xây dựng một số sản phẩm giành riêng cho các doanh nghiệp Điện. Nhằm thu hút hơn nữa cả về số lượng cũng như quy mô vốn của các dự án Điện đề nghị vay vốn tại chi nhánh.
2.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC VÀ CƠ QUAN HỮU QUAN
2.3.1. Với chính phủ và các Bộ ngành liên quan.
Chính phủ phải có những quy định để tăng cường tính công khai trong hoạt động kế toán tài chính. Tất cả mọi nỗ lực của ngân hàng chỉ có hiệu quả khi thông tin mà họ nhận được là trung thực. Nếu các báo cáo tài chính không minh bạch sẽ làm biến dạng, sai lệch các chỉ tiêu kết quả. Do đó, Chính phủ cần phải ban hành quy chế bắt buộc và công khai kiểm toán của các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải thuê các công ty kiểm toán độc lập kiểm tra lại các báo cáo tài chính hàng năm.
Đề nghị các Bộ, ngành cùng phối hợp để xây dựng các mức thông số kỹ thuật của từng ngành, các lĩnh vực kinh doanh để làm cơ sở cho việc so sánh hiệu quả của dự án được sát hơn, cụ thể hơn như tỷ lệ lãi suất của nền kinh tế, giá cơ sở của các mặt hàng chủ lực, các định mức tiêu hao nguyên liệu.
Đề nghị các Bộ, ngành cần hệ thống hoá các thông tin liên quan đến lĩnh vực mình quản lý. Hàng năm, trên báo cáo tổng kết cần công khai tình hình hoạt động, đưa ra những chỉ số chung phản ánh tốc độ tăng trưởng và các chỉ số liên quan của ngành thông qua tài liệu chuyên ngành hay thông qua trung tâm thông tin của ngành.
Bộ Tài chính cần có biện pháp bắt buộc các doanh nghiệp áp dụng chế độ kế toán thống nhất và tăng các biện pháp quản lý kinh doanh đối với doanh nghiệp theo đúng chức năng, quy mô hoạt động phù hợp với vốn điệu lệ và năng lực.
Cần tạo một khung pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải công khai tình hình tài chính của mình với ngân hàng khi xin vay. Để làm được điều này phải tiến hành kiểm toán các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước nhằm có được các báo cáo tài chính có độ tin cậy cao. Các công ty kiểm toán phải chịu trách nhiệm trước đánh giá của mình.
Các Bộ, ngành địa phương cần phối hợp chặt chẽ hơn trong việc trao đổi và cung cấp thông tin cần thiết và phát triển một mạng thông tin trong toàn quốc với sự tham gia của các cơ quan trong việc cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động đầu tư và công tác thẩm định.
2.3.2. Với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các NHTM khác
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường hỗ trợ cho việc nâng cao trình độ thẩm định, phát triển đội ngũ nhân viên, trợ giúp thông tin, kinh nghiệm cho các ngân hàng, hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về thẩm định dự án, mở rộng phạm vi thông tin tín dụng về các doanh nghiệp, giúp cho các tổ chức tín dụng nhận định đúng và có những cơ sở thẩm định trước khi đầu tư vốn cho doanh nghiệp.
Ngân hàng Nhà nước có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro (CIC), cần đưa ra mức độ rủi ro về từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp để làm căn cứ cho các ngân hàng phân loại, xếp hạng doanh nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư.
Cần chính thức hoá tài liệu nghiệp vụ ngân hàng Nhà nước về thẩm định dự án đầu tư để các cấp cơ sở thực hiện. Với chủ trương cải cách hành chính hiện nay của Đảng và Nhà nước, tài liệu này cần được rút gọn vào một số điểm và có sự phân công giữa các Bộ, ngành, các cấp.
Các NHTM quốc doanh khác trên toàn quốc cần tăng cường hợp tác trong việc xử lý thông tin và trao đổi kinh nghiệm, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.
2.3.3. Với Ngân hàng TMCP Quân Đội
Tăng cường tổ chức các khoá học ngắn hạn, các lớp tập huấn chuyên để thẩm định dự án đàu tư, tổ chức đi tập huấn, trao đổi kinh nghiệm công tác thẩm định cho các chi nhánh nhằm tăng nâng cao năng lực thẩm định trong toàn hệ thống.
Cần hoàn thiện quy trình tín dụng cũng như quy trình thẩm định dự án đầu tư thống nhất trong toàn hệ thống cho phù hợp với tình hình mới để MBHK có thể căn cứ vào đó mà thực hiện. Hội sở có những hỗ trợ cán bộ thẩm định các dự án ngành Điện tại MBHK để giúp họ xây dựng được quy trình thẩm định phù hợp nhất và hơn nữa đối với các dự án ngành Điện.
Cần tăng cường hoạt động của bộ phận thông tin phòng ngừa rủi ro thuộc NHQĐ để có thể cung cấp thông tin thường xuyên cho các chi nhánh của mình.
Bổ sung cán bộ Đầu tư Dự án, cán bộ quản lý rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tài trợ dự án đầu tư có kinh nghiệm và nghiệp vụ chuyên sâu về công tác tại MBHK; hoặc có những chính sách ưu tiên, đào tạo cán bộ thẩm định dự án tại MBHK chuyên môn sâu về Đầu tư dự án. NHQĐ nên thoáng hơn trong quy chế cho phép đầu tư Dự án tại các chi nhánh. Cho vay, tài trợ Dự án mặc dù tiềm ẩn nhiều rủi ro nhưng lại hứa hẹn mang lại nguồn lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Mặt khác, MBHK hiện nay mới là chi nhánh cấp I của NHQĐ với quy mô tương đối nhỏ, vốn điều lệ chỉ mới hơn 1000 tỷ đồng. Như vậy, muốn tăng quy mô, phấn đấu trở thành chi nhánh xuất sắc hơn nữa trong thời gian tới, MBHK nên mở rộng và thiết lập thêm nhiều khách hàng, nhiều dự án để thẩm định và tài trợ cho vay.
Ngân hàng TMCP Quân Đội cần có sự chỉ đạo thống nhất từ Trung ương đến các chi nhánh. Cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết các tỷ lệ tài chính trung bình từng ngành để tạo thuận lợi cho công tác thẩm định ở mỗi chi nhánh. Bên cạnh đó, Ngân hàng TMCP Quân Đội cần tích luỹ các chỉ tiêu dự án sau khi đã kiểm chứng qua thực tế cùng với việc sưu tầm những chỉ tiêu của các ngân hàng bạn.
Định kỳ có tổng hợp, đúc kết kinh nghiệm trong toàn hệ thống để làm bài học chung trong lĩnh vực đầu tư ngành Điện và làm tiền đề cho việc thẩm định các dự án Điện trong thời gian tới thuận lợi hơn.
2.3.4. Với khách hàng.
EVN, NPT và các công ty Truyền tải và phân phối Điện cần phải cung cấp đầy đủ những tài liệu cần thiết và trung thực cho MBHK đúng như quy định, để công tác thẩm định được tiến hành nhanh chóng hơn.
Các chủ đầu tư cần nghiêm chỉnh chấp hành việc xây dựng và lập dự án đúng nội dung quy định của các văn bản pháp luật về lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Chủ đầu tư phải lập đầy đủ các biểu mẫu quy định trong dự án như: bảng tính vốn đầu tư theo khoản mục, bảng tính huy động vốn theo chương trình đầu tư và thực hiện dự án, bảng tính vốn hoạt động, bảng tính khả năng trả nợ theo cả gốc và lãi. Các chủ đầu tư phải tính toán đầy đủ các chi phí, đặc biệt là chi phí lãi vay vốn lưu động, chi phí đầu tư bổ sung đối với những dự án có vòng đời kéo dài.
Các chủ đầu tư của các dự án Điện mặc dù vẫn chiếm một thế mạnh độc quyền song cần tự nâng cao năng lực lập và thẩm định dự án đầu tư, nhận thức đúng vai trò, vị trí của công tác thẩm định dự án khi quyết định đầu tư để có những dự án thực sự hiệu quả, đảm bảo nhu cầu Điện cho cả nước.
KẾT LUẬN
Từ những phân tích, đánh giá và kết luận trong bài, vai trò đặc biệt quan trọng của công tác thẩm định đối với dự án xin vay vốn, đặc biệt là các dự án đầu tư ngành Điện tại NHQĐ được thể hiện rất rõ. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án là một yêu cấp thiết đối với hệ thống ngân hàng ở Việt Nam nói chung và tại NHQĐ nói riêng.
Hiện nay, công tác thẩm định dự án đầu tư tại NHQĐ nói chung và chi nhánh Hoàn Kiếm nói riêng đang được ngân hàng cố gắng ngày càng hoàn thiện chặt chẽ và an toàn hơn. Song vẫn còn tồn tại một số thực trạng bất cập đã đề cập trong chuyên đề như: nguồn thông tin cung cấp cho quá trình thẩm định, hạn chế về nghiệp vụ chuyên môn lĩnh vực hoạt động của dự án đầu tư… Những tồn tại này không chỉ do từ phía ngân hàng mà còn phụ thuộc vào các nguyên nhân khác như môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, hệ thống ngân hàng, chủ đầu tư… Chính vì vậy để nâng cao chất lượng thẩm định không thể chỉ dựa vào sự nỗ lực của bản thân NHQĐ mà đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các ngành, các cấp trong và ngoài nước.
Đây là một nội dung tương đối phức tạp, hơn nữa do hạn chế về kinh nghiệm cũng như kiến thức thực tế nên trong bài viết này không thể đề cấp hết các vấn đề. Những giải pháp và kiến nghị đưa ra chỉ là những đóng góp nhỏ cho việc hoàn thiện hơn công tác thẩm định và nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư ngành Điện tại NHQĐ nói chung và chi nhánh Hoàn Kiếm nói riêng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO’
PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương: Giáo trình Kinh tế Đầu tư – NXB Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội 2007
PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt: Giáo trình Lập dự án, NXB Thống kê, 2005.
PGS.TS Phước Minh Hiệp, Th.S. Lê Thị Vân Đan: Thiết lập & Thẩm định dự án đầu tư - NXB Thống kê 2007
Ngân hàng TMMCP Quân Đội: Bản tin nội bộ MB Tháng 12/2008
Ngân hàng TMCP Quân Đội – Phòng Quản lý rủi ro – Hội sở chính: Danh sách Hồ sơ các dự án đầu tư tại MB qua các năm.
Ngân hàng TMCP Quân Đội – Quyết định số 114/QĐ-NHQĐ-HS ngày 15/11/2007 của Tổng Giám đốc NHQĐ: Ban hành hướng dẫn tác nghiệp quá trình cho vay.
Ngân hàng TMCP Quân Đội: Hồ sơ dự án “Đường dây 110KV Nhơn Trạch – Nhà Bè” của Tổng công ty truyền tải điện Quốc gia thẩm định tại MBHK
Ngân hàng TMCP Quân Đội: Sổ tay tín dụng.
Điều lệ ngân hàng TMCP Quân đội.
Mạch Huyền Anh, Khoá luận tốt nghiệp, Tài chính doanh nghiệp 46a.
Phạm Quỳnh Anh, Khoá luận tốt nghiệp, Kinh tế đầu tư 46a.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21301.doc