Khóa luận Thanh toán quốc tế hàng nhập khẩu bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại Sacombank, Sở giao dịch thành phố Hồ Chí Minh

MỤC LỤC Chương 1: TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ 1.1 Sơ lược về phương thức tín dụng chứng từ-------------------------------- 1 1.2 Nhận xét về phương thức TDCT-------------------------------------------- 7 Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN HÀNG NHẬP KHẨU BẰNG PHƯƠNG THỨC TDCT TẠI SACOMBANK, SGD TP.HCM 2.1 Tổng quan về Sacombank---------------------------------------------------- 10 2.2 Giới thiệu Bộ phận TTQT SGD Tp.HCM---------------------------------- 17 2.3 Quy trình TTQT hàng nhập khẩu bằng phương thức TDCT------------ 19 2.4 Tình hình thanh toán quốc tế của Sacombank---------------------------- 31 2.5 Kết quả hoạt động TTQT ở SGD Tp.HCM-------------------------------- 35 2.5.1 Doanh số TTQT---------------------------------------------------------- 35 2.5.2 Tỷ trọng các phương thức TTQT--------------------------------------- 37 2.6 Tình hình thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức TDCT------ 39 2.6.1 Doanh số thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức TDCT---- 39 2.6.2 Phân tích tỷ trọng L/C nhập và L/C xuất------------------------------ 41 2.6.3 Các loại L/C được phát hành tại SGD Tp.HCM----------------------- 43 2.6.4 Tình hình thanh toán hàng nhập bằng phương thức TDCT quý I/08 46 2.7 Nhận xét về hoạt động TTQT ở Sacombank------------------------------ 46 2.7.1 Thành công--------------------------------------------------------------- 46 2.7.2 Hạn chế------------------------------------------------------------------- 48 Chương 3: GIẢI PHÁP 3.1 Giải pháp đối với Ngân hàng nhà nước------------------------------------ 50 3.2 Giải pháp đối với Sacombank----------------------------------------------- 52 3.3 Kiến nghị đối với khách hàng----------------------------------------------- 71

doc83 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1532 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thanh toán quốc tế hàng nhập khẩu bằng phương thức Tín dụng chứng từ tại Sacombank, Sở giao dịch thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong những tháng đầu năm 2008, thị trường tài chính có nhiều biến động, đặc biệt là sự biến động của tỷ giá đồng USD. Điều này đã tác động tới các lĩnh vực khác nhau, trong đó có cả lĩnh vực xuất nhập khẩu. Vì vậy, tình hình thanh toán quốc tế ở SGD Tp.HCM cũng bị ảnh hưởng. Doanh số thanh toán bằng L/C nhập trong Quý I năm 2008 có tăng nhưng không nhiều so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, phương thức thanh toán bằng L/C trả ngay vẫn chiếm ưu thế. 3.6 ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THANH TOÁN HÀNG NHẬP KHẨU BẰNG PHƯƠNG THỨC TDCT Ở SACOMBANK 3.6.1 Thành công Sacombank tham gia hoạt động TTQT tính đến năm 2007 là 13 năm. Đây là khoảng thời gian không ngắn so với các ngân hàng thương mại cổ phần khác nhưng nếu so với các ngân hàng quốc doanh và ngân hàng nước ngoài thì khoảng thời gian này quá ngắn ngủi. Tuy trải qua không ít khó khăn khi mới bắt đầu nhưng hoạt động TTQT của Sacombank nói chung và của SGD Tp.HCM nói riêng đã gặt hái không ít những thành công. Chất lượng TTQT của ngân hàng đã được công nhận. Năm 2004 được Citibank trao giải “Ngân hàng hoạt động xuất sắc trong TTQT 2003/2004 với tỷ lệ STP (Straigh Throught Processcing) cao”. Năm 2006, Sacombank được Ngân hàng Wachovia trao tặng giải thưởng “Ngân hàng có hoạt động TTQT tốt nhất năm 2006”. Đây là những phần thưởng cao quý ghi nhận những nỗ lực không ngừng trong hoạt động TTQT của Sacombank. Hiệu quả về ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong TTQT. Sacombank là một trong những ngân hàng đi đầu trong việc áp dụng công nghệ thông tin hiện đại vào hoạt động TTQT. Ngân hàng đã ứng dụng hệ thống Smartbank – một hệ thống quản lý tiên tiến thay cho Foxpro. Dịch vụ chi trả kiều hối và hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng phát triển đã đáp ứng nhanh chóng, đầy đủ nhu cầu ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu của ngân hàng. Mạng lưới ngân hàng đại lý ở nước ngoài ngày càng mở rộng. Năm 2007, Sacombank đã thiết lập quan hệ với khoảng 9.700 đại lý thuộc 250 ngân hàng của 91 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Đây là nền tảng để ngân hàng thực hiện tốt hoạt động TTQT. Quy trình nghiệp vụ chặt chẽ, an toàn. Điều này giúp giảm thiểu rủi ro cho khách hàng và ngân hàng. Quy trình nghiệp vụ ở Sacombank cũng được cải tiến liên tục để phù hợp với thực tế công việc đang diễn ra hàng ngày. Sự phối hợp giữa các phòng ban. Bộ phận TTQT có mối quan hệ mật thiết và liên kết trong công việc với các phòng ban khác như phòng kinh doanh tiền tệ, phòng tín dụng, phòng kế toán, phòng công nghệ thông tin để thực hiện nghiệp vụ của mình. Cụ thể bộ phận TTQT liên hệ với phòng kinh doanh tiền tệ để cung cấp ngoại tệ phục vụ cho việc thanh toán của khách hàng; liên hệ với phòng tín dụng để thẩm định tình hình kinh doanh của khách hàng nhằm đưa ra hạn mức ký quỹ cho khách hàng trong việc mở L/C; liên hệ với phòng công nghệ thông tin để bảo trì mạng nhằm đảm bảo tính an toàn và chính xác trong bức điện giao dịch cũng như phục vụ công tác quản lý tại ngân hàng. Sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ đã giúp mọi công việc thực hiện nhanh chóng, hiệu quả, an toàn. 3.6.2 Hạn chế Mặc dù hoạt động TTQT ngày càng phát triển và gặt hái được nhiều thành công, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục để hoạt động này trở nên chuyên nghiệp hơn. Có thể nêu ra một số tồn tại trong hoạt động TTQT, cụ thể là hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức TDCT: Ngân hàng chưa làm tròn trách nhiệm của mình theo UCP 600. Theo quy trình thì ngân hàng phát hành TTD phải thanh toán cho người xuất khẩu sau khi nhận được bộ chứng từ hợp lệ. Thực tế ở Sacombank thì để đảm bảo an toàn, ngân hàng lại yêu cầu khách hàng phải nộp đủ số tiền thanh toán vào tài khoản hoặc phải đồng ý chấp nhận bộ chứng từ rồi mới thanh toán cho khách hàng ở nước ngoài. Điều này đồng nghĩa với việc nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng phát hành phụ thuộc vào việc thanh toán của nhà nhập khẩu. Nếu doanh nghiệp nhập khẩu chậm thanh toán sẽ dẫn đến sự chậm trễ trong thanh toán của ngân hàng cho người hưởng lợi. Điều này hoàn toàn khác biệt với bản chất của TDCT là sự đảm bảo thanh toán của ngân hàng cho người hưởng lợi. Tình trạng này sẽ tạo áp lực đối với khách hàng nhập khẩu, mặt khác sẽ giảm tính cạnh tranh của Sacombank so với các ngân hàng khác. Quy trình hoạt động còn rườm rà. Nhìn chung hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu bằng TDCT của Sacombank còn phức tạp về quy trình, mất nhiều thời gian và có sự trùng lặp. Các hoạt động của chi nhánh còn phụ thuộc nhiều vào Hội sở, chi nhánh chưa được trực tiếp giao dịch với nước ngoài. Khi thực hiện giao dịch, tất cả hồ sơ phải được thông qua Trưởng bộ phận và Giám đốc chi nhánh. Sau đó, chuyển lên Hội sở thì tại đây hồ sơ lại một lần nữa thông qua Trưởng phòng TTQT và Ban giám đốc rồi mới được thực hiện. Nhân viên TTQT ở Hội sở sẽ dựa trên bản thảo điện mà chi nhánh đã lập để tiến hành chuyển điện ra nước ngoài. Quy trình này tuy chặt chẽ nhưng tốn nhiều thời gian và chi phí. Số lượng L/C được phát hành tăng đều qua các năm nhưng cơ cấu chưa tích cực, các loại L/C đặc biệt rất ít. Điều này chứng tỏ công tác tư vấn của ngân hàng còn chưa cao. Ngoài ra, do sự phát triển thiếu đồng bộ về TTQT và chênh lệch về trình độ nghiệp vụ ở các chi nhánh cũng làm cho khách hàng chưa tin tưởng khi mở các L/C đặc biệt. Công tác tư vấn cho khách hàng chưa chuyên nghiệp. Bộ phận tư vấn khách hàng chưa được hình thành và phát triển một cách chuyên biệt. Hiện nay, mọi công tác tư vấn cho khách hàng có liên quan đến TTQT đều do chính nhân viên TTQT phụ trách. Các nhân viên này vừa phải thực hiện nghiệp vụ của mình vừa phải tư vấn cho khách hàng, do không phải công tác chuyên môn nên chất lượng tư vấn chưa cao và thường chỉ mang tính chung chung. Công tác marketing cho hoạt động TTQT tại ngân hàng còn khá nghèo nàn. Hiện nay, ngân hàng chưa có một hoạt động xúc tiến nào dành riêng cho TTQT mà chủ yếu chỉ là các brochure, leaflet… để sẵn tại quầy giao dịch để khách hàng tự tham khảo. Các cẩm nang dành cho khách hàng về quy trình giao dịch với ngân hàng thì không được phổ biến bên ngoài nên thường gây lúng túng cho khách hàng về các loại giấy tờ khi giao dịch. Điều này làm mất thời gian và chi phí cho khách hàng lẫn ngân hàng. Chương 4 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ & GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN HÀNG NHẬP KHẨU BẰNG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI SACOMBANK, SGD TP.HCM ÑѪÐÐ 4.1 KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC 4.1.1 Hoàn thiện hệ thống luật ngân hàng Hoàn thiện hệ thống luật ngân hàng cụ thể ở đây là hoàn thiện hệ thống luật cho giao dịch TDCT. Ở Việt Nam hiện nay chưa có văn bản cụ thể nào hướng dẫn thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức TDCT. Các ngân hàng khi vận dụng phương thức thanh toán này chủ yếu căn cứ trên những điều khoản của UCP do Phòng thương mại quốc tế ban hành. UCP không phải là văn bản mang tính chất luật, nó chỉ là tập hợp các tập quán, quy ước và thực tiễn ngân hàng trong hoạt động TDCT và việc vận dụng chỉ mang tính pháp lý tùy ý. Như vậy, hoạt động TTQT sẽ gặp nhiều khó khăn khi phát sinh những tình huống có sự mâu thuẫn giữa luật pháp quốc gia và thông lệ quốc tế. Do đó, rất cần những văn bản luật và dưới luật (luật, pháp lệnh, nghị định) quy định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của các bên tham gia và cách xử lý trong trường hợp có mâu thuẫn giữa quy tắc quốc tế và luật pháp quốc gia trong TTQT nói chung và phương thức TDCT nói riêng. Vì TDCT đang và chắc chắn vẫn là phương thức chủ yếu trong TTQT. Các quy định pháp lý như: Trách nhiệm của các bên liên quan trong nước đối với việc thực hiện các quy ước, quy tắc TTQT. Phương pháp xử lý khi có xung đột giữa thông lệ quốc tế và luật pháp Việt Nam. Xử lý trách nhiệm khi có tranh chấp hoặc thiệt hại. Ngoài ra, để hoàn thiện môi trường pháp lý trong giao dịch TDCT, NHNN cần quy định tính pháp lý của các loại giấy tờ như: Giấy yêu cầu mở L/C; Giấy cam kết thanh toán; Đơn xin chiết khấu… Về bản chất, các loại giấy tờ này là một hợp đồng dịch vụ giữa ngân hàng và khách hàng nhưng hiện nay chúng đơn giản chỉ là giấy tờ giao dịch của ngân hàng, không thể hiện sự ràng buộc giữa các bên và nằm ngoài sự điều chỉnh của UCP nên gây khó khăn cho Tòa án khi xảy ra tranh chấp. Đồng thời, ngành ngân hàng cần nhanh chóng vạch ra chiến lược hợp tác, phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật để góp phần ngăn ngừa có hiệu quả các hoạt động lừa đảo quốc tế trong nghiệp vụ thanh toán TDCT. Vì trong TTQT nói chung và thanh toán theo phương thức TDCT nói riêng luôn ẩn chứa những yếu tố rủi ro và nó tỷ lệ thuận với sự hội nhập ngày càng nhiều, càng sâu rộng vào nền mậu dịch khu vực và thế giới. 4.1.2 Thành lập trung tâm điều hòa ngoại tệ tiền mặt, tăng cường kiểm soát thị trường ngoại tệ tự do Với chức năng là ngân hàng của các ngân hàng, NHNN chịu trách nhiệm phân bổ lượng ngoại tệ về cho hệ thống NHTM. Tuy nhiên, trong quá trình thu chi tiền mặt ngoại tệ sẽ phát sinh hiện tượng có ngân hàng thừa ngoại tệ và ngân hàng thiếu ngoại tệ. Điều này làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Vì thế, NHNN cần thành lập trung tâm điều hòa ngoại tệ tiền mặt cho các NHTM. Trung tâm này sẽ đứng ra xử lý cung cầu ngoại tệ cho các NHTM, ngân hàng nào thừa sẽ nộp ngoại tệ vào trung tâm và NHNN ghi Có vào tài khoản của họ, ngân hàng thiếu sẽ rút ra từ trung tâm và NHNN sẽ ghi Nợ cho tài khoản của họ. Làm như vậy, các NHTM sẽ giảm bớt nhiều chi phí khi có nhu cầu ngoại tệ. Hiện nay, tình trạng đầu cơ ngoại tệ còn khá phổ biến, khối lượng ngoại tệ trôi nổi ngoài hệ thống ngân hàng chưa được kiểm soát còn rất lớn. Tuy nhiên, NHNN chưa có cơ sở xác định được chính xác số ngoại tệ này. Chính sự tồn tại của thị trường ngoại tệ tự do đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thu hút nguồn ngoại tệ của các NHTM. Nguyên nhân là tỷ giá trên thị trường tự do thường lớn hơn tỷ giá do các NHTM niêm yết nên những khách hàng có nguồn kiều hối thường không muốn bán cho ngân hàng mà bán trên thị trường “chợ đen” với giá cao hơn. Vì vậy, NHNN cần phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý, kiểm tra và xử phạt nghiêm minh đối với các thành viên trên thị trường “chợ đen” nhằm tạo điều kiện cho thị trường ngoại hối Việt Nam phát triển hiệu quả và lành mạnh. 4.1.3 Duy trì ổn định tỷ giá Tỷ giá là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tình hình xuất nhập khẩu của đất nước. Khi tỷ giá tăng (đồng nội tệ giảm giá) sẽ khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu; ngược lại khi tỷ giá giảm (đồng nội tệ tăng giá) sẽ khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu. Do đó, một chế độ tỷ giá ổn định là hết sức cần thiết giúp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu an tâm thực hiện chiến lược kinh doanh lâu dài. Đồng thời, NHNN nên tiếp tục duy trì chính sách quản lý ngoại hối thông thoáng, tạo điều kiện cho thị trường ngoại hối phát triển đầy đủ với các công cụ phái sinh Option, Swap, Future… nhằm hỗ trợ tích cực cho hoạt động TTQT. 4.2 GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI SACOMBANK 4.2.1 Mở rộng hệ thống mạng lưới ngân hàng đại lý Muốn mở rộng hoạt động TTQT, đặc biệt là hoạt động TDCT trong công tác thanh toán hàng nhập khẩu, đòi hỏi Sacombank phải có sự hỗ trợ của một hệ thống ngân hàng đại lý rộng lớn vì trong nhiều trường hợp khi khách hàng yêu cầu mở L/C thường chỉ định luôn ngân hàng thông báo thư tín dụng cho nhà xuất khẩu. Nếu Sacombank không có quan hệ đại lý với ngân hàng này thì sẽ phải thông qua một ngân hàng thứ ba. Khi đó vừa làm tăng chi phí của khách hàng vừa làm cho quy trình giao dịch thêm nhiều bước gây tốn thời gian, hơn nữa còn ảnh hưởng đến uy tín của Sacombank đối với khách hàng. Vì thế, tích cực mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lý sẽ luôn là hướng đi đúng đắn. Hiện nay, mạng lưới ngân hàng đại lý ở nước ngoài của Sacombank tương đối nhiều nhưng chủ yếu tập trung ở các thị trường truyền thống như Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc…, tại các thị trường khác vẫn còn tương đối ít. Dự báo cơ cấu mặt hàng nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian tới chủ yếu vẫn sẽ là nguyên phụ liệu sản phẩm thô, xăng dầu, sắt thép, hàng tiêu dùng… - những mặt hàng cơ bản mà nước ta chưa chế biến được hoặc chế biến với số lượng ít. Song điều đáng nói là tình hình nhập khẩu các mặt hàng này đang trở nên khan hiếm ở các thị trường quen thuộc. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu quan tâm và chủ động khảo sát ở các thị trường khác nhằm tìm kiếm nguồn cung mới, ổn định và có chất lượng. Trong đó, khu vực châu Phi, Tây Á, Nam Á… nổi lên như là những thị trường đầy tiềm năng trong quan hệ mua bán với các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, để phục vụ khách hàng một cách tốt nhất, mọi lúc mọi nơi, Sacombank cần quan tâm hơn nữa đến việc mở rộng quan hệ đại lý với những ngân hàng thuộc các quốc gia trong khu vực này. Tuy nhiên, việc lựa chọn ngân hàng nào để thiết lập quan hệ đại lý lại là một vấn đề không đơn giản, đòi hỏi ngân hàng phải có những tiêu chí lựa chọn cụ thể để vừa gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng vừa giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Sau đây là một số tiêu chí mà Sacombank có thể đặt ra để lựa chọn ngân hàng đại lý thích hợp nhất: Ngân hàng đại lý phải là ngân hàng có uy tín trên thị trường quốc tế; có khả năng tài chính vững mạnh và ổn định; có thể liên lạc nhanh chóng, chính xác và hiệu quả cao. Thị trường nơi ngân hàng dự định thiết lập quan hệ đại lý. Yếu tố này đòi hỏi thị trường đó phải có tiềm năng phát triển kinh tế trong hiện tại và tương lai, phải có một lượng khách hàng tham gia thường xuyên trong mua bán quốc tế. Các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đại lý hiện đang cung cấp phải có sự phù hợp tương đối với hoạt động, chiến lược kinh doanh của Sacombank. Các ngân hàng đại lý này không nên dừng lại ở các sản phẩm truyền thống mà cần phải khai thác hiệu quả hơn các sản phẩm TTQT dựa trên công nghệ hiện đại. Chất lượng điều hành của ngân hàng đại lý phải tốt, thể hiện qua năng lực của các thành viên trong Ban quản lý điều hành và trình độ của đội ngũ nhân viên. Biểu phí giao dịch của ngân hàng đại lý không quá khác biệt so với biểu phí thị trường. Sau khi thiết lập quan hệ với ngân hàng nước ngoài thì Sacombank cần có những biện pháp duy trì mối quan hệ đó như: thường xuyên trao đổi thông tin với ngân hàng đại lý, tăng cường theo dõi hoạt động và đánh giá tín nhiệm của các ngân hàng đại lý, thiết lập hồ sơ theo dõi quá trình thực hiện nghiệp vụ của ngân hàng đối với từng ngân hàng đại lý… Việc mở rộng quan hệ ngân hàng đại lý sẽ làm tăng khả năng thanh toán giữa Sacombank với các ngân hàng nước ngoài, hạn chế thanh toán qua các ngân hàng trung gian, đồng thời giúp ngân hàng có thể tranh thủ được sự hỗ trợ về nghiệp vụ, về công nghệ hiện đại, có cơ hội tìm hiểu thêm các thông tin về thị trường, đối tác nước ngoài của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam. 4.2.2 Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động thanh toán TDCT Cho đến nay, các ngân hàng thương mại đều nhận thấy rằng việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào các hoạt động ngân hàng là con đường duy nhất để tránh tụt hậu và nâng cao năng lực cạnh tranh. Do đó, xây dựng chiến lược công nghệ hiện đại để thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin vào việc phát triển các sản phẩm ngân hàng đang là hướng đi đúng đắn và tất yếu của mọi ngân hàng. Sớm triển khai dịch vụ mở L/C qua mạng Với dịch vụ này, doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể mở L/C ngay tại văn phòng của mình mà không cần đến trụ sở ngân hàng. Ngân hàng sẽ đăng các mẫu biểu hồ sơ về L/C lên trang web, khách hàng tải các mẫu biểu này sau đó nhập thông tin cần thiết và gửi cho ngân hàng (có thể qua Email). Ngân hàng xem xét bộ hồ sơ của khách hàng và hồi âm cho khách hàng các thông tin như: bộ hồ sơ đã hợp lệ chưa, cần chỉnh sửa những vấn đề gì… Ngoài ra, khách hàng cũng có thể gửi các hồ sơ chỉnh sửa và tu chỉnh qua mạng cho ngân hàng. Sau đó, dựa trên những yêu cầu trong hồ sơ của khách hàng, ngân hàng sẽ soạn thảo bản L/C bằng điện Swift để chuyển cho ngân hàng nước ngoài. Cách mở L/C qua mạng này khá đơn giản, không đòi hỏi nhiều về công nghệ, chỉ cần ngân hàng và công ty xuất nhập khẩu có nối mạng Internet. Mà điều này thì hầu như doanh nghiệp nào ở Việt Nam cũng làm được. Tuy nhiên, vẫn không tránh khỏi những rủi ro như mất thông tin hay khách hàng gửi sai địa chỉ… Để giải quyết vấn đề này, mỗi chi nhánh có bộ phận TTQT của Sacombank có thể tạo lập một địa chỉ Email để khách hàng gửi yêu cầu mở L/C. Đối với các khách hàng, nên quy định thống nhất một cách đặt tên cho địa chỉ Email và khuyến khích họ chỉ dùng địa chỉ mail này trong việc mở L/C ở Sacombank, không dùng cho mục đích khác. Đối tượng khách hàng của cách mở L/C này là những khách hàng thân thuộc của Sacombank, có hàng nhập khẩu thường xuyên với khối lượng lớn. Với dịch vụ mở L/C qua mạng, các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian hơn so với cách mở L/C hiện nay là nhân viên của doanh nghiệp phải đến trực tiếp ngân hàng. Về phía ngân hàng thì vừa tiết kiệm được chi phí thành lập nhiều bộ phận TTQT ở nhiều chi nhánh, chi phí nhân sự vừa tạo ra hệ thống gọn nhẹ có thể phục vụ một khối lượng lớn khách hàng. b. Đề xuất việc ứng dụng TTD điện tử (eL/C) vào hoạt động thanh toán TDCT Với sự phát triển của thương mại điện tử như hiện nay thì việc sử dụng eL/C để thay cho các L/C truyền thống rất cần thiết đối với mọi ngân hàng. Do đó, để bắt kịp với xu hướng mới của thời đại, Sacombank cũng nên tích cực nghiên cứu việc ứng dụng eL/C vào hoạt động thanh toán TDCT tại ngân hàng. Điều này có nghĩa là ngân hàng cung cấp dịch vụ cho phép nhà nhập khẩu soạn thảo yêu cầu mở L/C từ máy tính của nhà nhập khẩu, truyền đến ngân hàng để kiểm tra và xử lý. L/C sẽ được phát hành chỉ trong vài giờ. Dịch vụ này cũng cho phép nhận được các L/C xuất khẩu và kiểm tra chúng từ máy tính. Như vậy, ứng dụng eL/C là một quá trình tương đối phức tạp đòi hỏi ngân hàng phải có sự đầu tư, chuẩn bị rất kĩ lưỡng về nhiều mặt mới có thể triển khai dịch vụ này đến khách hàng như một dịch vụ hoàn chỉnh. Một số yếu tố mà ngân hàng cần chuẩn bị là: Chuẩn bị về mặt pháp lý: Sacombank cần xây dựng hệ thống văn bản pháp lý mới cho hoạt động ngân hàng hiện đại. Việc đổi mới công nghệ phải đi đôi với đổi mới cơ chế, chính sách cho phù hợp. Ngân hàng cần xem xét, sửa đổi các văn bản hiện tại, bổ sung các văn bản hướng dẫn thi hành các Luật, Nghị định, Quyết định liên quan đến thương mại điện tử như chứng từ điện tử, việc bảo mật an toàn thông tin, chứng thực chữ ký điện tử…để tạo cơ sở cho việc thực hiện các giao dịch ngân hàng điện tử, đặc biệt là thanh toán TDCT điện tử được diễn ra thuận lợi. Chuẩn bị về nhân lực: con người là nhân tố quan trọng trong việc hiện đại hóa công nghệ. Khi có một đội ngũ cán bộ giỏi mới khai thác hết các thế mạnh của khoa học công nghệ một cách hiệu quả. Do đó, để có thể ứng dụng thành công eL/C vào thanh toán TDCT, Sacombank cần đầu tư cho công tác đào tạo nguồn nhân lực có kiến thức về công nghệ ngân hàng điện tử và eUCP. Sacombank có thể đăng kí cho nhân viên tham gia các khóa học về eUCP của các tổ chức quốc tế đang nghiên cứu về eUCP, thường xuyên truy cập các website của ICC để cập nhật thông tin về thực hành eUCP để rút kinh nghiệm cho mình. Sacombank cũng có thể gửi nhân viên đi học hỏi kinh nghiệm ở các ngân hàng nước ngoài đã áp dụng eL/C. Chuẩn bị về công nghệ. Đây là một yếu tố rất quan trọng để áp dụng TTD điện tử. Sacombank phải có công nghệ để cung cấp tài khoản cho khách hàng. Về vấn đề này, ngân hàng có thể liên hệ với các tổ chức cung cấp các dịch vụ thương mại điện tử. Nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, tiếp thị, quảng cáo, tư vấn về các vấn đề liên quan đến eL/C. Sacombank nên tiến hành nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, xem xét các khách hàng có ý định và quan tâm đến vấn đề này, từ đó lựa chọn nhóm khách hàng có nhu cầu thực sự để đáp ứng kịp thời. Bên cạnh đó, ngân hàng không nên thụ động chờ khách hàng nảy sinh nhu cầu mà nên chủ động tạo ra nhu cầu sử dụng các dịch vụ thư tín dụng điện tử cho khách hàng. Ngân hàng tổ chức các buổi hội thảo giới thiệu với doanh nghiệp về những lợi ích to lớn của việc áp dụng eL/C và tiến hành tư vấn cho khách hàng mọi vấn đề liên quan đến eL/C. Về quản trị rủi ro: trong môi trường thương mại điện tử rất dễ xảy ra những rủi ro không thể lường trước được. Vì vậy, Sacombank cần xem xét và thay đổi cách thức quản trị rủi ro cho phù hợp với những thay đổi trong quá trình thực hành eL/C. Vấn đề đảm bảo an toàn thông tin là một vấn đề trọng yếu. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc không an toàn mạng thông tin, gây rủi ro cho giao dịch điện tử. Do đó, đòi hỏi các ngân hàng khi cung cấp eL/C phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, đảm bảo chắc chắn việc an toàn thông tin cho khách hàng. Ngân hàng cần tiến hành bảo mật mạng cục bộ, mạng Internet, không ngừng nâng cao khả năng bảo mật thông tin thông qua việc nâng cấp, đổi mới hệ thống thiết bị, công nghệ, nâng cao ý thức và trách nhiệm của nhân viên trong việc thực thi chính sách đảm bảo an toàn thông tin cho khách hàng. Song song đó, ngân hàng cũng nên hướng dẫn và khuyến khích khách hàng tăng cường công tác bảo mật thông tin cho chính mình bằng cách thường xuyên thay đổi mật khẩu và thực hiện đúng quy trình do ngân hàng đưa ra. Chuẩn bị về vốn. Để áp dụng TTD điện tử đòi hỏi Sacombank phải có một nguồn vốn khá lớn để trang bị hệ thống máy tính, các phần mềm, các chương trình bảo mật hiện đại. Ngoài ra còn có chi phí đào tạo nhân lực… Vì vậy, Sacombank phải nỗ lực nâng cao năng lực tài chính để đáp ứng nhu cầu về vốn. Ngoài ra, ngân hàng có thể lên kế hoạch để tìm nguồn vốn tài trợ cho dự án từ các nguồn khác. Hiện nay, việc ứng dụng eL/C vào thực tế còn chưa phổ biến ở Việt Nam. Nếu sớm thực hiện được điều này thì Sacombank sẽ trở thành một ngân hàng đi đầu về công nghệ và nâng cao uy tín trên thị trường tài chính trong và ngoài nước. 4.2.3 Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên Thanh toán quốc tế Ngân hàng cung cấp sản phẩm dịch vụ của mình thông qua đội ngũ nhân viên hay nói cách khác nhân viên là cơ sở gần nhất để khách hàng đánh giá hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng có hoàn thiện được quy trình thanh toán, có phát triển được hay không…điều đó phụ thuộc không ít vào trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức và nhiệt huyết của đội ngũ nhân viên. Do đó, để mở rộng hoạt động TTQT tại ngân hàng thì việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên TTQT là điều Sacombank cần phải chú trọng. Ngân hàng có thể thực hiện điều này thông qua: Về công tác tuyển dụng: ngân hàng quan tâm hơn đến việc tuyển dụng thêm nhân viên TTQT có trình độ nghiệp vụ chuyên môn, có khả năng ngoại ngữ tốt, nhiệt tình, yêu nghề…nhằm chuẩn bị cho việc mở rộng hoạt động TTQT trong thời gian tới. Ngân hàng có thể liên kết với các trường đại học để trao đổi về nhu cầu tuyển dụng và đào tạo nhân sự trong lĩnh vực TTQT cũng như trong các lĩnh vực hoạt động ngân hàng khác như tín dụng, kinh doanh ngoại tệ, Marketing ngân hàng để đáp ứng nhu cầu nhân lực của ngân hàng. Như vậy, ngân hàng có thể đảm bảo luôn có một nguồn nhân lực chất lượng, ngoài ra còn giảm bớt chi phí đào tạo lại nhân sự. Về công tác đào tạo: với đội ngũ nhân viên TTQT hiện tại, ngân hàng cần nâng cao trình độ năng lực thông qua công tác đào tạo: Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo về nghiệp vụ TTQT, tập trung hướng dẫn về luật pháp trong TTQT của các nước có liên quan; xu hướng mới trong việc sử dụng các thông lệ quốc tế… Ký những thỏa thuận về trao đổi và học tập nghiệp vụ TTQT với các ngân hàng có bề dày kinh nghiệm trong TTQT như Citibank, HSBC… Khuyến khích công tác tự đào tạo trong các nhân viên TTQT. Khuyến khích nhân viên tự trau dồi trình độ ngoại ngữ (tiếng Anh) bao gồm cả bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết (hiện nay đa số các nhân viên chỉ chú trọng kỹ năng đọc và viết) để góp phần nâng cao tính quốc tế của nghiệp vụ; đồng thời tham khảo thêm các báo và tạp chí chuyên ngành ngân hàng như Thời báo ngân hàng, Tạp chí ngân hàng, Tạp chí công nghệ ngân hàng… để thường xuyên tích lũy, nâng cao kiến thức nghiệp vụ. Tuy nhiên, hoạt động TTQT là hoạt động đòi hỏi nhân viên không chỉ có kiến thức chuyên sâu về nghiệp vụ mà còn phải nắm bắt được các thông tin về luật pháp, về bảo hiểm, về vận tải… cũng như về tình hình kinh tế xã hội trong và ngoài nước. Việc nắm bắt các thông tin trên không chỉ có ý nghĩa là nâng cao khả năng tác nghiệp cho nhân viên mà còn thể hiện tính chuyên nghiệp và cập nhật của ngân hàng, giúp cho nhân viên tự tin hơn khi tư vấn cho khách hàng. Về chế độ lương, thưởng: ngân hàng phải có chế độ tiền lương hợp lý đối với các nhân viên. Mức lương phải phù hợp với năng lực và sự cống hiến của nhân viên. Ngân hàng cũng nên có chính sách khen thưởng đối với các nhân viên có tinh thần làm việc tốt, nhiệt tình hăng say trong công việc hoặc có đóng góp tích cực cho sự phát triển của ngân hàng. Chính sách khen thưởng cần đa dạng, có thể bằng vật chất, hiện vật, đề cử vào chức vụ cao hơn hoặc bằng các giá trị tinh thần như biểu dương trước tập thể…. Ngoài ra, ngân hàng còn cần chú ý hơn nữa chế độ phúc lợi cho nhân viên. Chính sách khen thưởng hợp lý sẽ giúp nhân viên có tinh thần làm việc thoải mái đồng thời tránh được hiện tượng “chảy máu chất xám” giữa các ngân hàng. Bên cạnh đó, đối với nhân viên trẻ mới tuyển dụng thì cần tạo cơ hội cho họ học hỏi, nâng cao năng lực, vì đây là nguồn lực tiềm năng trong tương lai của ngân hàng. Mặc dù chưa có kinh nghiệm thực tiễn nhiều nhưng họ là những người năng động sáng tạo, có những ưu nhược điểm riêng có thể cải thiện được trong quá trình làm việc. Kinh nghiệm của những người đi trước thêm với kiến thức và nhiệt tình của lớp trẻ sẽ giúp ngân hàng có một đội ngũ nhân viên vững mạnh và toàn diện. 4.2.4 Xác định tỷ lệ kí quỹ hợp lý Ký quỹ là một hình thức đảm bảo nhằm ràng buộc khách hàng đối với nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán, đồng thời cũng là biện pháp để ngân hàng phòng ngừa rủi ro. Một mức kí quỹ hợp lý sẽ có tác dụng tạo thuận lợi cho khách hàng (nhà nhập khẩu) trong hoạt động kinh doanh tránh được tình trạng tồn đọng vốn. Nếu tỷ lệ kí quỹ quá cao hay quá thấp thì kết quả của nó là hoặc vốn của khách hàng bị đóng băng trong suốt thời gian thanh toán và mất khả năng sinh lợi hoặc làm tăng nguy cơ dẫn đến rủi ro của ngân hàng. Vì vậy, mức tỷ lệ kí quỹ cần phải được xác định hợp lý. Có thể dựa trên một số nguyên tắc sau để xác định: Loại L/C: L/C trả chậm thì tỷ lệ kí quỹ thường thấp hơn L/C trả ngay vì mục đích của L/C trả chậm là để vay vốn nước ngoài, thời gian thanh toán khá dài. Vì vậy, nếu tỷ lệ kí quỹ quá cao sẽ làm ứ đọng vốn của nhà nhập khẩu. Loại hàng hóa nhập khẩu. Ngân hàng nên xem xét nhiều yếu tố như hàng hóa thuộc nhóm hàng tiêu dùng, máy móc sản xuất hay nguyên liệu thô…. Ngoài ra, cũng cần xét đến các yếu tố thị trường như khả năng tiêu thụ, tình hình biến động giá cả hàng hóa trên thị trường. Khả năng thanh toán của khách hàng: khả năng thanh toán phải được biểu hiện cụ thể qua tỷ lệ số dư trên tài khoản tiền gửi tại thời điểm thanh toán với giá trị của LC. Khả năng thanh toán của khách hàng càng cao thì tỷ lệ ký quỹ càng thấp và ngược lại. Mức giao dịch thường xuyên (tần suất giao dịch) của khách hàng với ngân hàng. Ngân hàng phải xác định tần suất giữa khách hàng với mình để phân loại khách hàng thuộc nhóm có quan hệ thường xuyên, quan hệ lâu dài với ngân hàng hay không, từ đó sẽ xác định mức kí quỹ hợp lý. Với khách hàng thân thuộc thì có thể xác định mức kí quỹ thấp hơn. Uy tín trong thanh toán của khách hàng. Để xác định mức độ uy tín trong thanh toán của khách hàng, nhân viên TTQT phụ trách khách hàng cần xem lại những lần thanh toán trước đây, đồng thời tìm kiếm thêm thông tin qua các ngân hàng khác, qua trung tâm thông tin tín dụng. Như vậy, trong khâu xác định tỷ lệ ký quỹ, ngân hàng cần phải phân tích các tiêu chuẩn không chỉ dựa vào kinh nghiệm và những đánh giá cảm tính mà cần phải định lượng từng chỉ tiêu cụ thể, từ đó mới có thể đưa ra mức ký quỹ phù hợp. Ngoài ra, Sacombank cần xem số tiền ký quỹ như là nguồn tài sản làm tin cho việc phát hành L/C. Thực chất của khoản tiền này là tiền gửi thanh toán của khách hàng, ngân hàng có thể tận dụng làm nguồn vốn tín dụng. Do vậy, cần xem xét để áp dụng việc trả lãi cho khách hàng trên cơ sở số tiền ký quỹ theo lãi suất tiền gửi không kì hạn. Tuy khoản lãi này không lớn song nó thể hiện sự công bằng, bình đẳng giữa ngân hàng và khách hàng. Thành lập và phát triển bộ phận tư vấn cho khách hàng Đối với các ngân hàng phát triển trong khu vực và trên thế giới, bộ phận tư vấn khách hàng là không thể thiếu. Nó có vai trò quan trọng giúp làm tăng hiệu quả công việc và rất cần thiết trong thanh toán tín dụng chứng từ. Tại Sacombank hầu như chưa có bộ phận tư vấn khách hàng riêng biệt cho hoạt động thanh toán quốc tế. Trong bối cảnh các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hầu như không có sự khác biệt như hiện nay thì công tác tư vấn khách hàng là một dịch vụ “vô hình” có ý nghĩa hết sức thực tiễn trong việc tạo ra sự khác biệt hóa cho Sacombank. Dịch vụ này sẽ làm cho khách hàng cảm thấy được phục vụ tốt hơn, được “chăm sóc” nhiều hơn. Vì vậy, Sacombank nên thành lập một bộ phận tư vấn khách hàng. Việc thành lập bộ phận tư vấn khách hàng sẽ giúp cho chất lượng tư vấn cao hơn, tránh những sai sót không đáng có trong quá trình giao dịch, ngăn chặn ngay từ đầu những rủi ro có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến khách hàng và ngân hàng. Ngoài ra, làm tốt công tác tư vấn còn có tác dụng tích cực trong việc đa dạng hóa các loại L/C được mở tại ngân hàng và giúp thu hút thêm những khách hàng mới. Bộ phận tư vấn không nhất thiết phải được thành lập riêng biệt, nó có thể gộp chung với bộ phận thanh toán quốc tế và chịu sự quản lý của bộ phận này. Bộ phận tư vấn nên kết hợp luôn hoạt động tư vấn với hoạt động tiếp thị và dịch vụ khách hàng xuất nhập khẩu. Một số nội dung cụ thể mà bộ phận tư vấn có thể tư vấn cho khách hàng của mình là: Các thông tin về đối tác, thị trường Thông qua mạng lưới ngân hàng đại lý rộng lớn, Sacombank có thể dễ dàng tìm kiếm và cung cấp cho khách hàng của mình các thông tin về mức độ tín nhiệm của các nhà xuất nhập khẩu nước ngoài cũng như thông tin về các thị trường xuất nhập khẩu trên thế giới. Từ đó, giúp cho khách hàng tìm được những nguồn cung cấp hàng hóa đáng tin cậy. Tư vấn việc lựa chọn điều kiện thương mại khi kí kết hợp đồng ngoại thương Trong hợp đồng ngoại thương, lựa chọn điều kiện thương mại là một điều rất quan trọng. Một điều kiện thương mại phù hợp sẽ giúp doanh nghiệp xuất nhập khẩu tạo được nhiều lợi thế trong quá trình giao dịch mua bán. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa tạo được nhiều ưu thế cho mình trong việc lựa chọn điều kiện thương mại cho hợp đồng. Ví dụ, khi nhập khẩu các doanh nghiệp Việt Nam thường chọn điều kiện CIF Incoterms 2000. Nguyên nhân là khi nhập theo giá CIF người mua không cần phải thuê tàu và mua bảo hiểm. Với suy nghĩ như vậy cộng với sự hiểu biết không nhiều về các hãng vận tải và cách mua bảo hiểm nên các doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam mới chọn điều kiện thương mại này. Thực tế, việc nhập hàng theo giá CIF sẽ gây bất lợi cho nhà nhập khẩu về nhiều mặt: Thứ nhất, người mua hàng theo giá CIF sẽ phải mua hàng với giá cao hơn do giá cả đã bao gồm cả tiền thuê tàu và tiền bảo hiểm. Thứ hai, nhà nhập khẩu sẽ bị động về tàu bè do khi được thông báo có tàu đến mới tiến hành ra nhận hàng. Nếu có sơ suất hay chậm trễ thì sẽ bị phạt do dỡ hàng chậm, kéo dài thời gian neo đậu. Thứ ba, thiệt hại do mất đi những khoản ưu đãi của hãng tàu dành cho người thuê tàu như khoản hoa hồng, khoản ưu đãi giảm giá. Thứ tư, việc thuê tàu và mua bảo hiểm trong nước sẽ tạo điều kiện cho hai lĩnh vực kinh doanh này phát triển, góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia. Và một yếu tố quan trọng hơn cả là ở điều kiện Incoterms này, người mua vẫn phải chịu rủi ro từ khi hàng hóa được giao hẳn qua lan can tàu tại cảng xếp hàng. Sau nhiều năm, tình trạng nhập theo giá CIF vẫn phổ biến tại Việt Nam cũng như đối với các khách hàng của Sacombank. Có thể nguyên nhân là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước ta chưa thực sự hiểu biết nhiều về các điều kiện thương mại mà chỉ làm theo thói quen đã có từ trước, và các doanh nghiệp này cũng còn có suy nghĩ chưa tốt về dịch vụ vận tải và bảo hiểm trong nước. Hiện nay, hoạt động vận tải và bảo hiểm ở nước ta đang ngày càng phát triển và bắt đầu có khả năng cạnh tranh với nước ngoài. Do đó, ngân hàng nên tư vấn cho khách hàng lựa chọn điều kiện thương mại phù hợp, mang lại lợi ích tối đa cho khách hàng cũng như nền kinh tế của đất nước. Ngoài việc tư vấn về các điều kiện thương mại, cũng nên tư vấn cho khách hàng về việc lựa chọn con tàu trong quá trình vận chuyển. Trong trường hợp người bán dành được quyền thuê tàu, ngân hàng nên tư vấn cho người mua quy định giới hạn về độ tuổi của tàu trong hợp đồng. Vì độ tuổi của tàu càng già thì cước phí càng rẻ nhưng độ an toàn cho hàng hóa không cao. Tư vấn việc lựa chọn các phương thức thanh toán Mỗi phương thức thanh toán đều có ưu nhược điểm riêng, do đó tùy thuộc vào mối quan hệ giữa hai bên mua bán, giá trị thương vụ lớn hay nhỏ, vị trí, uy tín trên thương trường thuộc về ai mà ngân hàng tư vấn cho khách hàng phương thức thanh toán phù hợp nhằm đảm bảo lợi ích cao nhất cho khách hàng. Một phương thức thanh toán phù hợp sẽ giúp khách hàng giảm chi phí nhưng vẫn không gặp nhiều rủi ro trong khâu tiếp nhận hàng hóa và thanh toán. Tư vấn cho nhà nhập khẩu việc lựa chọn loại thư tín dụng nếu thanh toán bằng phương thức TDCT Trong thanh toán quốc tế có nhiều loại L/C khác nhau và mỗi loại L/C đều có những đặc tính riêng, tùy thuộc vào loại hình, cách thức xuất nhập khẩu mà từng loại L/C sẽ được áp dụng. Do đó, để hoạt động thanh toán TDCT ngày càng phát triển, ngân hàng cần chủ động đa dạng hóa các loại L/C thông qua việc tư vấn cho khách hàng lựa chọn loại L/C phù hợp với từng thương vụ mua bán nhằm giảm chi phí và tăng hiệu quả kinh doanh cho khách hàng. Chẳng hạn, trong trường hợp hai bên có quan hệ mua bán thường xuyên, quen biết, có uy tín với nhau, khối lượng hàng hóa mua bán ổn định thì ngân hàng nên tư vấn cho khách hàng lựa chọn Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving letter of credit). Như vậy, nhà nhập khẩu không bị ứ đọng vốn, được phép mua hàng trong thời gian dài, tiết kiệm được chi phí mở L/C. Còn đối với nhà xuất khẩu sau khi giao hàng có thể nhanh chóng nhận được tiền hàng. Trong quan hệ mua bán hàng đổi hàng, trong gia công quốc tế thì nên tư vấn cho khách hàng lựa chọn Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal letter of credit). Hiện nay, ở Việt Nam có rất nhiều doanh nghiệp nhận gia công cho các quốc gia khác nhau, nhiều nhất là Nhật Bản và Hàn Quốc, vì vậy việc cung cấp L/C đối ứng là hợp lý. Tuy nhiên, để có hiệu quả trong việc thực hiện, ngân hàng cần phải nghiên cứu kỹ các điều kiện của khách hàng như năng lực kinh doanh, khả năng tài chính, từ đó có thể hỗ trợ khách hàng trong việc mở L/C đối ứng và lập bộ chứng từ thanh toán. Tư vấn cho nhà nhập khẩu những rủi ro trong phương thức TDCT và các biện pháp phòng ngừa rủi ro. Một số rủi ro có thể xảy ra là: Rủi ro nhà xuất khẩu không cung cấp được hàng hóa theo đúng qui định của L/C mặc dù nhà nhập khẩu đã tập trung vốn cho L/C này. Để phòng ngừa loại rủi ro này, ngân hàng cần tư vấn cho khách hàng phải tìm hiểu kỹ về đối tác của mình, đồng thời có thể quy định thêm điều khoản Penalty về mức phạt khi một trong hai bên không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Bên cạnh đó, ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng sử dụng Thư tín dụng dự phòng (Standby letter of credit) nhưng cũng nên lưu ý khách hàng vì phí mở thường cao, chỉ nên áp dụng đối với những hợp đồng có giá trị lớn và đối tác mới quan hệ làm ăn lần đầu. Rủi ro nhà nhập khẩu gặp phải bộ chứng từ giả hoặc có mâu thuẫn giữa hàng hóa và chứng từ, mâu thuẫn giữa các chứng từ. Đối với loại rủi ro này, ngân hàng tư vấn cho khách hàng phải quy định nội dung của L/C thật chặt chẽ, rõ ràng và yêu cầu bộ chứng từ phải do các cơ quan có trách nhiệm cấp. Nếu không tin tưởng vào bộ chứng từ thanh toán có thể yêu cầu nhà xuất khẩu gửi hoặc fax bộ chứng từ (bản copy) để tham khảo và phòng ngừa trường hợp hàng hóa đến nơi mà bộ chứng từ bất hợp lệ, phải chờ xử lý của hai bên. Ngoài ra, thanh toán quốc tế luôn gắn liền với rủi ro ngoại hối, vì vậy tư vấn cho khách hàng về việc lựa chọn đồng tiền thanh toán và sử dụng các công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá cũng không kém phần quan trọng. 4.2.6 Điều chỉnh biểu phí dịch vụ cạnh tranh hơn Hiện nay, biểu phí dịch vụ của ngân hàng có vài khoản vẫn còn ở mức khá cao so với các ngân hàng khác. Ví dụ, phí ký hậu B/L của Sacombank là 5USD, trong khi những ngân hàng khác như ACB hay Đông Á chỉ có 2USD. Ngân hàng có thể thường xuyên theo dõi sự thay đổi biểu phí của những ngân hàng khác để có những bước điều chỉnh cho phù hợp nhằm thỏa mãn khách hàng hiện tại cũng như thu hút thêm khách hàng mới. Một biểu phí phù hợp là một biểu phí làm hài lòng khách hàng đồng thời vẫn mang lại lợi nhuận cho khách hàng. Đối với các khách hàng cũ, khách hàng thân thiết và có uy tín trong giao dịch với ngân hàng nên có những ưu đãi về mức phí áp dụng. Ngân hàng đưa ra mức phí dịch vụ tỷ lệ nghịch với tỷ lệ ký quỹ của khách hàng. Tức là mức ký quỹ càng cao thì sẽ được áp dụng mức phí thấp. Đối với khách hàng mới giao dịch lần đầu, do chưa nắm rõ khả năng, uy tín của họ nên ngân hàng thường yêu cầu tỷ lệ kí quỹ khá cao. Do đó, để khuyến khích các doanh nghiệp này ngân hàng nên giảm phí dịch vụ cho họ. Có thể mức giảm này không nhiều chỉ khoảng dưới 5% nhưng nó sẽ có tác dụng tích cực vào tâm lý của khách hàng và có thể lôi kéo họ tiếp tục giao dịch với ngân hàng trong những lần sau. Việc áp dụng cách tính phí như trên có thể sẽ làm cho ngân hàng giảm bớt khoản phí thu được trên một L/C, nhưng ngân hàng sẽ thu hút thêm được nhiều khách hàng, đồng thời thu được nhiều phí trên một khách hàng do họ sẽ mở L/C nhiều hơn tại ngân hàng. 4.2.7 Nâng cao hiệu quả kinh doanh ngoại hối và thu hút ngoại tệ Hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu có nhu cầu rất lớn về ngoại tệ, đặc biệt khi hoạt động TDCT ngày càng phát triển thì đòi hỏi lượng ngoại tệ thanh toán phải dồi dào. Vì thế, ngân hàng cần có những giải pháp hợp lý để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ ngày càng tăng này. Trong những năm gần đây, Sacombank được xem là một ngân hàng có nguồn thu ngoại tệ khá cao, chủ yếu từ hoạt động kiều hối và kinh doanh ngoại tệ. Chính nguồn ngoại tệ này đã tạo ra tính thanh khoản trong thanh toán L/C của ngân hàng. Tuy nhiên, để đảm bảo cho khả năng thanh toán hàng nhập vẫn ở mức cao, ngân hàng cần phát triển hơn nữa hoạt động thu hút ngoại tệ và kinh doanh ngoại hối thông qua một số hình thức như: a. Tiếp tục đẩy mạnh công tác thu hút ngoại tệ thông qua nguồn kiều hối. Với hơn 2,5 triệu kiều bào đang định cư ở hải ngoại và mỗi năm gửi về Việt Nam cho người thân hàng tỷ đôla thì nguồn kiều hối luôn được xem là nguồn ngoại tệ quan trọng của Việt Nam. Theo quy định hiện nay thì người nhận trong nước được phép tự nhận ngoại tệ tiền mặt hoặc bán lại cho ngân hàng. Ngân hàng nên có những chính sách thu hút đối với nguồn kiều hối nhàn rỗi này bằng cách đề nghị khách hàng bán lại cho ngân hàng với mức giá hấp dẫn hoặc hướng dẫn khách hàng tham gia các chương trình tiết kiệm dự thưởng bằng ngoại tệ với lãi suất ưu đãi. b. Sacombank cần tăng cường tài trợ xuất khẩu để thu hút nguồn ngoại tệ cho ngân hàng thông qua nguồn thu của các doanh nghiệp xuất khẩu. Sacombank có thể áp dụng các hình thức tài trợ sau: Tài trợ trước khi giao hàng. Hiện nay, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với khả năng tự tiếp thị không cao và không đủ năng lực tài chính để thực hiện các hợp đồng ngoại thương có giá trị tương đối lớn. Các doanh nghiệp này cũng am hiểu chưa nhiều về luật pháp và tập quán thương mại quốc tế nên dễ bị thua thiệt khi có tranh chấp xảy ra. Đây chính là các đối tượng rất cần được sự tài trợ của ngân hàng. Vì vậy, Sacombank có thể xem xét nếu phương án kinh doanh của khách hàng khả thi thì sẽ tiến hành tài trợ cho doanh nghiệp dưới hình thức cho vay vốn để thu mua nguyên vật liệu chế biến hàng xuất khẩu, hoặc tạo điều kiện phát triển cho họ ngay từ đầu bằng các hình thức như tín dụng thuê mua, cho vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản…ở mức lãi suất ưu đãi. Với điều kiện các doanh nghiệp này phải bán lại cho ngân hàng một lượng ngoại tệ thu về sau khi đã hoàn thành thương vụ. Tuy nhiên, đây là một hoạt động có nhiều rủi ro, do đó, ngân hàng phải thẩm định các phương án kinh doanh và doanh nghiệp một cách rất cẩn thận và kỹ lưỡng, thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động cũng như diễn biến của thương vụ để tránh tình trạng gian lận của các bên tham gia, gây ảnh hưởng cho ngân hàng. Tài trợ sau khi giao hàng. Ngân hàng có thể thực hiện hình thức tài trợ này bằng cách chiết khấu bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu. Hiện nay, tỷ lệ chiết khấu ở Sacombank khoảng 90% trị giá bộ chứng từ nên để thu hút thêm khách hàng, ngân hàng có thể tăng mức chiết khấu bộ chứng từ, thậm chí có thể tài trợ dưới hình thức mua đứt bộ chứng từ nếu nó hoàn toàn phù hợp với quy định của L/C. Tài trợ dưới hình thức chiết khấu bộ chứng từ đang được các ngân hàng đua nhau cạnh tranh vì đây là hình thức vừa có thể cho vay, vừa có thể thu lãi chắc chắn, mặt khác có thể thu được lợi nhuận từ chênh lệch kinh doanh ngoại tệ, qua đó đóng góp đáng kể vào nguồn thu nhập của ngân hàng. 4.2.8 Giữ vững và phát triển thương hiệu Sacombank; tăng cường công tác khách hàng a. Giữ vững và phát triển thương hiệu Thương hiệu là tiêu chí, là nền tảng, đồng thời cũng là vũ khí đầy uy lực trên thương trường. Vì thế, đối với một doanh nghiệp mục tiêu hàng đầu được theo đuổi bền bỉ và liên tục là việc sáng lập và tạo dựng thành công một thương hiệu. Ngân hàng thực chất cũng là một doanh nghiệp nên trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc Sacombank xây dựng một thương hiệu mạnh là cần thiết. Thực tế, thương hiệu Sacombank đã là một thương hiệu mạnh và có uy tín trên thị trường. Tận dụng thế mạnh này, Sacombank nên tiếp tục củng cố và bảo vệ thương hiệu một cách có hiệu quả. Làm được vậy các dịch vụ mà Sacombank cung cấp sẽ dễ dàng được khách hàng đón nhận và tín nhiệm. Đặc biệt trong TTQT thì uy tín của ngân hàng, độ tin tưởng của khách hàng vào ngân hàng rất quan trọng. Một vài cách để ngân hàng có thể phát triển thương hiệu: Quảng bá thương hiệu không đơn thuần chỉ là quảng cáo, dù quảng cáo là một bộ phận không thể thiếu được trong quá trình phát triển thương hiệu. Cái gốc của thương hiệu là uy tín của sản phẩm và dịch vụ, sự bền vững của chất lượng. Vì vậy, Sacombank cần nỗ lực hơn nữa để cung cấp cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ ngày càng chất lượng. Ngoài ra, cũng nên đa dạng hóa, luôn đổi mới các sản phẩm, dịch vụ để khách hàng có nhiều sự lựa chọn khi đến với ngân hàng. Liên tục phát triển hệ thống kênh phân phối, ở đây có thể hiểu là các chi nhánh của ngân hàng; quản lý thương hiệu để đảm bảo uy tín và hình ảnh của thương hiệu không ngừng được nâng cao. Sử dụng các biện pháp hỗ trợ như quảng cáo trên truyền hình, trên các tờ báo, tạp chí có số lượng phát hành lớn, nhiều độc giả như Tạp chí Ngân hàng, Kinh tế Sài Gòn, Tuổi Trẻ, Thanh Niên…; có các chương trình khuyến mãi cho khách hàng. Phát huy hơn nữa quỹ học bổng “Sacombank – ươm mầm cho những ước mơ”, tham gia các buổi tư vấn hướng nghiệp, các buổi giao lưu ngày hội việc làm tại các trường đại học. b. Tăng cường công tác khách hàng Hoạt động kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào khách hàng. Khách hàng là nhân tố quyết định sự thành công cũng như sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Do đó ngân hàng phải nỗ lực rất nhiều trong việc duy trì mối quan hệ lâu dài với các khách hàng thân tín, đồng thời phải có chính sách tiếp cận và phát triển đối với nhóm khách hàng mới. Có như vậy thì ngân hàng mới có thể đứng vững và gia tăng hơn nữa thị phần của mình trong điều kiện thị trường chung ngày càng bị chia nhỏ. Sacombank có thể: Duy trì mối quan hệ tốt đẹp với các khách hàng sẵn có nhằm mục đích làm họ trở thành khách hàng trung thành của ngân hàng. Những ưu đãi về mức phí, về thủ tục, về mức ký quỹ hay tỷ lệ chiết khấu… là những biện pháp không thể thiếu để giữ chân khách hàng hiện có này. Việc duy trì và phát triển mối quan hệ với những khách hàng thân tín sẽ rất có lợi cho ngân hàng vì chính nhóm khách hàng này sẽ là kênh gián tiếp thu hút khách hàng mới đến với ngân hàng thông qua những mối quan hệ làm ăn của họ. Ngân hàng cần chủ động tìm đến khách hàng chứ không đợi khách hàng tìm đến mình. Ngân hàng có thể tìm kiếm khách hàng mới bằng cách thường xuyên theo dõi tình hình thành lập các doanh nghiệp, đặc biệt các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Sau đó tiếp cận và giới thiệu các dịch vụ của ngân hàng, trong đó phải nêu bật được những tiện ích mà dịch vụ mà mình cung cấp. Với xu hướng phát triển của ngành xuất nhập khẩu hiện nay thì số lượng khách hàng tiềm năng là không nhỏ, vì vậy Sacombank nên chủ động đi trước một bước tìm cách tiếp cận thì sẽ thu hút được một lượng khách hàng đáng kể. Định kỳ tổ chức các Hội nghị khách hàng với các khách hàng thân tín để lắng nghe ý kiến đóng góp, phản hồi về sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Qua đó tìm hiểu thêm những nhu cầu mới của khách hàng từ đó phát triển, hoàn thiện các sản phẩm với mục đích cuối cùng là phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. Ngoài ra, Sacombank nên tạo điều kiện để khách hàng có thể dễ dàng tìm hiểu, tiếp cận với các dịch vụ về TTQT của ngân hàng bằng cách cung cấp thêm các thông tin trên website của ngân hàng. Hiện nay, các thông tin về TTQT trên website của Sacombank vẫn còn sơ sài, chỉ giới thiệu chung chung về các phương thức thanh toán và biểu phí, chưa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu của khách hàng. Website có thể cung cấp thêm một số thông tin cần thiết như: Các hướng dẫn về quy trình, thủ tục một cách rõ ràng, dễ hiểu. Điều này sẽ giúp tiết kiệm thời gian và giảm bớt những sai sót cho khách hàng khi giao dịch với ngân hàng. Giới thiệu những tiện tích, ưu đãi mà khách hàng sẽ nhận được khi sử dụng dịch vụ tại Sacombank. Cung cấp các mẫu biểu về TTQT để khách hàng có thể tải các mẫu hồ sơ mà không cần phải đến trực tiếp ngân hàng. Giới thiệu những kết quả, những thành công cũng như các giải thưởng trong nước và quốc tế về hoạt động TTQT mà Sacombank đạt được. Việc cung cấp thông tin một cách rõ ràng, đầy đủ sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng khi muốn giao dịch với Sacombank đồng thời thể hiện sự cố gắng, nỗ lực của ngân hàng trong việc thỏa mãn nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất. 4.3 KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG Theo số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có tới 70% giám đốc các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa được đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương và TTQT trong khi 80% - 85% số doanh nghiệp đó tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu hoặc ủy thác xuất nhập khẩu. Chính vì thiếu kiến thức về kinh doanh xuất nhập khẩu nên các doanh nghiệp thường xuyên vướng vào các vụ tranh chấp trong thương mại quốc tế và phần nhiều phải chịu thua thiệt. Điều này không chỉ làm ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp mà còn của cả ngân hàng xảy ra tranh chấp. Do đó, để nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức TDCT tại Sacombank thì đòi hỏi khách hàng phải phối hợp thực hiện tốt một số vấn đề sau: Cần tuân thủ chặt chẽ những quy định cơ bản của hoạt động thương mại quốc tế, không nên bỏ qua những chi tiết cho dù là nhỏ nhất trong hợp đồng mua bán để tạo sơ hở cho phía khách hàng có thể bắt lỗi. Khi ký kết hợp đồng ngoại thương, các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải có kiến thức về thị trường hàng hóa và thị trường tài chính trên thế giới đồng thời phải biết cân nhắc trong việc quy định các điều kiện, điều khoản của hợp đồng ngoại thương. Đây là những kiến thức rất quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh các vụ lừa đảo và gian lận thương mại trên thế giới ngày càng gia tăng. Kiểm tra kỹ lưỡng và xác minh tư cách pháp lý và năng lực tài chính của phía đối tác nước ngoài trước khi chính thức ký kết hợp đồng kinh tế, nhằm tránh những rủi ro, tổn thất do bên đối tác mang lại. Không vì chạy theo lợi nhuận mà dễ dàng chấp nhận những điều kiện bất lợi cho mình, từ đó dẫn đến những vụ tranh chấp, kiện tụng kéo dài, gây thua lỗ, thiệt hại không đáng có cho doanh nghiệp. Nâng cao trình độ quản lý, kiến thức pháp luật, kinh doanh quốc tế để thực hiện các thương vụ thành công. Nắm bắt kịp thời về thông tin giá cả, thị trường, tỷ giá và các quyết định pháp luật của Nhà nước để có những chiến lược kinh doanh phù hợp với từng giai đoạn. Nghiên cứu, xem xét kỹ các yêu cầu, tư vấn của ngân hàng đối với doanh nghiệp trong quá trình mở L/C để có những tu chỉnh kịp thời, hạn chế thấp nhất những rủi ro và giảm được chi phí bất hợp lý phát sinh trong quá trình hoạt động. Chú ý đến các vấn đề xây dựng, bảo vệ và phát triển thương hiệu; cải tiến công nghệ và chất lượng sản phẩm để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường nước ngoài. Nên tăng cường tính liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với nhau cũng như giữa doanh nghiệp với các tổ chức, hiệp hội của ngành để tiếp thu những kinh nghiệm, hạn chế những rủi ro, tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, trước khi đề nghị ngân hàng mở TTD, các doanh nghiệp cũng phải tự trang bị cho mình những kiến thức cơ bản liên quan đến phương thức TDCT như tìm hiểu về UCP 500, UCP 600, về các điều kiện thương mại quốc tế… cũng như các điều kiện mở L/C tại ngân hàng qua đó tạo sự hợp tác tốt giữa ngân hàng và khách hàng góp phần tạo nên thành công cho giao dịch. Và để không bị tụt hậu trong vấn đề công nghệ, các doanh nghiệp nên có kế hoạch dành một khoản kinh phí đầu tư cho công nghệ thông tin. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp và ngân hàng có thể phối hợp nhịp nhàng trong việc thực hiện TDCT điện tử. Bởi vì ngân hàng có thể đưa eL/C vào cung cấp dịch vụ được hay không điều này phụ thuộc rất nhiều vào sự tương thích về công nghệ giữa ngân hàng và khách hàng. Với việc ứng dụng eL/C cả ngân hàng và doanh nghiệp đều giảm được rất nhiều thời gian trong việc mở L/C, kiểm tra bộ chứng từ, thanh toán L/C…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThanh ton hng nh7853p kh7849u b7857ng ph432417ng thc Tn d.doc
Tài liệu liên quan