Quan hệ thương mại Việt Nam - EU trong những năm vừa qua phát triển rất mạnh nhờ những chiến lược rõ ràng của cả hai bên. Đối với EU thì chủ yếu đó là cái nhìn về chính trị và kinh tế đúng đắn hơn đối với châu Á - khu vực kinh tế năng động và có những biến chuyển thần kỳ - trong đó có Việt Nam. Còn đối với Việt Nam thì đó là chiến lược thúc đẩy quan hệ thương mại với tất cả các nước, đặc biệt là tham vọng đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu sang thị trường EU rộng lớn.
Trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng nông sản với thị trường này còn chưa có sự biến chuyển về chất, do những khó khăn tồn tại cố hữu, hay những khó khăn mới nảy sinh do tình hình mới. Tiêu biểu như việc EU còn đánh thuế 100% vào mặt hàng gạo, 200% đối với mặt hàng đường hoặc những hạn chế về vốn và thông tin của các doanh nghiệp Việt Nam.Tất cả đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiến sâu, tiến chắc vào thị trường này.
Việc xâm nhập vào thị trường EU là rất khó, nhất lại đối với mặt hàng nông sản vồn là mặt hàng EU có nhiều chính sách bảo hộ. Với những chính sách bảo hộ nông nghiệp và các hàng rào phi quan thuế, EU khiến cho các nước muốn xuất khẩu hàng nông sản phải nỗ lực rất lớn mới có thể làm hài lòng bạn hàng “khó tính” nhưng cũng giàu tiềm năng này. Trong khoá luận này, em đã nêu ra thực trạng, những khó khăn mà doanh nghiệp Việt nam sẽ gặp phải khi xuất khẩu hàng sang EU và cũng đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại và khó khăn đó nhằm đóng góp một phần nhỏ bé vào việc mở rộng và đẩy mạnh thương mại Việt Nam trong giai đoạn mới. Các giải pháp trước hết tập trung vào việc nâng cao hơn nữa kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường EU như nâng cao vai trò của cơ quan quản trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp, kêu gọi bản thân các doanh nghiệp cũng phải cố gắng rất nhiều để tạo dựng uy tín và giữ bạn hàng. Một hạn chế nữa dẫn đến việc xuất khẩu nông sản của Việt nam sang EU gặp khó chính là những hạn chế nội tại, có nghĩa là chính chúng ta vẫn chưa vạch ra được phương hướng phát triển cụ thể với những phương án tiếp cận khả thi để xâm nhập thị trường này. Hy vọng rằng, những đề xuất và kiến nghị trong khoá luận này sẽ góp phần vào việc hiện thực hoá chiến lược tăng cường quan hệ thương mại Việt Nam - EU nói riêng cũng như thúc đẩy thương mại Việt Nam nói chung tiến bộ cả về lượng và chất trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
84 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1920 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thị trường EU và khả năng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
do, họ sẽ không phải mất khoản tiền này. Những hàng hoá nhập khẩu từ EU đương nhiên cũng không có ngoại lệ. Cho dù có đang được hưởng thuế diện ưu đãi đi chăng nữa, nhưng việc tăng thêm 1% thuế nhất định trên mức thuế cũ cũng sẽ gây nhiều khó khăn cho hàng hoá EU vào Việt Nam.
EU vẫn xem Việt Nam là nước có nền thương nghiệp quốc doanh khi áp dụng những biện pháp chống bán phá giá. Những định kiến trên đã khiến cho hàng hoá của Việt Nam trở nên bất lợi hơn so với các nước khác. Chẳng hạn, EU lấy giá thành sản phẩm của một nước phát triển làm chuẩn, trong khi giá nhân công và nguyên vật liệu của nước đó lại cao hơn nước ta, do đó hàng Việt Nam trở nên rẻ hơn nhưng lại bị EU cho rằng có sự bảo hộ của nhà nước.
EU vẫn dùng các biện pháp hạn chế nhập khẩu đối với hàng hoá Việt Nam. Trong quan hệ thương mại với Việt Nam, bản thân EU cũng chưa đối xử cởi mở. Tuy EU đã mở rộng cửa đối với hàng hoá Việt Nam sau khi ký kết các Hiệp định, nhưng về mức độ thì EU vẫn dè dặt, chưa thực sự nới lỏng, vẫn dùng hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam. EU còn đặt ra các hàng rào phi quan thuế với các mặt hàng nông sản nhập khẩu từ nước ngoài trong đó có Việt nam. Chẳng hạn như EU đánh thuế 200% với mặt hàng đường nhập từ Việt nam.
Khả năng mở rộng và phát triển xuất khẩu của Việt nam sang EU là rất lớn, vấn đề đặt ra là Việt nam phải nhanh chóng giải quyết những tồn tại và khắc phục các mặt hạn chế để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của mình sang EU, phát triển tương xứng với tiềm năng kinh tế của Việt nam và đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của thị trường EU.
Trong một thời kỳ dài, theo những biến động của lịch sử, quan hệ thương mại Việt Nam - EU thực sự đã có những chuyển biến quan trọng: từ chỗ không có quan hệ thương mại thực sự đến chỗ chúng ta đã là một bạn hàng khá tin cậy của EU. Sự chuyển biến đó đánh dấu những nỗ lực không ngừng của cả hai bên theo hướng tích cực, phù hợp với xu hướng của thời đại. Hai bên đã đạt được những thành quả tốt đẹp, hứa hẹn nhiều triển vọng trong tương lai. Trong thời gian qua, cả hai bên cũng đã nhận ra những khó khăn còn tồn tại, những thách thức cần giải quyết một cách nghiêm túc sao cho quan hệ đôi bên phát triển lên một mức mới, tương xứng với tiềm năng sẵn có. Làm được điều đó, đòi hỏi cả hai bên phải cùng nhau nỗ lực, tạo cho nhau những điều kiện tốt nhất theo hướng hợp tác hai bên cùng có lợi. Chắc chắn rằng trong tương lai, kết quả quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu sẽ đạt được những tầm cao mới.
Chương iii
Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản việt nam sang thị trường liên minh châu âu
Định hướng phát triển thương mại Việt nam – EU trong giai đoạn mới
Định hướng chung về phát triển thương mại của Việt nam
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ 2001-2010 đặt ra mục tiêu trong vòng 10 năm tới GDP sẽ tăng gấp đôi (bình quân hàng năm phải tăng 7,2%), giá trị sản lượng nông nghiệp tăng khoảng 4%/năm, đến năm 2010 sản lượng lương thực đạt 40 triệu tấn, nông nghiệp chiếm tỷ trọng 16%-17% GDP, trong đó tỷ trọng sản phẩm chăn nuôi tăng từ 18% lên 20-25%, sản lượng thuỷ sản đạt 2,5-5 triệu tấn, giá trị gia tăng của công nghiệp tăng bình quân hàng năm 8-9%, đến năm 2010 công nghiệp chiếm tỷ trọng 40-41%GDP, tỷ trọng công nghiệp chế tác chiếm 89% giá trị sản xuất công nghiệp. Chiến lược còn dự kiến nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu tăng gấp đôi nhịp độ tăng trưởng GDP, tức là khoảng 14,4%/năm, trong đó nông sản xuất khẩu qua chế biến đạt kim nghạch 6-7 tỷ USD vào năm 2010, lương thực bình quân 4-5 triệu tấn/năm, khoáng sản đạt kim ngạch 3 tỷ USD, sản phẩm công nghiệp chiếm 70%-80% tổng kim ngạch xuất khẩu. Việc gia tăng xuất khẩu 14,4%/năm là nhiệm vụ không đơn giản vì xuất phát điểm của thời kỳ 2001-2010 cao hơn nhiều so với thời kỳ 1991-2000 (13,5 tỷ USD so với 2,4tỷ USD). Với những hạn chế còn tồn tại trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là những hạn chế mang tính cơ cấu, thì việc gia tăng giá trị tuyệt đối ở mức trên 2tỷ USD/năm đòi hỏi sự nỗ lực cao trong công tác xuất nhập khẩu. Bộ Thương mại đề xuất phương án phấn đấu tăng trưởng xuất khẩu thời kỳ 2001-2010 như sau:
Xuất khẩu hàng hoá: tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm, trong đó giai đoạn 2001-2005 tăng 16%/năm, giai đoạn 2006-2010 tăng 14%/năm. Giá trị tăng từ khoảng 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD năm 2005 và 54,6 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4 lần năm 2000.
Xuất khẩu dịch vụ: tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm. Giá trị gia tăng từ khoảng 2 tỷ USD năm 2000 lên 4 tỷ USD vào năm 2005 và 8,1 tỷ USD vào năm 2010, tức là gấp hơn 4 lần.
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ khoảng 15,5 tỷ USD vào năm 2000 lên 32,4 tỷ USD vào năm 2005 và 63,7 tỷ USD vào năm 2010, tăng hơn 4 lần.
Những nhiệm vụ và phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục xác định: “Củng cố vị trí ở các thị trường quen thuộc, khôi phục quan hệ với thị trường truyền thống, tìm kiếm thị trường và bạn hàng mới, giảm sự tập trung quá mức vào một vài thị trường. Tạo một số thị trường và bạn hàng lâu dài về những mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu chủ yếu, giảm xuất, nhập khẩu qua con đường trung gian”.
Cùng với chiến lược chung của quốc gia, chiến lược phát triển nông nghiệp đến năm 2010 là đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và hướng mạnh ra xuất khẩu để tạo đầu ra và tăng thu nhập cho nông dân. Vì vậy việc phát triển thị trường trong nước và mở rộng thị trường thế giới là vấn đề cần thiết đối với ngành nông nghiệp.
Nghiên cứu tình hình kinh tế của nước ta trong những năm qua, ta nhận thấy tính đúng đắn trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính châu á khiến nền ngoại thương của nước ta lâm vào tình trạng khó khăn trong một thời gian dài, bởi đã quá dựa vào thị trường ASEAN, Nhật Bản và Trung Quốc. Tuy nhiên, nhờ đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu với các thị trường ngoài châu lục, điển hình là thị trường EU, nên kim ngạch ngoại thương đã không ngừng tăng lên, đem lại một diện mạo khả quan cho nền kinh tế nước nhà.
Mới đây, hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết, mở ra cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam một thị trường mới và rộng lớn. Tuy nhiên, xâm nhập thị trường này hãy còn là cơ hội và thách thức, nên EU vẫn được coi là một bạn hàng truyền thống và một đối tác tin cậy của Việt Nam.
Định hướng chung về phát triển hàng nông sản Việt nam – EU
2.1 Triển vọng mở rộng xuất khẩu hàng hóa sang thị trường EU
Đến cuối năm 2004, EU sẽ chấm dứt thực hiện giai đoạn 2 của chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và xoá bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may của các nước là thành viên của WTO, còn đối với những nước không phải là thành viên của WTO như Việt nam thì chưa có chính sách cụ thể. Cho đến nay, EU vẫn chưa đưa ra chương trình thực hiện GSP cho thời kỳ từ năm 2005 trở đi, nhưng họ đang tiến dần từng bước giảm thuế quan và giảm ưu đãi GSP. Đến một thời điểm nhất định, hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển khi thâm nhập vào thị trường EU sẽ không được hưởng GSP nữa và phải cạnh tranh bình đẳng với các mặt hàng của các nước phát triển, chịu cùng một mức thuế như hàng của các nước này và không được hưởng các ưu đãi khác. Như vậy, thời kỳ 2005-2010 sẽ xảy ra hai trường hợp: thứ nhất, có thể hàng xuất khẩu của Việt nam vào EU không phải chịu hạn ngạch hoặc phải chịu hạn ngạch nhưng vẫn được hưởng GSP; thứ hai, có thể hàng xuất khẩu của Việt nam vào EU không phải chịu hạn ngạch và cũng không được hưởng GSP. Cho dù có xảy ra trường hợp nào thì giai đoạn 2005-2010 đối với hàng xuất khẩu Việt nam khi thâm nhập và tồn tại trên thị trường EU sẽ rất khó khăn và đầy thử thách. Đây thực sự là giai đoạn thử thách đối với các doanh nghiệp và hàng xuất khẩu Việt nam, nếu vượt qua được giai đoạn này thì triển vọng phát triển sẽ rất khả quan.
Thời kỳ 2002-2004, hàng xuất khẩu của Việt nam vào thị trường EU được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan (GSP) của EU, chỉ riêng hàng dệt may là bị quản lý bằng hạn ngạch. Hiện nay, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt nam vào EU như giầy dép, dệt may và thuỷ hải sản đang có ưu thế hơn so với mặt hàng cùng loại của các nước ASEAN khác có trình độ phát triển kinh tế cao hơn Việt nam như Thái lan, Indonesia v.v.. vì những mặt hàng của họ đã bị loại khỏi danh sách được hưởng GSP. Thế nhưng nguy cơ đe doạ đối với hàng xuất khẩu của Việt nam trên thị trường EU lúc này lại cực kỳ lớn bởi đối thủ “nặng ký” nhất là Trung Quốc và sự quay trở lại của các nước ASEAN sau thời kỳ khủng hoảng. Hàng của Trung Quốc không những có chất lượng tốt mà lại rẻ, nguồn cung cấp lớn và rất ổn định, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường EU. Trung Quốc và EU cũng đã ký hiệp định thương mại song phương. Theo Hiệp định này, EU sẽ giảm thuế từ 8%-10% đối với khoảng 100 mặt hàng xuất khẩu của Trung quốc vào thị trường EU.
EU là thị trường lớn, sức tiêu thụ ổn định, lại hứa hẹn nhiều khởi sắc về kinh tế vào thời kỳ 2001-2010. Việc đẩy mạnh xuất khẩu vào EU đang là một trong nhưũng chính sách trọng điểm của Việt nam. Bên cạnh những cố gắng của Chính phủ, các ngành chủ đạo như da giày, dệt may và thủy sản cần có những chương trình cụ thể để phát triển sản xuất và tăng cường xuất khẩu sang EU.
Chiến lược thâm nhập và mở rộng thị phần tại châu Âu được xác định chia châu Âu thành 2 khu vực cơ bản: Tây Âu và Đông Âu.
Tại Tây Âu, trọng tâm sẽ là EU mà chủ yếu là các thị trường lớn như Đức, Anh, Pháp và Italia. Kim ngạch xuất khẩu sang EU tăng rất nhanh trong thời kỳ 1991-1999. Trong các quốc gia EU, Đức là bạn hàng quan trọng thứ 4 của Việt nam.
Thị trường tại EU trọng tâm là các nước Đức, Anh, Pháp, Italia. Kim ngạch xuất khẩu sang Eu tăng rất nhanh trong thời kỳ 1991-1999. Trong các quốc gia EU, Đức là bạn hàng quan trọng thứ 4 của Việt nam, Anh là nước đứng thứ 9, Pháp thứ 12, Hà lan thứ 13. Hàng hoá xuất khẩu sang EU chủ yếu là giày dép, dệt may, cà phê, hải sản, cao su, than đá, điều nhân và rau quả.
Định hướng xuất khẩu của Việt nam
Định hướng chung
Coi thị trường EU là thị trường chiến lược của Việt nam để thực hiện hướng ngoại trong thời kỳ quá độ chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tiếp tục khai thác và sử dụng triệt để các điều khoản của Hiệp định khung như là một khuôn khổ cho sự hợp tác cả về ngoại thương và kinh tế đối ngoại
Tăng cường quan hệ ngoại giao để thúc đẩy việc quản lý và thủ tục xuất nhập khẩu.
Định hướng cho hàng nông sản
Hiện nay nhóm hàng này đang chiếm gần 25% kim ngạch xuất khẩu với những mặt hàng chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, chè, rau quả, thuỷ sản, hạt tiêu và nhân điều (trừ mặt hàng chè, tất cả các mặt hàng khác đều đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/năm). Do sản xuất nông nghiệp phải chịu những hạn chế mang tính cơ cấu (như diện tích có hạn, khả năng khai thác và đánh bắt có hạn…) và thời tiết nên theo Chiến lược chung phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001-2010, tốc độ tăng trưởng của nhóm này sẽ chỉ ở mức 4%/năm trong toàn kỳ 2001-2010. Bên cạnh đó, nhu cầu của thị trường thế giới cũng có hạn, giá cả lại không ổn định. Vì vậy dù kim ngạch tuyệt đối vẫn tăng nhưng tỷ trọng của nhóm sẽ giảm dần xuống còn 22% (tương đương 5,85 tỷ USD) vào năm 2005 và 17,2% (tương đương 8-8,6 tỷ USD) vào năm 2010.
Hướng phát triển chủ đạo của nhóm hàng này trong 10 năm tới là chuyển dịch cơ cấu toàn lĩnh vực, trong mỗi ngành, thậm chí từng loại sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng. Để đạt mục tiêu này cần có sự đầu tư thích đáng vào khâu giống và công nghệ sau thu hoạch, kể cả đóng gói, bảo quản, vận chuyển… để tạo ra những đột phá về năng suất và chất lượng sản phẩm.
Về gạo, do nhu cầu thế giới tương đối ổn định, khoảng trên 20 triệu tấn/năm, nhiều nước nhập khẩu nay chú trọng an ninh lương thực, thâm canh tăng năng suất cây trồng, gia tăng bảo hộ, giảm nhập khẩu. Trong hoàn cảnh đó, dự kiến trong suốt thời kỳ 2001-2010 nhiều lắm ta chỉ có thể xuất khẩu được khoảng 4-4,5 triệu tấn/năm, thu về mỗi năm khoảng trên 1 tỷ USD. Để nâng cao hơn nữa kim ngạch cần đầu tư để cải thiện cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu, khai thác các thị trường mới như Trung đông, châu Phi, Nam Mỹ và ổn định các thị trường đã có như Indonesia, Philippines thông qua các hợp đồng G-to-G, nghiên cứu khả năng phối hợp với Thái lan để điều tiết nguồn cung, ổn định giá cả thị trường, tăng hiệu quả xuất khẩu gạo.
Về nhân điều, còn có thể tăng kim ngạch từ 115 triệu USD năm 2000 lên tới khoảng 400 triệu USD hay cao hơn vào năm 2010 vì nhu cầu còn lớn, liên tục tăng (một số dự báo cho thấy nhu cầu sẽ tăng bình quan 7%/năm trong 10 năm tới và sẽ đạt mức 160-200 tấn, giá xuất khẩu cũng tăng, từ 3.799 USD/tấn năm 1994 lên 5.984 USD/tấn), vả lại tiềm năng của nước ta còn lớn. Thị trường chủ yếu là Mỹ, EU, Australia, Trung Quốc.
Hạt tiêu xuất khẩu trên thế giới khoảng 200.000 tấn/ năm, giá cả giao động lớn. Ta có khả năng mở rộng sản xuất, gia tăng sản lượng, từ đó có kảh năng tăng lên thành 230-250 triệu USD so với 60 triệu USD hiện nay. Thị trường chủ yếu là châu Âu, Mỹ, Nhật, Trung quốc, Trung Đông.
Về các loại ra, hoa và quả khác, Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 182/1999/QĐ-TTg ngày 3-9-1999 phê duyệt đề án phát triển đến năm 2010, theo đó kim ngạch xuất khẩu rau, hoa và quả sẽ được đưa lên khoảng 1.2 tỷ USD với thị trường là Nhật, Nga, Trung quốc, châu Âu, Nếu có quy hoạch các vùng chuyên canh và đầu tư thoả đáng vào các khâu như giống, kỹ thuật trồng và chăm sóc, công nghệ sau thu hoạch … thì thậm chí có thể thực hiện vượt mục tiêu trên, đạt kim ngạch 1.6 tỷ USD.
Về cà phê, do sản lượng và giá cả phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết nên rất khó dự báo chuẩn xác về khối lượng và giá trị xuất khẩu trong những năm tới. FAO dự báo tới năm 2005, sản lượng thế giới sẽ khoảng 7.3 triệu tấn so với 6,3-6,6 triệu tấn như hiện nay. Nếu thuận lợi, xuất khẩu có thể đạt 750 ngàn tấn vào năm 2010 với kim ngạch khoảng 850 triệu USD, đưa Việt nam vượt qua Colombia để trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới. Để đạt giá trị cao, nên chú trọng phát triển cà phê chè (arabica), tự tổ chức hoặc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến cà phê rang xay và cà phê hoà tan. Thị trường xuất khẩu chính vẫn là EU, Hoa Kỳ, Singapore và Nhật Bản. Nói chung, xuất khẩu cà phê sẽ không gặp khó khăn lớn về thị trường nhưng giá cả sẽ khó ổn định.
Với hai mặt hàng quan trọng còn lại là cao su và chè, Chính phủ đều đã có đề án phát triển. Tuy nhiên, cần tính lại vấn đề phát triển cao su vì nhu cầu của thế giới tăng chậm, chỉ trên 2%/năm, năm 2000 khoảng 7 triệu tấn, giá cả có xu hướng xuống thâp. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu cao su có thể đạt 500 triệu USD vào năm 2010, Nhu cầu chè trên thế giới tiếp tục tăng, hiện nay đạt mức 1.3 triệu tấn/năm, ta có tiềm năng phát triển, có thể đưa kim ngạch chè lên mức 200 triệu USD, tức là gấp 4 lần hiện nay, trong đó cần nỗ lực tăng tỷ trọng chè chất lượng cao cho các thị trường khó tính như Nhật bản, Đài loan, Trung Đông đi đôi với việc tăng cường hợp tác đóng gói tại Nga để đẩy mạnh tiêu thụ trên thị trường này.
Bảng 3.1. Dự kiến cơ cấu xuất khẩu của một số nông sản chính thời kỳ 2005-2010
2000
2005
2010
Lượng
(tấn)
Triệu USD
Lượng (tấn)
Triệu USD
Lượng (tấn)
Triệu USD
Trị giá xuất khẩu nông sản chính
1.888
3.345
7.950
Lạc nhân
77.000
40
670.000
75
180.000
100
Cao su và cao su chế biến
245.000
153
300.000
250
500.000
500
Cà phê và cà phê chế biến
630.000
500
700.000
700
750.000
850
Chè
40.000
50
78.000
100
140.000
200
Gạo
3.800.000
720
4.500.000
1000
4.500.000
1.200
Rau quả và rau quả chế biến
180
800
1.600
Nhân điều
23.000
45
40.000
200
80.000
400
Hạt tiêu
50.000
200
50.000
220
60.000
250
Nguồn: Bộ thương mại, Tóm tắt chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010
Định hướng chung là đẩy mạnh việc tăng sản lượng lương thực bằng biện pháp thâm canh tăng vụ, phát triển chăn nuôi tương xứng với khả năng sản xuất lương thực; tăng dần tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp và có sản phẩm xuất khẩu đáng kể, tận dụng triệt để thế mạnh của nền nông nghiệp nhiệt đới, phát triển mạnh các loại cây công nghiệp xuất khẩu chủ lực như cà phê, cao su, chè, hạt tiêu, điều, tiến tới có nhiều rau quả xuất khẩu, phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản xuất khẩu.
Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia được coi là nhiệm vụ chiến lược lâu dài của đất nước. Phát triển sản xuất lương thực nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, ổn định đời sống nhân dân, ổn định xã hội, đồng thời đóng góp cho xuất khẩu và làm cơ sở vững chắc cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Dự kiến sản lượng quy thóc cả nước đạt 39-40 triệu tấn vào năm 2010. Trong đó, sản lượng thóc đạt 34-35 triệu tấn vào năm 2000, sản lượng màu quy thóc chiếm tỷ trọng từ 10% năm 2000 lên 13% năm 2010 trong tổng sản lượng lương thực. Xuất khẩu giữ ở mức 4 triệu tấn một năm.
Đối với toàn bộ nhóm nông thuỷ sản cần rất chú trọng khâu cải tạo giống cây trồng vật nuôi, chế biến, bảo quản, vệ sinh thực phẩm, chuyên chở, đóng gói, phân phối để có thể đưa thẳng tới khâu tiêu dùng, từ đó nâng cao giá trị gia tăng.
Nhìn chung lại kim ngạch của nhóm nguyên nhiên liệu nông lâm hải sản tổng cộng sẽ đạt từ 10 đến 10,35 tỷ USD vào năm 2010, chiếm khoảng 20-21% kim ngạch xuất khẩu so với trên 40% hiện nay theo hướng gia tăng chất lượng và giá trị gia tăng. Phần còn lại phải là các mặt hàng chế biến và chế tạo. Đây là bài toán chủ yếu cho hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian 10 năm tới.
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt nam sang EU.
Các giải pháp cấp nhà nước
Đã từ lâu văn hoá châu Âu đã có sự giao lưu và ảnh hưởng quan trọng đối với văn hoá Việt nam. Việc dùng chữ Latinh trong ngôn ngữ viết của người Việt, việc xuất hiện báo chí Việt nam từ thế kỷ XIX, việc hấp thụ những tư tưởng thời phục hưng, khai sáng cùng với văn hoá nghệ thuật khác của châu Âu đã góp phần làm cho nền văn hoá Việt nam phát triển phong phú theo hướng vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Giao lưu hợp tác văn hoá từ lâu đời đã tạo điều kiện cho sự hợp tác toàn diện, trong đó có kinh tế- thương mại giữa Việt nam và EU.
Những điểm trì trệ như quan liêu, hối lộ, cửa quyền trong bộ máy hành chính nước ta cũng ảnh hưởng không nhỏ đến lĩnh vực đầu tư, ngoại thương, xuất khẩu … khi các đối tác tiến hành thương vụ ở Việt nam, hay doanh nghiệp Việt nam muốn xuất khẩu hàng ra khỏi biên giới. Vì thế nhà nước phải áp dụng một số biện pháp cụ thể để cải thiện môi trường kinh doanh nói chung và đối với xuất khẩu sang EU nói riêng.
Chính phủ phải đổi mới thể chế mạnh mẽ, nhất quán, nhất là phải tiến hành cải cách hành chính hiệu quả, làm cho văn hoá cơ chế phát triển lành mạnh, hỗ trợ cho doanh nghiệp và công tác xuất khẩu, sản xuất kinh doanh… xoá bỏ các cung cách làm ăn phi văn hoá như “xin-cho”, trốn thuế, lãi thì doanh nghiệp hưởng, lỗ thì nhà nước chịu, làm ăn thua lỗ vẫn được ngân sách nhà nước hỗ trợ nhiều…
Chúng ta phải chú ý khâu đào tạo nguồn nhân lực. Ngay từ trường đại học chuyên ngành đã phải có các chương trình đào cán bộ ngoại thương làm kinh doanh theo kiểu hiện đại, chuyên sâu, giao thoa, gắn kết với kiến thức kinh doanh quốc tế. Ngoài ra, các lớp đào tạo ngắn hạn chuyên ngành cũng theo hướng cập nhật, tăng khả năng hội nhập cho cán bộ và các ngành kinh tế đối ngoại.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp và hàng hoá của Việt nam thâm nhập dễ dàng và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU, nhà nước nên thực hiện một số hoạt động trợ giúp sau:
Đẩy mạnh xây dựng chiến lược phát triển thị trường EU thông qua đàm phán, ký kết các hiệp định, thoả thuận thương mại song phương và đa phương, tạo tiền đề về hành lang pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu.
Thảo luận ở cấp chính phủ về mở cửa thị trường, trước hết là đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam. Hiện nay EU được coi là thị trường có mức bảo hộ cao nhất, sự bảo hộ này thể hiện dưới 2 hình thức là thuế quan và phi thuế quan, đặc biệt là các biện pháp phi quan thuế (rào cản kỹ thuật). Trong khi hàng của Việt nam đang gặp khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường EU, chính phủ nên tích cực và chủ động đề nghị Uỷ ban Châu Âu mở rộng quy mô mậu dịch và tạo điều kiện thuận lợi cho hàng của Việt nam vào thị trường này, nhất là nông sản, thuỷ hải sản, rau quả, thịt gia súc và gia cầm, đồ gỗ gia dụng và hàng thủ công mỹ nghệ. Thảo luận ở cấp chính phủ về mở cửa thị trường là một trong những biện pháp khá hiệu quả mà nhiều nước đang phát triển đã áp dụng thành công trong đàm phán với các nước phát triển để mở rộng thị trường xuất khẩu ở giai đoạn đầu thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, ví dụ như ởThái Lan.
Đầu tư phát triển và hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng thương mại nông sản như chợ bán buôn, chợ mậu biên, trung tâm giao dịch, kho cảng, bến bãi…để tạo thuận lợi cho tiêu thụ hàng nông sản trong nước và xuất khẩu.
Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng và quản lý chất lượng hàng hoá nông sản theo ISO, HACCP, xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá. Đây cũng là vấn đề thực sự cần được quan tâm bởi EU là thị trường tiêu thụ rất khó tính, đặc biệt với mặt hàng nông sản. Một khi đạt được những yêu cầu về vệ sinh, chúng ta có thể dễ dàng thâm nhập thị trường này hơn.
Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến và tiếp cận thị trường. Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt nam đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm đối tác, nhất là đối tác EU. Do vậy cần phải nâng cao vai trò của các thương vụ trong việc xúc tiến thương mại. Tìm các đối tác, ngân hàng tin cậy cho doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, do điều kiện đi lại xa xôi, chi phí tốn kém nên vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu thị trường và những thay đổi diễn ra trên thị trường này còn rất hạn chế. Vì vậy, Bộ Thương mại phải yêu cầu thương vụ tại các nước EU tăng cường hoạt động của mình. Thương vụ phải thường xuyên thông báo về Bộ Thương mại từng diễn biến trên thị trường từ những thay đổi về hệ thống pháp luật, quy chế nhập khẩu, thuế quan, tỷ giá, lạm phát, xu hướng thương mại v.v.. đến những diễn biến cho từng mặt hàng xuất khẩu cụ thể của Việt nam sang EU như dự báo cung-cầu, giá cả, cạnh tranh, thị hiếu, kênh phân phối, cách tiếp cận thị trường v.v… Tất cả những việc làm này phải được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí, không nên để doanh nghiệp phải chịu cả. Bộ Thương mại cần yêu cầu các thương vụ giúp đỡ tích cực cho các doanh nghiệp khi nghiên cứu khảo sát thị trường EU có hiệu quả, tránh chi phí tốn kém. Chi phí đi lại và nghiên cứu thị trường của một số doanh nghiệp xuất khẩu những mặt hàng cần khuyến khích phải được chính phủ hỗ trợ một phần vì các doanh nghiệp còn nghèo, trong khi các doanh nghiệp ở nước khác thuận lợi hơn Việt nam vẫn được Chính phủ hỗ trợ cho việc xúc tiến và tiếp cận thị trường như Trung Quốc và Thái lan.
Cho phép thành lập một trung tâm xúc tiến thương mại Việt nam tại EU để hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Việc làm này có thể thu hút các doanh nghiệp và cộng đồng người Việt thuê lại diện tích tại trung tâm để giới thiệu sản phẩm, bán hàng, giao dịch mua hàng của EU, tạo đầu mối, xúc tiến cho các doanh nghiệp trong nước triển khai quan hệ buôn bán với các bạn hàng EU.
Bộ Thương mại là cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động thương mại, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, nhất là hoạt động xuất nhập khẩu với thị trường EU, vai trò của Bộ Thương mại cần được nâng cao hơn nữa. Cụ thể, Bộ Thương mại nên làm tốt công tác Dự báo và thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp và người sản xuất trong nước biết thị trường cần gì trong năm nay và trong một vài năm tới. Muốn thế, Bộ cần thông qua các đại diện thương mại của EU, hoặc khai thác hiệu quả đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ xuất nhập khẩu, am hiểu thị trường EU, đặc biệt là các thị trường mà Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn như Pháp, Đức, Anh, Italia, Thuỵ Điển, Hà Lan… Ví dụ như trong năm 1999, người Đức tiêu hết 12 tỷ USD tiền trái cây và rau quả nhập khẩu. Theo nhận xét của một số chuyên gia kinh tế, những trái cây nhiệt đới đặc trưng Việt Nam cũng ngày càng được ưa chuộng tại Đức. Vấn đề quan trọng là Việt Nam phải có công nghệ hiện đại bảo quản, chế biến những loại rau quả này.
Đàm phán, ký kết các văn bản pháp lý với các nước thành viên EU. Do thị trường EU là thị trường cấp liên minh, nhưng từng quốc gia vẫn có quyền tự quyết riêng, nên Việt Nam không những phải đạt được các thoả thuận với Uỷ ban châu Âu, mà còn phải ký kết được những văn bản với các nước thành viên EU, để hưởng thêm những ưu đãi mà cấp liên minh không cấp cho. Giới thiệu cho các doanh nghiệp những nguồn thị trường hấp dẫn trong khối EU. Bộ Thương mại phải xây dựng mạng lưới tham tán thương mại ở các nước thành viên EU, từ đó tạo một web site về thị trường EU để các doanh nghiệp có điều kiện cập nhật thông tin thường xuyên. Ví dụ, một tỷ lệ lớn hàng hoá Việt Nam hàng năm xuất đi EU nhằm vào khu vực thị trường Pháp, Đức, Italia, Anh... Tuy nhiên, một số tham tán thương mại Việt Nam đã có ý kiến rằng trong vài năm gần đây, những nhà nhập khẩu của Thuỵ Điển, Luxembourg bắt đầu quan tâm đến hàng Việt Nam. Với Luxembourg, đây là thị trường nhỏ nhưng thu nhập bình quân đầu người lại cao nhất thế giới. Tiềm năng tiêu thụ của thị trường này rất lớn, phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Bởi lẽ, Việt Nam có thể xin tối đa vốn ODA từ Luxembourg, tuy không nhiều nhưng điều kiện kèm theo lại khá dễ dàng. Chính phủ nên hỗ trợ kinh phí để bố trí Tham tán nông nghiệp tại một số thị trường quan trọng. Chính những cán bộ làm công tác này sẽ giúp đỡ trong việc đề xuất các giải pháp thị trường cho một số các mặt hàng (gạo, chè) khi thị trường truyền thống không ổn định. Chúng ta có thể thấy được sự bất ổn này đối với mặt hàng cà phê. Cuộc chiến Iraq đã ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế thế giới mà chúng ta là người phải chịu tác động gây bất lợi trực tiếp vì Iraq vốn vẫn là bạn hàng lớn của Việt nam. Điều đó cũng chứng tỏ rằng tìm kiếm bạn hàng ổn định luôn là vấn đề quan trọng trong kinh doanh, nhất là đối với các mặt hàng nông sản chúng ta có lợi thế.
Tăng cường công tác xúc tiến thương mại hàng nông sản thông qua các hoạt động hỗ trợ hội chợ, triển lãm và nghiên cứu thị trường nước ngoài. Tổ chức doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm tại các nước thành viên EU. Mỗi năm, EU tổ chức hàng nghìn hội chợ, triển lãm thương mại lớn nhỏ. Tuy nhiên, hội chợ, triển lãm hữu ích mà Bộ Thương mại nên hướng dẫn các doanh nghiệp Việt Nam tham gia là những hội chợ chuyên ngành, như Expo Hannover (thành phố Hannover, CHLB Đức); hội chợ Paris; Europartenariat; Frankfurt. Bộ Thương mại đang cố gắng thực hiện nhưng đáng tiếc là các doanh nghiệp của Việt Nam chủ yếu là vừa và nhỏ, tiềm lực vốn rất yếu. Cho nên, Nhà nước cần có những dự án hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp.
Phát triển mạng lưới thông tin tới các địa phương cũng là một trong những giải pháp hỗ trợ cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu quan trọng. Bộ Thương mại phải giới thiệu cho doanh nghiệp Việt Nam biết rõ ràng về thị trường Châu Âu, từ hệ thống thuế quan phổ cập, các biện pháp phi hạn ngạch, thủ tục xuất nhập khẩu, tiêu chuẩn chất lượng, giá cả, nhất là các mặt hàng tương tự của các nước trên thị trường EU… và ngược lại thông tin cho khách hàng châu Âu về thị trường, chủng loại, mẫu mã, giá cả hàng hoá Việt Nam có thể xuất khẩu và cả nhu cầu nhập khẩu. Cần huy động các đại diện thương mại tại EU và từng nước thuộc EU tham gia vào cuộc xúc tiến thương mại đa biên và song biên. Trong chừng mực nào đó, có thể giao cho các đại diện chỉ tiêu về xuất khẩu có tính chất hướng dẫn vào một thị trường nào đó của EU, và có chế độ khuyến khích vật chất nếu đem lại hiệu quả. Ngược lại, chắp mối quan hệ trực tiếp giữa cơ quan đại diện thương mại của EU, của từng nước thành viên với cơ quan quản lý, doanh nghiệp Việt Nam để giải toả nhanh một vài mối tắc và mở thêm cơ hội hợp tác.
Trong những năm tới, Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nâng cao kim ngạch thương mại với EU, bởi Trung Quốc đã gia nhập WTO nên sẽ khai thác tối đa tiềm năng tiêu thụ của thị trường EU rộng lớn này. Do đó, để giảm thiểu khó khăn, Nhà nước cần tích cực tìm hiểu những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU, chẳng hạn như thành lập thí điểm Quỹ xuất khẩu mậu dịch vào EU. Đây là loại hình tồn tại khá phổ biến trên thế giới nhưng đến nay chưa thấy xuất hiện ở Việt Nam. Quỹ này do doanh nghiệp tự nguyện đóng góp để góp phần thúc đẩy buôn bán hàng hoá trong nước và nước ngoài.
Nhà nước cần thành lập thí điểm Quỹ xuất khẩu mậu dịch vào thị trường EU tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá.Nhà nước không chỉ nên hỗ trợ về vốn mà còn hỗ trợ cả về kinh nghiệm và thông tin thị trường.
Phối hợp với các Bộ, Ngành chống buôn lậu hàng hoá nông lâm sản và vật từ nông nghiệp, nhất là hàng giả, hàng kém phẩm chất và hàng cấm sử dụng. Hợp tác với EU chống gian lận thương mại, giữ uy tín hàng hoáViệt Nam.
Hiện nay, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam được bán sang thị trường EU thông qua hình thức Nhà nước chính sách thưởng hạn ngạch cho các doanh nghiệp xuất khẩu có kết quả kinh doanh tốt. Tuy nhiên, cơ chế này nảy sinh không ít tiêu cực, làm ảnh hưởng đến chất lượng hàng hoá và uy tín doanh nghiệp xuất khẩu trên thị trường EU. Do đó, Việt Nam nên sử dụng hiệu quả hạn ngạch mà EU cấp theo hướng tạo dựng một cơ chế cụ thể về đấu thầu hạn ngạch, theo đó các doanh nghiệp phải chứng minh ưu thế cạnh tranh thì mới có thể đạt được nhiều hạn ngạch. Chẳng những thế, trong tương lai, nước ta nên áp dụng cơ chế bán hạn ngạch, để các doanh nghiệp thực sự có nhu cầu xuất khẩu vào thị trường EU có thể mua hạn ngạch tuỳ theo mức độ cần thiết.
Tăng cường hợp tác với Uỷ ban châu Âu. EU thương lượng với các nước khác như một thực thể đồng nhất trong các vấn đề thương mại thế giới. Do đó, các doanh nghiệp làm ăn với EU tất nhiên phải tuân theo các quy tắc, hướng dẫn và chịu sự giám sát của Uỷ ban châu Âu (ECC). ECC là cơ quan kinh tế cấp liên minh, ban hành và củng cố các quy tắc cạnh tranh và cấu trúc tổ chức liên quan đến những hoạt động như sát nhập, chống độc quyền và đánh thuế. Thậm chí, ECC còn quyết định cả việc định giá, quảng cáo và các hoạt động khác.
Hoàn thiện chính sách thương mại theo hướng phù hợp với xu thế thương mại quốc tế. Hợp tác thương mại với EU có nghĩa là tham gia vào thị trường thế giới. Để đảm bảo quyền lợi của bạn hàng, từ đó hoà nhập vào xu thế tự do hoá thương mại, Việt Nam cần hoàn thiện chính sách thương mại cho phù hợp. Tiến hành thực hiện Hiệp định xác định giá trị hải quan theo quy định của GATT/WTO. Giá tính thuế nhập khẩu nên xác định trên cơ sở hợp đồng ngoại thương.
Về các biện pháp phi thuế quan, trong thời gian trước mắt, cần chuẩn bị điều kiện để tiến tới thực hiện đấu thầu hạn ngạch nhập khẩu và bán hạn ngạch nhập khẩu một cách công khai. Việc quy định các mặt hàng cấm nhập khẩu cần có cân nhắc cẩn thận, tránh gây ra các tác động tiêu cực như buôn lậu, trốn thuế. Việc tài trợ xuất khẩu cần xác định rõ mục đích, phương hướng và cơ chế bảo đảm, tránh tình trạng các doanh nghiệp ỷ lại, trì trệ và không cố gắng cải thiện tình hình, vươn ra thị trường thế giới. Xét về chuẩn mực quốc tế, biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ sản xuất trong nước không được WTO chấp thuận. Vì vậy, về lâu dài chúng ta cần xem xét để có thể bãi bỏ các biện pháp này và tiến hành thuế hoá các biện pháp phi thuế quan phù hợp với quy định của WTO.
Về phía các địa phương: đề xuất với UBND tỉnh hỗ trợ kinh phí, nhân sự và phối hợp với Sở Thương mại để triển khai tích cực các hoạt động XTTM tại địa phương.
Về phía các hiệp hội ngành hàng nên đề nghị xúc tiến thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng theo QĐ 110 của Thủ tướng Chính phủ (hiện đã có Quỹ bảo hiểm chè mới thành lập)
Tổ chức các hoạt động XTTM để giúp các thành viên nâng cao khả năng thương mại (thông tin thị trường, đoàn khảo sát thị trường, hội chợ triển lãm…)
Hội nhập kinh tế quốc tế: phối hợp với các Bộ Ngành liên quan, chuẩn bị tích cực cho việc đàm phán và thực hiện các Hiệp ước quốc tế và khu vực, từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới. Tăng cường thông tin cho các doanh nghiệp và nông dân về các cam kết trong hội nhập, về các cơ hội và thách thức do quá trình hội nhập đem lại để chủ động hơn nữa trong tổ chức sản xuất và kinh doanh.
Bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu vào các nước EU cũ, cần tăng cường xuất khủ sang các nước thành viên mới như Ba lan, Sec… (EU sắp kết nạp thêm 10 thành viên mới vào năm 2004).
Nhóm các giải pháp đối với các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cần chủ động hơn nữa công tác nắm bắt thông tin thị trường triển khai Quyết định 80 của Thủ tướng chính phủ về hợp đồng tiêu thụ nông sản, xây dựng quảng bá nhãn hiệu hàng hoá, tham gia tích cực các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức.
Tiếp tục thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn với chương trình công tác của ngành để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông sản trên thị trường trong nước cũng như xuất khẩu.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất hàng hoá đa dạng và có hiệu quả, phát huy thế mạnh của từng vùng, tăng năng suất và thu nhập trên một đơn vị diện tích, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng và đáp ứng yêu cầu thị trường.
Đối với cây lương thực: thực hiện chương trình sản xuất 1 triệu tấn gạo chất lượng cao, tập trung thâm canh, sử dụng giống mới để tăng năng suất, chất lượng lúa gạo, tăng sản lượng ngô; mở rộng diện tích sắn, trồng các giống mới ở những vùng đất dốc, gắn với cơ sở chế biến.
Đối với các mặt hàng đang thuận lợi về thị trường (cao su, chè, hạt điều): tập trung chăm sóc các vườn cây hiện có, thay thế dần các giống cũ bằng các giống mới chất lượng cao; mở rộng diện tích tại những vùng thích hợp, có tính đến yêu cầu của thị trường
Đối với các loại nông sản thị trường còn nhiều biến động (cà phê, hạt tiêu): duy trì diện tích hiện có, chú trọng thâm canh tăng năng suất, thay đổi cơ cấu sản phẩm, cải thiện chất lượng canh tác cũng như chế biến.
Rau quả: đẩy mạnh thâm canh, phát triển sản xuất dứa, các loại rau vụ đông và các loại rau chất lượng cao, mở rộng diện tích nhãn, xoài, bưởi, cam, quýt…
Chăn nuôi: tiếp tục sản xuất theo hướng công nghiệp, nhất là chăn nuôi lợn hướng nạc, chăn nuôi bò sữa, gà thả vườn…, nâng cao tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp. Kiểm soát dịch bệnh để nâng cao hiệu quả chăn nuôi, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Tiếp tục thực hiện các dự án về giống cây trồng, vật nuôi. Triển khai xây dựng một số khu nông lâm nghiệp công nghệ cao, trước hết tập trung vào các loại cây con hàng hoá lúa, mía, dứa, lạc, một số cây ăn quả, cây lâm nghiệp, chăn nuôi…
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống khuyến nông đến tận cấp xã, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật canh tác, bảo quản cho nông dân; phổ biến rộng rãi chương trình an toàn vệ sinh thực phẩm và tạo ra sản phẩm sạch để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.
Tổng kết kinh nghiệm các mô hình triển khai hình thức tiêu thụ nông sản cho nông dân thông qua hợp đồng theo QĐ 80 của Chính phủ để triển khai mạnh trong thời gian tới
Tiếp tục đầu tư phát triển công nghiệp chế biến, ưu tiên đầu tư các cơ sở chế biến rau quả …
Các doanh nghiệp nên nâng cao năng lực cán bộ, đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao về lĩnh vực xuất nhập khẩu, có kiến thức sâu về văn hoá xã hội của các bạn hàng thuộc khối EU. Đây sẽ là một lợi thế khi bắt tay ký kết các hợp đồng thường mại với các đối tác nước ngoài. Việc sử dụng đội ngũ cán bộ đã từng du học tại các nước EU sẽ là lợi thế lớn vì đây là đội ngũ làm “cầu nối” cho doanh nghiệp khi bước vào làm ăn với các bạn hàng EU.
Lập kế hoạch tham gia các hội chợ giới thiệu sản phẩm tại các nước EU cũng là một phương cách hữu hiệu cho các doanh nghiệp muốn xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này. Ngoài phần hỗ trợ của nhà nước, doanh nghiệp cũng cần phải đầu tư cho công tác chuẩn bị và tham gia các hội chợ như thiết kế các tờ rơi giới thiệu công ty, sản phẩm tại hội chợ, trưng bày các mặt hàng và có cán bộ giới thiệu sản phẩm tại hội chợ, tìm kiếm bạn hàng và ký kết hợp đồng ngay tại hội chợ. Thái độ của cán bộ và cách trình bày giới thiệu về công ty cũng góp phần quan trọng tạo ấn tượng ban đầu đối với các đối tác nước ngoài khi muốn làm ăn với doanh nghiệp Việt nam.
Một điều quan trọng mà các doanh nghiệp Việt nam cần lưu ý khi giao dịch với bạn hàng thuộc khối EU là chữ tín trong kinh doanh. Đối với doanh nhân EU, giữ chữ tín được xem là điều kiện tiên quyết để có mối quan hệ làm ăn lâu dài. Điều này thể hiện ở việc ký kết hợp đồng và thực hiện các điều khoản trong hợp đồng đúng hẹn, giao hàng đảm bảo chất lượng…
Tóm lại, các doanh nghiệp Việt nam muốn xuất khẩu hàng hoá sang EU nên tìm hiểu kỹ nhu cầu thị trường và nhanh nhạy nắm bắt thông tin liên quan để có thể xuất khẩu hàng của mình sang thị trường EU một cách có hiệu quả.
Kết luận
Quan hệ thương mại Việt Nam - EU trong những năm vừa qua phát triển rất mạnh nhờ những chiến lược rõ ràng của cả hai bên. Đối với EU thì chủ yếu đó là cái nhìn về chính trị và kinh tế đúng đắn hơn đối với châu á - khu vực kinh tế năng động và có những biến chuyển thần kỳ - trong đó có Việt Nam. Còn đối với Việt Nam thì đó là chiến lược thúc đẩy quan hệ thương mại với tất cả các nước, đặc biệt là tham vọng đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu sang thị trường EU rộng lớn.
Trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng nông sản với thị trường này còn chưa có sự biến chuyển về chất, do những khó khăn tồn tại cố hữu, hay những khó khăn mới nảy sinh do tình hình mới. Tiêu biểu như việc EU còn đánh thuế 100% vào mặt hàng gạo, 200% đối với mặt hàng đường hoặc những hạn chế về vốn và thông tin của các doanh nghiệp Việt Nam...Tất cả đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiến sâu, tiến chắc vào thị trường này.
Việc xâm nhập vào thị trường EU là rất khó, nhất lại đối với mặt hàng nông sản vồn là mặt hàng EU có nhiều chính sách bảo hộ. Với những chính sách bảo hộ nông nghiệp và các hàng rào phi quan thuế, EU khiến cho các nước muốn xuất khẩu hàng nông sản phải nỗ lực rất lớn mới có thể làm hài lòng bạn hàng “khó tính” nhưng cũng giàu tiềm năng này. Trong khoá luận này, em đã nêu ra thực trạng, những khó khăn mà doanh nghiệp Việt nam sẽ gặp phải khi xuất khẩu hàng sang EU và cũng đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại và khó khăn đó nhằm đóng góp một phần nhỏ bé vào việc mở rộng và đẩy mạnh thương mại Việt Nam trong giai đoạn mới. Các giải pháp trước hết tập trung vào việc nâng cao hơn nữa kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường EU như nâng cao vai trò của cơ quan quản trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp, kêu gọi bản thân các doanh nghiệp cũng phải cố gắng rất nhiều để tạo dựng uy tín và giữ bạn hàng. Một hạn chế nữa dẫn đến việc xuất khẩu nông sản của Việt nam sang EU gặp khó chính là những hạn chế nội tại, có nghĩa là chính chúng ta vẫn chưa vạch ra được phương hướng phát triển cụ thể với những phương án tiếp cận khả thi để xâm nhập thị trường này. Hy vọng rằng, những đề xuất và kiến nghị trong khoá luận này sẽ góp phần vào việc hiện thực hoá chiến lược tăng cường quan hệ thương mại Việt Nam - EU nói riêng cũng như thúc đẩy thương mại Việt Nam nói chung tiến bộ cả về lượng và chất trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ vô cùng quý báu của Thạc sỹ Phạm thị Hồng Yến, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình tiến hành nghiên cứu đề tài này.
Vì thời gian và điều kiện hạn chế, việc đi sâu đi sát thực tế nhằm tìm ra hướng giải quyết thoả đáng cho vấn đề còn gặp nhiều khó khăn nên chắc chắn chuyên đề nghiên cứu của em còn nhiều hạn chế. Rất mong sẽ nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài nghiên cứu của em được hoàn thiện hơn.
Tài liệu tham khảo
Bùi Huy Khoát, Đẩy mạnh quan hệ thương mại - đầu tư giữa liên hiệp châu Âu và Việt nam, NXB Khoa học xã hội, H.2001
Đinh Công Tuấn, Tổng quan về Liên minh châu Âu, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 2, 2001.
Nguyễn thị Như Hà, Quan hệ thương mại giữa Việt nam – EU, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 3, 2001.
Đinh Công Tuấn, Những thể chế (tổ chức) cơ bản trong Liên minh châu Âu, tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 3, 2001.
Vũ Văn Phúc, Quan hệ hợp tác Việt nam với EU, tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 5, 2001.
Trần Nguyên Tuyên, Một số đặc điểm của thị trường EU và khả năng mở rộng xuất khẩu hàng hoá của Việt nam vào thị trường này, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 6, 2001.
Đinh Công Tuấn & Hồ Thanh Hương, Những điều chỉnh chính sách nông nghiệp chung của EU, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 1, 2003.
Hoàng thị Bích Loan, Thực trạng và Triển vọng quan hệ thương mại Việt nam – EU, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 1, 2003.
Trần Văn Chu, Quan hệ kinh tế Việt nam với Liên minh châu Âu, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 6, 2002.
Bùi Huy Khoát, Quan hệ Việt nam – liên minh châu Âu vững mạnh hơn trong thế kỷ XXI, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 1, 2001.
Số liệu thống kê ngành nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 1996-2000, NXB Nông nghiệp, H.2001.
Thông tin trên website: http:// www.europa.eu.int
Thông tin về thương mại trên website: http:// www.cpv.org.vn
Một số thông tin về xuất nhập khẩu nông sản của Cục chế biến, Vụ Kế hoạch và Quy hoạch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.
Bùi Xuân Lưu, Giáo trình Kinh tế ngoại thương, NXB Giáo dục, H.2002.
Niên giám thống kê năm 2000, 2001, NXB Thống kê, H. 2000.
Phụ Lục
Nội dung cơ bản của Hiệp định hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng đồng châu Âu
Hiệp định được ký giữa Chính phủ Việt Nam do ông Nguyễn Mạnh Cầm - Bộ trưởng Ngoại giao Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - làm đại diện và Hội đồng Liên minh châu Âu do hai ông Havie Solana Madariaga - Chủ tịch đương nhiệm Hội đồng Liên minh châu Âu và ông Manuen Marin - Phó chủ tịch Uỷ ban Cộng đồng châu Âu - đồng đại diện.
Hiệp định gồm 21 điều và 3 phụ lục. Dưới đây là những nội dung cơ bản của Hiệp định này.
Điều 1: Nền tảng
Tôn trọng quyền con người và nguyên tắc dân chủ là nền tảng của quan hệ hợp tác giữa các bên cũng như các điều khoản của Hiệp định này và tạo thành nhân tố thiết yếu của Hiệp định.
Điều 2: Mục đích
Những mục đích chủ yếu của Hiệp định này là:
Đảm bảo các điều kiện và khuyến khích gia tăng và phát triển đầu tư và thương mại hai chiều giữa hai bên vì lợi ích chung, có tính đến hoàn cảnh kinh tế mỗi bên.
Hỗ trợ phát triển kinh tế vững chắc và cải thiện đời sống cho các tầng lớp dân cư nghèo.
Tăng cường hợp tác kinh tế vì lợi ích chung, bao gồm cả hỗ trợ các nỗ lực của chính phủ Việt Nam trong việc cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển sang kinh tế thị trường.
Hỗ trợ bảo vệ môi trường và sử dụng lâu bền các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Điều 3: Đối xử tối huệ quốc
Việt Nam và Cộng đồng châu Âu sẽ dành cho nhau đối xử tối huệ quốc về thương mại phù hợp với các điều khoản của Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (1994).
Những quy định tại điều này không áp dụng đối với những ưu đãi mà một trong hai bên ký kết thoả thuận khi thiết lập một liên minh thuế quan, một khu vực mậu dịch tự do hoặc một khu vực đối xử ưu đãi.
Điều 4: Hợp tác thương mại
Các bên cam kết phát triển và đa dạng hoá trao đổi thương mại và cải thiện tiếp cận thị trường của nhau đến mức cao nhất có thể được, có tính đến hoàn cảnh kinh tế của mỗi bên.
Các bên, trong khuôn khổ luật pháp và quy định hiện hành của mỗi bên, cam kết thực hiện chính sách nhằm tạo thuận lợi cho việc bán sản phẩm vào thị trường của nhau. Hai bên dành cho nhau điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu hàng hoá và thoả thuận xem xét cách thức và biện pháp loại bỏ hàng rào thương mại giữa hai bên, đặc biệt là hàng rào phi thuế quan, có tính đến hệ thống khác nhau của mỗi bên và những việc đã làm trong những lĩnh vực này của các tổ chức quốc tế.
Các quy định tại điều 1 và điều 2 không hạn chế quyền của mỗi bên ký kết được áp dụng các biện pháp nhằm bảo vệ những lợi ích an ninh thiết yếu của mình, hoặc nhằm bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức con người, bảo vệ môi trường, đời sống và sức khoẻ của súc vật hoặc cây trồng.
Khuyến khích trao đổi thông tin về những cơ hội thị trường cùng có lợi và tiến hành tham khảo ý kiến trên tinh thần xây dựng các vấn đề liên quan đến thuế, phi thuế quan, dịch vụ, y tế, an toàn hoặc môi trường và yêu cầu kỹ thuật.
Cải thiện quan hệ hợp tác về các vấn đề hải quan giữa các nhà chức trách tương ứng của mình, đặc biệt về khả năng đào tạo nghiệp vụ, đơn giản hoá và làm hài hoà các thủ tục hải quan và phòng ngừa, điều tra, ngăn chặn các vi phạm quy định hải quan.
Thoả thuận tham khảo ý kiến nhau về bất kỳ tranh chấp nào có thể nảy sinh trong lĩnh vực thương mại hoặc những vấn đề liên quan đến vấn đề thương mại.
Điều 5: Đầu tư
Khuyến khích tăng cường đầu tư cùng có lợi bằng cách thiết lập môi trường đầu tư thuận lợi cho đầu tư cá nhân, bao gồm điều kiện tốt hơn để tiến hành chuyển vốn và trao đổi thông tin về các cơ hội đầu tư.
Điều 6: Quyền sở hữu trí tuệ
Hướng vào việc cải thiện các điều kiện nhằm bảo hộ một cách có hiệu qủa và xứng đáng và tăng cường quyền sở hữu trí tuệ, công nghiệp và thương mại theo tiêu chuẩn quốc tế cao nhất.
Hợp tác để đảm bảo những mục đích này, kể cả thông qua giúp đỡ kỹ thuật, khi thích hợp.
Các bên thoả thuận tránh phân biệt đối xử trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ, tiến hành tham khảo ý kiến khi các vấn đề gây ảnh hưởng tới quan hệ thương mại nảy sinh.
Điều 7: Hợp tác kinh tế
Khuyến khích hợp tác kinh tế ở quy mô lớn nhất nhằm đóng góp vào việc mở rộng kinh tế và nhu cầu phát triển của nhau.
Hợp tác kinh tế gồm 3 lĩnh vực hoạt động lớn như sau:
Cải thiện môi trường kinh tế ở Việt Nam bằng cách toạ thuận lợi cho việc tiếp cận công nghệ và know how của Cộng đồng châu Âu.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc tiếp xúc giữa các nhà hoạt động kinh tế và tiến hành các biện pháp khác nhằm khuyến khích trao đổi buôn bán và đầu tư trực tiếp.
Tăng cường hiểu biết lẫn nhau trong lĩnh vực môi trường kinh tế, xã hội văn hoá của nhau, lấy đó làm nền tảng cho sự hợp tác có hiệu quả.
Trong các lĩnh vực chung miêu tả trên đây, mục tiêu cụ thể sẽ là:
Cộng đồng châu Âu giúp Việt Nam chuyển tiếp thành công sang nền kinh tế thị trường, cải thiện môi trường kinh tế và kinh doanh.
Khuyến khích hợp tác giữa các thành phần kinh tế của hai bên, đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân.
Điều 8: Khoa học và Công nghệ
Khuyến khích chuyển giao know how, công nghệ và phổ biến thông tin và chuyên môn.
Tạo cơ hội tiến hành hoạt động hợp tác kinh tế, công nghiệp và thương mại trong tương lai.
Điều 9: Hợp tác phát triển
Cộng đồng châu Âu tăng cường viện trợ phát triển thông qua các chương trình và dự án cụ thể phù hợp với những ưu tiên nêu ra trong quy định của Hội đồng EEC số 443/92.
Viện trợ nhằm chủ yếu vào các tầng lớp dân cư nghèo, dân hồi hương và các khu vực cần phát triển cơ sở hạ tầng, tạo công ăn việc làm, phát triển văn hoá giáo dục cộng đồng.
Đặc biệt chú trọng các hoạt động thúc đẩy hợp nhất kinh tế giữa các vùng ở Việt Nam.
Điều 10: Hợp tác khu vực
Hợp tác giữa hai bên có thể được mở rộng đến các nước khác trong khu vực Đông Nam á và không tổn hại tới quyền của mỗi bên được hợp tác với các đối tác khác trong khu vực.
Điều 11: Hợp tác về môi trường
Coi bảo vệ môi trường là một bộ phận cấu thành của hợp tác phát triển và hợp tác kinh tế. Cam kết bảo vệ giữ gìn môi trường trên tất cả các lĩnh vực, các địa bàn, cùng trao đổi sáng kiến nhằm tìm ra biện pháp hữu hiện nhất.
Điều 12: Thông tin và truyền thông
Tăng cường hợp tác trên lĩnh vực này nhằm tăng cường hiểu biết và thúc đẩy quan hệ toàn diện.
Điều 13: Kiểm soát việc lạm dụng ma tuý
Hai bên khẳng định quyết tâm tăng cường các biện pháp và chính sách phòng ngừa tệ nạn ma tuý. Liên kết nhiều mặt để có được hiệu quả cao nhất.
Điều 14: Uỷ ban hỗn hợp
Thành lập Uỷ ban hỗn hợp với các nhiệm vụ sau:
Đảm bảo sự hoạt động và thi hành đúng đắn Hiệp định và đối thoại giữa hai bên.
Đề xuất những kiến nghị phù hợp với tình hình thực tế.
Xác lập các ưu tiên đối với những hoạt động cần thiết nhằm đạt được mục đích của Hiệp định.
Điều 15: Phát triển trong tương lai
Các bên có thể có các ý kiến đề xuất nhằm cải tiến Hiệp định hoàn thiện hơn. Tuỳ tình hính thực tế mà các bên có đề nghị mở rộng hợp tác cho phù hợp.
Điều 16: Các hiệp định khác
Các hiệp định khác không gây tổn hại tới Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu và Hiệp định này đầu có giá trị pháp lý và cần được thi hành theo thoả thuận.
Điều 17: Điều kiện thuận lợi
Để việc hợp tác trong khuôn khổ Hiệp định này được dễ dàng, Việt Nam sẽ dành cho các viên chức và chuyên gia của Cộng đồng châu Âu những đảm bảo và điều kiện thuận lợi cần thiết. Quy định chi tiết được nêu ra trong thư trao đổi.
Điều 18: Lãnh thổ áp dụng
Lãnh thổ Việt nam và trên các lãnh thổ mà tại đó Hiệp định thành lập Cộng đồng kinh tế châu Âu được áp dụng theo các điều khoản quy định trong Hiệp ước.
Điều 19: Phụ lục
Các phụ lục kèm theo là một bộ phận không thể tách rời của Hiệp định.
Có 3 phụ lục:
Phụ lục 1: Các tuyên bố của Cộng đồng châu Âu.
Tuyên bố của Cộng đồng châu Âu về đoạn 5 phần mở đầu của Hiệp định hợp tác.
Tuyên bố của Cộng đồng châu Âu về điều chỉnh thuế quan.
Tuyên bố của Cộng đồng châu Âu về việc mở rộng Hiệp định.
Phụ lục 2: Tuyên bố chung giữa Chính phủ Việt Nam và Cộng đồng châu Âu.
Phụ lục 3: Tuyên bố của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Tuyên bố của Cộng đồng châu Âu.
Điều 20: Hiệu lực và thời gian
Hiệp định này có hiệu lực vào ngày đầu tiên của tháng tiếp theo ngày mà các bên thông báo cho nhau đã hoàn thành những thủ tục cần thiết cho mục đích này.
Hiệp định này được ký kết cho giai đoạn 5 năm, nghiễm nhiên được gia hạn thêm 1 năm trừ khi một trong các bên tuyên bố huỷ bỏ 6 tháng trước khi Hiệp định hết hạn.
Điều 21: Giá trị văn bản
Hiệp định được soạn thảo bằng các thứ tiếng: Đan Mạch, Hà Lan, Anh, Đức, Phần Lan, Pháp, Hy Lạp, Italia, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển và Việt Nam. Mỗi thứ tiếng có 2 bản và các bản đều có giá trị tương đương như nhau./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thi truong EU va kha nang xuat khau hang nong san Viet nam .doc
- trang bia khoa luan.doc