Khóa luận Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Cơ sở hạ tầng kĩ thuật bên trong khu công nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể nhanh chóng tiến hành xây dựng nhà xưởng, tiết kiệm thời gian, có thể tập trung ngay vào hoạt động kinh doanh, sản xuất của mình. Vì vậy, cơ sở hạ tầng bên trong hàng rào là yếu tố quan tâm hàng đầu của các chủ đầu tư. Trong thời gian trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng bên trong các KCN hiện có. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc cần có chính sách khuyến khích đặc biệt về giá cả, dịch vụ, thuế đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở các KCN. Đồng thời, ban quản lý các KCN, KCX và các cơ quan chức năng cần theo dõi chặt chẽ quá trình và chất lượng xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng và tiện ích công cộng, sớm đưa ra các tiêu chuẩn, qui phạm xây dựng đối với các công trình cơ sở hạ tâng KCN, KCX. Trong thời gian qua đã có hiện tượng do tính cạnh tranh thu hút đầu tư (do cần nhanh chóng giao đất cho các nhà đầu tư) nên hệ thống cơ sở hạ tầng bên trong các KCN bị thi công kém chất lượng hoặc không xây dựng đầy đủ các công trình cơ sở hạ tầng và các tiện ích công cộng. Kết quả là đã gây ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư. Muốn thu hút được vốn đầu tư chỉ quan tâm đến cơ sở hạ tầng kĩ thuật trong hàng rào là chưa đủ. Thực tế đã cho thấy, một số KCN đã thất bại do không được đầu tư đồng bộ cả về cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào và trong hàng rào. Trước hết là vấn đề giao thông liên lạc, đây là một yếu tố tiên quyết cho hoạt động của một khu vực, đối với KCN, KCX, hệ thống đường xá có thuận lợi mới giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí vận chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá, chi phí đi lại. Tuy nhiên, tại nhiều địa phương, hệ thống đường xá bị xuống cấp trầm trọng, một số được nâng cấp nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu. Cùng với đó, hệ thống cầu cống, cấp nước, cấp điện cũng trong tình trạng tương tự. Cần kiến nghị với Nhà nước có những chính sách quan tâm hơn nữa đến đầu tư cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào, có thể cho phép sử dụng 50-60% các nguồn thu trong các KCN KCX để sử dụng xây dựng và phát triển những công trình trên. Ngoài ra, các doanh nghiệp phát triển hạ tầng và các ban ngành liên quan cần nhanh chóng tăng cường các loại hình dịch vụ hỗ trợ phục vụ sản xuất kinh doanh như: giao nhận, kho vận, chi nhánh ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, kiểm toán và đặc biệt thành lập các kho ngoại quan tại các KCX và cho phép thành lập các khu bảo thuế tại các doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn trên cơ sở giúp các doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí và đơn giản hoá thủ tục.

doc66 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1596 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu công nghiệp, khu chế xuất tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n theo hình thức Nhà Nước vẫn theo hình thức giao đất hoặc doanh nghiệp phát triển hạ tầng cho thuê đất để đầu tư xây dựng hạ tầng, sau đó cho thuê lại đất đã phát triển hạ tầng, theo đó giá thuê đất bằng giá đất thô cộng với chi phí giải toả, chi phí đầu tư phát triển hạ tầng và lợi nhuận của doanh nghiệp. Giá thuê lại đất và phí hạ tầng trong các KCN, KCX cao hơn so với ngoài KCN, KCX là do kết cấu trong giá thành thuê lại đất chủ yếu là chi phí đền bù, giải toả và chi phí san lấp mặt bằng, xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật. Giá thuê đất thô (giá thuê đất của Nhà nước) chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Ngoài ra, do phải bỏ vốn trước tạo sẵn mặt bằng và xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật nên nếu như thu hút đầu tư chậm thì hiệu quả vốn đầu tư sẽ thấp, do đó doanh nghiệp phát triển hạ tầng tính toán giá thuê lại đất thường ở mức cao để có thể hạn chế rủi ro. Do vậy các doanh nghiệp thuê cơ sở hạ tầng trong KCN, KCX thường phải chịu mức phí cao. Theo điều 14, khoản d của nghị định 36/CP thì công ty hạ tâng có quyền “ấn đinh giá thuê lại đất đã xây dựng kết cấu hạ tầng, giá cho thuê bán nhà xưởng và phí dịch vụ với sự quản lý của Ban quản lý KCN cấp tỉnh”; điều 87 nghị định 24/2000/NĐ_CP ngày 31/7/2000 qui định “việc trả tiền thuê đất, tiền thuê lại đất đã phát triển hạ tầng và phí sử dụng các công trình hạ tầng thực hiện theo hợp đồng đã kí kết với doanh nghiệp phát triển hạ tầng. Như vậy, qua những qui định trên việc thuê lại đất, dich vụ này được thực hiện dựa trên sự thoả thuận giữa hai doanh nghiệp và không có sự can thiệp của Nhà nước. Điều này phù hợp với luật doanh nghiệp, thế nhưng, các doanh nghiệp phát triển hạ tầng vì mục tiêu lợi nhuận nên đã nâng giá cho thuê lại đất cũng như những phí dịch vụ trong KCN, do đó chi phí thuê có sở hạ tầng của các doanh nghiệp đầu tư trong KCN phải chịu cao hơn, làm triệt tiêu ưu đãi trong việc giảm giá thuê đất thô rẻ của Nhà nước ta để thu hút đầu tư. Một trong những vướng mắc đối với các doanh nghiệp KCN là quyền sử dụng đất. Do tính chất thuê lại đất nên nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài, chưa an tâm vì sở hữu tài sản trên đất của người khác và do vậy khả năng cầm cố, thế chấp tài sản gắn liền trên đất bị hạn chế. Luật sửa đổi Luật đất đai năm 1998 và Luật sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 vừa qua đã cho phép việc nhà đầu tư trong nước được chuyển nhượng đất trong KCN, KCX được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bìa đỏ). Điều này đã góp phần tạo thêm sức hấp dẫn của KCN, KCX đối với doanh nghiệp trong nước. Chính vì vậy trong những năm gần đây, đầu tư trong nước vào KCN đã tăng nhanh như ở thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương…Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp FDI hoặc đối với KCN, KCX có doanh nghiệp phát triển hạ tầng là doanh nghiệp FDI thì vấn đề này chưa xử lý được do Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân nước ngoài thuê đất ở Việt Nam quy định nhà đầu tư nước ngoài không có quyền chuyển nhượng đất. Thêm vào đó, điều kiện để có thể được thế chấp quyền sử dụng đất là thời gian đã trả tiền thuê đất còn lại phải ít nhất 5 năm, do vậy muốn được thế chấp quyền sử dụng đất thì doanh nghiệp KCN phải trả trước tiền thuê đất nhiều năm làm tăng chí phí đầu tư ban đầu. 2. 3. 5. Công tác vận động xúc tiến đầu tư còn yếu kém Trong hơn 10 năm phát triển, mô hình khu công nghiệp, khu chế xuất của chúng ta không ngừng lớn mạnh và đã có những đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của đất nước, vượt qua được giai đoạn đầu tư nước ngoài giảm sút do ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng kinh tế. Đạt được thành tựu này, nhờ một phần đáng kể vào công tác vận động, xúc tiến đầu tư, tuyên truyền những chính sách ưu đãi, thông thoáng của Nhà nước ta với các đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, so với nhiệm vụ đặt ra, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX vẫn còn một số hạn chế về số lượng vốn thu hút được, về đối tác đầu tư, về chất lượng các dự án… một phần vấn đề này là do công tác xúc tiến đầu tư trong thời gian qua còn yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Có thể kể ra một số hạn chế như sau: Công tác xây dựng qui hoạch và xác lập danh mục dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài bước đầu đã được quan tâm, những việc triển khai thực hiện còn chậm, chất lượng chưa cao. Một số qui hoạch và dự án trong danh mục chưa tính đến nhu cầu và điều kiện cụ thể của nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời không dự báo hết diễn biết tình hình nên chưa thật sự trở thành công cụ định hướng cho công tác xúc tiến có hiệu quả. Theo cơ chế phân cấp, uỷ quyền đến nay đã có trên 80 cơ quan đầu mối cấp giấy phép đầu tư trên địa bàn cả nước. Tuy nhiên, do chưa được xây dựng theo một chương trình, kế hoạch thống nhất, lại thiếu sự phối hợp, chỉ đạo của cơ quan đầu mối ở cấp Trung ương nên các chương trình vận động xúc tiến đầu tư còn manh mún, tự phát và phần nào tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài Nội dung cũng như phương thức tổ chức vận động và xúc tiến đầu tư còn quá đơn giản, nặng về tuyên truyền luật pháp, chính sách, chưa tập trung vào chương trình vận động theo từng đối tác, lĩnh vực hoặc dự án cụ thể nên hiệu quả chưa cao Trong thời gian dài, kinh phí phục vụ cho công tác xúc tiến chưa được bố trí từ ngân sách nhà nước nên việc triển khai các chương trình còn bị động, phụ thuộc vào đối tác nước ngoài Hệ thống thông tin về kinh tế, luật pháp, chính sách, đặc biệt là thông tin về cơ hội và đối tác đầu tư còn chưa đầy đủ trong một số trường hợp còn thiếu chính xác độ tin cậy chưa cao. Điều này không chỉ làm hạn chế hiệu quả của hoạt động tuyên truyền mà còn gây khó khăn cho nhà đầu tư trong việc tìm hiểu thị trường và xác định cơ hội và đối tác đầu tư Trong thời gian tới, để thực hiện mục tiêu mà Nghị quyết 09/2001/NQ-CP đặt ra về tăng cường thu hút đầu tư vào Việt Nam cũng như phương hướng phát triển KCN, KCX, cần phải coi trọng hơn nữa công tác vận động xúc tiến đầu tư, các bộ, ngành và địa phương cần phải phối hợp chặt chẽ và đồng bộ để thực hiện tốt công tác này. Nói tóm lại, tình hình đầu tư nước ngoài vào KCN, KCX trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Sau một thời gian bị giảm sút do những ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu á và sự suy thoái của nền kinh tế thế giới, nhưng ngay sau đó với sự nỗ lực của Chính phủ và các Bộ, ngành, các KCN, KCX đã dần lấy được niềm tin của các nhà đầu tư, trở thành một địa điểm hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được này, vẫn còn có nhiều hạn chế trong công tác triển khai mô hình KCN, KCX của nước ta và chính những điều bất cập này phần nào cản trở việc tăng cường thu hút đầu tư vào KCN, KCX. Mặc dù vậy, những thiếu sót trên là hoàn toàn chúng ta có thể khắc phục được nếu có một sự nhận thức đúng đắn tầm quan trọng KCN, KCX trong nền kinh tế hiện nay của tất cả các cơ quan chức năng từ đó nhanh chóng, kịp thời, xử lý những khó khăn, vướng mắc để KCN, KCX có thể phát huy hết vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Chương 3 : Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX trong thời gian tới PHương hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN- KCX trong thời gian tới MụC TIÊU thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam trong GIAI ĐOạN 2001-2005 Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản đã khẳng định khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, nhằm thu hút nội lực trong nước, mở rộng hợp tác quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, phát triển đất nước. Gần 15 năm kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào năm 1987, hoạt động đầu tư nước ngoài đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, đưa Việt Nam thoát khỏi khủng khoảng kinh tế, tăng cường thế và lực trên trường quốc tế, ĐTNN đã trở thành một trong những nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển; có tác dụng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mở ra nhiều ngành nghề, sản phẩm mới; nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ, mở rộng thị trường xuất khẩu; tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế khi bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005, Đảng và Nhà nước đã đề ra những nhiệm vụ và giải pháp huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước đồng thời tận dụng lợi thế thu hút đầu tư nước ngòai. Ngày 9-6-2000, luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được thông qua, sau đó ngày 30-7-2000 Chính phủ ban hành kèm theo nghị định 24/2000/NĐ-CP qui định chi tiết việc thi hành luật sửa đổi bổ sung trên. Do tình hình thu hút đầu tư nước ngoài có phần giảm sút, ngày28-8-2001 Chính Phủ đã ban hành Nghị quyết 09 /NQ-CP và chỉ thị 19/CT-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về “tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả ĐTNN thời kì 2001-2005”, trong đó đề ra mục tiêu thực hiện cho lĩnh vực đầu tư nước ngoài trong thời gian tới với nội dung được nêu rõ như sau : Để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001-2010 và phương hướng nhiệm vụ Kế họach phát triển kinh tế –xã hội năm 2001 –2005, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài phải phát triển ổn định hơn, đạt kết quả cao hơn, đặc biệt về chất lượng, so với kì trước, để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cụ thể hơn, hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời kì 2001-2005 phải đạt được những mục tiêu sau: a, Vốn đăng kí của các dự án cấp mới: khoảng 12 tỷ USD b, Vốn thực hiện: khoảng 11 tỷ USD c, Đến năm 2005 đóng góp khoảng 15% GDP, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu và khoảng 15% tổng thu ngân sách Nhà Nước (không kể ngân sách Nhà nước ) 2. phương hướng thu hút fdi vào KCN, KCX ở Việt Nam trong thời gian tới Thu hút đầu tư nước ngoài vào KCN, KCX muốn thành công trước hết phải được đặt trong mục tiêu, phương hướng thu hút đầu tư FDI chung của cả nước cũng như phương hướng phát triển KCN, KCX nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà, đi đúng hướng trong tổng thể nền kinh tế. Trong Nghị quyết số 09/201/NQ-CP ngày 28-8-2001 đã nêu rõ định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới như sau “Tập trung thu hút đầu tư nước ngoài vào các Khu công nghiệp tập trung đã hình thành theo phê duyệt”. Bên cạnh đó, trong Nghị quyết của Đại hội Đảng VIII năm 1996 đã xác định “Hình thành KCN tập trung, tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới”. Tiếp đó, Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 của Ban chấp hành Trung uơng Đảng Khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng đã nhấn mạnh "Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất ". Việc xây dựng thành công và phát triển có hiệu quả hoạt động của các KCN là một trong những chương trình kinh tế trọng điểm, có ý nghĩa chiến lược trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy có thể Đảng và Chính phủ cũng đã có sự quan tâm đúng đắn tới tầm quan trọng của coi việc thu hút đầu tư nước ngoài vào KCN, KCX trong những năm qua cũng như trong thời gian sắp tới. Như vậy để thực hiện chủ trương này của Đảng, căn cứ vào mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và phương hướng phát triển KCN, KCX cũng như vào đặc điểm kinh tế, điều kiện tự nhiên và lợi thế của từng vùng, từ khả năng và nhu cầu tăng trưởng kinh tế, và phát triển công nghiệp…Chúng ta có thể đưa ra một số phương hướng thu hút đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian tới như sau: Thứ nhất, Mục tiêu quan trọng nhất kể từ khi thành lập các KCN, KCX cũng là phương hướng chính trong những năm tới là phấn đấu thu hút đầu tư để lấp đầy KCN, KCX hiện nay. Tính đến hết năm 2001, tỷ lệ lấp đầy khu công nghiệp ở mức 21,5% (nếu chỉ tính riêng các ngành sản xuất công nghiệp thì tỷ lệ này là 40,6%), mặc dù đây là một bước tiến đáng kể nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trong chiến lược phát triển đất nước. Theo tính toán sơ bộ, để lấp đầy tất cả các KCN, KCX đã được thành lập, phải thu hút được khoảng 6.000 doanh nghiệp với tổng số vốn đầu tư 20-25 tỷ USD. Vì vậy, trong những năm tới phải thu hút thêm khoảng 5500 doanh nghiệp mới với tổng vốn đầu tư đăng ký 18 - 23 tỷ USD, trong đó chủ yếu là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với tốc độ thu hút đầu tư nước ngoài của cả nước trong các năm qua, để có thể lấp đầy được các KCN, KCX đã được thành lập cũng phải mất 15 –20 năm nữa. Trong thời gian tới, giai đoạn 2001-2005, phương hướng đặt ra trước mắt là phải nâng tỷ lệ lấp đầy các KCN KCX lên 50%. Đặc biệt đối với một số khu công nghiệp hiện nay tỷ lệ ở mức quá thấp, mặc dù đã hoàn thành xong việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng vẫn không thu hút được đầu tư, dẫn đến tình trạng lãng phí, hệ số sử dụng đất công nghiệp thấp không đạt hiệu quả thì phải nhanh chóng có những biện pháp khắc phục, trong đó đặc biệt chú ý đến các biện pháp xúc tiến đầu tư. Thứ hai, thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới là phải theo hướng quan tâm đến chất lượng dự án. Khuyến khích thu hút những dự án đầu tư vào những ngành chủ chốt, những ngành sử dụng công nghệ hiện đại, kĩ thuật tiên tiến…Cụ thể như: + Đối với ngành cơ khí: dự án chế tạo những thiết bị phụ tùng phục vụ cơ giới hoá nông nghiệp; phục vụ cho các ngành công nghiệp hoá dầu, luyện kim, điện, chế biến khoáng sản; và các thiệt bị máy mọc phục vụ cho ngành công nghiệp nhẹ + Đối với ngành công nghiệp tiêu dùng: dệt may, da giầy xuất khẩu, chế biến nông lâm hải sản, gốm sứ cao cấp; sản xuất các sản phẩm hoá chất tiêu dùng, mỹ phẩm + Đối với ngành điện tử – công nghệ thông tin : dự án sản xuất các thiết bị điện tử công nghiệp và chuyên dụng trong y tế, đo lường, tự động hoá; sản xuất các thiết bị thông tin liên lạc, phát thanh truyền hình, thiết bị văn phòng; sản xuất những cấu kiện điện tử, linh kiện, vật liệu điện tử; thiết bị tin học và phần mềm … Như vậy, cần khuyến khích thu hút FDI vào KCN, KCX nhằm tăng năng lực sản xuất công nghiệp của nước ta trên nhiều lĩnh vực quan trọng. Vì các dự án FDI thường có trình độ công nghệ cao hơn trình độ trong nước, do vậy phải hướng các nguồn vốn FDI này vào KCN, KCX để có thể nhanh chóng bắt kịp với trình độ công nghệ tiên tiến trên thế giới. Bên cạnh đó, cần kiên quyết không chấp nhận những dự án “chất lượng thấp” gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, đến đời sống sinh hoạt của người dân, đến an ninh quốc phòng đất nước. Theo báo cáo đầu tư thế giới 2002, các nhà phân tích khuyến cáo rằng nguồn vốn FDI chảy vào KCN, KCX của các nước đang phát triển là những dự án có “chất lượng thấp”gây ảnh hưởng đến môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên, thường là những dự án công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động và trả lương thấp. Vì thế, chúng ta cũng cần xem xét nhận định trên và đề ra những qui định kiên quyết không tiếp nhận những dự án này. Thứ ba, thu hút FDI vào KCN, KCX kết hợp giữa lựa chọn thu hút ngành nghề của dự án đầu tư vào KCN, KCX phù hợp với các địa bàn thuộc diện khuyến khích đầu tư, địa bàn có nhiều lợi thế các ngành để phát huy vai trò động lực, đồng thời tạo điều kiện liên kết với các vùng khác trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. + Trên các địa bàn như thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hà Nội: các ngành nghề thuộc các lĩnh vực cơ khí, điện tử- công nghệ thông tin, công nghiệp hàng tiêu dùng….Riêng lĩnh vực hoá chất- dầu khí chỉ khuyến khích các ngành sử dụng sản phẩm hoá chất tiêu dùng – mỹ phẩm và sản xuất xăm lốp – cao su kĩ thuật. + Các KCN trên địa bàncác tỉnh công nghiệp như Quảng Ninh, Hải Phòng, Bà Rịa-Vũng Tàu, Đà Nẵng, Quảng Ngãi ưu tiên bố trí các ngành nghề thuộc lĩnh vực cơ khí nặng như chế tạo thiết bị, phụ tùng cho các ngành công nghiệp, đóng tàu, luyện kim, hoá chất- hoá dầu, vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm hai sản. + Các KCN ở các tỉnh như Đồng Nai, Sông Bé: ưu tiên bố trí các ngành nghề cơ khí phục vụ công nghiệp chế biến và cơ giới hoá nông nghiệp, cơ khí phục vụ các nghành công nghiệp nhẹ, chế tạo thiết bị kĩ thuật điện tử – công nghệ thông tin, hàng tiêu dùng… + Các KCN trên địa bàn các tỉnh có tỷ trọng nông nghiệp lớn như Hà Tây, Bắc Ninh,và một số tỉnh miền Trung: các ngành nghề thuộc các lĩnh vực cơ khí đơn giản, công nghiệp hàng tiêu dùng, sản xuất và chế biến nông lâm thuỷ sản … II. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX Căn cứ vào những thực trạng với những khó khăn vướng mắc trong tình hình thực tế đầu tư vào các KCN, KCX hiện nay, và thực hiện theo định hướng thu hút đầu tư vào KCN, KCX phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế –xã hội chung của cả nước, chúng ta có thể đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút FDI này như sau 1. Xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư và danh mục dự án ưu tiên đầu tư vào kcn, kcx trong thời gian tới Xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN cũng như công bố các danh mục các KCN, KCX thuộc diện ưu đãi là hết sức cần thiết nhằm tăng tính hấp dẫn đối với các chủ đầu tư. Trong từng thời kì các UBND cấp tỉnh chủ động xây dựng và ban hành danh mục dự án kêu gọi đầu tư sao cho phù hợp với tình hình và lợi thế phát triển của địa phương sau khi đã thống nhất với Bộ kế hoạch và Đầu tư và phải đặt trong sự thống nhất về chủ trương và qui hoạch chung của cả nước đồng thời cũng phải quan tâm đến nhu cầu của các nhà đầu tư sau đó các dự án này nên được bố trí làm dự án tiền khả thi. Để có thể tập trung thu hút các dự án FDI mới vào các KCN, KCX, danh mục kêu gọi đầu tư vào các KCN, KCX phải có nhiều ưu đãi, hấp dẫn hơn so với danh mục ngoài khu. Công bố danh mục thuộc diện này chỉ cần thoả mãn một trong các điều kiện như: là dự án thuộc ngành nghề sản xuất công nghiệp; dự án khai thác tiềm năng và sử dụng chủ yếu vật tư, nguyên liệu trong nước; dự án thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế, các ngành công nghiệp khác trong nước (cung cấp nguyên liệu thiết bị, phụ tùng, bán thành phẩm, gia công cho các ngành khác…); dự án sản xuất hàng xuất khẩu, hàng thay thế nhập khẩu; dự án có trình độ kĩ thuật cao, sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm,v.v…Với những danh mục dự án như thế sẽ làm cơ sở cho công tác vận động xúc tiến đầu tư của các ngành, tỉnh, địa phương được tiến hành thuận lợi hơn. Đồng thời, các địa phương khi đưa ra những danh mục ưu tiên đầu tư này cũng cần chú ý sao cho phù hợp với phương hướng thu hút FDI vào KCN-KCX, phù hợp với qui hoạch phát triển của cả nước. ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cần tập trung các dự án công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử, thông tin, cơ khí, công nghiệp phần mềm. Vùng trọng điểm Nam bộ gắn với các dự án sản xuất, gia công cùng với việc xây dựng các khu đô thị. Vùng trọng điểm miền Trung, các dự án về dầu khí, xây dựng, công nghiệp chế biến ...Như vậy,danh mục dự án này sẽ tăng cường thu hút FDI và hướng nguồn vốn FDI vào KCN, KCX theo hướng tạo nên sự thống nhất về quy hoạch, sự liên kết kinh tế giữa các ngành, giữa các vùng trong cả nước. 2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về fdi nói chung và quy chế kcn, kcx, kcnc nói riêng Qui chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm NĐ 36/CP ngày 24/4/1997 ra đời đến nay đã hơn 5 năm là thời kì tốc độ thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng nhanh. Nghị định này được ban hành kịp thời với những cơ chế chính sách khá thông thoáng nên đã đóng góp tích cực cho việc phát triển KCN. Tuy nhiên đến nay để theo kịp với tình hình thực tế, những sửa đổi bổ sung của Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000, cũng như một số văn bản dưới luật khác, chúng ta cần thiết phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Qui chế KCN, KCX, KCNC cho phù hợp với tình hình trên, đồng thời để giải quyết một số vướng mắc trong quá trình thực hiện vừa qua. Trước hết, cần xem xét lại việc phát triển kinh doanh cơ sở hạ tầng. Hiện nay, cơ chế cho thuê đất trong các KCN được thực hiện bằng hình thức nhà nước giao đất hoặc doanh nghiệp phát triển hạ tầng thuê đất để đầu tư xây dựng hạ tầng, sau đó cho thuê hoặc cho thuê lại đất đã phát triển hạ tầng đó. Nên giá thuê đất theo NĐ36 này sẽ bằng giá đất thô cộng chi phí giải toả, chi phí đầu tư phát triển hạ tầng và lợi nhuận của doanh nghiệp, nên giá cho thuê đất của các doanh nghiệp trong KCN KCX thường cao hơn giá so với các doanh nghiệp bên ngoài khu do các công ty kinh doanh hạ tầng thường đặt mức giá cao do mục tiêu là theo đuổi lợi nhuận. Hơn nữa một trong những tiêu chí lựa chọn địa điểm đầu tư là giảm chi phí, do vậy, hiện nay chúng ta phải giải quyết hợp lý quan hệ quyền lợi giữa một bên là công ty phát triển hạ tầng và một bên là các chủ đầu tư muốn hạ chi phí và bình đẳng với các doanh nghiêp bên ngoài khu trong chi phí thuê cơ sở hạ tầng và mục tiêu của Nhà nước nhằm giảm chi phí cho các nhà đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư. Vì vậy, cần nghiên cứu, sửa đổi mục này trong qui chế KCN, KCX nên theo những hướng như sau: Giữ nguyên cơ chế cho thuê đất hiện nay và chỉ có một thay đổi nhỏ là tách biệt giá cho thuê đất thô theo qui định của Nhà Nước và phí sử dụng hạ tầng trong kết cấu giá cho thuê lại đất của các công ty phát triển hạ tầng (mà trước đây gộp chung vào một khoản) với phương án này thuận lợi hơn cho công ty phát triển hạ tầng Thay đổi cơ chế cho thuê lại đất theo hướng công ty phát triển hạ tầng được giao đất không phải nộp tiền sử dụng đất, nhà đầu tư kí hợp đồng thuê đất trực tiếp với Nhà nước theo giá Nhà nước qui định và chỉ kí hợp đồng với công ty phát triển hạ tầng trả phí sử dụng hạ tầng. Phương án này thuận lợi cho cơ quan quản lý Nhà nước và quyền lợi của các nhà đầu tư trong KCN - Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nhằm tạo lập một môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất kinh doanh; đồng thời áp dụng về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kì Trước bối cảnh hiện nay, đầu tư nước ngoài tuy có tăng nhưng vẫn không nhanh như giai đoạn những năm 1995-1997, đồng thời chúng ta bị cạnh tranh thu hút đầu tư với các nước láng giềng, đặc biệt là đối với Trung Quốc với nhiều lợi thế hơn ta về chi phí đầu tư, về nhân công…Để tăng cường tính hấp dẫn đối với các dự án đầu tư vào các KCN KCX, trong thời gian tới, chúng ta cần có những chính sách tài chính hấp dẫn hơn nữa đối với cả doanh nghiệp phát triển hạ tầng cũng như các chủ đầu tư vào các KCN, KCX Tiến hành giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp KCN. Theo thống kê của tổ chức JETRO (Nhật Bản) thì giá một số loại dịch vụ như thông tin liên lạc, điện nước, chi phí vận chuyển của Việt Nam cao hơn khá nhiều các nước trong khu vực. Đồng thời các doanh nghiệp trong KCN vẫn phải chịu tình trạng chính sách giá đối với một số loại dịch vụ. Do vậy, hà nước cần phải chủ chương từng bước giảm thiểu chi phí cho các nhà đầu tư, giảm giá một số mặt hàng Nhà nước quản lý như điện, bưu chính viễn thông, giá thuê đất và tiến tới thống nhất một giá không phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay, trong KCN, KCX tuy có những lợi thế nhất định nhưng triển khai xây dựng hạ tầng chậm và giá thuê lại đất, phí sử dụng cơ sở hạ tầng trong các KCN, KCX đang ở mức cao hơn nhiều so với ngoài KCN, KCX. Tuy nhiên, các công ty này phải bỏ ra một lượng vốn lớn ứng trước để trả tiền thuê đất cho nhà nước và những chi phí đền bù, giải toả mặt bằng và xây dựng nhà xưởng trong khi đó phải sau một thời gian khá lâu mới thể xây dựng xong và tiến hành cho thuê. Do đó, các công ty này thường gặp khó khăn do thu hồi vốn lâu và phải trả lãi suất ngân hàng trong thời gian dài. Vì vậy, cần tạo những cơ chính sách ưu đãi nhất cho các doanh nghiệp phát triển hạ tầng, giúp các doanh nghiệp này vừa có điều kiện triển khai nhanh việc xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật vừa có khả năng giảm giá thuê đất và các dịch vụ cho các doanh nghiệp trong KCN. Theo một số kiến nghị của các công ty phát triển hạ tầng, thì Chính phủ nên tạo thêm một số ưu đãi cho các doanh nghiệp này, cụ thể như sau Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp phát triển hạ tầng về vốn bằng các biện pháp như lãi suất thấp hơn, thời gian vay, thời gian ân hạn dài hơn và có hỗ trợ một phần vốn đầu tư cơ sở hạ tầng đối với những địa bàn khó khăn. Quy định thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN, KCX ở mức 5% thay vì mức 10% như hiện nay Cho phép doanh nghiệp phát triển hạ tằng KCN, KCX được khấu trừ định mức thuế VAT đối với chi phí đền bù, giải toả. Ngay trong những năm tới, kịp thời cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp nước ngoài trong KCN, KCX, theo như những ưu đãi mà trong luật sửa đổi bổ sung Luật đầu tư 2000 và Nghị định 24/2000/CĐ-CP qui định “Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh thuê đất và thuê lại đất trong KCN, KCX,KCNC được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hướng dẫn của Tồng cục địa chính’’ mà hiện nay chúng ta mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho các chủ đầu tư trong nước, còn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chưa được cấp. Điều này gây nên tình trạng bất bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, đồng thời các doanh nghiệp này khó khăn trong việc dùng quyền sử dụng đất thuê ở các KCN, KCX để vay vốn tại các ngân hàng để phát triển sản xuất. - Đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới; nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư như công ty hợp danh, công ty quản lý vốn, công ty cổ phần có vốn nước ngoài, nghiên cứu mô hình khu kinh tế mở. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để phát triển các công trình hạ tầng ngoài hàng rào KCN như mở rộng hình thức đầu tư theo hình thức BOT, phát hành trái phiếu doanh nghiệp, thành lập Quĩ hỗ trợ đầu tư, tín dụng đầu tư từ Quĩ đầu tư phát triển đô thị. - Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với cam kết trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực dịch vụ khoa học, công nghệ dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực; từng bước mở rộng khả năng hợp tác trong lĩnh vực đầu tư với các nước phát triển. Cải tiến công tác quản lý Nhà nước đối với KCN, KCX Một trong những yếu tố cơ bản bảo đảm sự thành công của các KCX, KCN là quản lý Nhà nước đối với KCN, KCX. Tuy nhiên công tác này vẫn còn nhiều yếu kém đặc biệt là do mô hình quản lý Nhà nước vẫn chưa hoàn thiện, thủ tục hành chính vẫn chưa thực sự thông thoáng 3. 1. Đối với mô hình quản lý KCN, KCX Hiện nay, mô hình quản lý Nhà nước đối với KCN, KCX theo cơ chế "một cửa" đã phát huy tác dụng tích cực trong việc phát triển KCN, KCX. Song cũng phát sinh một số tồn tại như đã phân tích ở phần những vấn đề còn tồn tại trong việc phát triển KCN, KCX nên mô hình này cần được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Mặc dù cơ chế quản lý tuy có tổ chức và rõ đầu mối tổng hợp và phối hợp với các bộ, ngành Trung ương, UBND cấp tỉnh nhưng chưa phân định rõ cơ sở pháp lý về chức năng, thẩm quyền cũng như tính chất của loại mô hình tổ chức do Thủ tướng thành lập. ở nhiều nơi, trên thực tế một địa phương đã hình thành 2 bộ máy quản lý; một ở các sở, ban ngành thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, một tại Ban quản lý KCN cấp tỉnh. Điều đó không phù hợp với chủ trương cải cách hành chính, tinh giảm bộ máy hành chính Nhà nước, không thuận lợi cho việc quản lý theo địa bàn lãnh thổ. Mặt khác, thực tế về quản lý Nhà nước trong những năm qua cho thấy, ở một số nơi đã xuất hiện tư tưởng coi KCN, KCX và Ban quản lý KCN cấp tỉnh là của Trung ương do vậy chính quyền địa phương chưa quan tâm nhiều, chưa thấy rõ trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp phát triển KCN, KCX. Thậm chí ở một số địa phương đã có biểu hiện không thuận trong quan hệ giữa ban quản lý KCN với các cơ quan chức năng của tỉnh. Do vậy, căn cứ vào tình hình thực tế những mặt hợp lý cũng như những bất cập về tổ chức quản lý đối với KCN, KCX và những yêu cầu mới phát triển KCN, KCX trong điều kiện mới, cần phải đề ra các giải pháp kiện toàn, hoàn thiện mô hình tổ chức quản lý sắp tới đối với các KCN, KCX. Mô hình quản lý Nhà nước đối với KCN, KCX sắp tới phải có những yêu cầu như sau: Phải thiết kế mô hình quản lý nhà nước đảm bảo tổ chức đầu mối có đủ thực quyền, vừa làm chức năng tham mưu, đề xuất quản lý vĩ mô, vừa trực tiếp xử lý được những công việc có tính chất cập nhật thuộc thẩm quyền Trung ương tại các KCN, KCX ở địa phương. Theo đó, mô hình tổ chức quản lý nhà nước của các Bộ, ngành trung ương và UBND cấp tỉnh, thành phố đối với các KCN, KCX thông qua ban quản lý KCN, KCX cấp tỉnh có hiệu lực và hiệu quả. Phải phân rõ chức trách, thẩm quyền của mỗi loại cơ quan trong việc xử lý các vấn đề tại các KCN, KCX. Một yêu cầu cũng hết sức quan trong việc kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước là phải đảm bảo tinh gọn, hợp lý, thiết kế bộ máy theo mô hình quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực, kết hợp chuyên trách với phối hợp chuyên ngành để xử lý công việc theo yêu cầu “một cửa’’ tại chỗ, nhanh chóng và thuận tiện. Việc nghiên cứu hoàn thiện tổ chức quản lý KCN, KCX có thể thực hiện theo mô hình khác nhau, mỗi mô hình có những ưu điểm riêng, những khả năng và điều kiện áp dụng riêng. Do đó, việc lựa chọn mô hình tổ chức nào là phù hợp sẽ xuất phát từ những quan điểm ưu tiên trong phương pháp chỉ đạo chiến lược phát triển kinh tế của Chính phủ và từ khả năng thực tế của bộ máy tổ chức hiện có ở mọi cấp. Trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể ở nước ta, nên áp dụng mô hình dựa trên cơ sở phân cấp mạnh cho đơn vị cơ sở, địa phương trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước các KCN, KCX, KCNC và các khu tương tự. Để đáp ứng nhu cầu hiện nay, cần xem xét việc thực hiện thành lập tổng Cục quản lý khu công nghiệp là đơn vị có tư cách pháp nhân, trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có chức năng là cơ quan tham mưu tổng hợp về xây dựng chiến lược, qui hoạch kế hoạch phát triển các KCN, KCX, KCNC, vừa tư vấn vừa thực hiện xây dựng pháp luật, cơ chế chính sách đầu tư và quản lý các khu này, giúp Bộ trưởng bộ Kế hoạch và đầu tư ban hành các văn bản qui phạm pháp luật và trực tiếp quản lý hệ thống các KCN, KCX, KCNC và các khu tương tự. Hệ thống Ban quản lý KCN cấp tỉnh (Hiện tại là Tổng cục loạI II) là cơ quan quản lý nhà nước theo nguyên tắc một cửa, tại chỗ đối với các KCN trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Thủ tướng Chính Phủ thành lập và bổ nhiệm trưởng ban thuộc biên chế và ngân sách Nhà nước phân bổ cho tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Đối với địa phương chưa đủ điều kiện thành lập Ban quản lý KCN cấp tỉnh, việc quản lý hoát động của KCN giao cho Sở Kế hoạch Đầu tư phối hợp với các cơ quan chức năng của tỉnh giúp UBND cấp tỉnh thực hiện, song vẫn phải đảm bảo nguyên tắc quản lý một cửa, tại chỗ. 3. 2. Cải tiến thủ tục hành chính Theo các qui định hiện hành thì hiện nay thì thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung và vào khu công nghiệp, khu chế xuất nói riêng đã có nhiều cải tiến. Tuy nhiên, thủ tục hành chính sau giấy phép vẫn là vấn đề phức tạp, rắc rối. Các nhà đầu tư cho rằng, các ưu đãi về thuế của Việt Nam là hấp dẫn, nhưng để được hưởng các ưu đãi này thì trước hết phải tổ chức được sản xuất, kinh doanh. Chính ở khâu tổ chức sản xuất kinh doanh sau khi có giấy phép đầu tư, các nhà đầu tư phải làm thủ tục hành chính tại các cơ quan chức năng theo qui định của từng cơ quan này, giấy tờ thì nhiều, thường không có mẫu để kê khai, thời gian xem xét kéo dài. Do vậy, phải cải tiến thủ tục theo hướng giản đơn thủ tục, những khâu không cần thiết thì loại bỏ như thủ tục phê duyệt kế hoạch xuất khẩu, đăng kí hoạt động theo tiêu chuẩn bảo vệ môi trường của Việt Nam thay vì phải có giấy phép. Những thủ tục nhất thiết phải có để đảm bảo sự quản lý của Nhà nước thì phải có hướng dẫn rõ để các doanh nghiệp biết lập hồ sơ, qui định rõ thời hạn xem xét, quyết định và giải quyết tại chỗ công việc theo cơ chế hoặc giao ban quản lý cấp tỉnh thực hiện, hoặc là cơ quan đại diện đủ thẩm quyền tại KCN. Công tác kiểm tra, gửi báo cáo cũng cần được xem xét giải quyết theo hướng đơn giản, tránh trùng lặp. Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần có những văn bản hướng dẫn đầu tư vào KCN, KCX với những trình tự, thủ tục được công khai hoá, kiên quyết loại bỏ tệ nạn quan liêu, cửa quyền của một số cán bộ làm công tác quản lý, gây khó khăn, phiền nhiễu cho các doanh nghiệp, nghiêm khắc xử lý các trường hợp tiêu cực làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh, môi trường đầu tư của Việt Nam. 4. Đẩy mạnh và Hoàn thiện công tác xúc tiến FDI vào kcn, kcx Xúc tiến, vận động đầu tư vào KCN, KCX là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý Nhà nước đối với KCN, KCX, đồng thời giữ vai trò quyết định sự thành công của KCN, KCX. Trong giai đoạn vừa qua cũng như những năm tới, cần nhận thức rõ đối tượng đầu tư vào KCN, KCX chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bên cạnh việc tăng cường hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài, các bộ các ngành, địa phương cần triển khai chương trình vận động, xúc tiến đầu tư theo các mục tiêu, chương trình trọng điểm do các Đại hội Đảng toàn quốc và chiến lược phát triển kinh tế- xã hội với những hướng như sau : Xây dựng qui hoạch, danh mục dự án gọi FDI: Công bố các dự án nhằm tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận cơ hội đầu tư tại Việt nam. Phải xây dựng rõ ràng danh mục các dự án, địa bàn, lĩnh vực kêu gọi đầu tư làm cơ sở cho việc vận động, xúc tiến đầu tư; tăng cường vận động các dự án mới, tiếp tục vận động các nhà đầu tư đã hoạt động ở KCN, KCX đầu tư thêm dự án hoặc mở rộng qui mô vốn đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ. Đối với những dự án quan trọng, đối tác quan trọng, dự án có tầm ảnh hưởng lớn, các cơ quan Nhà nước phải tham gia từ đầu để lôi kéo nhà đầu tư đầu tư vào Việt Nam, đầu tư vào KCN. Tổ chức tuyên truyền, vận động đầu tư: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần phối hợp với các địa phương tổ chức các hội thảo, nhằm vận động đầu tư, giới thiệu về môi trường và cơ hội đầu tư ở Việt Nam, xây dựng hình ảnh có sức hấp dẫn FDI đối với các dự án mới. Tổ chức các cuộc đối thoại với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo lĩnh vực hoặc vấn đề cụ thể. Đồng thời, các Ban quản lý KCN cấp tỉnh cần phối hợp với các công ty phát triển hạ tầng KCN, KCX tập trung sức vào việc tổ chức vận động đầu tư dưới nhiều hình thức với chi phí thoả đáng. Tiếp tục triển khai các chương trình xúc tiến trong khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương. Hoạt động này được coi là một trong những công tác quan trọng và rất có hiệu quả của việc xúc tiến vận động đầu tư. Về hợp tác song phương, chúng ta đã thiết lập hợp tác với văn phòng Hội đồng đầu tư Thái Lan (OBOI); cơ quan phát triển công nghiệp Malaysia (MIDA); hội đồng phát triển kinh tế Singapore (EDB). Chúng ta cũng hợp tác với Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JACA), cơ quan xúc tiến mậu dịch Nhật Bản (JETRO) nhằm xúc tiến đầu tư của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản, ngoài ra cũng hợp tác với một số tổ chức của Châu âu, của Đức. Về hợp tác đa phương, quan hệ hợp tác của Việt Nam với các tổ chức tài chính quốc tế như MIGA, FIAS, IFC, ECSAP…Trong khuôn khổ chương trình hợp tác đầu tư đã thoả thuận với ASEAN, AFEC,ASEM, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần thường xuyên cập nhật những chương trình về hành động quốc gia về đầu tư nhằm thực hiện cam kết tự do hoá về đầu tư, phối hợp với các nước khác thực hiện chương trình chung nhằm cải thiện hình ảnh, nâng cao sức hấp dẫn của môi trường đầu tư khu vưc. Để chủ động vận động đầu tư và tiếp thị vào KCN, KCX, cần nghiên cứu thành lập nhiều hơn nữa các tổ chức xúc tiến mậu dịch và đầu tư ở một số nước và khu vực quan trọng mà trong thời gian qua, hoạt động đầu tư vào Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng của các nước này ví dụ như Châu Âu, Bắc Mỹ đặc biệt là Hoa Kì vốn là nước có tiềm năng mạnh về các ngành như năng lượng, hoá chất, bưu chính viễn thông, các ngành công nghệ cao nhưng số lượng dự án đầu tư vẫn ở con số hạn chế. Một trong những biện pháp xúc tiến vận động đầu tư hiệu quả nhất đối với nhà đầu tư nước ngoài là việc giải quyết, xử lý và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đang xây dựng hoặc đang sản xuất kinh doanh. Việc các doanh nghiệp này hoạt động thuận lợi, có hiệu quả sẽ là minh chứng thiết thực, đầy tính thuyết phục và có tiếng vang lớn, xa đối với các nhà đầu tư nước ngoài khác đang có ý định đầu tư vào Việt Nam nói chung và vào KCN, KCX nói riêng. Các nhà đầu tư nước ngoài hiện đang đầu tư ở các KCN, KCX ví như những con chim mồi, con chim đầu đàn, nếu như các nhà đầu tư này đầu tư có hiệu quả, thuận lợi sẽ kéo thêm nhiều nhà đầu tư nước ngoài khác đầu tư vào KCN, KCX. Bên cạnh đó, Nhà nước cần dành kinh phí thỏa đáng từ ngân sách Nhà nước cho công tác này, không chỉ dựa vào nỗ lực của doanh nghiệp phát triển hạ tầng hoặc bên nước ngoài trong các liên doanh xây dựng hạ tầng trong các khu, trước hết là kinh phí cho việc in ấn các tài liệu phục vụ cho công tác quảng bá như các tài liệu pháp lý, tài liệu giới thiệu về tiềm năng, môi trường đầu tư. Các tài liệu này được quảng bá ra nước ngoài không chỉ trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua các đợt vận đông, xúc tiến đầu tư ở nước ngoài mà còn phải sử dụng những phương tiện kỹ thuật hiện đại hiện nay như internet; xây dựng các trang Web cho đầu tư nước ngoài, KCN, KCX cho cả nước, cho từng địa phương. Cải thiện cơ sở hạ tầng KCN, KCX Một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ đầu tư khi đầu tư vào KCN, KCX là sự phát triển,thuận lợi của hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm cả hạ tầng kỹ thuật lẫn hậ tầng xã hội Kết cấu hạ tầng kỹ thuật là thành phần cơ bản nhất thúc đẩy sự phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, trao đổi thông tin, giao lưu văn hoá giữa các vùng trong và ngoài nước. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải đầu tư xây dựng trước để tạo tiền đề cho mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, thu hút và tiếp thu được vốn đầu tư trong và ngoài nước. Cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm các nhóm chức năng như hành chính, chính trị, thương nghiệp, dịch vụ các loại, văn hoá xã hội, giáo dục đào tạo, du lịch -nghỉ dưỡng- thể thao. Cụ thể, cơ sở hạ tầng là nhà ở, các công trình phục vụ như công trình y tế (bệnh viện, trạm y tế), văn hoá (nhà văn hoá, nhà truyền thống, câu lạc bộ…), giáo dục (nhà trường, nhà trẻ, mẫu giáo), thể dục thể thao, thương nghiệp (chợ, cửa hàng), dịch vụ công cộng (bưu điện, thư viện, các cơ quan hành chính… ), cây xanh, công viên, mặt nước.. . Cơ sở hạ tầng kĩ thuật bên trong khu công nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể nhanh chóng tiến hành xây dựng nhà xưởng, tiết kiệm thời gian, có thể tập trung ngay vào hoạt động kinh doanh, sản xuất của mình. Vì vậy, cơ sở hạ tầng bên trong hàng rào là yếu tố quan tâm hàng đầu của các chủ đầu tư. Trong thời gian trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng bên trong các KCN hiện có. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc cần có chính sách khuyến khích đặc biệt về giá cả, dịch vụ, thuế đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở các KCN. Đồng thời, ban quản lý các KCN, KCX và các cơ quan chức năng cần theo dõi chặt chẽ quá trình và chất lượng xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng và tiện ích công cộng, sớm đưa ra các tiêu chuẩn, qui phạm xây dựng đối với các công trình cơ sở hạ tâng KCN, KCX. Trong thời gian qua đã có hiện tượng do tính cạnh tranh thu hút đầu tư (do cần nhanh chóng giao đất cho các nhà đầu tư) nên hệ thống cơ sở hạ tầng bên trong các KCN bị thi công kém chất lượng hoặc không xây dựng đầy đủ các công trình cơ sở hạ tầng và các tiện ích công cộng. Kết quả là đã gây ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư. Muốn thu hút được vốn đầu tư chỉ quan tâm đến cơ sở hạ tầng kĩ thuật trong hàng rào là chưa đủ. Thực tế đã cho thấy, một số KCN đã thất bại do không được đầu tư đồng bộ cả về cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào và trong hàng rào. Trước hết là vấn đề giao thông liên lạc, đây là một yếu tố tiên quyết cho hoạt động của một khu vực, đối với KCN, KCX, hệ thống đường xá có thuận lợi mới giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí vận chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá, chi phí đi lại. Tuy nhiên, tại nhiều địa phương, hệ thống đường xá bị xuống cấp trầm trọng, một số được nâng cấp nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu. Cùng với đó, hệ thống cầu cống, cấp nước, cấp điện cũng trong tình trạng tương tự. Cần kiến nghị với Nhà nước có những chính sách quan tâm hơn nữa đến đầu tư cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào, có thể cho phép sử dụng 50-60% các nguồn thu trong các KCN KCX để sử dụng xây dựng và phát triển những công trình trên. Ngoài ra, các doanh nghiệp phát triển hạ tầng và các ban ngành liên quan cần nhanh chóng tăng cường các loại hình dịch vụ hỗ trợ phục vụ sản xuất kinh doanh như: giao nhận, kho vận, chi nhánh ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, kiểm toán và đặc biệt thành lập các kho ngoại quan tại các KCX và cho phép thành lập các khu bảo thuế tại các doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn…trên cơ sở giúp các doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí và đơn giản hoá thủ tục. Đối với cơ sở hạ tầng xã hội, do trong thời gian qua chúng ta không lường hết được những khó khăn nảy sinh cũng như không quan tâm đúng mức, chẳng hạn như hiện tượng công nhân phải thuê nhà trong các khu dân cư, không đảm bảo được cuộc sống, điều kiện sinh hoạt cho người lao động trong các KCN, KCX. Vấn đề này cần phải giải quyết ngay để đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như đảm bảo sự phát triển lâu dài đối, bền vững đối với các KCN, KCX. Tuy nhiên một khó khăn là do các công trình hạ tầng xã hội khó thu lợi nhuận cao, nên khó thu hút vốn của các nhà đầu tư vào phát triển các công trình này. Do vậy, Chính phủ cần được ra các cơ chế pháp lý, và tài chính để các chủ đầu tư cùng nhận thức và chia sẻ gánh nặng này với nhà nước. Có thể thực hiện theo một số hướng giải quyết như: Về chính sách + Nhà nước cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể thống nhất để khi qui hoạch KCN, phải qui hoạch khu nhà ở công nhân cũng như các chức năng phục vụ công cộng đơn thuần khác + Nhà nước can thiệp với Hiệp Hội ngân hàng để xem xét cho vay với lãi suất thấp và bằng vốn ưu đãi đối với các dự án xây dựng nhà ở công nhân cũng như những chi phí về bảo dưỡng, duy tu nhà ở hàng năm + Nhà nước khuyến khích các nhà đầu tư, các công ty kinh doanh đầu tư xây dựng nhà ở bằng cách giảm thuế doanh nghiệp từ 5-8 năm, miễn giảm tiền thuê đất 8-10 năm… + Khuyến khích người công nhân mua nhà trả góp rồi trừ vào thu nhập hàng tháng để họ phát huy tính tự chủ, tự lo bảo quản và giữ gìn nhà ở. Về thiết kế qui hoạch nhà ở công nhân + Các nhà tư vấn thiết kế qui hoạch KCN, KCX phải có trách nhiệm đề xuất các giải pháp đối với qui hoạch khu ở công nhân phù hợp với hạ tầng xã hội có sẵn hoặc chưa có của địa điểm lựa chọn, chú trọng đến các khu dân cư đô thị lân cận, dự đoán khả năng tăng dân cư cơ học trong tương lai + Đối với các KCN nằm gần các khu đô thị mà quĩ nhà ở còn cao thì tận dụng để thuê các khu ở trong đô thị + Đối với các khu ở xa đô thị thì nhất thiết phải xây dựng nhà ở cho công nhân theo những bước sau : Bước 1: Xây dựng các khu nhà ở có vốn đầu tư nhỏ bằng cách xây dựng các dãy nhà cấp 4, dùng nhiều vật liệu địa phương kết hợp, dễ vận chuyển, dễ tháo rời có thể vận chuyển đi nơi khác tuỳ theo nhu cầu thực tế của công nhân, khu nhà này có giá cho thuê thấp phù hợp với mức lương ban đầu của công nhân. Bước 2: Khi số công nhân đã tăng lên đáng kể, thu nhập của người lao động cao hơn và có khả năng làm việc lâu dài với KCN thù tiếp tục xây dựng các nhà cao tầng cho công nhân thuê hoặc mua trả góp đồng thời cũng chú ý xây dựng siêu thị, câu lạc bộ, nhà trẻ mẫu giáo, nhà để xe, cây xanh kết hợp với nghỉ ngơi thư giãn… Như vậy, Bộ Kế hoạch và đầu tư cần có các chính sách đảm bảo tính đồng bộ trong việc đầu tư xây dựng cơ sở cả trong lẫn ngoài hàng rào, cũng như phát triển hạ tầng xã hội.Trước hết công tác quy hoạch cơ sở hạ tầng khu vực cần phải đi trước một bước và mang tính chiến lược. Quy hoạch xây dựng KCN, KCX phải phải tính đến khả năng cung ứng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào, coi việc xây dựng cơ sở xã hội là một phần không thể thiếu trong qui hoạch cho cả hiện tại cũng như trong tương lai. Quy hoạch chi tiết KCN, KCX phải nêu rõ các phương án về nguồn (nguồn vốn, nguồn cung cấp điện, nước), các điểm nối và trách nhiệm của các đơn vị liên quan (giao thông, điện, nước, doanh nghiệp phát triển hạ tầng, cơ quan quản lý địa phương…). Khi đã có quy hoạch cơ sở hạ tầng, vấn đề quan trọng là phải thực hiện quy hoạch này một cách nghiêm túc, ít thay đổi, triển khai nhanh, đáp ứng yêu cầu phát triển của không chỉ KCN, KCX mà cả đối với phát triển vùng. Tuy nhiên, do các công trình này chi phí đầu tư lớn nên Nhà nước phải có những chính sách khuyến khích đặc biệt hay dùng ngân sách nhà nươc để đầu tư các công trình này. Bên cạnh đó, Nhà nước phải tạo ra những cơ chế, chính sách thích hợp để thu hút các nguồn vốn khác cùng tham gia xây dựng như nhà đầu tư ứng trước vốn xây dựng, Nhà nước hoàn trả khi đưa công trình đi vào hoạt động, huy động theo hình thức BOT, đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật để đổi lại được thực hiện một dự án khác... 6. Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực và không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý khu công nghiệp Tính đến nay các KCN, KCX đã thu hút được hơn 240.000 lao động làm việc trực tiếp tại đây. Đây là nguồn nhân lực đáng kể và trong tương lai con số này có thể lên tới 1 triệu lao động nếu lấp đầy các KCN, KCX hiện có. Đây là một nguồn nhân lực đáng kể và có vai trò ngày một to lớn đối với sự phát triển kinh tế –xã hội của đất nước. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế nói chung và các KCN nói riêng đang diễn ra một nghịch lý hết sức lo ngại giữa nhu cầu lao động và chất lượng lao động. Thực tế cho thấy, trong khi nguồn lao động rất dồi dào (nếu không nói là dư thừa) thì các doanh nghiệp lại rất khó khăn trong vấn đề tuyển dụng lao động, do nguồn lao động chưa đáp ứng được đủ những điều kiện của doanh nghiệp về trình độ học vấn, tay nghề …nhất là về lao động kĩ thuật, công nhân lành nghề thì hầu như địa phương nào cũng thiếu trầm trọng. Cho đến nay cả nước ta có hơn 40 triệu lao động, gần 25% ở đô thị, còn lại tập trung ở nông thôn, tỷ lệ lao động tốt nghiệp trung học ở mức thấp (30-40%). Với cơ cấu dân số và trình độ học vấn, tay nghề như thế không đáp ứng được nhu cầu và yêu cầu sản xuất công nghiệp với công nghệ hiện đại. Ngoài ra, số lượng các trường trung hoc chuyên nghiệp, dạy nghề còn ít, không thu hút được người theo học. Mặc khác, chương trình đào tạo đã quá lạc hậu, học viên tốt nghiệp vẫn phải đào tạo lại trong môi trường sản xuất với thiết bị hiện đại. Trong bối cảnh đó, cần có một số giải pháp như: cần xác định lại cơ cấu trong toàn bộ hệ thống đào tạo; mở rộng, đa dạng hoá các loại hình dạy nghề; chấn chỉnh tổ chức và quản lý chặt chẽ về chất lượng các trung tâm hướng nghiệp và dạy nghề; gắn thị trường lao động với cơ sở đào tạo, với doanh nghiệp để giáo duc đào tạo và sản xuất kinh doanh thực sự là một chu trình khép kín. Bên cạnh đó, cần khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo và đào tạo lại tay nghề tại các công ty, xí nghiệp, có thể bằng hình thức vừa làm vừa học; đồng thời có chế độ ưu đãi, khuyến khích người lao động tự nâng cao trình độ của bản thân. Trước mắt, việc đào tạo cần ưu tiên cho các ngành: cơ khí chính xác, vận hành, lắp ráp, sửa chữa, điện, điện tử, công nghiệp chế biến thực phẩm… Vấn đề đào tạo cán bộ quản lý các KCN, KCX cũng phải được quan tâm. Mô hình KCN, KCX mới xuất hiện ở nước ta từ một thập kỉ trở lại đây, vì vậy nó vẫn còn là một mô hình mới mẻ,vì thế, đội ngũ cán bộ quản lý không phải ai khác mà chính là các nhà kinh tế, kĩ thuật, các luật sư… được điều động đến từ các môi trường công tác khác nhau. Trên thực tế, chưa có một trường nào chuyên về đào tạo cán bộ quản lý KCN, KCX và cũng chưa kịp mở những khoá học bồi dưỡng hay nâng cao trình độ đội ngũ này. Trong khi đó, với tốc độ phát triển các KCN như hiện nay, cần có một đội ngũ cán bộ quản lý các KCN về cả số lượng và chất lượng. Do yêu cầu về chất lượng của các cán bộ KCN phải có trình độ cao về nhiều mặt, phải có bản chất chính trị vững vàng, có tư duy, và phong cách công nghiệp, có trình độ hiểu biết về pháp luật quốc tế và trong nước, có năng lực quản lý khoa học và công nghệ hiện đại; thành thạo trong các giao dịch về kinh tế về quản lý hành chính với các đối tác. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra trong công tác đào tạo cán bộ KCN, KCX rất nặng nề, phải xây dựng được một chương trình đào tạo trang bị cho các học viên một cách căn bản, hệ thống các vấn đề về quản lý, luật pháp, kinh tế …để có thể vận dụng thích hợp với yêu cầu của công tác quản lý KCN, KCX. Đối tượng đào tạo bồi dưỡng sẽ là cán bộ của các ban quản lý KCN cấp tỉnh, cán bộ quản lý của các công ty Phát triển hạ tầng, và các cán bộ khác phụ trách công tác trên …Trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng kinh nghiệm, cần triển khai từng bước vững chắc, học gắn liền với thực tiễn, đi đôi với hành, tránh làm theo kiểu hình thức, ồ ạt. Nói tóm lại, trên đây chỉ là một số giải pháp nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn đang gặp phải và thiện theo định hướng phát triển trong một vài năm tới. Việc các Bộ Ngành nhanh chóng có những giải pháp đối với vấn đề trên là hết sức cần thiết để không làm mất lòng tin của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, phát triển hệ thống các KCN, KCX là một trong những chiến lược lâu dài trong sự nghiệp phát triển kinh tế của nước ta, vì vậy đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có những biện pháp ở tầm vĩ mô hơn, phối hợp với các Bộ ngành liên quan cùng xem xét, nghiên cứu để có những bước đi mạnh dạn hơn, toàn diện hơn để đưa khu công nghiệp trở thành xu hướng phát triển chung không chỉ riêng trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài mà còn còn trong nền công nghiệp nước nhà. Phụ lục 2: Nguồn: Vụ quản lý KCN –KCX : Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docch­uong 2+3.doc
  • docchuong 1.doc
  • docketluan.doc
  • docloi mo dau lan 2.doc
  • docmuc luc moi.doc
  • docnxet ksqn.doc
  • docphu luc 1.doc
  • docPhu luc 3.doc
  • docphu luc 4.doc
  • doctai lieu tham khao.doc
Tài liệu liên quan