ã Quy định việc uỷ thác thi hành án trong trường hợp tài sản của DN bị phá sản nằm ở nhiều địa phương khác nhau. Cơ quan Thi hành án nhận uỷ thác phải có trách nhiệm thực hiện uỷ thác, nếu không thực hiện được uỷ thác thì cần thông báo lại cho cơ quan Thi hành án đã uỷ thác biết trong một thời gian nhất định.
ã Về thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các Toà án hoàn thành tốt nhiệm vụ giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN được giao, Luật PSDN cần bổ sung quyền và nghĩa vụ của cơ quan Thi hành án trong việc thi hành các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết PSDN của Toà án.
ã Về việc xử lý tài sản của DN bị Toà án tuyên bố phá sản.
Quy định cụ thể cách thức xử lý tài sản DN theo hướng có sự phân biệt tài sản nào thì bán đấu giá, tài sản nào có thể bán thông thường hoặc quy định các hình thức thích hợp nhằm bảo đảm xử lý được đối với mọi loại tài sản của DN bị phá sản.
ã Quy định tạm ứng kinh phí cho quá trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Luật PSDN cần quy định cho phép cơ quan Thi hành án bán trước một số tài sản của DN để trang trải chi phí cho các hoạt động thi hành án.
ã Quy định bộ máy giúp việc gọn nhẹ, có chuyên môn bảo đảm hiệu quả thực hiện và tránh lãng phí, chỉ cần một vài chuyên gia, không nhất thiết phải là đại diện đầy đủ các cơ quan tài chính, ngân hàng, DN, tổ chức công đoàn . Đặc biệt ở giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố PSDN, để tạo điều kiện chủ động, linh hoạt, giảm bớt thủ tục phiền hà và chi phí tốn kém, chỉ nên quy định Chấp hành viên thực hiện việc thu hồi, xử lý tài sản và thanh toán nợ theo phương án đã được Thẩm phán thông qua trong quyết định tuyên bố phá sản.
91 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1894 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nền kinh tế quốc dân.
Việc hoàn thiện pháp luật phá sản phải thể hiện được những nguyên tắc trên nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới kinh tế của Đảng.
3.1.2. Đảm bảo sự bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế.
Bình đẳng trước pháp luật là một khái niệm rộng, bao gồm sự bình đẳng về tổ chức, về hoạt động sản xuất kinh doanh, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật, bình đẳng trước toà án, trọng tài ...
Trong kinh tế thị trường, các chủ thể kinh doanh phải bình đẳng với nhau trong cạnh tranh và cũng sẽ bình đẳng với nhau khi bị thương trường đào thải (phá sản). Bình đẳng trước pháp luật thể hiện sự dân chủ và công bằng xã hội. Vì vậy, trong quá trình hoàn thiện pháp luật phá sản phải triệt để tôn trọng nguyên tắc này. Đây là một trong những yếu tố góp phần cho sự thành công của kinh tế thị trường Việt Nam.
3.1.3. Thực trạng pháp luật phá sản hiện hành và yêu cầu từ thực tiễn.
Pháp luật do kinh tế quyết định, do vậy việc hoàn thiện pháp luật phá sản phải dựa vào thực trạng của các quan hệ kinh tế trong kinh tế thị trường Việt Nam.
Chúng ta cũng phải xuất phát từ một thực tế là nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra, song Luật PSDN hiện hành chưa đề cập, hoặc là đã quy định nhưng bất cập, không phù hợp nữa.
Mặt khác, trong quá trình hoàn thiện luật phá sản cần phải xác định rõ mục đích của đạo luật: luật sẽ quan tâm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ nhiều hơn hay quyền lợi của các DN mắc nợ?
Nếu đạo luật được xây dựng với mục đích chủ yếu là chỉnh đốn, cứu vãn DN mắc nợ thì phải xây dựng các quy định có lợi cho con nợ, giải thoát trách nhiệm của con nợ, tạo nhiều cơ hội cho họ để họ có thể phục hồi kinh doanh. Nếu ngược lại thì phải quy định hạn chế các quyền của DN mắc nợ.
Phá sản là một vấn đề phức tạp, nó liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau, do vậy hoàn thiện pháp luật phá sản cần đặt trên cơ sở hoàn thiện đồng bộ khung pháp luật kinh tế thị trường Việt Nam. Cụ thể cần hoàn thiện chính sách, pháp luật trên một số lĩnh vực:
-Pháp luật về chủ thể kinh doanh
-Pháp luật về hợp đồng
-Pháp luật về tài chính, ngân hàng,..
-Pháp luật lao động
-Pháp luật đất đai
Từ đó việc hoàn thiện pháp luật phá sản mới đạt hiệu quả cao.
3.1.4. Pháp luật phá sản Việt Nam phải thể hiện yêu cầu hội nhập với đời sống kinh tế thế giới.
Trong thời đại ngày nay, hội nhập trở thành một xu thế tất yếu khách quan đối với tất cả các quốc gia. Trong xu thế đó, thực hiện chủ trương “đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại, hợp tác nhiều mặt song phương, đa phương với các nước” và chúng ta đang chuẩn bị mọi điều kiện để gia nhập AFTA, WTO thì cũng phải tính đến khả năng giải quyết phá sản những công ty xuyên quốc gia, những thương nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Về mặt lý luận, sự khác nhau quá lớn giữa luật phá sản Việt Nam và luật phá sản các nước đối tác cũng sẽ gây nhiều khó khăn cho các nhà kinh doanh, làm xấu đi môi trường đầu tư. Hoàn thiện luật phá sản không thể không tính tới yếu tố này.
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
3.2.1. Cần xác định rõ hơn tình trạng phá sản doanh nghiệp.
3.2.1.1. Bất cập trong việc quy định tình trạng phá sản doanh nghiệp
Theo quy định của Luật PSDN, DN lâm vào tình trạng phá sản là DN gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Điều 3 NĐ 189/CP cụ thể hoá: Một DN được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản như trên nếu kinh doanh thua lỗ trong 2 năm liên tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho người lao động.
Như vậy để kết luận DN có lâm vào tình trạng phá sản hay không các Toà án phải chứng minh được ba vấn đề:
-Nguyên nhân của tình trạng thua lỗ xuất phát từ những hoạt động kinh doanh.
-Thời hạn thua lỗ 2 năm liên tiếp.
-Thái độ của DN tích cực khắc phục hậu quả thua lỗ qua việc áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết.
Quá trình xem xét để chứng minh ba vấn đề trên nảy sinh nhiều điểm bất hợp lý:
Thứ nhất: Về nguyên nhân thua lỗ của DN.
Theo yêu cầu của pháp luật, chỉ những DN mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn do bị thua lỗ trong kinh doanh mới được điều chỉnh bởi Luật PSDN. Những DN thua lỗ mất khả năng thanh toán vì những lí do khác không do kinh doanh (ví dụ: Chủ DN đánh bạc, ăn chơi phá phách tài sản) thì dù DN có “chết” thực sự nhưng vẫn không thể bị tuyên bố phá sản vì không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật phá sản.
Đó là điểm hết sức bất hợp lý vì chúng ta đã không quan tâm đến vấn đề chính là thực trạng của DN mà chỉ quan tâm đến nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. Trong khi các nguyên nhân đều không làm thay đổi được một sự thật: DN đang khánh kiệt - không thể thanh toán được các khoản nợ.
Hơn thế nữa, việc chứng minh về nguyên nhân thua lỗ của DN trong thực tế không dễ vì các Toà án sẽ rất khó bóc tách rành mạch những khoản nợ phát sinh trong kinh doanh và những khoản nợ không phát sinh trong kinh doanh (vấn đề trên trở thành thực sự nan giải khi DN mắc nợ là một DN Tư nhân).
Thứ hai: Về thời hạn thua lỗ
Theo luật, DN chỉ có thể bị kết luận là lâm vào tình trạng phá sản khi dấu hiệu thua lỗ nói trên diễn ra trong 2 năm liên tiếp. Thực tế cho thấy thời hạn trên là quá dài vì nếu đợi cho đủ thời gian này Toà án mới ra quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản thì nhiều DN thậm chí chẳng còn tài sản để trang trải các chi phí giải quyết phá sản (chứ chưa kể đến các khoản nợ khác) và khi đó mọi biện pháp nhằm cứu vãn phục hồi DN có thể đều đã là quá muộn.
Thứ ba: Vấn đề áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết.
Như trên đã phân tích, Luật PSDN yêu cầu khi thua lỗ các DN phải hành động để khắc phục tình trạng đó trước khi DN có thể trở thành đối tượng của thủ tục tố tụng phá sản.
Đây là một quy định bất hợp lý vì chúng ta lại đưa một vấn đề về hình thức của tình trạng kinh tế làm tiêu thức đánh giá. Trong khi bản chất của một vụ kiện phá sản luôn dựa vào tính chất của dòng tiền thanh toán (thiếu tiền không thanh toán được nợ) hoặc bảng cân đối tài sản (tổng nợ > tổng tài sản có).
Các dấu hiệu để tập thể người lao động có thể yêu cầu Toà án tuyên bố PSDN.
Điều 8 Luật PSDN quy định tập thể lao động có quyền yêu cầu tuyên bố PSDN khi DN “không trả được lương cho người lao động trong 3 tháng liên tiếp”. Việc quy định như vậy có nhiều bất cập vì:
+Quy định thời hạn nợ lương người lao động 3 tháng liên tiếp là quá dài nên dễ bị lợi dụng. Có DN nợ lương người lao động một đến hai tháng sau đó trả và lại tiếp tục nợ lương, điều này gây khó khăn cho cuộc sống người lao động và gia đình họ.
+Dùng dấu hiệu “không trả được lương cho người lao động trong 3 tháng liên tiếp” là không chính xác vì việc không trả lương cho người lao động có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau như: làm ăn kém, không có hiệu quả dẫn đến thua lỗ không có khả năng thanh toán, do sự khó khăn tạm thời của DN vì sản xuất ra nhưng chưa tiêu thụ được sản phẩm nên phải nợ lương công nhân,...
+Quy định “không trả được lương cho người lao động” cũng chưa quy định rõ là không trả được toàn bộ lương hay chỉ một phần tiền lương và nợ toàn bộ người lao động trong DN hay chỉ một bộ phận người lao động của DN.
3.2.1.2. Cần xác định rõ hơn tình trạng phá sản doanh nghiệp.
Luật Phá sản của hầu hết các quốc gia (Nga, Australia, Nhật, Đức,...) đều chỉ xây dựng khái niệm vỡ nợ (lâm vào tình trạng phá sản) với một tiêu thức duy nhất: mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn (với bản chất người mắc nợ ngừng thanh toán các khoản nợ vì không đủ khả năng tài chính để thanh toán).
Riêng Luật Phá sản xí nghiệp của nước CHND Trung Quốc lại qui định thêm về nguyên nhân của tình trạng mất khả năng thanh toán là vì “quản lý không giỏi”.Tuy nhiên, do đặc thù của luật này chỉ áp dụng đối với các DN của Nhà nước, do vậy việc xác định nguyên nhân thua lỗ như trên sẽ không gặp nhiều khó khăn.
Như đã phân tích ở phần trên (phần 3.2.1.1), khái niệm DN lâm vào tình trạng phá sản theo pháp luật Việt Nam có ba đặc trưng:
-DN thua lỗ trong kinh doanh 2 năm liên tiếp;
-Đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết;
-Vẫn mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn;
Khái niệm với các đặc trưng trên có nhiều điểm bất hợp lý. Thực tế 8 năm qua, những bất hợp lý đó đã gây không ít khó khăn trong quá trình giải quyết PSDN, khó khăn cho các cơ quan Toà án, và cho chính DN mắc nợ.
Tại hội thảo về Luật PSDN (tổ chức tại Hà Nội, tháng 4 năm 2002), văn bản khảo sát và đánh giá Luật PSDN Việt Nam của Văn phòng Hội đồng tư vấn của Ngân hàng phát triển Châu á đã ghi rõ nhận xét về khái niệm này: “Chúng không có bất kỳ một vị trí thực tiễn nào trong luật phá sản hiện đại. Việc áp dụng kết hợp các tiêu thức này đã làm tổn hại đến việc áp dụng một tiêu chí bắt đầu một vụ kiện phá sản”. (Nguồn: Văn bản khảo sát đánh giá Luật Phá sản Việt Nam-Văn phòng Hội đồng tư vấn Ngân hàng phát trển Châu á).
Do vậy, Luật PSDN Việt Nam cần quy định: DN lâm vào tình trạng phá sản khi mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Tổng số nợ lớn hơn tổng giá trị tài sản hiện có của DN thì cho phép được xử lý theo thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, mà không đòi hỏi phải thua lỗ trong kinh doanh bao nhiêu năm, đã áp dụng biện pháp tài chính để khắc phục hay chưa, do những nguyên nhân nào. Chỉ có quy định như vậy, thủ tục xử lý phá sản mới có thể kịp thời.
3.2.2. Cần có cách thức xử lý cụ thể đối với doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản.
Thực tiễn mấy năm thi hành pháp luật phá sản của Việt Nam cho thấy việc quy định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là không hợp lý. Thủ tục phục hồi và thủ tục thanh lý DN là hai thủ tục khác nhau nhưng lại quy định là một. Theo đó, bất cứ DN nào bị Toà án ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đều phải trải qua giai đoạn: xây dựng phương án hoà giải và tổ chức lại kinh doanh, họp Hội nghị chủ nợ,... Quy định này dẫn đến có trường hợp DN khi bị mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thì tài sản của DN không còn gì đáng kể, bản thân chủ DN hoặc người quản lý DN và các chủ nợ không muốn phục hồi nhưng vẫn bắt buộc phải làm đầy đủ các giai đoạn trên. Do đó, việc tổ chức lại DN trong trường hợp này là không có kết quả và trái ý muốn của các bên. Vì vậy, pháp luật phá sản cần quy định nhiều thủ tục khác nhau để áp dụng cho DN căn cứ vào từng trường hợp cụ thể. Trước khi tiến hành thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, Toà án phải phân tích, đánh giá khả năng phục hồi của DN . Trên cơ sở đó Toà án ra quyết định thủ tục phục hồi hay thủ tục thanh lý sẽ được tiến hành đối với DN. Thủ tục phục hồi chỉ được tiến hành khi có yêu cầu của chủ nợ hoặc DN mắc nợ. Đối với DN mắc nợ nếu không thể phục hồi được khả năng thanh toán thì cho phép Toà án ra quyết định tuyên bố PSDN và tiến hành ngay thủ tục thanh lý. Quy định như vậy vừa đảm bảo nhanh chóng, vừa tiết kiệm được chi phí đồng thời bảo đảm duy trì giá trị tài sản còn lại của DN và việc phục hồi sẽ có hiệu quả hơn...
Cần khuyến khích việc hoà giải tự nguyện giữa các chủ nợ và DN mắc nợ. Điều 6 Luật PSDN quy định về hạn chế thời điểm hoà giải tự nguyện giữa các chủ nợ và DN mắc nợ trước ngày Toà án có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN. Tuy chưa gặp nhiều vướng mắc trong thực tiễn nhưng quy định này là chưa hợp lý, cần phải sửa đổi lại. Việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là vì lợi ích của chủ nợ và DN mắc nợ, vì vậy không có lý do gì hạn chế quyền tự do thương lượng, thoả thuận của các chủ nợ và DN mắc nợ. Do đó, pháp luật nên sửa đổi theo hướng khuyến khích việc hoà giải, thương lượng của chủ nợ và DN mắc nợ và chấp nhận giải quyết trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Việc thoả thuận giữa các bên sau khi được Toà án phê duyệt sẽ có giá trị ràng buộc các bên như là một quyết định của Toà án.
Vấn đề xử lý yêu cầu tuyên bố phá sản đối với DN hoàn toàn không còn tài sản. Cần quy định bổ sung cho phép Toà án áp dụng mọi thủ tục rút gọn, nghĩa là sau khi tiến hành điều tra mà có căn cứ chứng minh DN không thể phục hồi, tài sản còn lại của DN không đáp ứng được bao nhiêu thì cho phép Toà án được tuyên bố phá sản ngay mà không cần tiến hành bất kì thủ tục nào. Như vậy, sẽ vừa chấm dứt nhanh chóng sự tồn tại của những DN trong tình trạng “chết lâm sàng”, lại vừa giảm thiểu tối đa mức chi phí cho việc giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN.
3.2.3. Cần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về việc nộp đơn, thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
3.2.3.1. Những bất cập của các quy định về việc nộp đơn, thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Về đối tượng nộp đơn yêu cầu tuyên bố PSDN.
-Theo quy định tại Điều 7, 8 Luật PSDN, chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố PSDN. Ngoài ra, Điều 10 Luật PSDN còn quy định trong khi giải quyết các vụ án có liên quan đến DN, nếu Toà án phát hiện DN lâm vào tình trạng phá sản thì thông báo cho chủ nợ biết để họ nộp đơn yêu cầu tuyên bố PSDN. Nhưng trong thực tế nhiều trường hợp các chủ thể này không nộp đơn yêu cầu tuyên bố PSDN.
+Về phía chủ nợ: Luật quy định sau 30 ngày kể từ ngày gửi giấy đòi nợ đến hạn mà không được DN thanh toán nợ, chủ nợ có quyền nộp đơn đến Toà án để yêu cầu giải quyết tuyên bố PSDN. Kèm theo đơn các chủ nợ phải gửi bản sao giấy đòi nợ và các tài liệu chứng minh DN mất khả năng thanh toán các khoản nợ. Đây là một quy định rất bất lợi cho các chủ nợ và rất khó thực hiện. Vì trong thực tế các chủ nợ chỉ có thể biết rằng DN đã không thanh toán nợ cho mình chứ khó có thể kết luận chính xác DN đó không muốn trả hay không có khả năng trả. Hơn nữa, chủ nợ cũng chỉ có khả năng cung cấp cho Toà những tài liệu liên quan đến khoản nợ của mình chứ khó có thể có được những tài liệu chứng minh DN mất khả năng thanh toán các khoản nợ khác. Vì thực tế, chỉ có những cơ quan nghiệp vụ cấp trên của DN, cơ quan thanh tra, kiểm toán mới có thể biết chính xác khả năng tài chính của DN. Quy định này đã làm nản lòng nhiều chủ nợ có món nợ không được DN thanh toán đúng hạn khi họ có nguyện vọng đòi nợ DN theo thủ tục phá sản.
+Về phía DN mắc nợ: Khoản 1, Điều 9, Luật PSDN quy định, trong trường hợp đã thực hiện các biện pháp khắc phục khó khăn về tài chính để thanh toán các khoản nợ đến hạn kể cả hoãn nợ mà DN vẫn không thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, thì chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của DN phải nộp đơn đến Toà án yêu cầu giải quyết việc tuyên bố PSDN. Đây là một nghĩa vụ pháp lý của chủ DN. Tuy nhiên, Luật PSDN đã không quy định một thời hạn cụ thể trong đó DN phải nộp đơn và cũng không có một chế tài nào được áp dụng nếu DN không nộp đơn. Vì vậy một thực tế phổ biến hiện nay là DN có nộp đơn hay không là phụ thuộc vào ý thích chủ quan của chủ DN.
Đây là một quy định thiếu chặt chẽ, nhiều chủ DN đã lợi dụng sự thiếu chặt chẽ này để trốn tránh nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu PSDN của mình ảnh hưởng đến hiệu quả điều chỉnh của luật.
-Tại Khoản 3, Điều 11 NĐ 189/CP quy định: “...Báo cáo phải được cơ quan kiểm toán xác nhận, đối với DN Nhà nước còn phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định hiện hành”. Tuy nhiên, thực tiễn mấy năm thi hành Luật PSDN cho thấy quy định này không mang tính khả thi bởi chi phí cho việc kiểm toán một DN là rất lớn, trong khi đó có nhiều DN khi lâm vào tình trạng phá sản không còn tiền để trả nợ thì làm sao có tiền để chi cho việc kiểm toán. Chủ nợ cũng không thể bỏ tiền ra để thuê kiểm toán, kinh phí của Toà án thì lại càng quá sức. Vì vậy cần sớm có những quy định cụ thể về vấn đề này, nhằm giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN do báo cáo tài chính của một số DN chưa được cơ quan kiểm toán xác nhận.
Thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố PSDN.
Trong thực tiễn nảy sinh vấn đề thời điểm thụ lý đơn được tính từ ngày nào? Toà án có quyền cấm DN thanh toán nợ từ ngày thụ lý đơn được không? Những đơn nộp sau ngày Toà án đã thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố PSDN thì có phải nộp lệ phí nữa không, tài liệu gửi kèm theo đơn có bắt buộc phải có xác nhận của kiểm toán không? ... Những vấn đề này hiện vẫn chưa có câu trả lời.
Điều 12 Luật PSDN quy định “Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án”, DN bị yêu cầu tuyên bố phá sản phải chuẩn bị đầy đủ và gửi đến cho Toà án báo cáo về khả năng thanh toán nợ, các tài liệu như quy định tại điểm b và c Khoản 2 Điều 9 Luật PSDN, được cụ thể hoá tại Điều 11 NĐ 189/CP. Đây là một nghĩa vụ pháp lý rất quan trọng của chủ DN vì nếu không có những hồ sơ này Toà án sẽ không có căn cứ chính xác để ra quyết định mở hay không mở thủ tục giải quyết PSDN. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều DN đã không thực hiện đúng quy định trên vì 2 lý do:
Một là: Thời hạn nộp hồ sơ trong 10 ngày là quá ngắn, DN đã không thể đủ thời gian chuẩn bị tài liệu (6 loại tài liệu phức tạp, chờ kiểm toán,...)
Hai là: Luật PSDN đã không quy định bất cứ một chế tài nào khi các DN mắc nợ không nộp hồ sơ đúng hạn (thậm chí không nộp hồ sơ) do đó, nhiều DN sau khi nhận được yêu cầu của Toà án nhưng không có đủ tài liệu theo yêu cầu hoặc không muốn bị tuyên bố phá sản đã không làm nghĩa vụ theo luật định và các Toà án không còn cách nào khác là chờ đợi.
Về việc nộp tiền tạm ứng lệ phí phá sản:
Theo quy định tại Điều 7, Điều 9 Luật PSDN “người nộp đơn phải nộp tạm ứng lệ phí theo quy định của pháp luật”. Một trong những người nộp đơn hay tất cả những người nộp đơn đều phải nộp tạm ứng lệ phí. Quy định này cũng chưa được hiểu, được hướng dẫn thi hành thống nhất dẫn đến có quan điểm trái ngược trong thi hành.
3.2.3.2. Cần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về việc nộp đơn, thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Cần mở rộng chủ thể được làm đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản cho những trường hợp sau:
-Cơ quan đã ra quyết định thành lập và cơ quan sáng lập đối với DN Nhà nước. Khi quy định quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố PSDN cho đối tượng này thì xác định rõ chủ thể tham gia tố tụng, quyền và nghĩa vụ của các cơ quan trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản;
-Chủ sở hữu Công ty TNHH một thành viên;
-Cơ quan thuế cần phải được coi như một chủ nợ của DN;
-Viện kiểm sát nhân dân, Thanh tra Nhà nước, Thanh tra chuyên ngành trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình mà thấy DN lâm vào tình trạng phá sản thì thông báo cho các DN biết để nộp đơn, sau một thời hạn nhất định kể từ khi thông báo mà DN không nộp đơn thì các cơ quan này có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố PSDN.
-Đối với Toà án, cần sửa lại Điều 10 Luật PSDN theo hướng: khi giải quyết các vụ án liên quan đến DN mà phát hiện thấy DN lâm vào tình trạng phá sản thì Toà án chủ động tiến hành thủ tục giải quyết phá sản và yêu cầu DN cung cấp các tài liệu cần thiết. Quy định như vậy sẽ cho phép Toà án can thiệp nhanh chóng, kịp thời khi tình trạng khó khăn của DN chưa trở nên quá tồi tệ.
Đối với đơn yêu cầu tuyên bố phá sản của các chủ nợ:
Theo thông lệ trên thế giới, luật phá sản của các quốc gia đều có mục đích bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, do vậy đều có những quy định thuận lợi cho các chủ nợ khi họ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản con nợ.
Luật phá sản của Trung Quốc, Nga, Nhật, đều chỉ quy định người nộp đơn cần nộp tài liệu chứng minh con nợ mất khả năng thanh toán khoản nợ của mình. Riêng luật của úc lại đưa ra 2 khả năng để chủ nợ lựa chọn:
-Khi chủ nợ phát giấy đòi nợ, con nợ không thể thanh toán thì chủ nợ đã giả định rằng con nợ phá sản và nộp đơn.
-Trường hợp phá sản thực sự, chủ nợ phải nộp lên Toà án toàn bộ (hoặc một số) tài liệu chứng minh về khả năng tài chính của DN chứng minh rằng DN đã thực sự phá sản.
Tuy nhiên ngay tại úc, việc đưa đơn trong trường hợp phá sản thực sự là rất hiếm vì chủ nợ khó có thể có được những tài liệu này. Vậy mà, Luật PSDN Việt Nam lại lựa chọn phương án phá sản thực sự và yêu cầu chủ nợ nộp đơn lên Toà án những tài liệu chứng minh DN mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Vì vậy, Luật PSDN Việt Nam nên sửa đổi, quy định lại theo hướng chủ nợ nộp đơn yêu cầu PSDN phải nộp lên Toà án bản saoi giấy đòi nợ mà không được con nợ thanh toán và các tài liệu chứng minh DN đã mất khả năng thanh toán các khoản nợ nếu có.
Quy định cụ thể thời gian DN phải nộp đơn xin tự nguyện phá sản khi phát hiện mình đang lâm vào tình trạng phá sản. Việc quy định một nghĩa vụ chỉ có ý nghĩa khi nó gắn với một thời gian thực hiện nhất định. Quy định cụ thể và rõ ràng sẽ cho con nợ thấy được lợi ích của mình phải nộp đơn vào thời điểm sớm nhất và DN nộp đơn càng sớm thì càng có cơ hội để phục hồi, có thể quy định 15 ngày, như vậy hợp lý hơn.
Quy định quyền rút đơn của các chủ nợ khi Toà án ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN.
Toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN là vì lợi ích của chủ nợ, đây là quyền chứ không phải nghĩa vụ của các chủ nợ. Vì vậy đã là quyền thì chủ nợ có quyền rút đơn. Tuy nhiên, khác với việc đòi nợ theo thủ tục dân sự thông thường, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản sau khi đã được mở thì việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản không chỉ liên quan đến lợi ích của bản thân chủ nợ, của các con nợ của DN cũng như bản thân DN. Chính vì lẽ đó, quyền rút đơn của chủ nợ đã nộp đơn chỉ được thực hiện trước khi Toà án ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN. Khi chủ nợ nộp đơn mà rút đơn thì các chủ nợ, DN khác ... vẫn có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố PSDN như thường.
3.2.4. Hoàn thiện các quy định về giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
3.2.4.1. Những bất cập của các quy định pháp luật trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Điều 13 và Điều 15 Luật PSDN quy định trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn, các Toà án phải nghiên cứu hồ sơ và ra một trong hai quyết định mở hoặc không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN.
Thực tiễn áp dụng quy định trên đã nảy sinh một số vấn đề:
Một là: Luật quy định thời hạn ra quyết định mở hay không mở thủ tục giải quyết PSDN của Toà án là 30 ngày (sau thụ lý hồ sơ) là quá ngắn, các Toà án không thể thực thi đúng luật. Vì sau khi thụ lý hồ sơ, các Toà án phải thu thập đầy đủ các tài liệu theo yêu cầu tại Điều 7, Điều 8 và Điều 9 Luật PSDN. Thời gian thu thập đủ các tài liệu này nhiều khi không phụ thuộc vào Toà án mà phụ thuộc vào thiện chí của DN mắc nợ, thời gian kiểm toán, thời gian phê duyệt hồ sơ của các cơ quan có thẩm quyền (đối với DN Nhà nước),...
Hơn nữa, sau khi đã nhận được đầy đủ hồ sơ, các Toà án cần phải có thời gian nghiên cứu, đánh giá ... mới có thể ra được một quyết định chính xác.
Thời hạn luật định quá ngắn đã dẫn đến việc vi phạm pháp luật của chính các Toà án, đương nhiên các Toà án phải ra quyết định quá thời hạn hoặc phải có việc nào đó được thực hiện trước khi thụ lý hồ sơ hay sau khi đã có quyết định mở (không mở) thủ tục giải quyết PSDN mới tiến hành các công việc mà đáng lẽ ra phải làm trước đó.
Hai là: Sau khi có quyết định của Toà án, các bên chỉ có quyền khiếu nại về quyết định không mở thủ tục giải quyết PSDN mà không có quyền khiếu nại về quyết định mở thủ tục giải quyết PSDN. Vậy trong trường hợp quyết định mở thủ tục giải quyết PSDN của Toà án không có căn cứ thì vấn đề sẽ được giải quyết ra sao? Toà án Tối cao cũng không có hướng dẫn cụ thể về vấn đề trên, vì vậy, các Toà án địa phương đã sửa sai bằng cách lựa chọn một trong ba biện pháp:
1.Ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu PSDN (mặc dù biết rằng không có căn cứ pháp lý để ra quyết định này).
2.Ra quyết định tuyên bố PSDN sau đó thông qua thủ tục kháng cáo, kháng nghị để sửa sai.
3.Chờ đợi Hội nghị chủ nợ hoà giải thành để tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết yêu cầu PSDN.
Cả ba giải pháp trên đều là tuỳ tiện, có thể xâm phạm đến các lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp mắc nợ và các bên liên quan.
Luật PSDN chỉ quy định Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với quyết định tuyên bố PSDN còn đối với quyết định mở, không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN, áp dụng biện pháp tạm thời của Thẩm phán thì Viện kiểm sát không được quyền kháng nghị. Quy định này không hợp lý, cần tăng cường vai trò của Viện kiểm sát trong việc bảo vệ lợi ích chung.
Điều 15 Luật PSDN và NĐ 189/CP quy định chủ nợ có số nợ nhiều nhất tham gia vào Tổ quản lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản đối với DN trong khi chờ Hội nghị chủ nợ cử người đại diện cho chủ nợ. Quy định như vậy không phù hợp vì qua giải quyết một số vụ phá sản cho thấy có nhiều chủ nợ có số nợ lớn nhất là công ty có 100% vốn nước ngoài, hoặc chủ nợ có số nợ nhiều nhất lại ở xa cho nên việc tham gia Tổ quản lý tài sản hết sức khó khăn.
Khoản 2 Điều 16 Luật PSDN quy định: “Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN, nếu phát hiện có dấu hiệu phạm tội thì Thẩm phán phải cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát nhân dân để xem xét khởi tố hình sự”. Vậy sau khi cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát thì có tiếp tục thủ tục giải quyết phá sản không, điều này chưa được Luật PSDN quy định rõ nhưng căn cứ vào Điều 29, 33, 35 của Luật PSDN thì trường hợp trên không thuộc các trường hợp đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Tại điểm c Khoản 1 Điều 16 Luật PSDN quy định Thẩm phán có quyền ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp. Hiện nay, trong thực tế trước khi bị Toà án ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thì DN mắc nợ đã bị Toà án xét xử và ra các bản án dân sự, kinh tế buộc phải bồi thường cho một số chủ nợ và đã kê biên một số tài sản để bảo đảm thi hành án. Vậy có để cơ quan thi hành án được thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật không? Nếu cho phép như vậy thì rất có thể khi phân chia tài sản theo quy định tuyên bố phá sản thì tài sản DN còn lại chẳng đáng là bao nhiêu, quyền lợi của các chủ nợ khác sẽ bị ảnh hưởng. Để thống nhất cách xử lý, pháp luật cần quy định rõ.
Điều 18 Luật PSDN quy định: “Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN... Mọi hoạt động kinh doanh của DN vẫn được tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Thẩm phán và Tổ quản lý tài sản”. Đây là nhiệm vụ nặng nề đối với Thẩm phán và Tổ quản lý tài sản vì Thẩm phán chỉ là những luật gia, không phải ai cũng có những kiến thức về quản lý kinh tế để ra quyết định đúng đắn. Mặt khác, hoạt động sản xuất kinh doanh của DN diễn ra liên tục, không theo giờ hành chính và việc nắm bắt cơ hội kinh doanh là yếu tố quan trọng để DN có thể phục hồi. Do đó, với những quy định trên thì thực tế việc giám sát, kiểm tra rất có thể là gánh nặng cho Toà án đồng thời lại gây cản trở cho quá trình phục hồi của DN. Mặt khác, do quy định về việc giám sát còn sơ sài nên các Tổ quản lý tài sản cũng rất lúng túng trong thực hiện giám sát.
Điều 22 Luật PSDN quy định chủ nợ và DN mắc nợ có quyền khiếu nại với Thẩm phán về danh sách chủ nợ trong thời hạn 10 ngày, thời gian này là quá ngắn. Nhiều chủ nợ do không biết lúc nào Toà án niêm yết danh sách chủ nợ và do hoàn cảnh của mình đã không thể đọc được danh sách này trong thời hạn đã nêu trên dẫn đến không thể khiếu nại những sai sót trong thời hạn luật định, không bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình. Hơn nữa, Luật PSDN chỉ quy định chung chung là các chủ nợ có quyền khiếu nại về danh sách chủ nợ nhưng không quy định rõ là các chủ nợ có quyền khiếu nại này là những người đã kịp thời gửi giấy đòi nợ hay bao gồm cả chủ nợ không gửi giấy đòi nợ đến Toà án. Bên cạnh đó, Luật cũng không quy định cho phép Thẩm phán sửa đổi, bổ sung danh sách chủ nợ sau khi đã khoá sổ theo Điều 22, trong thực tế, có nhiều trường hợp Thẩm phán xét thấy cần phải sửa đổi, bổ sung danh sách này.
Hội nghị chủ nợ đóng vai trò quan trọng trong thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, nó thực hiện việc xem xét thông qua phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại kinh doanh do DN đề nghị. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật về Hội nghị chủ nợ còn nhiều điều chưa hợp lý, cụ thể là:
-Khoản 3 Điều 31 Luật PSDN có quy định: “Nếu Hội nghị chủ nợ không thành do không đủ số chủ nợ theo quy định tại khoản 1 điều này thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN”. Quy định như vậy không hợp lý. Việc Thẩm phán triệu tập Hội nghị chủ nợ là để DN trình bày phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại kinh doanh và để chủ nợ thực hiện quyền của mình đối với DN mắc nợ. Nếu với mục đích đó thì việc chủ nợ vắng mặt tại Hội nghị chủ nợ đồng nghĩa với việc các chủ nợ không chấp nhận việc hoà giải, tổ chức lại hoạt động kinh doanh của DN. Nếu Thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản trong trường hợp này thì quyền lợi đương sự sẽ bị vi phạm (vì sự vắng mặt của bộ phận chủ nợ làm ảnh hưởng đến lợi ích chính đáng của các chủ nợ khác đã chấp hành nghiêm túc và tham dự cả hai lần triệu tập). Mặt khác, DN được đình chỉ giải quyết phá sản trong trường hợp này thực chất vẫn còn trong tình trạng phá sản. Do đó, nếu đình chỉ thì mục đích của việc mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản không đạt được, DN trong tình trạng “sống không được mà chết cũng không xong”.
-Theo quy định pháp luật phá sản hiện hành thì chủ nợ có bảo đảm chỉ có quyền tham dự mà không có quyền biểu quyết tại Hội nghị chủ nợ. Mặt khác, pháp luật chưa quy định cụ thể về xử lý từng loại tài sản có bảo đảm. Do đó, trong thực tế, mặc dù Hội nghị chủ nợ thông qua phương án hoà giải, giải pháp tổ chức lại kinh doanh nhưng nhiều chủ nợ có bảo đảm đã dùng quyền ưu tiên của mình đối với tài sản bảo đảm làm ảnh hưởng đến việc thực hiện phương án này.
Tình trạng người bảo lãnh DN mắc nợ.
Điều 26 Luật PSDN quy định về tình trạng bảo lãnh như sau: “Người bảo lãnh sau khi trả nợ thay cho DN mắc nợ thì trở thành chủ nợ không có bảo đảm, có quyền và nghĩa vụ như các chủ nợ không có bảo đảm khác được tham gia Hội nghị chỉ nợ và được phân chia giá trị còn lại của DN bị tuyên bố phá sản theo tỷ lệ tương ứng với số nợ đã trả cho người chủ nợ”. Quy định về tình trạng địa vị của người bảo lãnh sau khi thanh toán nợ cho chủ nợ như vậy là cứng nhắc. Thực tế mấy năm qua có những trường hợp người bảo lãnh chỉ bảo lãnh cho DN khi DN đã thực hiện việc thế chấp, cầm cố, ký quỹ bằng tài sản của mình cho người bảo lãnh. Do đó, người bảo lãnh vẫn bị coi là chủ nợ không có bảo đảm là một điều bất hợp lý. Vì vậy cần sửa đổi lại quy định này cho phù hợp.
Các đương sự trong thủ tục phá sản
Việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản có liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau. Về nguyên tắc tố tụng thì các đương sự có lợi ích liên quan đến thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản phải có quyền tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích của mình. Xét theo nguyên tắc này thì quy định của pháp luật phá sản chưa đầy đủ. Pháp luật chỉ quy định việc tham gia tố tụng của các đối tượng là chủ nợ, DN mắc nợ, người lao động trong DN nhưng trong tố tụng phá sản có một số đối tượng khác như người mắc nợ DN, người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản của DN ... lại chưa được quy định rõ ràng. Do đó, trong thực tế giải quyết PSDN, hầu như những người này không được tham gia tố tụng, dẫn đến quyền lợi chính đáng không được bảo đảm nhưng cũng có Toà án cho phép các đối tượng này tham gia tố tụng.
Về các trường hợp tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, pháp luật quy định còn chưa thật đầy đủ. Luật PSDN chỉ quy định một trường hợp được phép ra quyết định tạm đình chỉ (Điều 29) và hai trường hợp ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN (Điều 31, 35). Có nhiều trường hợp phát sinh cần có quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ nhưng do pháp luật chưa quy định nên Toà án vướng mắc trong khi giải quyết.
Pháp luật quy định một số trường hợp đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản (Điều 31, 36) nhưng không quy định thời gian bao lâu thì những người có quyền nộp đơn được quyền nộp lại đơn yêu cầu tuyên bố PSDN đó. Thực tế, có nhiều DN sau thời gian được đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN đã làm ăn kém hiệu quả và lâm vào tình trạng phá sản. Trong trường hợp này, liệu pháp luật có cho phép việc nộp lại đơn yêu cầu tuyên bố PSDN ngay lập tức không? Có ý kiến cho rằng, cần quy định sau hai năm kể từ ngày có quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thì DN hoặc các chủ nợ mới có quyền nộp lại đơn yêu cầu tuyên bố PSDN. Vì vậy, cần sớm có quy định cụ thể về vấn đề này.
Theo quy định tại Khoản 6 Điều 7 thì phương án phân chia tài sản của DN là một trong những nội dung quan trọng phải có trong quyết định tuyên bố phá sản của Toà án nhưng lại không quy định rõ ràng trong Luật PSDN và các văn bản hướng dẫn. Điều này gây nhiều vướng mắc, bất cập trong thực tế, cụ thể:
-Để có được nội dung phương án phân chia tài sản thì Thẩm phán và Tổ quản lý tài sản phải tiến hành xác minh tài sản, định giá tài sản của DN cũng như các nghĩa vụ nợ. Điều này thực sự khó khăn cho đội ngũ cán bộ Toà án hiện nay, còn thiếu về số lượng lại ít am hiểu những vấn đề kinh tế.
-Do có quy định này nên thực tế vận dụng rất khác nhau, có Toà án lại phân chia thành số tiền cụ thể; có Toà án lại phân chia theo đúng nguyên văn của Điều 39, có nghĩa là không ghi số tiền cụ thể nào. Mà việc ghi số tiền cụ thể vào quyết định là không chính xác và tài sản chưa được mang ra bán, giá trị tài sản doanh nghiệp được định giá trước khi ra quyết định tuyên bố PSDN không thống nhất với giá thực tế mà Tổ thanh toán tài sản bán, nhưng nếu ghi nguyên văn như Điều 39 thì lại thừa và không cần thiết.
Điều 39 Luật PSDN quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán giá trị tài sản còn lại của DN là chưa hợp lý và cũng không công bằng khi đặt khoản nợ thuế lên trên các khoản nợ của chủ nợ khác. Đây là một trong những nguyên nhân mà các chủ nợ không làm đơn yêu cầu tuyên bố phá sản mặc dù biết rằng con nợ đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Thực tế, có những DN nợ thuế nhiều năm, cơ quan thuế không có biện pháp thu hồi, bỏ mặc và đưa vào diện không có khả năng thu, trong khi đó chủ nợ làm đơn yêu cầu PSDN, đóng lệ phí và tham gia tích cực vào quá trình giải quyết phá sản. Tuy nhiên, khi DN bị tuyên bố phá sản thì khoản nợ được ưu tiên là nợ thuế và sau khi thanh toán xong nợ thuế thì tài sản DN không còn gì và chủ nợ không được thanh toán bất kì khoản tiền nào. Vì vậy, cần cân nhắc xem lại thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản nợ thuế.
Về chi phí tạm ứng cho việc giải quyết tuyên bố phá sản.
Thực tế, trong quá trình giải quyết phá sản cần có những chi phí cho việc đăng báo, bảo quản tài sản, hoạt động của Tổ quản lý tài sản ... với những chi phí khá lớn. Theo quy định của Điều 39 Luật PSDN thì chi phí giải quyết phá sản được ưu tiên thanh toán từ tài sản còn lại của DN bị phá sản. Tuy nhiên, Luật PSDN lại chưa quy định lấy nguồn kinh phí tạm ứng từ đâu để chi tiêu trong quá trình giải quyết phá sản. Điều này đã làm cho nhiều Toà án lúng túng trong triển khai công việc.
Về giải quyết khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định tuyên bố PSDN.
Theo Điều 40 Luật PSDN thì khi có khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định tuyên bố PSDN thì Chánh tòa Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao chỉ định một tập thể gồm ba Thẩm phán thực hiện giải quyết khiếu nại, kháng nghị. Quyết định của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng nhưng Luật lại không quy định rõ quyền hạn của Toà phúc thẩm là gì. Trong trường hợp quyết định của Toà phúc thẩm rõ ràng là sai thì giải quyết như thế nào? Luật không quy định cách khắc phục, dẫn đến vướng mắc trong thực tế thi hành.
3.2.4.2. Những quy định về việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp cần được sửa đổi, bổ sung.
Nghiên cứu, xác định lại nhiệm vụ, quyền hạn giữa Chánh Toà kinh tế và Thẩm phán một cách phù hợp với thực tiễn hơn. Cần sửa đổi theo hướng giao việc thụ lý đơn, tiến hành điều tra, thu thập tài liệu cho Thẩm phán tiến hành, Chánh Toà kinh tế chỉ thực hiện giám sát, kiểm tra và giải quyết khiếu nại phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN. Như vậy, trách nhiệm giữa Chánh Toà kinh tế và Thẩm phán mới thực sự rõ ràng.
Về đại diện chủ nợ tham gia Tổ quản lý tài sản.
Quy định của Luật PSDN hiện hành đòi hỏi chủ nợ có số nợ nhiều nhất tham gia vào Tổ quản lý tài sản trong quá trình giải quyết phá sản đối với DN trong khi chờ Hội nghị chủ nợ cử người đại diện (Điều 15 Luật PSDN và Điều 17 NĐ 189/CP) đã gây không ít vướng mắc trong quá trình giải quyết phá sản. Cần sửa lại quy định trên cho phép Toà án chỉ định tạm thời một chủ nợ làm đại diện tham gia Tổ quản lý tài sản trong trường hợp chủ nợ có số nợ lớn nhất là pháp nhân, cá nhân nước ngoài hoặc trong trường hợp chủ nợ có số nợ nhiều nhất không có điều kiện tham gia Tổ quản lý tài sản.
Sửa đổi khoản 2 Điều 16 Luật PSDN theo hướng, trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN, nếu phát hiện có dấu hiệu phạm tội thì Toà án vẫn tiếp tục thụ lý giải quyết phá sản. Sau khi ra quyết định tuyên bố phá sản, Toà án sẽ chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát đề nghị khởi tố hình sự đối với các cá nhân có hành vi phạm tội.
Về các biện pháp khẩn cấp tạm thời.
-Cần sửa đổi Điều 16 Luật PSDN theo hướng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sớm ngay sau khi con nợ hoặc chủ nợ nộp đơn khởi kiện. Đồng thời cũng cần quy định rõ nội dung của những biện pháp khẩn cấp tạm thời (như quy định nhằm ngăn chặn con nợ định đoạt tài sản của mình, đình chỉ việc thi hành một bản án đã có hiệu lực đối với con nợ, không cho phép bất kỳ chủ nợ nào tiếp tục những việc kiện riêng rẽ đối với con nợ).
-Bổ sung quyền khiếu nại của các bên đối với quyết định của Thẩm phán về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, thẩm quyền này do Chánh án Toà án nhân dân giải quyết tuyên bố phá sản thực hiện trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Cần quy định cụ thể hơn về các loại tài sản mà Thẩm phán cho phép DN có thể đem cầm cố, thế chấp, bán ... Nên quy định chỉ cho phép cầm cố, thế chấp ...những tài sản không ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và hoạt động kinh doanh bình thường của DN.
Về niêm yết danh sách chủ nợ và khiếu nại danh sách chủ nợ cần sửa đổi theo hướng sau:
-Kéo dài thời hạn niêm yết danh sách chủ nợ lên khoảng 30 ngày và bổ sung thủ tục thông báo địa điểm và thời gian niêm yết danh sách chủ nợ trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc quy định việc thông báo trực tiếp cho từng chủ nợ những thông tin liên quan đến khoản nợ của họ trong danh sách chủ nợ.
-Quyền khiếu nại của các chủ nợ đối với danh sách chủ nợ phải được quy định cụ thể hơn. Cho phép Thẩm phán được sửa đổi, bổ sung danh sách chủ nợ nếu xét thấy việc chủ nợ chậm gửi giấy đòi nợ là có lý do chính đáng.
-Các bên liên quan có quyền khiếu nại quyết định của Thẩm phán về giải quyết khiếu nại của đương sự về danh sách chủ nợ. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại này sẽ do Chánh án Toà án nhân dân đang giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thực hiện trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.
-Thẩm phán được sửa đổi, bổ sung danh sách chủ nợ nếu phát hiện sai sót.
-Quy định rõ việc xử lý các khoản nợ của các chủ nợ không gửi giấy đòi nợ. Các chủ nợ không gửi giấy đòi nợ nhưng có khoản nợ được DN mắc nợ thừa nhận thì vẫn được xem xét giải quyết.
Về giải quyết các tranh chấp kinh tế, dân sự ... sau khi Toà án có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN.
Để có được quy định hợp lý hơn cần phải xem xét đến những nguyên tắc của thủ tục phá sản là nguyên tắc giải quyết nhanh gọn, giải quyết tập thể. Do đó, cần sớm sửa đổi Luật theo hướng cho phép Thẩm phán phụ trách giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN giải quyết luôn các tranh chấp giữa DN bị phá sản và các chủ nợ về các khoản nợ. Như vậy, lợi ích của các chủ nợ sẽ được giải quyết trong tổng thể của việc giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN mà các quyền khiếu nại của các chủ nợ vẫn được bảo đảm.
Những quy định về Hội nghị chủ nợ cũng cần được sửa đổi, bổ sung như sau:
-Sửa đổi quy định ở Khoản 3, Điều 31 theo hướng nếu Hội nghị chủ nợ không thành do không đủ số chủ nợ theo quy định của pháp luật thì Thẩm phán coi trường hợp này là hoà giải không thành và ra quyết định tuyên bố phá sản.
-Cần quy định chủ nợ có bảo đảm được tham gia biểu quyết về phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của DN.
3.2.5. Sửa đổi, bổ sung các qui định liên quan đến thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
3.2.5.1. Những hạn chế của pháp luật phá sản về việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Quy định về Tổ thanh toán tài sản với sự tham gia của đại diện nhiều ngành, chi phí lớn nhưng kém hiệu lực vì không có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm thực thi. Sự bất hợp lý còn thể hiện ở chỗ, trong quyết định tuyên bố phá sản, Toà án đã xác định rõ các khoản nợ, danh sách chủ nợ, bảng kê tài sản và phương án thanh toán nợ, phân chia giá trị tài sản còn lại của DN. Nhiệm vụ chính của Tổ thanh toán tài sản chủ yếu là tiến hành thu hồi nợ, thực hiện thanh toán nợ theo kế hoạch và phương án trên. Như vậy, Tổ thanh toán tài sản không cần thiết phải có đủ thành phần giống như Tổ quản lý tài sản; trong khi đó, Luật PSDN lại không quy định các chế tài cần thiết để Tổ thanh toán tài sản bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ của mình.
Do Luật PSDN không quy định quyền và nghĩa vụ của cơ quan Thi hành án đối với việc thi hành quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN. Vì vậy, thực tế giải quyết PSDN mấy năm qua nhiều Toà án địa phương gặp khó khăn trong việc bảo toàn tài sản của DN mắc nợ khi cơ quan Thi hành án từ chối không thực hiện loại quyết định này của Toà án với lý do không có thẩm quyền.
Điều 45 Luật PSDN quy định Chấp hành viên có quyền đề nghị Toà án ra quyết định thu hồi lại tài sản, giá trị tài sản của DN hay phần chênh lệch giá trị tài sản của DN nếu trong sáu tháng trước ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản mà DN có hành vi vi phạm. Luật chỉ quy định quyền này cho Chấp hành viên mà không quy định cho chủ nợ, điều này ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ nợ, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất. Hơn nữa, Luật quy định chung chung “đề nghị Toà án ra quyết định thu hồi lại tài sản ...” mà không xác định rõ việc giải quyết này do ai tiến hành, có phải Thẩm phán phụ trách việc giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN không.
Tài sản của DN Nhà nước bao gồm toàn bộ tài sản hoặc vốn thuộc quyền quản lý của DN, kể cả vốn do Nhà nước đầu tư và tài sản hoặc vốn do DN tự tích luỹ. Vì vậy, tất cả những tài sản này phải được kê biên, xử lý theo thủ tục phá sản để thanh lý theo thứ tự ưu tiên được quy định tại Điều 39 Luật PSDN. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định rõ việc kê biên, xử lý, chưa có văn bản hướng dẫn hoặc quy định cụ thể. Điều này gây khó khăn cho cơ quan Thi hành án trong quá trình thi hành quyết định tuyên bố PSDN Nhà nước.
Luật PSDN chưa có quy định về uỷ thác thi hành án trong trường hợp tài sản của DN phá sản nằm rải rác ở nhiều nơi khác nhau. Do những yêu cầu trong quá trình kinh doanh, tài sản và khoản nợ của DN có thể phân tán ở nhiều nơi trong nước, thậm chí cả ở nước ngoài. Nhưng theo quy định tại Điều 42 Luật PSDN thì chỉ Phòng Thi hành án nơi DN đặt trụ sở chính là cơ quan có thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản, điều này có nghĩa là việc thu hồi các loại tài sản cũng như các khoản nợ của DN trong khắp cả nước cũng chỉ do Tổ thanh toán tài sản mà Trưởng phòng thi hành án thành lập tiến hành, mà không thể áp dụng thủ tục uỷ thác cho cơ quan Thi hành án nơi có tài sản. Chính vì vậy mà hầu như tất cả các vụ phá sản thì chi phí phá sản thường rất lớn, gây ra sự tốn kém, lãng phí bởi chi phí rất nhiều và kéo dài thời gian cho Tổ thanh toán tài sản tổ chức thu hồi.
Quy định về bán tài sản còn lại của DN.
Pháp luật về Thi hành án chưa có quy định cụ thể nhằm xử lý tài sản còn lại của DN một cách linh hoạt. Tài sản còn lại của DN khi bị phá sản rất đa dạng về chủng loại, giá trị cũng như đặc tính. Mỗi loại đòi hỏi phải có phương thức xử lý khác nhau. Tuy nhiên, theo Luật PSDN thì các tài sản còn lại sau khi thu hồi, Tổ thanh toán tài sản đều phải tiến hành bán đấu giá. Quy định cứng nhắc như vậy không những gây khó khăn trong quá trình thực hiện, mà còn làm kéo dài thời gian gây tốn kém cho việc xử lý. Khác với thi hành án dân sự, trong thi hành án PSDN, cần có sự phân biệt loại tài sản nào thì bán đấu giá, tài sản nào có thể bán thông thường hoặc quy định các hình thức thích hợp nhằm bảo đảm xử lý được đối với mọi loại tài sản của DN bị phá sản.
Theo quy định của Luật PSDN thì mọi chi phí cho việc giải quyết và thi hành quyết định tuyên bố PSDN chỉ được thanh toán sau khi đã thanh lý hết toàn bộ tài sản còn lại của DN phá sản. Trên thực tế việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản đòi hỏi nhiều chi phí tốn kém khác nhau như các chi phí về thu hồi, vận chuyển, bảo quản, định giá và tổ chức bán đấu giá ... Tuy nhiên, Luật PSDN cũng như pháp luật thi hành án lại chưa có quy định nào về tạm ứng chi phí cho quá trình thi hành loại quyết định này của Toà án. Do vậy, trong quá trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản, cơ quan Thi hành án đã gặp rất nhiều khó khăn, dẫn đến việc thi hành án chậm trễ, kéo dài.
3.25.2. Những quy định liên quan đến thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp cần được hoàn thiện.
Quy định việc uỷ thác thi hành án trong trường hợp tài sản của DN bị phá sản nằm ở nhiều địa phương khác nhau. Cơ quan Thi hành án nhận uỷ thác phải có trách nhiệm thực hiện uỷ thác, nếu không thực hiện được uỷ thác thì cần thông báo lại cho cơ quan Thi hành án đã uỷ thác biết trong một thời gian nhất định.
Về thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các Toà án hoàn thành tốt nhiệm vụ giải quyết yêu cầu tuyên bố PSDN được giao, Luật PSDN cần bổ sung quyền và nghĩa vụ của cơ quan Thi hành án trong việc thi hành các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết PSDN của Toà án.
Về việc xử lý tài sản của DN bị Toà án tuyên bố phá sản.
Quy định cụ thể cách thức xử lý tài sản DN theo hướng có sự phân biệt tài sản nào thì bán đấu giá, tài sản nào có thể bán thông thường hoặc quy định các hình thức thích hợp nhằm bảo đảm xử lý được đối với mọi loại tài sản của DN bị phá sản.
Quy định tạm ứng kinh phí cho quá trình thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Luật PSDN cần quy định cho phép cơ quan Thi hành án bán trước một số tài sản của DN để trang trải chi phí cho các hoạt động thi hành án.
Quy định bộ máy giúp việc gọn nhẹ, có chuyên môn bảo đảm hiệu quả thực hiện và tránh lãng phí, chỉ cần một vài chuyên gia, không nhất thiết phải là đại diện đầy đủ các cơ quan tài chính, ngân hàng, DN, tổ chức công đoàn ... Đặc biệt ở giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố PSDN, để tạo điều kiện chủ động, linh hoạt, giảm bớt thủ tục phiền hà và chi phí tốn kém, chỉ nên quy định Chấp hành viên thực hiện việc thu hồi, xử lý tài sản và thanh toán nợ theo phương án đã được Thẩm phán thông qua trong quyết định tuyên bố phá sản.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường, dưới tác động của quy luật cạnh tranh, phá sản là một hiện tượng tất yếu, và có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế -xã hội. Với vai trò to lớn của mình, pháp luật phá sản doanh nghiệp đã và đang góp phần ổn định trật tự kinh tế và làm lành mạnh hoá môi trường kinh doanh. Chế định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong quan hệ kinh tế nói chung và trong quan hệ về phá sản nói riêng tự bảo vệ lợi ích của chính mình. Cho nên, việc tìm hiểu các quy định về trình tự thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là hết sức cần thiết.
Trọng tâm nghiên cứu của khoá luận là trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, bao gồm các giai đoạn: Nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản; Hội nghị chủ nợ; tuyên bố phá sản và thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Trên cơ sở nghiên cứu về quy định thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản cũng như thực tiễn áp dụng thấy được những điểm hợp lý, những điểm chưa hợp lý, đề tài đã mạnh dạn đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống quy định về thủ tục giải quyết phá sản, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng luật. Hy vọng rằng, với kiến thức nghiên cứu còn khiêm tốn của mình, khoá luận của em sẽ góp phần giải quyết những bức xúc đang đặt ra đối với Luật Phá sản nói chung và các quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản nói riêng.
Đề tài nghiên cứu của khoá luận là một vấn đề khá rộng và phức tạp cả về lý luận và thực tiễn, vì vậy, nội dung nghiên cứu của khoá luận cần phải nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc. Tuy nhiên, do trình độ của bản thân còn nhiều hạn chế nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn.
Tài liệu tham khảo
Hiến pháp năm 1992.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Toà án nhân dân ngày 28/12/1993.
Luật Doanh nghiệp tư nhân ngày 21/12/1990.
Luật Phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/1993.
Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp.
Bộ Luật Dân sự ngày 9/11/1995.
Luật Doanh nghiệp ngày 12/6/1999.
Pháp lệnh giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994.
Văn bản tổng kết của Toà án nhân dân tối cao từ 1994-2001.
Chuyên đề Luật Phá sản-Bộ Tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý.
Tìm hiểu khái niệm Phá sản doanh nghiệp - Nguyễn Viết Tý (Tạp chí Luật học, số 5 năm 1995).
Chương trình toạ đàm Pháp luật về phá sản doanh nghiệp (ngày 18-19/6/2002).
Dự thảo Luật Phá sản doanh nghiệp (sửa đổi).
Thực tiễn thi hành và những đòi hỏi khách quan của việc sửa đổi, bổ sung Luật Phá sản doanh nghiệp - Toà án nhân dân tối cao 1999.
Luật Phá sản doanh nghiệp, một số vấn đề từ thực tiễn - Luật sư Nguyễn Tấn Hơn - 1995.
Luật Phá sản Trung Quốc và một số nước Tây Âu (2000).
Phá sản và xử lý phá sản ở một số nước - Thông tin chuyên đề của Viện Khoa học Tài chính.(2000)
Luật Phá sản Australia (Báo cáo tại Hội thảo Luật Phá sản doanh nghiệp).
19.Luật Phá sản Nhật (Báo cáo tại Hội thảo Luật Phá sản doanh nghiệp).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- toanboluanvan.doc