Các khu công nghiệp Hà Nội không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp mà còn cùng với việc phát triển các khu đô thị mới, hình ảnh một Thủ đô văn minh và hiện đại cũng được hình thành. Hiệu quả hoạt động của đầu tư nước ngoài nói chung và các doanh nghiệp hoạt động trong nước tại các khu công nghiệp nói riêng đã đóng vai trò tích cực trong việc phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. Thành phố đã quy hoạch công nghiệp đến năm 2020, trong đó tiếp tục định hướng phát triển các khu-cụm CNV&N. Đầu tư phát triển các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ là hướng đi đúng đắn của Đảng, Nhà nước và Thành uỷ đã và đang thu được những kết quả và hiệu quả ban đầu. Vấn đề thiết yếu là phải cụ thể hoá được các định hướng, các chính sách hỗ trợ khuyến khích đã được khẳng định thành các chương trình, giải pháp cụ thể. Và khi đã đề ra được hướng đi hợp lý thì cần phải quán triệt từ trên xuống dưới, thi hành đúng theo hướng đã lựa chọn.
Những vấn đề nêu ra trong đề án chính là thực trạng bức xúc hiện nay. Là việc đầu tư phát triển các khu-cụm CNV&N-giải quyết nhu cầu về mặt bằng sản xuất cho các nhà đầu tư trong nước đồng thời di dời một số nhà máy gây ô nhiễm ra khỏi nội thành giữ môi sinh cho Thủ đô vốn đã chật hẹp và bụi bặm.
Tỷ lệ lấp đầy 100% ngay khi còn nằm trong dự án là một con số đáng mừng. Tuy nhiên thách thức lớn nhất của các khu-cụm CNV&N hiện nay vẫn là công tác giải phóng mặt bằng. Thực tế thời gian qua cho thấy nhiều dự án đầu tư vào những khu công nghiệp này đang phải nằm chờ đất để triển khai. Tuy mức doanh thu của các không cao hơn so với các khu công nghiệp tập trung nhưng cùng với sự phát triển của khu-cụm CNV&N cũng mở ra những tiềm năng không nhỏ thu hút các nguồn vốn đầu tư trong nước.
Đề tài cũng đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm làm cho việc đầu tư phát triển các khu-cụm CNV&N trên địa bàn Thành phố thêm hoàn thiện. Xong do kinh nghiệm của một sinh viên còn nhiều hạn chế, chắc chắn chưa thể sẽ không thể tránh được những thiếu sót. Em kính mong Cô giáo lưu tâm giúp đỡ em hoàn thành tốt hơn đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
98 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1521 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng đầu tư phát triển các khu-Cụm công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g giải pháp đồng bộ các DNV&N tiếp tục gia tăng gây ô nhiễm môi trường đô thị Hà Nội. Vì vậy hình thành các khu-cụm CNV&N là giải pháp cấp bách và cơ bản vấn đề ô nhiễm môi trường do các DNV&N phát triển gây ra.
1.4. Quan điểm toàn diện và đồng bộ trong đầu tư và mở rộng các khu-cụm CNV&N.
Hình thành và phát triển công nghiệp theo mô hình KCN chỉ là một trong nhiều vấn đề của tổ chức sản xuất và quản lý công nghiệp theo lãnh thổ. Phát triển hệ thống công nghiệp theo lãnh thổ có tác dụng rất quan trọng thúc đẩy phát triển tổng thể kinh tế-xã hội theo vùng lãnh thổ. Với quan điểm toàn diện và đồng bộ muốn giải quyết tốt quan hệ liên đới với các bộ phận khác như: đầu tư phát triển các ngành kinh tế nông, lâm nghiệp, thương mại, dịch vụ, đào tạo nguồn nhân lực. Quy hoạch phát triển hạ tầng giao thông, điện nước, khu dân cư, đô thị vùng lãnh thổ gắn liền với phát triển KCN.
Đồng thời phải giải quyết đồng bộ các vấn đề như đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô, cải cách bớt các thủ tục phiền hà ách tắc, cửa quyền trong xét duyệt đầu tư theo hướng "một cửa".
Hoàn thiện môi trường đầu tư tạo thuận lợi và thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào các KCN và các khu-cụm CNV&N được phát triển trên địa bàn các huyện của thủ đô Hà Nội ở giai đoạn hiện nay cũng như các giai đoạn tiếp theo.
2. Định hướng phát triển các khu-cụm CNV&N trên địa bàn các huyện Hà Nội.
2.1.Định hướng chung đến năm2020.
ã Mục tiêu tổng quát.
Phát triển các KCNV&N trên địa bàn các huyện nhằm khuyến khích, thu hút tối đa mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển công nghiệp. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khu vực ngoại thành theo hướng CNH- HĐH góp phần xây dựng Hà Nội tương xứng với vị trí trung tâm đầu não chính trị cả nước; trung tâm kinh tế trọng điểm phía Bắc và đồng bằng Bắc Bộ. Bảo đảm cho công nghiệp của Hà Nội đạt được các mục tiêu chủ yếu như quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế- xã hội Thành phố đã đề ra:
- Năm 2010- công nghiệp chiếm khoảng 35% tổng GDP.
- Năm 2020-công nghiệp chiếm khoảng 42-45% tổng GDP.
Nhịp độ tăng trưởng hàng năm từ 2000 bình quân đạt (11-14%).
Thu hút khoảng 30% lao động xã hội làm việc trong các ngành công nghiệp.
Sản xuất công nghiệp đóng góp 40%-50% tổng thu ngân sách cho Thành phố.
- Phát triển khu-cụm CNV&N được phân bố xen kẽ, kết hợp với các KCN, KCX mới được xây dựng trên địa bàn từ 1991 đến nay và các cải tạo sắp xếp lại các cụm công nghiệp phát triển trước đây. Phân bố hợp lý về vị trí không gian (diện tích) cho từng khu công nghiệp. Sử dụng tiết kiệm quỹ đất dành cho phát triển khu công nghiệp (theo quy hoạch chung khoảng 3000 ha). Bảo đảm được sự thống nhất giữa quy hoạch phát triển kinh tế với quy hoạch phát triển đô thị và các khu dân cư đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt này 20/6/1998.
- Phát triển các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ nhằm hạn chế việc bố trí địa điểm xây dựng các doanh nghiệp mới phân tán gây ô nhiễm môi trường. Thúc đẩy các DNV&N, mở rộng “liên kết” nội bộ khu công nghiệp để tích tụ hợp lý khả năng cạnh tranh và hiệu quả phát triển.
ã Mục tiêu cụ thể:
Dự kiến từ nay đến năm 2010 Hà Nội sẽ phát triển khoảng 15 khu-cụm CNV&N. Quy mô mỗi khu công nghiệp từ 15- 20 ha.
Tổng diện tích đất các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ phát triển khoảng 300 ha chiếm 10% tổng quỹ đất quy hoạch chung của Hà Nội dành cho phát triển khu công nghiệp.
ở mỗi huyện ngoại thành dự kiến xây từ 2- 3 khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
- Tiến độ xây dựng các khu-cụm CNV&N ở Hà Nội có thể dự kiến phân chia ra các giai đoạn sau đây:
Giai đoạn 2000-2005: Xây dựng các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ thí điểm tại 4 huyện ngoại thành cũ là Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm, Đông Anh.
Giai đoạn tiếp theo: 2004- 2020: phát triển thêm 5 khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ mới.
Giai đoạn 2011- 2020: phát triển thêm 6 khu-cụm CNV&N mới.
2.2. Định hướng cụ thể cho giai đoạn 2003- 2005.
ã KCNV&N Vĩnh Tuy-Thanh Trì.
- Bố trí từ 20-30 DNV&N thuộc các nhóm, ngành nghề chế biến công nghiệp, dịch vụ không gây ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường xung quanh.
- Ưu tiên thu hút các cơ sở hiện đóng trong nội thành khu vực quận Hai Bà Trưng và các (khu vực phụ cận di dời ra phát triển tại KCN Vĩnh Tuy-Thanh Trì).
- Dự kiến các ngành nghề thu hút đầu tư phát triển tại các KCN Vĩnh Tuy-Thanh Trì):
. Các doanh nghiệp dệt, may, da.
. Các doanh nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm.
. Các cơ sở chế tạo cơ khí tiêu dùng.
. Các cơ sở điện, điện tử, tin học.
. Các cơ sở kinh doanh dịch vụ thương mại XNK.
ã KCN V&N Phú Thị-Gia Lâm.
- Phát triển 10 xí nghiệp quy mô vừa có diện tích xây dựng 0,5ha một cơ sở. 25 xí nghiệp quy mô nhỏ có diện tích xây dựng từ 0,2-0,3ha. Thuộc các nhóm ngành công nghiệp sạch không gây ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường xung quanh.
- Ưu tiên thu hút các cơ sở hiện đóng trong nội thành khu vực quận Hoàn Kiếm, Ba Đình và các khu vực phụ cận để rời ra đầu tư phát triển tại KCN Phú Thị, Gia Lâm.
Dự kiến các ngành nghề thu hút chủ yếu vào KCN.
- Các cơ sở công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.
- Các cơ sở chế tạo gia công bán thành phẩm, thành phẩm.
- Các cơ sở công nghiệp chế tạo sản phẩm kỹ thuật công nghệ cao, điện tử, tin học.
- Các cơ sở công nghiệp cơ khí tiêu dùng.
- Các cơ sở kinh doanh dịch vụ thương mại XNK.
ã KCNV&N huyện Đông Anh.
- Bố trí từ 20-30 DNV&N thuộc các nhóm ngành nghề ít gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
- Ưu tiên thu hút các cơ sở hiện có trong nội thành khu vực quận Ba Đình, Đống Đa, và các khu vực phụ cận di dời ra phát triển tại KCN Nguyên Khê, Đông Anh.
- Dự kiến các nhóm ngành nghề phát triển tại KCN
. Cơ khí tiêu dùng.
. Điện, điện tử.
. Chế biến lương thực, thực phẩm.
. VLXD, đồ gỗ lâm sản.
. Kinh doanh dịch vụ thương mại.
ã Cụm công nghiệp tập trung vừa và nhỏ Từ Liêm.
- Bố trí 20-30 DNV&N thuộc các nhóm ngành nghề ít gây ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường khu vực xung quanh.
- Ưu tiên thu hút các cơ sở hiện hoạt động trong nội thành thuộc khu vực quận Ba Đình, Đống Đa, Cầu Giấy di dời ra phát triển tại Cụm Công nghiệp tập trung vừa và nhỏ Từ Liêm.
- Dự kiến nhóm ngành nghề phát triển:
. Chế biến lương thực, thực phẩm, thức ăn gia súc.
. In văn hoá phẩm.
. VLXD, đồ gỗ lâm sản.
. Điện, điện tử.
. Cơ khí tiêu dùng.
. Kinh doanh dịchvụ thương mại xuất, nhập khẩu.
II. Giải pháp tiếp tục đầu tư phát triển các khu-cụm CNV&N trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Kinh nghiệm xây dựng các khu-cụm CNV&N thời gian vừa qua cho thấy tất cả các khu-cụm công nghiệp đều được lấp đầy ngay khi công bố dự án. Do:
+ Các doanh nghiệp có nhu cầu rất lớn về địa điểm để đầu tư sản xuất. Nên khi Thành phố quan tâm đến việc xây dựng các khu-cụm CNV&N tức là quan tâm đến các doanh nghiệp, về nhu cầu đất kinh doanh của họ. Họ đáp ứng rất nhiệt tình.
+ Thành phố không kinh doanh hạ tầng trong các khu-cụm công nghiệp, suất đầu tư thấp. Đây là một quyết định rất hợp tình hợp lý, bởi hầu hết các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế dân doanh đều thuộc DNV&N, vốn ít, việc không phải mất nhiều tiền đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ khiến họ có nhiều vốn dành cho mua sắm tài sản cố định, phát triển sản xuất, hoàn thiện sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
+ Thủ tục cấp đất nhanh, gọn (các doanh nghiệp không phải làm các thủ tục về đất mà do các Ban quản lý dự án thực hiện). Khiến cho các doanh nghiệp không còn phải lo sợ về giấy tờ, mất nhiều thời gian, trách phiền hà không đáng có.
+ Doanh nghiệp được thuê đất trực tiếp với Thành phố, thời gian thuê đất dài (50 năm), tạo điều kiện cơ bản để doanh nghiệp yên tâm đầu tư phát triển lâu dài. Trước đây, khi phải đi thuê đất ở những nơi khác để kinh doanh, hiếm có nơi nào mà doanh nghiệp khu vực dân doanh có thể ký được hợp đồng thuê đất được hàng chục năm như vậy, do giá thuê đất cao và những điều kiện thị trường đầy bất ổn. Việc thuê đất dài lâu tạo tâm lý thoải mái, không lo lắng nhiều khi giá thuê đất kinh doanh bên ngoài thay đổi, doanh nghiệp trong khu-cụm CNV&N có thể yên lòng chuyên tâm vào sản xuất kinh doanh.
+ Công tác quản lý doanh nghiệp (thu thuế, lao động…) sẽ có nhiều thuận lợi, góp phần tạo điều kiện cho công tác quản lý quy hoạch của Thành phố (do trong quy chế của Thành phố không cho phép có dân trong khu công nghiệp). Việc có dân xen lẫn trong KCN luôn gây khó khăn cho cán bộ ngành thuế phiền hà khi tiến hành thu thuế và cho việc quản lý lao động của Thành phố. Nay dân cư không có trong khu-cụm CNV&N sẽ làm cho công việc thu thuế, quản lý lao động... sẽ dễ dàng hơn rất nhiều so với trước đây.
Từ đó khẳng định chủ trương xây dựng các khu-cụm CNV&N là chủ trương rất đúng đắn của Đảng bộ và chính quyền Thành phố. Với việc 66 doanh nghiệp đã được Thành phố phê duyệt cho thuê đất để đầu tư sản xuất trong 3 khu-cụm công nghiệp (Vĩnh Tuy, Phú Thị và Từ Liêm) đã bước đầu tạo nên không khí đầu tư khá sôi động, tạo dư luận tốt (đặc biệt là đối với thành phần kinh tế dân doanh) về sự quan tâm của Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hà Nội trong việc giải quyết vấn đề bức xúc của doanh nghiệp về địa điểm sản xuất. Qua thực tế tại KCN Vĩnh Tuy, hầu hết các doanh nghiệp được đầu tư vào KCN đã cố gắng xây dựng nhà xưởng khang trang, lắp đặt thiết bị hiện đại để sản xuất lâu dài. Các doanh nghiệp đầu tư vào KCN Phú Thị và cụm công nghiệp Từ liêm cũng đều cam kết sẽ làm tốt như vậy. Điều đó khẳng định chủ trương đúng đắn của Thành phố đã thực sự đi vào cuộc sống, khẳng định tiềm năng nội lực phong phú, dồi dào của giới doanh nghiệp ở Thủ đô.
- Tiếp tục xây dựng các khu-cụm CNV&N trên địa bàn, giảm dần việc giao đất lẻ cho các doanh nghiệp.
- Sớm tổng kết mô hình khu-cụm CNV&N để xác định rõ cách làm, cơ chế chính sách hỗ trợ của Thành phố (Thành phố đã giao cho Ban quản lý KCN và chế xuất Hà Nội ).
- Tập trung cao độ trong chỉ đạo thực hiện, đảm bảo đúng tiến độ hoàn thành các dự án đã đề ra.
1. Nhóm giải pháp vĩ mô.
1.1. Giải pháp về hoàn thiện các chính sách của Nhà nước:
Thể chế hoá các chính sách hỗ trợ các DNV&N hoạt động trong các KCN của địa phương (nhất là các chính sách về đất đai, tài chính, thuế, xuất nhập khẩu, đào tạo công nhân ...) bằng cách bổ sung và hoàn chỉnh Luật khuyến khích đầu tư trong nước.
ã Về cơ chế hỗ trợ của Thành phố:
- Quan điểm chung: không coi việc hỗ trợ các doanh nghiệp là quay lại chế độ “bao cấp” mà là để phát triển sản xuất kinh doanh, nuôi nguồn thu chủ yếu của ngân sách và cơ chế hỗ trợ phải đến trực tiếp các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, ưu tiên các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp chủ lực của Thành phố.
- Ngoài các cơ chế hỗ trợ hiện nay đang thực hiện, Thành phố cần hỗ trợ thêm việc xây dựng HTKT chung trong hàng rào các khu-cụm CNV&N (đường giao thông nội bộ, thoát nước, xử lý nước thải, cây xanh và một số công trình công cộng khác) từ ngân sách của Thành phố để chia xẻ khó khăn về vốn đầu tư cuả các doanh nghiệp. Như vậy các doanh nghiệp chỉ đầu tư các công trình trong hàng rào của khu sản xuất của các doanh nghiệp.
- Thành phố ra quyết định khuyến khích các nhà đầu tư vào các KCN thuộc huyện Đông Anh được miễn tiền thuê đất trong 5 năm đầu và giảm 50% trong 5 năm tiếp theo, miễn tiền thuê đất 10 năm nếu đầu tư vào huyện Sóc Sơn.
Nghiên cứu giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp vào hoạt động trong các KCN.
1.2. Giải pháp về củng cố tổ chức, đổi mới hoạt động của Ban quản lý các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở các huyện:
-Về tổ chức: tiếp tục củng cố tổ chức và nhân sự cho Ban quản lý theo hướng gọn nhẹ và chất lượng, đảm đương được nhiệm vụ được giao.
-Tạo cơ sở vật chất, điều kiện hoạt động tốt để Ban quản lý hoàn thành nhiệm vụ.
Hình thành Ban quản lý các khu-cụm CNV&N thuộc các quận, huyện là tổ chức sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân và chịu sự quản lý ngành dọc của Ban quản lý các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội. Ban quản lý cấp quận, huyện có nhiệm vụ làm chủ đầu tư dự án và quản lý vận hành sau khi dự án hoàn thành (quản lý cơ sở hạ tầng, quản lý xây dựng, đảm bảo an ninh và môi trường).
1.3. Giải pháp về thể chế và môi trường đầu tư.
Từ thực tiễn đầu tư phát triển các khu-cụm CNV&N trên địa bàn những năm qua cho thấy thể chế là khâu quan trọng tạo khuôn khổ pháp lý để hình thành và mở rộng khu-cụm CNV&N. Mô hình khu-cụm CNV&N chỉ là một mô hình sáng tạo và đang tiến hành thí điểm ở một số huyện ngoại thành, song thực tế chứng minh đây là một mô hình hợp lý, thích hợp với Việt Nam. Chính phủ cần nhanh chóng đưa ra những quy chế về khu-cụm CNV&N, những chính sách khuyến khích đầu tư phát triển, cải tạo khu-cụm CNV&N, tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho đầu tư phát triển vào cáckhu-cụm CNV&N. Chính phủ đã tiếp tục tháo gỡ những khó khăn trở ngại gây ảnh hưởng đến hoạt động của các công ty xây dựng hạ tầng và cả các doanh nghiệp đầu tư vào KCN. Tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc đó là sự thiếu nhất quán của chính sách, năng lực tổ chức thực hiện quản lý còn kém, sự cản trở của việc chậm tiến độ thi công dự án do chậm giải phóng mặt bằng, đền bù, xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào.
Hệ thống chính sách của ta đối với khu-cụm CNV&N còn chưa hình thành rõ nét, mới chỉ là mô hình rút ra từ việc xây dựng các KCN tập trung, KCX, Khu công nghệ cao. Nhà nước cần nhanh chóng đôn đốc các cơ quan, ban ngành liên quan sớm hoàn thiện qui chế về khu-cụm CNV&N. Tạo niềm tin vững chắc cho các doanh nghiệp, các chủ đầu tư khi tiến hành thuê đất kinh doanh.
Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện những văn bản mang tính pháp quy khắc phục tình trạng thiếu rõ ràng, thiếu thống nhất và không cụ thể. Sớm ban hành qui chế và luật khu-cụm CNV&N qua thể nghiệm sẽ điều chỉnh bổ sung thêm. Ban hành qui chế quản lý thống nhất các dự án đầu tư vào khu-cụm CNV&N trên địa bàn Thành phố. Quy định một cách rõ ràng những nội dung quản lý Nhà nước đối với khu-cụm CNV&N. Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của Ban quản lý khu-cụm CNV&N là đầu mối tập hợp tìm kiếm các giải pháp giải quyết những vấn đề phát sinh.
- Quy định rõ ràng và cụ thể việc xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ngoài hàng rào khu-cụm CNV&N.
- Công ty phát triển hạ tầng bao gồm mọi loại hình doanh nghiệp để tăng tính cạnh tranh trong gói thầu xây dựng.
- Quy định thời hạn thuê đấu của doanh nghiệp khu-cụm CNV&N không vượt quá thời hạn thuê đất của công ty phát triển hạ tầng.
- Tăng cường vai trò quản lý khu-cụm CNV&N của UBND các huyện.
- Cải cách một cách triệt để thủ tục hành chính, khắc phục sự chậm trễ trong cấp phép đầu tư, giải quyết ách tắc của chủ đầu tư trong quá trình thực hiện. Chúng ta không thể để những chính sách đúng bị các công chức quan liêu, vụ lợi làm sai lệch, sách nhiễu, làm chậm trễ, phiền lòng các nhà đầu tư. Cách làm tốt nhất là thực hiện dịch vụ trọn gói có thời hạn. Ban hành quy chế tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp được giao dịch trực tiếp với các cơ quan quản lý Nhà nước kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc.
1.4. Giải pháp về huy động vốn cho các dự án Khu-cụm vừa và nhỏ.
- Nguồn vốn tự có bao gồm:
* Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách.
Sau khi đã thực hiện chính sách điều tiết ngân sách của Trung ương cho các tỉnh khác, theo xu hướng chung về huy động vốn đầu tư từ ngân sách thì cả thời kỳ 2000-2020 nguồn vốn đầu tư trích từ ngân sách sẽ có thể đạt khoảng 295 ngàn tỷ đồng, đáp ứng được khoảng 26 % tổng nhu cầu vốn đầu tư; giai đoạn 2000-2010 khoảng 68 ngàn tỷ và giai đoạn 2011-2020 khoảng 227 ngàn tỷ đồng.
Nguồn vốn đầu tư trích từ ngân sách chủ yếu dành cho phát triển kết cấu hạ tầng của các khu-cụm CNV&N mới, tạo tiền đề ban đầu khi mới hình thành.
* Nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp của dân.
Trong thời gian tới, nguồn vốn đầu tư của dân và các doanh nghiệp sẽ vai trò ngày càng lớn. Cả thời kỳ 2000-2020 khả năng vốn, nguồn vốn sẽ đạt khoảng 556 ngàn tỷ đồng, chiếm khoảng 49-50 % tổng nhu cầu vốn đầu tư: trong đó giai đoạn 2000-2010 khoảng 101 ngàn tỷ đồng và giai đoạn 2011-2020 huy động được khoảng 455 ngàn tỷ đồng.
Nguồn vốn của các doanh nghiệp có vai trò đáng kể. Trên địa bàn Hà Nội có nhiều doanh nghiệp trung ương và các doanh nghiệp của thành phố. Trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp trên ngoài việc đầu tư tái sản xuất mở rộng còn đóng góp một phần đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng như làm đường giao thông, mạng lưới điện, nước... Doanh nghiệp đầu tư vốn vào khu-cụm CNV&N sẽ thêm tự tin trong các bước hoạt động tiếp theo và tạo thuận lợi cho Thành phố trong việc giải quyết một phần nguồn vốn.
Trong giai đoạn tới, ngoài việc các doanh nghiệp phải tự đầu tư tái sản xuất mở rộng, cần huy động khả năng đóng góp của các doanh nghiệp vào phát triển mạnh hơn nữa kết cấu hạ tầng. Theo kinh nghiệm, hoàn toàn có thể huy động được nhiều khả năng đóng góp tối đa của các doanh nghiệp vào phát triển kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của ngành TW đóng trên địa bàn Thành phố.
* Nguồn vốn của nhân dân cũng rất quan trọng.
Trong khu vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nhất là dịchvụ thương nghiệp và vận tải, có nhiều hộ hoàn toàn tự nguyện bỏ vốn ra mua sắm máy móc, phương tiện để làm ăn. Đây là lực lượng vốn tiềm ẩn hết sức tiềm tàng trong dân cư, Hà Nội cần có chính sách rõ ràng để huy động được tối đa nguồn vốn này cho qúa trình phát triển của Thủ đô trong những giai đoạn tới.
Về huy động sức dân để xây dựng kết cấu hạ tầng thì nhiều tỉnh như Thái Bình, Hải Dương, Hà Nam đã có những kinh nghiệm khá hay. Hà Nội cần có cơ chế, chính sách thích hợp, linh hoạt để huy động sức dân phát triển kết cấu hạ tầng. Song cũng cần đặc biệt chú ý không nên huy động quá sức của dân và phải quản lý tốt nguồn vốn này và công khai hoá các khoản chi tiêu.
Bảng 14: Đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn 2000 - 2020.
Nguồn vốn
Ngàn tỷ đồng
Tỷ lệ %
Vốn ngân sách
295
26%
Vốn doanh nghiệp của dân
556
49% - 50%
Vốn của nhân dân
270,95
23,88%
Vốn tín dụng, liên doanh, liên kết từ bên ngoàI
12,7
1,12%
Nguồn: Quy hoạch phát triển công nghiệp Thành phố Hà Nội đến 2020.
- Nguồn vốn tín dụng và vốn liên doanh, liên kết từ bên ngoài.
Đây cũng là nguồn vốn rất quan trọng. Nguồn vốn do liên kết bên ngoài chủ yếu tập trung trong một số lĩnh vực như: Liên doanh, liên kết trong phát triển sản xuất, trong nghiên cứu triển khai, trong phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch... ở ngoài địa bàn Thành phố. Nguồn vốn này theo tính toán thì cả thời kỳ 2000-2020 có thể đạt khoảng 12,7 ngàn tỉ đồng, trong đó tiêng giai 2000-2005 đạt khoảng 1,4 ngàn tỷ đồng.
1.5. Giải pháp về qui hoạch.
Khu-cụm CNV&N là một bộ phận trong tổng thể công nghiệp của Thành phố và của cả nước, trong đó các ngành công nghiệp kết hợp theo nguyên tắc kết hợp qui hoạch ngành với qui hoạch vùng lãnh thổ. Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định qui hoạch tổng thể mở rộng khu-cụm CNV&N. Còn qui hoạch cụ thể cho từng ngành nghề, loại hình khu-cụm CNV&N trên từng địa bàn là vấn đề lớn, mất nhiều thời gian và công sức của các ngành các cấp của Thành phố phải làm.
Để đảm bảo tính khả thi trong việc qui hoạch mở rộng khu-cụm CNV&N nên thực hiện một số vấn đề sau:
- Các khu-cụm CNV&N được lựa chọn hình thành phải phù hợp với qui hoạch phát triển kinh tế-xã hội của Thành phố. Các ngành nghề thu hút vào khu-cụm CNV&N phải phù hợp với định hướng phát triển các ngành nghề kinh tế-kỹ thuật.
- Các loại hình và qui mô doanh nghiệp hoạt động trong khu-cụm CNV&N đa dạng: Có qui mô lớn, vừa và nhỏ đặc biệt khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối quan hệ hợp tác liên kết cùng tham gia sản xuất các loại sản phẩm, phát triển khu-cụm CNV&N trền khắp địa bàn quận huyện, thị xã, thị trấn hình thành một mạng lưới khu-cụm CNV&N trền khắp địa bàn Thành phố.
- Đảm bảo sự đồng bộ giữa mở rộng khu-cụm CNV&N với phát triển cơ sở hạ tầng và quá trình đô thị hoá. Cần xác định giới hạn của các khu-cụm CNV&N trên cơ sở cân đối các điều kiện, từ đó xác định bước đi với những qui mô phù hợp. Về nguyên tắc cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước. Bảo đảm sự đồng nhất giữa cơ sở hạ tầng kỹ thuật với cơ sở hạ tầng xã hội để đảm bảo sự phát triển thuận lợi và lâu bền cho khu-cụm CNV&N. Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ: điện, nước, xử lý rác thải, thông tin có tác động đến hiệu quả sản xuất. Trong qui hoạch phát triển khu-cụm CNV&N, ngoài việc nghiên cứu những điều kiện trên, còn chú ý nghiên cứu dự báo về thị trường tiêu thụ sản phẩm, cung cấp nguồn lao động. Bảo đảm đồng bộ việc xây dựng cơ sở hạ tầng khu-cụm CNV&N và bên ngoài nó.
-Mọi qui hoạch sau khi được phê duyệt phải công bố công khai, rộng rãi để các cấp chính quyền và nhân dân thực hiện. Công bố rõ ràng ranh giới của các khu-cụm CNV&N dự kiến xây dựng để quản lý chi phí đền bù sau này. Về nguyên tắc các khu-cụm CNV&N cần bố trí ở ngoại vi Thành phố có tính đến xu hướng mở rộng Thành phố và quá trình đô thị hoá để chống ô nhiễm môi trường. Có những khu hiện nay là ngoại vi, nhưng 20 năm nữa sẽ là trung tâm.
-Tăng cường tổ chức những tư ván phát triển và lực lượng nghiên cứu qui hoạch, luận chứng các dự án đầu tư ưu tiên. Trên cơ sở qui hoạch đã được phê duyệt, đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, có cơ chế hấp dẫn thu hút đầu tư trong và ngoài nước và các khu-cụm CNV&N.
- Cần ưu tiên thành lập khu-cụm CNV&N trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp nay mở rộng thêm hoặc cải tạo các khu công nghiệp đã cũ, sau đó đến xây dựng các KCN mới phục vụ cho việc chỉnh trang đô thị, qui hoạch lại việc công nghiệp hoá trên địa bàn.
1.6. Giải pháp về công tác đền bù và giải phóng mặt bằng.
Công tác đền bù và giải phóng mặt bằng phải trên cơ sở quy hoạch dài hạn về tình hình mở rộng khu-cụm CNV&N, phải có chỉ dẫn, có ranh giới và phải được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng một cách thường xuyên. Điều đó là một đảm bảo chắc chắn để giảm gánh nặng cho công tác đền bù và giải phóng mặt bằng. Trong những năm qua, do công tác quy hoạch, chỉ dẫn, hướng dẫn làm chưa tốt, do đó việc đền bù và giải phóng mặt bằng luôn là vấn đề gay cấn, vừa bức xúc căng thẳng, vừa tốn kém và làm cho công trình kéo dài, làm chậm quá trình mở rộng khu-cụm CNV&N, gây khó khăn không nhỏ cho các nhà đầu tư.
Hiện nay, từ khi có quyết định thành lập đến khi hoàn thành thủ tục về đất thường kéo dài hàng năm. Nguyên nhân chủ yếu là chủ đầu tư thiếu vốn để đền bù do chi phí phát sinh quá lớn, có nhiều trường hợp nằm ngoài dự kiến. Ngoài tiền đền bù tài sản có trên đất, chủ đầu tư còn phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất, hỗ trợ xây dựng một số công trình phúc lợi của địa phương.
Đối với dân (đối tượng đền bù) một mặt do chưa hiểu rõ chủ trương phát triển khu-cụm CNV&N, chính sách đền bù hoặc chính sách đền bù chưa thống nhất, mặt khác một số hộ cố tình chây ì đặt điều kiện đền bù quá đáng, trong khi thiếu điều khoản mang tính cưỡng chế đối với những trường hợp cần xử lý. Chính các nguyên nhân trên đã tác động đến tư tưởng tình cảm đối với các đối tượng giao đất làm khu công nghiệp, khiến một số người không đồng tình, gây khó khăn cản trở.
Để làm tốt hơn công tác đền bù giải phóng mặt bằng, công tác quy hoạch phải thật sự đi trước một bước, tuyên truyền giáo dục cho nhân dân về đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ trương mở rộng phát triển khu-cụm CNV&N cần đặc biệt coi trọng sự chỉ đạo thường xuyên của các cơ quan chính quyền địa phương trong vận động, giải thích, thuyết phục các đối tượng phải di dời. Việc tính tiền đền bù phải thoả đáng theo nguyên tắc thị trường và có sự quản lý của Nhà nước thông qua qui định, qui chế bảo hành cho dân có điều kiện để tái lập cơ sở mới.
1.7. Giải pháp về công nghệ và bảo vệ môi trường.
Kinh nghiệm trong nước và một số nước trong khu vực cho thấy để hình thành khu-cụm CNV&N không khó, nhưng khó hơn là làm cho các doanh nghiệp trong khu-cụm CNV&N phát triển nâng cao sức cạnh tranh bảo đảm sự phát triển bền vững. Giải pháp về công nghệ và môi trường là giải pháp tăng nội lực của KCN trong quá trình hội nhập. Đặc biệt là đối với Thủ đô Hà Nội bên cạnh các KCN mới có công nghệ tương đối hiện đại, còn có các KCN cũ phần lớn lạc hậu, do đó cần phải tìm những giải pháp thiết thực để hiện đại hóa các KCN này:
- Trên cơ sở về chiến lược thị trường của công nghiệp Hà Nội, hình thành chiến lược về công nghệ từ nay đến năm 2020 làm căn cứ lựa chọn công nghệ đầu tư vào KCN.
- Kết hợp các Viện, trung tâm nghiên cứu công nghệ với cơ sở sản xuất kinh doanh để thực hiện các chương trình dự án thiết thực liên quan đến đổi mới và ứng dụng công nghệ mới.
- Miễn thuế nhập khẩu cho những máy móc thiết bị, sản phẩm trung gian liên quan đến đổi mới công nghệ ở các KCN. Làm tốt công tác thẩm định công nghệ nhập.
Việc hình thành và phát triển các KCN liên quan chặt chẽ đến vấn đề bảo vệ môi trường. Để làm tốt vấn đề này cần giải quyết những vấn đề sau:
- Việc qui hoạch các KCN gắn liền với qui hoạch bảo vệ môi trường, dự báo về môi trường khi các doanh nghiệp trong KCN đi vào hoạt động.
- Về nguyên tắc các KCN phải bố trí ở ngoại vi Thành phố với cơ sở hạ tầng đầy đủ để xử lý nước thải, bụi, tiếng ồn...
- Khuyến khích việc sử dụng công nghệ sạch vào các KCN, áp dụng các công nghệ ít chất thải, thay thế các chất độc hại bằng các chất ít độc hại.
- Có những qui định cụ thể về bảo vệ môi trường trong các dự án đầu tư, dự án sản xuất kinh doanh, sự đóng góp tài chính của các doanh nghiệp và bảo vệ môi trường.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhận được thông tin về môi trường như một biện pháp cơ bản bảo vệ môi trường. Việc lập báo cáo tác động môi trường cần được tiến hành đồng thời với việc lập báo cáo khả thi thành lập KCN.
- Thúc đẩy các KCN đã có thực hiện đầy đủ các qui định về bảo vệ môi trường.
- Từng bước chuyển hướng sản xuất hoặc di dời những doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường ở các quận nội thành hay vùng ngoại vi.
2. Nhóm giải pháp vi mô:
2.1. Giải pháp về lựa chọn chủ đầu tư cơ sở hạ tầng khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là công việc quan trọng nhất trong quá trình hình thành một khu, cụm công nghiệp. Nó sẽ quyết định khu, cụm công nghiệp có đáp ứng tốt những yêu cầu về xây dựng và phát triển mà các nhà quản lý đề ra hay không. Vì vậy mà sự lựa chọn chủ đầu tư cơ sở hạ tầng vào khu, cụm công nghiệp là một vấn đề luôn được chú ý, quan tâm ngay từ ban đầu của các quận, huyện khi tiến hành đầu tư xây dựng và phát triển khu, cụm công nghiệp đó. Sau khi xây dựng thành công khu, cụm công nghiệp ở một số huyện, chúng ta có thể đưa ra giải pháp sau:
Về hình thức chủ đầu tư phát triển hạ tầng: trong những năm gần đây, Nhà nước khuyến khích các loại hình doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp tập trung (5 khu đã nghiên cứu ở mục 2, phần III, chương II) chúng ta cũng nên áp dụng nó trong việc lựa chọn chủ đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Cụ thể là vấn đề đa dạng hoá hình thức đầu tư doanh nghiệp nhà nước (công ty phát triển hạ tầng), công ty liên doanh phát triển hạ tầng (thường có nguồn tài chính dồi dào hơn, khả năng vận động đầu tư tốt hơn) công ty tư nhân. Ngoài ra, có thể áp dụng hình thức khác nhau như BOT với các đối tác trong và ngoài nước, cổ phần. Chính sự đa dạng về hình thức đầu tư và đối tác đầu tư làm phong phú thêm thị trường xây dựng, tạo điều kiện cạnh tranh, nâng cao chất lượng và giảm chi phí xây dựng khu, cụm công nghiệp.
2.2. Giải pháp về lựa chọn doanh nghiệp đầu tư vào khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
Việc đầu tư phát triển các khu-cụm CNV&N nhằm mục tiêu phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2020 nước ta căn bản trở thành một nước công nghiệp, so với các nước phát triển trên thế giới và các nước trong khu vực thì thiết bị và qui trình công nghệ của Việt Nam lạc hậu và kém phát triển, khiến chúng ta luôn tụt hậu, sản phẩm làm ra không đáp ứng được yêu cầu cao của thị trường xuất khẩu như Mỹ, EU... Nhu cầu các doanh nghiệp tuy lớn song cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ còn yếu kém. Muốn việc phát triển các khu-cụm CNV&N đạt hiệu quả cao chúng ta phải có chính sách lựa chọn doanh nghiệp đầu tư và khu-cụm CNV&N đó là phải ưu tiên cho các doanh nghiệp có thiết bị công nghệ tiên tiến, dây chuyền sản xuất hiện đại ngang tầm khu vực; ưu tiên cho những doanh nghiệp dám mạo hiểm đầu tư những thiết bị đắt tiền công nghệ cao. Thực hiện chiến lược: "đi tắt đón đầu" về công nghệ thiết bị, có như vậy sản phẩm làm ra mới đa dạng phong phú về mẫu mã chủng loại, chất lượng cao, đáp ứng được các tiêu chuẩn ISO 9000, 9002... và yêu cầu của thế giới xứng đáng với đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu-cụm CNV&N của Thành phố Hà Nội.
- Lựa chọn những doanh nghiệp kinh doanh những ngành nghề tương đối gần nhau về công nghệ để doanh nghiệp có thể tương trợ lẫn nhau, đồng thời dễ quản lý về môi trường, hạ tầng kỹ thuật... dần tiến tới chỉ có một hoặc hai ngành nghề nhất định trong khu, cụm công nghiệp (ví dụ khu dệt- may, khu da- giầy...)
- Mặc dù việc hình thành các khu-cụm CNV&N với mục đích di dời các xí nghiệp gây ô nhiễm ra khỏi nội thành, trước mắt chúng ta cũng ưu tiên cho những xí nghiệp gây ô nhiễm nặng, song về lâu dài, cần phải ưu tiên doanh nghiệp sản xuất công nghiệp sạch. Ưu tiên những doanh nghiệp có khu sử lý chất thải hiện đại, bảo đảm vệ sinh môi trường khu-cụm CNV&N và môi trường xung quanh.
- Ưu tiên các doanh nghiệp thực hiện dự án theo hình thức BOT đối với các lĩnh vực cấp, thoát nước.
2.3. Giải pháp về thu hút các nhà đầu tư, các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh tại các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
Để thu hút các DNV&N đầu tư vào khu-cụm CNV&N đã và sắp thành lập, cần:
ã Truyền bá chủ trương hình thành và phát triển khu-cụm CNV&N một cách rộng rãi.
ã Điều tra xã hội học, nắm chắc nhu cầu đầu tư phát triển các DNV&N.
ã Thực hiện quy chế KCN đồng thời với đề xuất các quy chế đặc thù đối với doanh nghiệp trong khu-cụm CNV&N.
ã Nghiêm chỉnh thực hiện quy hoạch phát triển thủ đô năm 2020 và kế hoạch di chuyển các doanh nghiệp công nghiệp từ nội thành và ngoại thành.
Cụ thể:
- Sớm có những giải pháp để huy động các nguồn vốn như đã nêu ở trên, đặc biệt là vốn của các doanh nghiệp và vốn của dân.
- Những giải pháp có tính pháp lý và bắt buộc từ Thành phố , buộc các doanh nghiệp đóng trong nội thành phải di dời ra ngoại thành.
- Những giải pháp về giải toả, đền bù, cấp đất phải tạo ra được cơ chế thông thoáng và nhanh gọn tại vị trí chuyển đến và vị trí buộc phải di chuyển.
- Những giải pháp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng với giá phù hợp, đảm bảo các điều kiện cần thiết cho các doanh nghiệp khi tiến hành xây dựng và trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất, giá dịch vụ hạ tầng đảm bảo phù hợp với khả năng chi trả và thuê mướn của các doanh nghiệp trong khu-cụm CNV&N.
Để đẩy mạnh công tác đầu tư tiếp thị đầu tư vào khu-cụm CNV&N, ban quản lý KCN cần chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng như phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, Bộ Kế hoạch và đầu tư... tổ chức giới thiệu khu-cụm CNV&N đã và đang xây dựng với các doanh nghiệp, cho họ cái nhìn tích cực về những lợi thế khi đầu tư vào những KCN này. Giới thiệu với các chủ doanh nghiệp những dự án xây dựng khu-cụm CNV&N mới để họ-nếu có nhu cầu thuê đất hoặc đầu tư cơ sở hạ tầng đều có thể tham gia, hình thành phương án khả thi đầu tư vào các khu-cụm CNV&N. Ban quản lý KCN các huyện cần phối hợp với công ty phát triển hạ tầng KCN cần tập trung sức vào việc tổ chức vận động đầu tư vào KCN dưới nhiều hình thức với chi phí thoả đáng.
Ban hành các sách hướng dẫn đầu tư vào khu-cụm CNV&N tại Việt Nam, trong đó nêu rõ các chính sách, thủ tục thực hiện đầu tư, giới thiệu những thông tin kinh tế cơ bản về các công trình hạ tầng đã xây dựng, giá thuê đất, giá thuê hạ tầng, các ưu đãi...
Về phía các công ty xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, song song với việc tập trung xây dựng tốt cơ sở hạ tầng phải đặc biệt quan tâm đến công tác nghiên cứu thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng (ở đây là nhà đầu tư) để xây dựng cho mình chiến lược Marketing hữu hiệu. ở các công ty phát triển hạ tầng KCN, nên tổ chức phòng tiếp thị. Nội dung chủ yếu của những công việc cần nghiên cứu trong Marketing KCN cần phải thực hiện là:
- Nghiên cứu thị trường: gồm thị trường trong và ngoài nước, nắm rõ nhu cầu, đòi hỏi của thị trường để xây dựng, sửa đổi, tu chỉnh cơ sở hạ tầng cho hợp lý.
- Nghiên cứu người tiêu dùng: người tiêu dùng ở đây là các nhà đầu tư. Cần nghiên cứu để biết nhà đầu tư nào sẽ đến với mình, họ thích các sản phẩm như thế nào, giá cả ra sao. Cần nghiên cứu lợi thế so sánh giữa các KCN.
- Nghiên cứu động cơ mua hàng: Nhà đầu tư đến với ta để thuê đất xây dựng nhà xưởng để sản xuất, xuất phát từ động cơ, động cơ xuất phát từ nhu cầu, nhưng không phải hễ có nhu cầu là họ thuê ngay, nhất là trong lĩnh vực này phải bỏ ra một khoản vốn lớn để xây dựng nhà xưởng, tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Phân tích và kiểm tra lại các hoạt động chiêu thị, vận động đầu tư của công ty: nghiên cứu, phân tích xem công ty tổ chức, vận động thu hút đầu tư hay thông qua mạng lưới đại diện vận động, tiếp xúc, giao dịch, giới thiệu.
- Nghiên cứu sản phẩm: cần xem xét xem KCN của mình đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường chưa, cần cải tiến vấn đề ra sao, từ đó có kế hoạch sửa đổi sản phẩm cũ, tung ra thị trường sản phẩm mới phù hợp hơn.
2.4. Giải pháp về tạo nguồn nhân lực cho khu-cụm CNV&N.
Hà Nội có điều kiện thuận lợi hơn so với các địa phương khác, là trung tâm khoa học công nghệ và đào tạo, trình độ dân trí và nghề nghiệp cao hơn. Nhưng qua thực tế ở một số khu công nghiệp ở Hà Nội cho thấy giữa nhu cầu và nguồn lao động không đồng nhất. Trong khi lực lượng lao động ở Thành phố rất dồi dào, nhưng các doanh nghiệp khu công nghiệp vẫn rất khó khăn trong tuyển dụng lao động do lao động tại chỗ chưa đáp ứng được yêu cầu điều kiện về tay nghề, trình độ chuyên môn của các doanh nghiệp mà nguyên nhân chủ yếu là việc hình thành và phát triển các khu công nghiệp thường đi trước công tác đào tạo. Để khắc phục mâu thuẫn này, tạo nguồn lao động lâu dài cho các khu công nghiệp cần thực hiện các giải pháp sau:
- Dựa vào dự báo, qui hoạch phát triển khu công nghiệp để xây dựng kế hoạch đào tạo trong đó có yêu cầu về số lượng, chất lượng cơ cấu ngành nghề.
- Nhà nước có cơ chế khuyến khích các cơ sở đào tạo lao động thông qua bổ xung kinh phí miễn giảm thuế cho các cơ sở đào tạo như Tổng cục dạy nghề, Bộ Giáo dục-Đào tạo, các cơ quan trung ương khác... mở các lớp bồi dưỡng cán bộ quản lý Nhà nước đối với khu công nghiệp.
- Xúc tiến việc thành lập cơ sở đào tạo công nghệ kỹ thuật và quản trị doanh nghiệp.
III. Kiến nghị.
1. Kiến nghị về đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô về quản lý đầu tư xây dựng phát triển các khu-cụm CNV&N.
Sửa đổi cơ chế quản lý vĩ mô liên quan đến quyết định hình thành các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ theo NĐ36/CP và NĐ42/CP thì các dự án khu công nghiệp đều thuộc nhóm dự án do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quyết định đầu tư.
Theo NĐ 64/CP thì các dự án sử dụng đất từ quỹ đất nông nghiệp có quy mô 2 ha trở lên phải được Thủ tướng Chính phủ đồng ý. Từ thực tế để có ý kiến đồng ý của Thủ tướng Chính phủ về 2 dự án khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ huyện Gia Lâm và huyện Thanh Trì các cơ quan tham mưu của Uỷ ban nhân dân thành phố cùng phối hợp với Uỷ ban nhân dân các huyện xúc tiến lập dự án tiền khả thi từ cuối năm 1997.Ngày 21/4/1998 Uỷ ban nhân dân Thành phố gửi công văn số 1013/UB-KHĐT thì gần 6 tháng sau ngày 15/10/1998 thành phố Hà Nội mới nhận được công văn của Thủ tướng đồng ý về mặt chủ trương cho phép xây dựng thí điểm 2 khu công nghiệp nêu trên. Như vậy với các thủ tục và cơ chế xét duyệt, cho ý kiến, kính chuyển của nhiều cơ quan chức năng, các cấp quản lý vĩ mô như hiện nay, để có được quyết định đầu tư dự án khu, cụm công nghiệp kéo dài gần 2 năm là quá chậm, không cần thiết. Cần rút ngắn thời gian ra quyết định đầu tư cho dự án.
- Các ngành chức năng, tham mưu cần tăng cường trách nhiệm trong công tác thẩm định xét duyệt dự án để rút ngắn thời gian ra quyết định đầu tư cho dự án khu-cụm CNV&N.
Về cơ chế cấp, giao đất, quyết định phương án đền bù, giải phóng mặt bằng diện tích đất cho xây dựng khu-cụm CNV&N. Đề tài kiến nghị:
Thủ tướng Chính phủ sau khi phê duyệt qui mô diện tích phát triển khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, uỷ quyền cho Uỷ ban nhân dân thành phố trực tiếp giao quyền sử dụng đất để xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho đơn vị xây dựng tầng KCN tiến hành các thủ tục cần thiết hiệu quả.
UBND thành phố Hà Nội trực tiếp quyết định các dự án đầu tư kinh doanh trong khu công nghiệp thì cũng đồng thời là cấp giao quyền sử dụng đất cho từng lô đất cho các chủ đầu tư kinh doanh trong khu-cụm CNV&N. Thành phố là cấp quyết định phương án đền bù cho diện tích đất xây dựng khu công nghiệp. Để thực hiện nhanh gọn công tác giải phóng mặt bằng cho diện tích xây dựng khu công nghiệp, cần phân định rõ trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các huyện có dự án và các ban ngành có liên quan của Thành phố. Tổ chức xong công tác giải phóng mặt bằng trước khi giao đất cho đơn vị triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp.
ã Sửa đổi cơ chế xét duyệt và cấp phép đầu tư, xây dựng của thành phố cho các dự án đầu tư kinh doanh bên trong khu công nghiệp theo hướng "một cửa'
Các ngành chức năng của thành phố cần rút ngắn thời gian thẩm định dự án đầu tư và có sự phối hợp đồng bộ chặt chẽ với nhau để giúp UBND thành phố có quyết định sớm nhất cho các nhà đầu tư.
* Về cơ chế huy động vốn và trách nhiệm đầu tư các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
Kinh nghiệm rút ra từ việc triển khai xây dựng và đưa vào vận hành 2 khu công nghiệp vừa và nhỏ huyện Thanh Trì và huyện Gia Lâm đã cho thấy đây là dự án khu công nghiệp có diện tích nhỏ, tổng vốn đầu tư từ khâu chuẩn bị đầu tư và xây dựng hạ tầng kỹ thuật không lớn như những khu công nghiệp có qui mô lớn trên địa bàn. Mặt khác đây là những mô hình thí điểm cần được tập trung đầu tư dứt điểm để có thể vận hành khai thác rút kinh nghiệm.Vì vậy, thành phố đã tập trung ưu tiên nguồn vốn ngân sách để đảm bảo vốn chi cho khâu lập dự án, chuẩn bị đầu tư và xây dựng hạ tầng ngoài hàng rào, vốn xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật dùng cho bên trong khu công nghiệp (đường vận chuyển, hệ thống điện, cấp nước, thoát nước, san nền...). Còn lại các chủ đầu tư tự lo huy động các nguồn vốn cho xây dựng các nhà máy bên trong.
Đối với các khu- cụm CNV&N được xây dựng những năm tiếp theo sau khi đã thí điểm thành công mô hình khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ: ngoài học tập theo cách huy động vốn trên thì nên tiến hành tiếp bước sau. Nếu nhà đầu tư thuê đất góp vốn ngay từ đầu để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật dùng chung cho khu công nghiệp thì có thể thí điểm hình thành công ty cổ phần xây dựng kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó, một phần vốn đầu tư của ngân sách và một phần vốn của các nhà đầu tư thuê đất kinh doanh trong khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
- Về phương án đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp cho mỗi khu công nghiệp.
Cần tham khảo ý kiến trực tiếp của các nhà đầu tư có nhu cầu thuê đất khu công nghiệp sau này để xây dựng phương án đầu tư hạ tầng có mức độ hoàn thiện hợp với khả năng thuê của các nhà đầu tư. Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Thành uỷ và Uỷ ban nhân dân Thành phố là giảm thiểu các chi phí để có suất đầu tư nhỏ nhất, tạo khả năng thu hút mạnh các nhà đầu tư.
Về phương án thiết kế hạ tầng kỹ thuật bên trong mỗi khu công nghiệp cần lựa chọn phương án có cơ cấu vừa đảm bảo tính đồng bộ giữa các hạng mục công trình hạ tầng bộ phận, vừa đảm bảo được tính thống nhất cho toàn bộ hệ thống hạ tầng của khu công nghiệp. Phương án thiết kế cần chỉ rõ những hạng mục công trình hạ tầng bộ phận nào bắt buộc phải đầu tư xây dựng ngay từ giai đoạn đầu hình thành khu công nghiệp. Những hạng mục công trình bộ phận nào có thể xây dựng tiếp theo phù hợp với tiến độ thuê đất của các nhà trong khuôn viên khu công nghiệp.
- Về tổ chức quản lý đầu tư phát triển các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
Trước mắt đối với các dự án khu công nghiệp vừa và nhỏ đã được thẩm định, phê duyệt đi vào xây dựng hạ tầng kỹ thuật tại các huyện ngoại thành Hà Nội, Uỷ ban nhân dân Thành phố giao cho Uỷ ban nhân dân các huyện thực hiện chức năng đại diện chủ đầu tư, thành lập ban quản lý dự án để trực tiếp giải quyết các công việc có liên quan ở bước chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho các khu công nghiệp vừa và nhỏ.
2. Những kiến nghị về chính sách ưu đãi cho đầu tư phát triển các khu-cụm CNV&N.
- Hà Nội nên kiến nghị với Chính phủ giảm giá thuê đất, thậm chí miễn tiền thuê đất mà chỉ trả phí xây dựng.
-Đối với những doanh nghiệp mới thành lập hoặc nghiên cứu sản phẩm xây dựng, nên nghiên cứu hoặc miễn hoặc giảm thuế lợi tức trong vòng 2-3 năm, các cơ sở này sẽ được xem xét giảm khoảng một nửa thuế lợi tức trong một, hai hoặc 3 năm tiếp theo. Đối với cơ sở đầu tư đổi mới công nghệ có thể nâng thời gian miễn thuế lợi tức.
Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xây dựng cần được giảm hoặc miễn thuế, được ưu tiên cấp tín dụng, cấp tín dụng cho vay với lãi suất thấp hơn bình thường.
- Có chính sách thưởng phạt rõ ràng khi đã có chính sách của Thành phố về thực hiện thành lập các khu, cụm công nghiệp ở khu vực ngoại thành và chính sách bắt buộc di chuyển ra khỏi nội thành đối với các doanh nghiệp. Khuyến khích những doanh nghiệp chấp hành đúng pháp luật và các quy định của nhà nước và Thành phố.
- Có cơ chế chính sách ưu đãi cho việc tuyển dụng lao động nông nghiệp ở khu vực ngoại thành gần các khu công nghiệp, nơi nông dân bị mất đất sản xuất nông nghiệp cho xây dựng các khu công nghiệp.
- Phát triển hệ thống thương mại, dịch vụ tốt tại các khu vực xây dựng các khu công nghiệp mới.
- ưu đãi về chính sách khoa học- công nghệ cho các KCNV&N.
- Chính sách ưu tiên về đào tạo lực lượng lao động cung ứng cho khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
3. Những kiến nghị về chính sách hỗ trợ phát triển các khu-cụm CNV&N trên địa bàn Thành phố:
Kiến nghị Chính phủ thể chế hoá các chính sách hỗ trợ các DNV&N hoạt động trong các KCN của địa phương (nhất là các chính sách về đất đai, tài chính, thuế, xuất nhập khẩu, đào tạo công nhân ...) bằng cách bổ sung và hoàn chỉnh Luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Thành phố có quan điểm: không coi việc hỗ trợ các doanh nghiệp là quay lại chế độ “bao cấp” mà là để phát triển sản xuất kinh doanh nuôi nguồn thu chủ yếu của ngân sách và cơ chế hỗ trợ phải đến trực tiếp các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, ưu tiên các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp chủ lực của Thành phố.
Ngoài các cơ chế hỗ trợ hiện nay đang thực hiện, Thành phố cần hỗ trợ thêm việc xây dựng HTKT chung trong hàng rào các khu-cụm công nghiệp (đường giao thông nội bộ, thoát nước, xử lý nước thải, cây xanh và một số công trình công cộng khác) từ ngân sách của Thành phố để chia xẻ khó khăn về vốn đầu tư cuả các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp chỉ đầu tư các công trình nhà xưởng của doanh nghiệp.
IV. Mô hình quản lý tối ưu sau đầu tư:
Khi khu công nghiệp xây dựng hạ tầng kỹ thuật chung xong hoàn chỉnh đi vào vận hành. Thành phố giao cho Sở Công nghiệp Hà Nội là đầu mối thực hiện quản lý Nhà nước như các chủ kinh doanh doanh nghiệp khác. Không cần thiết phải lập Ban quản lý riêng trong công việc vận hành các khu-cụm công nghiệp vừa và nhỏ vì qui mô của cả một khu công nghiệp và qui mô của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đều rất nhỏ. Khác với các đối tượng đầu tư kinh doanh trong những khu công nghiệp có qui mô lớn trên địa bàn.
Thực hiện theo mô hình này sẽ tiết kiệm được khoản chi phí tiền lương thuê nhân sự điều hành khu công nghiệp riêng cho từng khu công nghiệp. Tiết kiệm nhân sự đồng thời giảm thiểu sự cồng kềnh, phức tạp, chồng chéo về chức năng của ban quản lý khu công nghiệp (nếu được thành lập) với các Sở, Ban, Ngành.
Giao cho Sở Công nghiệp sẽ tập trung quản lý khu công nghiệp vào một mối.Thuận tiện cho Thành phố trong việc quản lý Nhà nước khu công nghiệp. Và thúc đẩy việc vận hành tối ưu sau đầu tư của các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
Kết luận
Các khu công nghiệp Hà Nội không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp mà còn cùng với việc phát triển các khu đô thị mới, hình ảnh một Thủ đô văn minh và hiện đại cũng được hình thành. Hiệu quả hoạt động của đầu tư nước ngoài nói chung và các doanh nghiệp hoạt động trong nước tại các khu công nghiệp nói riêng đã đóng vai trò tích cực trong việc phát triển kinh tế xã hội của Thành phố. Thành phố đã quy hoạch công nghiệp đến năm 2020, trong đó tiếp tục định hướng phát triển các khu-cụm CNV&N. Đầu tư phát triển các khu, cụm công nghiệp vừa và nhỏ là hướng đi đúng đắn của Đảng, Nhà nước và Thành uỷ đã và đang thu được những kết quả và hiệu quả ban đầu. Vấn đề thiết yếu là phải cụ thể hoá được các định hướng, các chính sách hỗ trợ khuyến khích đã được khẳng định thành các chương trình, giải pháp cụ thể. Và khi đã đề ra được hướng đi hợp lý thì cần phải quán triệt từ trên xuống dưới, thi hành đúng theo hướng đã lựa chọn.
Những vấn đề nêu ra trong đề án chính là thực trạng bức xúc hiện nay. Là việc đầu tư phát triển các khu-cụm CNV&N-giải quyết nhu cầu về mặt bằng sản xuất cho các nhà đầu tư trong nước đồng thời di dời một số nhà máy gây ô nhiễm ra khỏi nội thành giữ môi sinh cho Thủ đô vốn đã chật hẹp và bụi bặm.
Tỷ lệ lấp đầy 100% ngay khi còn nằm trong dự án là một con số đáng mừng. Tuy nhiên thách thức lớn nhất của các khu-cụm CNV&N hiện nay vẫn là công tác giải phóng mặt bằng. Thực tế thời gian qua cho thấy nhiều dự án đầu tư vào những khu công nghiệp này đang phải nằm chờ đất để triển khai. Tuy mức doanh thu của các không cao hơn so với các khu công nghiệp tập trung nhưng cùng với sự phát triển của khu-cụm CNV&N cũng mở ra những tiềm năng không nhỏ thu hút các nguồn vốn đầu tư trong nước.
Đề tài cũng đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm làm cho việc đầu tư phát triển các khu-cụm CNV&N trên địa bàn Thành phố thêm hoàn thiện. Xong do kinh nghiệm của một sinh viên còn nhiều hạn chế, chắc chắn chưa thể sẽ không thể tránh được những thiếu sót. Em kính mong Cô giáo lưu tâm giúp đỡ em hoàn thành tốt hơn đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Mục lục
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế Đầu tư-PGS, TS Nguyễn Ngọc Mai.
2. Các khu chế xuất Châu á-Thái Bình Dương và Việt Nam-Ban quản lý KCN Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội, 1998.
3. Tạp chí kinh tế phát triển
4. Tạp chí thương mại
5. Một số thông tư hướng dẫn của các Bộ.
6. Hiến pháp, một số Luật, Nghị định của Nhà nước Việt Nam.
7. Báo cáo kinh tế Việt Nam 1999.
8. Tài liệu hội thảo về phát triển kinh doanh ở Việt Nam, tháng 4-2000
9. Các tập kỷ yếu về DNV&N.
10. Niên giám thống kê các năm 1997, 1998, 1999, 2000
11.Các báo cáo trong buổi gặp mặt của thủ tướng Chính phủ với các nhà doanh nghiệp được tổ chức tại Thành phố HCM (3/2000).
12. Khung chính sách xã hội trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, nhà xuất bản thống kê 1999 (Lê đăng Doanh, Nguyễn minh Tú).
13. Dự thảo báo cáo điều tra doanh nghiệp (Hà Nội 5/1999).14. Một số bài báo tham khảo được rút ra từ báo đầu tư, thời báo kinh tế, lao động, hải quan, tài chính…
15. Nghiên cứu-khảo sát lập căn cứ xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn huyện. (UBND Thành phố Hà Nội).
16. Báo " Kinh tế & Đô thị" (số 46-thứ tư-16/4/2003).
17. Thời báo "Kinh tế Việt Nam"(số 58- thứ sáu-11/4/2003) .
18. Tài liệu về "định hướng phát triển các khu, cụm công nghiệp, khu công nghiệp chế xuất của cả nước đến 2010" UBKH Nhà nước viện kế hoạch dài hạn và phân bố lực lượng sản xuất.
19. Một số vấn đề về tình hình phát triển khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp, làng nghề trên địa bàn một số tỉnh.
20. Báo cáo Thường trực HĐND về làm việc tại Ban quản lý các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội ngày 31/12/2001.
21. Bài tham luận hội thảo "Một số ý kiến về quan điểm, mục tiêu và định hướng cần thiết phát triển các khu công nghiệp ở Hà Nội đến năm 2010 (UBND Thành phố Hà Nội, Viện nghiên cứu kinh tế-xã hội Hà Nội).
22. Khảo sát thực tế các khu-điểm công nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
23. Kinh nghiệm của thế giới về phát triển Khu chế xuất và đặc khu kinh tế-NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
24. Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát triển kinh tế xã hội Hà Nội thời kỳ 2001-2010. Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội.
-Một số Tài liệu khác.
Phần phụ lục
Đề xuất các cơ chế chính sách hổ trợ
khu- cụm công nghiệp
Căn cứ Nghị quyết 15/NQ ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh Thủ đô số 29/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/12/2000 của Thường vụ Quốc hội.
Sau khi tham khảo một số cơ chế chính sách ưu đãi khu, cụm công nghiệp ở một số tỉnh thành phố. Sở KH & ĐT đề suất các cơ chế chính sách hỗ trợ chung áp dụng cho các khu, cụm công nghiệp như sau:
1/ Thời gian thuê đất cho các doanh nghiệp là 50 năm.
2/ DN được cấp giấy chứng nhận quyền xử dụng đất (sổ đỏ).
3/ Hỗ trợ 100% kinh phí đền bù GPMB ngoài hàng rào và kinh phí xây dựng HTKT.
- Ngân sách hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng đường trục chính trong khu, cụm công nghiệp. (hiện nay là hỗ trợ phần hạ tầng chung trong hàng rào)
- Ngành nước cấp nước đến khu, cụm công nghiệp heo hợp đồng kinh doanh. Cho phép các doanh nghiệp thực hiện dự án theo hình thức BOT đối với các lĩnh vực cấp , thoát nước, sử lý thu gom rác thải công nghiệp.
- Ngành điện cấp điện đến từng doanh nghiệp theo hợp đồng kinh doanh.
4/ Miễn thuế tiền thuê đất cho các doanh nghiệp như quy định tại NĐ 51 (3 năm đối với dự án đáp ứng 1đ/k, 6 năm đối với dự án đáp ứng 2 đ/k. Nếu có thể thời gian miễn giảm gấp 2 lần NĐ51. Nếu doanh nghiệp nộp tiền thuê đất 1 lần cho cả thời gian thuê sẽ được giảm 20%; nếu nộp tiền thuê đất từ 25 năm trở lên sẽ được giảm 15%.
- Doanh nghiệp đầu tư vào khu, cụm công nghiệp được miễn 4 năm và giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho 2 năm tiếp theo.
5/ Doanh nghiệp được hỗ trợ 50% kinh phí đào tạo theo dự án được duyệt.
6/ Hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương mại: hỗ trợ 100% kinh phí hoặc kinh phí thuê gian hàng triển lãm; hỗ trợ 50% chi phí xúc tiến thương mại.
7/ Công ty phát triển hạ tầng được miễn tiền thuê đất trong suốt quá trình thực hiện dự án.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0004.doc