LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là một công cụ quan trọng của Nhà nước, nó vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, vừa là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để sử dụng hiệu quả công cụ thuế, về cơ bản hệ thống chính sách Thuế gồm có thuế gián thu và thuế trực thu.
- Thuế gián thu như thuế GTGT, Thuế Tiêu thụ đặc biệt, thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu.
- Thuế trực thu như thuế Thu nhập cá nhân (TNCN), Thuế Thu nhập doanh nghiệp.
Theo thông lệ của các quốc gia, Thuế trực thu sẽ chiếm tỷ trọng lớn, ngược lại, giảm dầnThuế gián thu. Việt Nam đang bước vào hội nhập sâu, rộng với kinh tế quốc tế và tiến trình chuyển đổi dần cơ cấu tỷ trọng tăng dần của các sắc Thuế trực thu đang là xu hướng tất yếu.
Thuế Thu nhập cá nhân cũng đóng một vai trò đáng kể trong nguồn thu ngân sách và là nghĩa vụ của tất cả những người lao động trên lãnh thổ Việt Nam. Thuế Thu nhập cá nhân điều tiết thu nhập cá nhân, thể hiện rõ nghĩa vụ của công dân đối với đất nước và được căn cứ trên các nguyên tắc: lợi ích, công bằng và khả năng nộp thuế.
Trong thời gian qua cùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế, thu nhập của các tầng lớp dân cư cũng tăng lên đáng kể, thu nhập giữa nhóm người có thu nhập cao và nhóm người có thu nhập thấp cũng có xu hướng ngày càng tăng. Đối tượng nộp Thuế TNCN và hình thức thu nhập của các bộ phận dân cư và người lao động cũng đa dạng. Trong những năm tới, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010, các thị trường tài chính, tiền tệ, vốn, lao động sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn. Nền kinh tế sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có cơ hội đầu tư, sản xuất kinh doanh, có thêm nguồn thu nhập khác nhau. Bên cạnh đó, cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, một số người nước ngoài làm ăn sinh sống tại Việt Nam và số người Việt Nam có thu nhập từ nước ngoài cũng tăng lên.
Sự đa dạng và gia tăng thu nhập của các cá nhân trong xã hội sẽ làm cho khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày càng lớn. Với tình hình đó, ta có thể thấy Thuế Thu nhập cá nhân ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Mặc dù, Thuế TNCN đã được đưa vào áp dụng ở Việt Nam từ năm 1991 với tên gọi
“Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao”, song từ khi Luật thuế TNCN được ban hành và đi vào thực tiễn, Luật thuế này vẫn chưa thu hút sự đồng thuận của đại đa số người dân, ngay cả trong thành viên Quốc hội, có đến 115 đại biểu (chiếm 35,09%) không tán thành với mức khởi điểm phải chịu thuế này và mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc. Đặc biệt trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, lạm phát tại Việt Nam tháng 10/2009 tăng 23,15% so với cùng kỳ năm ngoái, thì để nhận được sự ủng hộ của người dân quả là điều không dễ. Ngoài ra, khi triển khai Luật thuế TNCN vào thực tiễn đã bước đầu gặp những vướng mắc nhất định như các văn bản hướng dẫn quyết toán còn chồng chéo, chưa bao quát hết đối tượng nộp thuế dẫn đến bỏ xót doanh thu, tình trạng trốn thuế diễn ra khá phổ biến, phức tạp và khó kiểm soát do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan.
Xuất phát từ thực tế, trên giác độ quản lý để góp phần đẩy mạnh công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân và tăng ngân sách nhà nước, nên em đã chọn nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng quản lý thuế Thu Nhập Cá Nhân tại Chi cục Thuế Quận 2”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Với mục tiêu khái quát lại các vấn đề liên quan đến Luật thuế TNCN mà tôi đã được học, cũng như tìm hiểu thêm công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Chi cục Thuế Quận 2 từ khi Luật thuế TNCN có hiệu lực, những khó khăn, tồn tại chủ quan lẫn khách quan mà các cơ quan quản lí thuế gặp phải, qua đó có một số đề xuất nhằm tìm ra những tồn tại và nguyên nhân trong công tác quản lí hiện nay đồng thời đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là thực trạng quản lý thuế TNCN tại Chi cục Thuế Quận 2.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài từ khi Luật thuế TNCN có hiệu lực ngày 01/01/2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu là phương pháp phân tích và tổng hợp, các phương pháp định tính dựa trên cơ sở nguồn dữ liệu thứ cấp thu thập từ tài liệu tạp chí chuyên ngành và báo cáo thống kê chuyên ngành tài chính, thuế.
5. Những đóng góp khoa học của đề tài
- Hệ thống hoá các vấn đề lý thuyết về công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân.
- Trình bày thực trạng quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Chi cục Thuế Quận 2 từ khi Luật thuế TNCN có hiệu lực ngày 01/01/2009.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Chi cục Thuế Quận 2.
6. Kết cấu của khoá luận tốt nghiệp
- Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn sẽ được trình bày thành 3 chương như sau:
Chương 1: Lý luận cơ bản về quản lý thuế TNCN
Chương 2: Thực trạng quản lý thuế TNCN tại Chi Cục Thuế Quận 2
Chương 3: Các giải pháp chống thất thu thuế TNCN tại Chi Cục Thuế Quận 2
101 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3779 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng quản lý thuế Thu Nhập Cá Nhân tại Chi cục Thuế Quận 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lý thu thuế. Đây cũng là những yêu cầu cơ bản của quá trình quốc tế hóa hệ thống chính sách thuế trong điều kiện hội nhập kinh tế ở nước ta hiện nay và trong những năm tới.
Để đáp ứng các mục tiêu, yêu cầu nêu trên, đảm bảo phù hợp với trào lưu cải cách thuế ở các nước trên thế giới và điều kiện kinh tế - xã hội đất nước trong giai đoạn mới, định hướng thiết kế chính sách thuế thu nhập cá nhân trong giai đoạn mới cần tập trung vào những vấn đề sau:
- Mở rộng phạm vi đối tượng chịu thuế và thu nhập chịu thuế kết hợp đồng thời với việc quy định các khoản miễn giảm, khấu trừ một cách hợp lý, đảm bảo các yêu cầu động viên nguồn thu cho ngân sách nhà nước và tính công bằng của chính sách thuế.
- Xây dựng một cấu trúc bậc thuế và thuế suất phù hợp với cấu trúc phân bố thu nhập và mức thu nhập của các tầng lớp dân cư, đảm bảo các yêu cầu động viên nguồn thu cho ngân sách nhà nước và tính hiệu quả của chính sách thuế, phù hợp với khả năng nộp thuế của đối tượng nộp thuế và đảm bảo không ảnh hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất - xã hội.
- Đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả các phương pháp kê khai, thu nộp thuế với những biện pháp khuyến khích hợp lý và các giải pháp phù hợp nhằm tăng cường tính khả thi của chính sách thuế, góp phần nâng cao hiệu quả và thúc đẩy hiện đại hóa công tác quản lý thu thuế.
3.2 Các giải pháp chống thất thu thuế TNCN tại Chi Cục Thuế Quận 2
Trong bối cảnh nước ta đã là thành viên của WTO, hướng tới mục tiêu sau ngày 31/12/2018 thực sự trở thành nước có nền kinh tế thị trường với những cam kết về giảm tỉ trọng thuế gián thu, tăng tỉ trọng thuế trực thu thì có thể khẳng định đây là đạo luật tiến bộ, là cơ sở quan trọng để đổi mới cơ cấu thu ngân sách, hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt, Luật này đánh dấu bước ngoặt trong việc hoàn thiện hệ thống thuế thu nhập ở Việt Nam: thu nhập của cá nhân (kể cả cá nhân kinh doanh) được điều chỉnh bởi Luật thuế TNCN, thu nhập của doanh nghiệp được điều chỉnh bởi Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, mục tiêu của Luật thuế này cũng nhằm tiến tới đảm bảo công bằng xã hội, tạo điều kiện cho mọi người bình đẳng về nghĩa vụ thuế đối với đất nước, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, điều tiết thu nhập trong xã hội. Tuy nhiên, vấn đề đảm bảo tính khả thi của Luật thuế TNCN trong thực tiễn luôn là điều khó, bởi xuất phát từ tính đặc thù của thuế TNCN – thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập của mỗi cá nhân, khó thu và khó kiểm soát. Phần này đề cập một số vấn đề cần phải làm trong thời gian sắp tới để hoàn thiện Luật thuế TNCN.
Giải pháp 1: Về vấn đề quyết toán thuế năm thứ nhất đối với cá nhân cư trú là người nước ngoài đến công tác tại Việt Nam sau ngày 31/1/2008 và kéo dài đến năm 2009, đề nghị tách thời gian quyết toán làm hai thời kỳ là 2008 và 2009 vì mỗi năm áp dụng một văn bản luật khác nhau; theo đó thu nhập tính thuế bình quân tính theo số thực thu nhập theo thời gian của từng năm, không nên chia đều cho 12 tháng vì phương pháp tính thu nhập chịu thuế của Pháp lệnh thuế thu nhập cao và Luật Thuế TNCN khác nhau.
Giải pháp 2: về quy định thuế thu nhập đối với chứng khoán
Chứng khoán là loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường chứng khoán đang dần trở nên thân thuộc đối với người dân Việt Nam. Tuy nhiên, không phải vì thế mà đối với các loại thuế đánh vào chứng khoán dễ thu (bao gồm thuế đánh vào thu nhập do sở hữu chứng khoán, thuế chuyển nhượng chứng khoán, thuế đánh vào giao dịch chứng khoán, thuế tài sản ròng). Loại thuế này mặc dù đã xuất hiện ở Anh từ thế kỉ XVII khi mà việc chuyển nhượng cổ phiếu được thực hiện trên giấy tờ và phải có con dấu của chính quyền nhưng ở Việt Nam đây là loại thuế hoàn toàn mới. Xét về mặt tâm lí, nhà đầu tư trong giai đoạn hiện nay hoàn toàn không “tâm phục, khẩu phục” khi nộp loại thuế này. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay trong thời kì quá non trẻ, số lượng người dân tham gia thị trường còn quá ít và chủ yếu là ở các thành phố lớn. Vả lại, thị trường chứng khoán cũng chỉ thực sự sôi động vào năm 2006. Còn tại thời điểm hiện nay, thị trường lên xuống thất thường chứa đựng nhiều rủi ro… Hơn nữa, thu nhập hay việc “giàu lên” ở thị trường chứng khoán Việt Nam cũng không phải dễ dàng, bởi lẽ thị trường luôn chịu sự quản lí, điều tiết chặt chẽ của Nhà nước, nhiều lúc đến mức không cần thiết. Vì vậy, những nhà đầu tư chứng khoán “thực thụ” hiện rất ít mà chủ yếu họ ăn theo các đại gia, lướt sóng theo từng thời vụ. Thực tế đã chứng minh, “chơi” chứng khoán ở Việt Nam không phải lúc nào cũng có lãi nhưng luật lại không cho phép được bù lỗ (trong khi đó các nước, ví dụ Mỹ cho phép khấu trừ lỗ). Đây là điểm bất cập và tạo ra tâm lí không thoả đáng khi nộp thuế thu nhập đối với chuyển dịch chứng khoán. Không những thế, khó có thể đánh thuế thu nhập từ các giao dịch chứng khoán trao tay và chủ yếu bằng tiền mặt trên thị trường tự do, bởi lẽ rất khó kiểm soát. Có thể nói việc đánh thuế vào chứng khoán sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của thị trường chứng khoán, dẫn đến việc các nhà đầu tư có thể sẽ không tham gia thị trường giao dịch tập trung, làm cho thị trường bị suy thoái. Vì vậy để nuôi dưỡng thị trường này, đề nghị Chính phủ hướng dẫn lộ trình nhất định để có thể thu được loại thuế này, đảm bảo điều tiết thu nhập hợp lí.
Giải pháp 3: về tổ chức đăng ký, cấp mã số thuế
Luật thuế TNCN chỉ khả thi khi công nghệ thông tin và các biện pháp quản lý thuế hiện đại được áp dụng.
Hiện nay việc đăng ký, cấp mã số thuế TNCN tại Quận 2 được thực hiện thông qua trang thông tin điện tử do Bộ Tài Chính thiết lập năm 2009. Tuy nhiên trang thông tin điện tử này không có chức năng đăng ký, cấp mã số thuế cho cá nhân tự do – không làm ở bất cứ tổ chức chi trả nào, cho hộ kinh doanh. Trong thời gian sắp tới hy vọng Bộ Tài Chính sẽ bổ sung thêm hai chức năng nêu trên vào trang thông tin điện tử, việc bổ sung này sẽ giúp cho người nộp thuế không phải đến trực tiếp cơ quan thuế để đăng ký cấp mã số thuế, người nộp thuế chỉ cần một máy vi tính có nối mạng internet là có thể đăng ký được mã số thuế, thậm chí người Việt Nam định cư ở nước ngoài muốn đăng ký mã số thuế ở Việt Nam cũng có thể đăng ký được trong trường hợp họ muốn về Việt Nam để làm ăn. Bên cạnh đó việc bổ sung thêm hai chức năng này sẽ giúp cho người nộp thuế không phải mất nhiều thời gian để đến cơ quan thuế, công sức và những chi phí khác liên quan đến việc đăng ký cấp mã số thuế.
Giải pháp 4: về đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức thuế
Để Luật thuế TNCN có thể đi sâu vào quần chúng nhân dân sao cho bất cứ người dân nào cũng có thể biết, hiểu và vận dụng một cách linh hoạt có như thế thì Luật thuế TNCN mới được xem là có hiệu quả. Muốn như vậy thì Chi cục Thuế Quận 2 cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức thuế,
Chỉ đạo các đơn vị thuộc và trực thuộc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và hiện đại hóa công tác quản lý thuế theo Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg ngày 06 tháng 12 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010.
Phối hợp với các sở - ngành liên quan để tuyên truyền phổ biến chính sách thuế TNCN đến từng nhà, từng người dân nhầm thực hiện có hiệu quả Luật Thuế thu nhập cá nhân tại Quận 2.
Chủ động phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, các tổ chức cá nhân chi trả thu nhập để tổ chức việc đăng ký thuế cho tất cả cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng có thu nhập thuộc diện chịu thuế.
Chủ động đề xuất xây dựng quy chế phối hợp, cung cấp thông tin giữa cơ quan thuế với các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực: nhà đất, lao động, xuất nhập cảnh, ngân hàng, giao dịch chứng khoán và Kho bạc để phục vụ công tác quản lý thuế.
Tổ chức tập huấn kỹ nghiệp vụ quản lý thuế thu nhập cá nhân cho cán bộ, công chức thuế, các tổ chức chi trả thu nhập. Tổ chức bộ phận hỗ trợ các cơ quan chi trả thu nhập, các cá nhân trong việc kê khai, tính thuế; hướng dẫn, giải đáp thắc mắc về chính sách, pháp luật, thủ tục hành chính về thuế thu nhập cá nhân.
Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Cục Thuế thành phố và Chi cục Thuế các quận - huyện; tăng cường bố trí cán bộ có trình độ chuyên môn, có phẩm chất đạo đức tốt thực hiện quản lý thuế thu nhập cá nhân. Kiến nghị Tổng cục Thuế tăng cường đầu tư thiết bị và các phần mềm ứng dụng để phát huy ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đối tượng nộp thuế và thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân.
Giải pháp 5: về việc hướng dẫn kê khai, quyết toán và nộp thuế TNCN
Để khắc phục tình trạng này và ngày càng hoàn thiện thêm trong việc kê khai thuế TNCN, Cục Thuế và các Chi cục Thuế đã kiến nghị với Tổng Cục Thuế trong việc điều chỉnh trang thông tin điện tử như sau: Cần phải bổ sung thêm chức năng nộp tờ khai thuế TNCN tạm tính tháng, quý; Chỉ nên nộp tờ khai quyết toán thuế TNCN qua mạng là đủ không cần phải đến cơ quan thuế để nộp tiếp hồ sơ quyết toán thuế TNCN một lần nữa. Khi đến thời điểm kê khai thuế TNCN, người nộp thuế chỉ cần nộp tờ khai thuế TNCN qua mạng. Cán bộ thuế sẽ vào trang thông tin điện tử này để duyệt tờ khai mà người nộp thuế đã kê khai và phúc đáp lại bằng một văn bản có chữ ký số, đóng dấu của người đứng đầu cơ quan thuế, văn bản này làm cơ sở tranh luận khi xảy ra tình trạng thất lạc tờ khai.
Sau khi đã điều chỉnh trang thông tin điện tử Cục Thuế Thành Phố Hồ Chí Minh sẽ chỉ đạo các Chi cục Thuế quận huyện thực hiện tuyên truyền những tính năng ưu việt của trang thông tin điện tử và những thuận lợi khi kê khai thuế TNCN qua mạng để người nộp thuế có lòng tin khi nộp tờ khai qua mạng. Cục Thuế cũng ra chỉ tiêu cho các Chi cục Thuế quận huyện, sau khi đã chỉnh sửa hoàn chỉnh trang thông tin điện tử thì một năm sau các Chi cục Thuế phải làm sao huy động tất cả người nộp thuế TNCN phải kê khai qua mạng nếu không đạt được kế hoạch sẽ bị trừ điểm thi đua.
Ngoài ra cũng cần phải điều chỉnh thêm một số chỉ tiêu trên tờ khai thuế TNCN như sau:
- Kê khai thuế TNCN: Việc kê khai thuế TNCN được thực hiện thông qua các mẫu tờ khai do Bộ Tài Chính ban hành. Tuy nhiên một số mẫu tờ khai các chỉ tiêu kê khai còn thiếu hoặc không phù hợp. Do vậy cần phải bổ sung thêm các chỉ tiêu trên tờ khai còn thiếu và điều chỉnh các chỉ tiêu trên tờ khai không phù hợp, việc điều chỉnh này sẽ giúp cho cán bộ thuế quản lý tốt hơn về thu thuế TNCN như đôn đốc thu nộp, xử lý việc chậm nộp, phân tích, khai thuế đánh giá việc khai theo luật định.
Ví dụ: Về “Bảng kê thu nhập và tính thuế TNCN dùng cho cá nhân có thu nhập từ lương, tiền công phải khấu trừ thuế - ký hiệu 02A/BK-TNCN” tại tờ khai thuế TNCN số 02/BK-TNCN, đề nghị bổ sung thêm các chỉ tiêu phản ánh gồm: Tên đối tượng nộp thuế; mã số thuế; tổng thu nhập (thu nhập nhận tại Việt Nam: lương, thưởng, thu nhập khác; thu nhập nhận ở nước ngoài); giảm trừ gia cảnh; các khoản được trừ (BKXH, BHYT, chi cho hoạt động từ thiện khác); thu nhập tính thuế; thuế thu nhập phải khấu trừ. Từ các thông tin của bảng kê này sẽ giúp cơ quan thuế đánh giá, phân tích được thu nhập (nhất là thu nhập của người nước ngoài) việc kê khai, khấu trừ thuế của từng cá nhân.
Với tờ khai quyết toán thuế TNCN, mẫu số 05/KK-TNCN, phần A thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân có ký hợp đồng lao động cần thiết phải sửa chỉ tiêu 6 thành “Tổng số thuế thu nhập phải khấu trừ”, bổ sung thêm các chỉ tiêu: Chỉ tiêu 7: số thuế nộp thuế hoặc thừa năm trước chuyển sang; Chỉ tiêu 8: số thuế đã nộp ngân sách trong năm; Chỉ tiêu 9: số thuế nộp thiếu hoặc thừa chuyển năm sau.
Nguyên do của việc bổ sung các chỉ tiêu trên vì trong thực tế, thu nhập của cá nhân không đều cho mỗi tháng, riêng đối với người nước ngoài, phần thu nhập nhận được ở nước ngoài thường cuối năm mới xác định được chính xác. Vì vậy, hàng tháng các đơn vị chi trả thu nhập thường tạm khấu trừ. Do đó khi quyết toán sẽ phát sinh số thực tế phải khấu trừ thấp hoặc cao hơn số đã nộp ngân sách, dẫn đến phát sinh số nộp thừa, thiếu chuyển năm sau.
Đối với bảng kê 05/BK-TNCN kèm theo tờ khai quyết toán thuế, cần bổ sung thêm các chỉ tiêu sau: Tên đối tượng nộp thuế, mã số thuế; tổng thu nhập (trong đó thu nhập tại Việt Nam (lương, thưởng, thu nhập khác; thu nhập nhận ở nước ngoài); giảm trừ gia cảnh; các khoản được trừ (BHXH, BHYT, chi cho hoạt động từ thiện...); thu nhập tính thuế: thu nhập phải khấu trừ. Với các chỉ tiêu này, cơ quan thuế sẽ nắm chắc được các căn cứ quyết toán thuế của từng đối tượng nộp thuế.
- Quyết toán thuế TNCN: Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế trong việc kê khai quyết toán thuế TNCN một cách nhanh chóng và chính xác, Bộ Tài Chính đã phát hành phần mềm hỗ trợ quyết toán thuế phiên bản 1.2. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng phân mềm đã lộ ra nhiều khuyết điểm cần phải cải tiến như: Điều chỉnh dung lượng cho phép kê khai chi tiết thu nhập từ tiền lương tiền công lên khoảng 600 người; chỉnh sửa phần mềm để cho phép bỏ trong mã số thuế - bởi vì có một vài lao động đến thời điểm quyết toán thuế TNCN vẫn chưa đăng ký kịp mã số thuế nếu không cho phép bỏ trống sẽ không in được, khi đó mới hoàn tất việc kê khai và mới bắt đầu in tờ khai quyết toán ra được.
Việc giảm trừ gia cảnh là một trong những nhân tố quan trọng trong việc quyết toán thuế TNCN. Đây cũng chính là một trong những điểm khác biệt quan trọng trong quản lí thuế thu nhập cá nhân so với thu nhập cao trước đây là ở chỗ thuế thu nhập cao chủ yếu dựa vào đơn vị chi trả thu nhập, không cần quan tâm đến việc giảm trừ gia cảnh. Ngược lại, giảm trừ gia cảnh lại là nội dung quản lí cơ bản theo Luật thuế TNCN. Để quản lí được thu nhập của cá nhân, phải quản lí theo địa bàn cư trú, bởi lẽ, ở địa bàn cư trú mới nắm được gia cảnh của người nộp thuế. Luật quy định cá nhân làm công ăn lương có thu nhập bình quân từ 4 triệu đồng/tháng không phải khai thuế tháng nhưng khi hết năm phải quyết toán thuế và nộp quyết toán thuế với cơ quan thuế tại nơi cư trú chứ không phải nộp vào nơi người đó làm việc. Việc này không phải dễ dàng bởi lẽ có những người cư trú nhưng không có giấy tạm trú và không sống ở nơi đăng kí hộ khẩu.
- Nộp thuế TNCN: Hiện nay việc nộp thuế TNCN chủ yếu nộp bằng tiền mặt, người nộp thuế trực tiếp đến kho bạc gần nhất để nộp thuế, điều này rất bất tiện nếu người nộp thuế ở xa kho bạc. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho nhiều người nộp thuế còn nơ thuế bởi vì người nộp thuế nghĩ rằng Nhà nước thu tiền thuế của họ mà lại để cho họ đi qua xa. Để khắc phục tình trạng này, Bộ Tài Chính nền đề xuất với Chính Phủ giải pháp thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công nói chung và trong ngành thuế nói riêng, cụ thể là thuế TNCN. Nếu giải pháp này được thực hiện, phần nào sẽ giảm bớt số thuế TNCN còn nợ, người nộp thuế có thể thanh toán thuế TNCN ở bất cứ ở đâu có ngân hàng.
Giải pháp 6: về tăng cường thanh tra, kiểm tra thuế
Tăng cường kiểm tra thuế thu nhập cá nhân đối với người nước ngoài
Cơ quan thuế cần tổ chức nhiều cuộc gặp tuyên truyền giải thích về chính sách thuế để người nước ngoài tại Quận 2 tự giác kê khai, nộp thuế thu nhập. Chi cục Thuế Quận 2 nên mời các nhà đầu tư, doanh nhân nước ngoài đến họp để tuyên truyền phổ biến chính sách thuế thu nhập của Việt Nam, nhằm tránh thất thu thuế đối với người nước ngoài tại Quận 2, thông tư 84/2008/TT-BTC do Bộ Tài Chính ban hành quy định rõ: với người nước ngoài được coi là không cư trú tại Việt Nam, thu nhập chiu thuế là tổng thu nhập phát sinh tại Quận 2, không phân biệt nơi nhận thu nhập tại Việt Nam hay nước ngoài. Chi cục Thuế Quận 2 triển khai tích cực công tác vận động, tuyên truyền người nước ngoài tại Quận 2 về Thuế thu nhập cá nhân để họ tự giác kê khai, nộp thuế thu nhập. Nếu như họ không tự giác kê khai thì cơ quan thuế cần kiểm tra và có biện pháp xử lý vi phạm.
Tăng cường kiểm tra thuế thu nhập với giới ca sĩ
- Thu hồi giấy phép với ca sĩ trốn thuế thu nhập cá nhân:
Cuối tháng 11 năm 2009, Cục Thuế TP.HCM đã có cuộc họp phổ biến về nghĩa vụ thuế đối với các ca sĩ, vận động viên trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, có sự tham gia của Bộ Văn hóa - Thông tin. Với các vận động viên, cán bộ thuế không gặp nhiều khó khăn bởi thu nhập của họ hầu hết được lưu giữ tại các sổ gốc của ngành. Còn với các diễn viên, nghệ sĩ, nhất là các ca sĩ, đúng là cho đến hết năm 2009, các Chi cục thuế Quận hầu như chưa thu được đồng thuế nào. Cơ quan quản lý thuế thu nhập mới chỉ đề nghị Bộ Văn hóa - Thông tin sớm có công văn gửi Sở văn hóa các tỉnh, thành phố đốc thúc các ca sĩ khẩn trương kê khai, nhắc nhở các đơn vị tổ chức biểu diễn chuẩn bị xuất trình chứng từ, hóa đơn liên quan đến các chương trình biểu diễn. Ca sĩ thường biểu diễn ở nhiều nơi (cả trong nước và ngoài nước), vậy ngành thuế cần có các biện pháp để biết chính xác được thu nhập của họ bằng cách như sau:
Trước tiên để các ca sĩ tự kê khai theo tờ khai mẫu số 07/KK-TNCN, có bổ sung chi tiết về thu nhập chịu thuế hàng tháng vì đối tượng nộp tờ khai quyết toán năm có thu nhập từ nhiều nơi. Có người thu nhập đến mức chịu thuế, có người thu nhập chưa đên mức chịu thuế; đảm bảo tổng hợp tất cả các nguồn thu để tính đúng thu nhập bình quân tháng. Sau đó căn cứ trên chứng từ, hóa đơn lưu giữ các chương trình biểu diễn để đối chiếu. Với các ca sĩ trong nước đi biểu diễn có thu nhập ở nước ngoài, Chi cục Thuế cần phối hợp với cục xuất nhập cảnh để lấy tên ca sĩ nước đến, số lần đi lưu diễn… Việt Nam đã kí hiệp định thuế với trên 40 nước trên thế giới, Tổng cục thuế sẽ rất thuận lợi trong việc lấy nguồn tin từ bên nước bạn. Tuy nhiên, chúng ta cần mở rộng kí kết hiệp đinh thuế với nhiều nước hơn nữa như Mỹ chẳng hạn.
Ngoài ra ca sĩ hát ở phòng trà, quán bar sẽ khấu trừ 10% thu nhập. Nhưng để chính xác Tổng cục thuế cần tổ chức các cuộc kiểm ta thử một vài phòng trà hoặc rà soát các phòng trà. Sau đó, nếu ca sĩ không kê khai trung thực mức thu nhập của mình, khi bị phát hiện họ sẽ phải nộp phạt với mức cao từ 1 đến 3 lần so với số thuế phải nộp, thậm chí có thể thu hồi giấy phép biểu diễn. Bộ văn hóa Thông tin cũng cần phối hợp với Tổng cục thuế với hình thức xử lý này.
- Rà soát phòng trà để thu thuế thu nhập của ca sĩ:
Chi cục Thuế Quận 2 cần phối hợp với Sở Văn hóa Thông tin kiểm tra gắt gao việc kê khai thu nhập của ca sĩ trên địa bàn.Các phòng trà, quán bar.
Việc đánh thuế thu nhập của các ca sĩ là rất khó. Họ là những người hoạt động tự do, khó kiểm soát, trừ trường hợp ca sĩ có đăng ký với đơn vị tổ chức chương trình. Hiện Chi cục Thuế Quận 2 không thể quản lý được việc thu nhập của giới ca sĩ nên chủ yếu dựa vào các công ty tổ chức biểu diễn để khấu trừ thuế thu nhập. Nếu tiền cát xê cho ca sĩ mỗi lần hát từ 500.000 đồng trở lên thì phải khấu trừ 10% nộp thuế.
Chi cục Thuế Quận 2 cần phải có một đợt kiểm tra nghiêm ngặt hoạt động, thu nhập của ca sĩ bằng cách phối hợp với Sở Văn hóa Thông tin để nắm rõ giấy phép biểu diễn, từ đó mới có thể tính mẫu thuế thu nhập của họ.
Tại các phòng trà, quán bar, ca sĩ thường không có giấy phép biểu diễn nên không thể biết được thu nhập của họ. Do đó, Chi cục Thuế cần kiểm tra chặt chẽ các phòng trà bằng cách nâng thuế phòng trà, quán bar lên, buộc họ phải chứng minh chi phí của mình một cách rõ ràng (như buộc ca sĩ khi nhận tiền cát xê phải có ký nhận). Như thế việc tính biểu mẫu thuế thu nhập đối với ca sĩ sẽ được thực hiện nhanh chóng dễ dàng hơn. Các ca sĩ chịu sự quản lý của đơn vị tổ chức mà không kê khai nộp thuế sẽ bị buộc cấm biểu diễn.
Cần để ý tới thu nhập của họa sĩ
Thuế là nguồn thu quan trọng cho bất cứ quốc gia nào và thuế thu nhập được nhiều nước áp dụng từ rất lâu. Tuy nhiên, ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (Income Tax on high - Income earner) và đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Do kinh tế còn nghèo, thanh toán bằng tiền mặt là hình thức phổ biến và trình độ quản lý còn thấp nên việc thu thuế là rất khó khăn.
Từ khi áp dụng, ngành thuế chỉ trông chờ vào sự tự giác khai báo của các cá nhân, cơ quan, doanh nghiệp nên mức thu còn rất thấp. Thực tế cho thấy nhiều cá nhân có thu nhập rất cao nhưng tuyệt nhiên không đóng thuế vì ngành tài chính không thể kiểm soát được.
Từ trước đến nay, chúng ta chỉ bàn về thuế thu nhập của ca sĩ, vận động viên thể thao, đặc biệt là cầu thủ bóng đá. Cát- xê của ca sĩ có khi tới 10 triệu trong 1 đêm diễn nhưng tuyệt nhiên họ không phải đóng thuế. Song không chỉ có ca sĩ, từ khi đổi mới có họa sĩ bán tranh và thu được tiền tỷ thậm chí cả triệu đôla mà họ cũng chẳng phải đóng thuế. Thực ra lỗi không hoàn toàn thuộc về họa sĩ vì họ chỉ chuyên tâm vào sáng tác nghệ thuật thì lấy đâu thời gian để ý đến việc đóng thuế thu nhập cá nhân mà lỗi ở đây là ngành thuế không quan tâm gì đến thu nhập của họ. Ngành thuế cũng có những giải pháp đối với các tổ chức biểu diễn để hạn chế ca sĩ trốn thuế. Tuy nhiên với họa sĩ thì việc thu thuế không hề dễ dàng vì họ hoạt động độc lập và không phải họa sĩ nào cũng có tranh bán với giá cao, cũng có những họa sĩ cả đời sáng tác nhưng vẫn không thể bán được tranh nhưng có những họa sĩ họ tạo ra những bức tranh có giá trị cao. Do vậy ngành thuế cũng nên lưu ý đến việc thu thuế thu nhập cá nhân của giới họa sĩ mà nhất là họa sĩ mà tranh của họ bán luôn với giá rất cao. Ngành thuế nên huy động tính tự giác của các họa sĩ.
Tăng cường thanh tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm thuế thu nhập cá nhân
- Tăng cường thanh tra thuế thu nhập cá nhân:
Từ thực tế hiện nay, ngành thuế vẫn luôn thất thu thuế thu nhập cá nhân ở những con số vẫn còn quá cao, đó là do hiện tương trốn thuế, hiện tượng này ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu tạo nguồn thu cho ngân sách và đảm bảo tính công bằng của thuế. Thanh tra thuế sẽ làm nhiệm vụ là phát hiện những đối tượng có hành vi trốn thuế, những sai phạm chính cơ quan thuế, của các cán bộ thuế. Đồng thời thanh tra thuế cũng giúp cơ quan thuế tìm ra những sơ hở, hạn chế trong chính sách thuế. Những sơ hở đó sẽ tạo điều kiện cho đối tượng nộp thuế trốn thuế. Việc thanh tra thường xuyên sẽ làm giảm bớt ý định trốn thuế của đối tượng nộp thuế, tăng tính nghiêm túc của cơ quan chi trả thu nhập trong việc khấu trừ thu nhập trước khi chi trả và cũng tránh được các trường hợp thông đồng, cấu kết giữa cán bộ thuế với người nộp thuế. Thanh tra thuế sẽ góp phần đảm bảo việc thu đúng và đủ thuế cho ngân sách quốc gia. Trong thời gian qua, công tác thanh tra thuế ở ta chưa được coi trọng. Vì vậy, trong thời gian tới cơ quan thanh tra thuế cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế để phát hiện ra các trường hợp, cố tình khai man, trốn thuế.
- Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm thuế thu nhập cá nhân:
Việc xử lý các trường hợp vi phạm cần phải được thực hiện một cách nghiêm túc và dứt khoát. Cơ quan thuế nếu như phát hiện ra các trường hợp vi phạm và có những bằng chứng cụ thể chứng minh hành vi trốn thuế thì sẽ phải có trách nhiệm nộp phạt đúng thời hạn và đúng số tiền bị phạt. Nếu như có những hành vi chống đối thì cần có sự can thiệp ngay lập tức của cơ quan công an. Việc xử phạt thật nghiêm minh sẽ là điều kiện quan trọng để giảm bớt các trường hợp vi phạm. Nếu các đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân không đóng thuế thì sẽ bị truy tố hình sự.
Giải pháp 7: về ngăn chặn gian lận đối với hoạt động chuyển nhượng bất động sản (BĐS)
Điều 4 Luật thuế TNCN quy định thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất là thu nhập được miễn thuế TNCN. Điều này cho thấy tính nhân đạo của Luật tuy nhiên hậu quả thực thi có thể rất nặng nề vì đây là cơ sở để các cá nhân “lách luật”, trốn thuế thông qua việc kê khai một nhà ở duy nhất nhưng trên thực tế lại không phải như vậy. Để có thể ngăn chặn tình trạng này đòi hỏi phía Nhà nước, phải xây dựng và quản lý hệ thống thông tin cá nhân đầy đủ toàn diện, trên cơ sở đó giữa ngành thuế và ngành tài nguyên - môi trường kết nối mạng thông tin thống nhất trên phạm vi toàn quốc để quản lý được việc sở hữu BĐS chi tiết của từng cá nhân. Từ đó, chống được sự khai man là tài sản duy nhất trong chuyển nhượng BĐS để được miễn thuế.
Bên cạnh việc quy định như trên, thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau cũng thuộc diện miễn thuế TNCN. Quy định này không hợp lí bởi lẽ cùng là thu nhập nhưng thu nhập từ thừa kế giữa các đối tượng nêu trên lại được miễn thuế. Trong khi đó, luật thuế TNCN nhiều nước đều có quy định khoản thu nhập trên phải chịu thuế và tương ứng từng trường hợp có các cách tính thuế khác nhau. Mức thuế ở đây dựa vào giá trị tài sản thừa kế (khi nó vượt quá giới hạn nhất định) và người thừa kế – người nộp thuế thuộc hàng thừa kế nào (ví dụ, theo luật của Nga, Đức). Ở Đức (khi đồng EURO chưa lưu hành), nếu giá trị tài sản từ 50.000 DM, mức thuế phải nộp là 3% trên giá trị tài sản đó, nếu tài sản lớn hơn 100 triệu DM thì người thừa kế nộp 35% giá trị tài sản.
Đối với UBND các tỉnh, Thành Phố Hồ Chí Minh để chống việc lách thuế qua việc ghi thấp giá trên hợp đồng chuyển nhượng thì việc xây dựng và ban hành giá nhà, đất hàng năm phải phù hợp và sát giá thực tế chuyển nhượng trên thị trường tự do.
Riêng ngành thuế nói chung và Chi cục Thuế Quận 2 nói riêng phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến đạo lý của Luật Thuế TNCN đến mọi tầng lớp dân cư để giúp họ nắm và hiểu về các quy định, đồng thời bằng kinh nghiệm và kỹ năng quản lý chuyên sâu, phải chủ động đề xuất ngay các giải pháp ứng phó trong mọi tình huống.
Giải pháp 8: sự phối hợp giữa các ban ngành và sự khuyến thích thanh toán, chi trả, thu thuế, hoàn thuế thông qua ngân hàng
Về phối hợp với các cơ quan khác trong tổ chức quản lý thu thuế TNCN
Luật thuế TNCN là luật thuế hết sức nhạy cảm và rất khó thực thi, tác động mạnh tới tâm lí, thu nhập của mọi người dân trong xã hội. Vì vậy đòi hỏi phải có sự hợp tác của tất cả các chủ thể: cơ quan thuế vụ, người dân (là chủ thể quan trọng nhất), các thiết chế tài chính, ngân hàng, cơ quan chi trả thu nhập, các tổ chức chính quyền và phải có lộ trình đối với một số khoản thuế thu nhập đánh vào đối tượng nhất định (ví dụ chứng khoán) thì phần nào mới có thể đạt được mục tiêu đặt ra của loại thuế này. Thêm vào đó, các chế tài pháp luật cũng cần phải đủ mạnh để áp dụng đối với những trường hợp vi phạm pháp luật thuế của các chủ thể nêu trên.
Để việc quản lý Thuế TNCN đạt kết quả cao, tránh tính trạng trốn thuế, gian lận thuế trong khi thực thi Luật thuế TNCN, Chi cục Thuế Quận 2 đã chủ động phối hợp với các Sở – Ban – Ngành trên địa bàn đề cùng thực hiện quản lý Thuế TNCN
+ Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư trong việc cung cấp thông tin đăng ký kinh doanh phục vụ quản lý thuế.
+ Phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trong việc cung cấp danh sách lao động tại các doanh nghiệp; danh sách người nước ngoài đã được cấp Giấy phép lao động tại địa bàn thành phố phục vụ công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân.
+ Phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng để kiểm soát việc chuyển nhượng nhà, đất nhằm thu thuế thu nhập cá nhân trong lĩnh vực này.
+ Phối hợp với Sở Công Thương để nhờ lực lượng Quản lý thị trường tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành các quy định về đăng ký kinh doanh, xử lý nghiêm các cá nhân thực tế có kinh doanh, nhưng không có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật và quản lý tổ chức, cá nhân làm việc tại các văn phòng đại diện, chi nhánh, thương nhân nước ngoài tại thành phố.
+ Phối hợp với Công an thành phố và các cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý nghiêm các trường hợp gian lận, trốn thuế hoặc không chấp hành pháp luật thuế thu nhập cá nhân. Đồng thời cũng phối hợp để xác minh số ngày cư trú tại Việt Nam của cá nhân người nước ngoài; đình chỉ xuất cảnh các trường hợp nợ thuế thu nhập cá nhân theo thẩm quyền, sau đó đối chiếu dữ liệu trong danh chỉ bản chứng minh nhân dân của cá nhân khi có yêu cầu.
+ Phối hợp với Sở Tư pháp trong việc xác nhận thông tin về hộ tịch và người phụ thuộc.
+ Phối hợp với Sở Giao dịch chứng khoán trong việc xác định nghĩa vụ thuế của các tổ chức, cá nhân thực hiện các giao dịch chứng khoán theo quy định của Luật Chứng khoán và các văn bản pháp luật liên quan.
+ Phối hợp với Sở Ngoại vụ trong việc tuyên truyền chính sách liên quan đến thuế thu nhập cá nhân cho các Lãnh sự quán, tổ chức phi chính phủ, tổ chức Liên hiệp quốc trên địa bàn thành phố; cung cấp danh sách đối tượng là nhân viên Lãnh sự, tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế không thuộc diện được hưởng quy chế miễn trừ lãnh sự.
+ Phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo trong việc tuyên truyền chính sách liên quan đến thuế thu nhập cá nhân cho các trường, trung tâm trên địa bàn thành phố; cung cấp danh sách, thông tin về các trung tâm đào tạo, tổ chức giáo dục nước ngoài có chương trình đào tạo liên kết với các tổ chức trong nước, danh sách các giảng viên người nước ngoài giảng dạy tại thành phố thuộc phạm vi quản lý.
+ Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc cung cấp thông tin, quản lý thu thuế thu nhập cá nhân đối với ca sĩ (trong nước và ngoài nước), vận động viên thể thao; cung cấp bản sao giấy phép đã cấp các chương trình biểu diễn của ca sĩ (trong và ngoài nước), các tổ chức sản xuất băng đĩa nhạc, phim, ảnh, các chương trình quảng cáo. Từ chối cấp phép hoạt động biểu diễn nghệ thuật thuộc thẩm quyền với cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật thuế theo đề nghị của cơ quan thuế.
+ Phối hợp với Sở Y tế nhầm chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tổ chức xác nhận các trường hợp mắc bệnh hiểm nghèo theo danh mục bệnh hiểm nghèo do Bộ Y tế ban hành làm căn cứ xét giảm thuế thu nhập cá nhân. Đồng thời cũng phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn việc xác nhận đối tượng bị tàn tật, không có khả năng lao động làm căn cứ tính giảm trừ gia cảnh để nắm bắt được danh sách bác sĩ, dược sĩ được cấp giấy phép hành nghề tại Quận 2.
+ Phối hợp với Chi nhánh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tại Quận 2 trong việc tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp thực hiện nghiêm Luật Thuế thu nhập cá nhân và pháp luật quản lý thuế.
+ Phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố nhầm chỉ đạo các tổ chức thành viên: Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố, Hội Nông dân thành phố, Liên đoàn Lao động thành phố, các Hội nghề nghiệp... tại thành phố trong việc tuyên truyền vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân thực hiện nghiêm túc Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Về khuyến khích việc thanh toán và chi trả thu nhập qua tài khoản séc
Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cũng như những biện pháp của Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước nhằm giảm chi tiêu tiền mặt cũng là một nhân tố hết sức quan trọng đối với hiệu quả của việc quản lý thuế thu nhập của cơ quan thuế. Quản lý là biện pháp có ý nghĩa nhất trong việc thu đúng, thu đủ. Bộ tài chính và ngành ngân hàng cần tìm biện pháp nắm chắc thu nhập của gia đình và cá nhân. Hiện nay, chúng ta chỉ dùng, giao dịch bằng tiền mặt quá lớn, phải có biện pháp khắc phục tình trạng này. Ngành ngân hàng cần nghiên cứu áp dụng công nghệ tin học vào quản lý thu nhập, trước hết là đối với công chức nhà nước, phải áp dụng công nghệ dùng thẻ tín dụng thanh toán để từng bước hạn chế giao dịch bằng tiền mặt. Muốn chuyển dần sang việc sử dụng tài khoản séc thay cho tiền mặt đòi hỏi phải có những cơ chế qui định cụ thể từ phía Ngân hàng Nhà nước và Kho bạc Nhà nước. Những qui định về hình thức thanh toán tiền lương phải qua tài khoản séc cũng nên áp dụng ở Việt Nam. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng thương mại, nơi các khác hàng sẽ mở tài khoản qua tàikhoản của dân cư. Việc thanh toán qua tài khoản séc phải hết sức thuận tiện và đơn giản thì mới có thể khuyến khích người dân sử dụng. Giảm thanh toán bằng tiền mặt, sử dụng rộng rãi thanh toán qua tài khoản sẽ không chỉ phục vụ cho hoạt động quản lý thu nhập của dân cư trong việc kê khai và nộp thuế thu nhập mà còn tiết kiệm rất nhiều chi phí cho xã hội. Vì vậy, chúng ra cần cố gắng sớm có những qui định và biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích thanh toán qua tài khoản.
Về xã hội hóa công tác quản lý thuế TNCN: Thu thuế thu nhập cá nhân thông qua hệ thống ngân hàng
Để thực hiện tốt quản lý thuế thu nhập cá nhân thì ngành thuế Việt Nam cũng cần hoàn thiện rất nhiều điều trong quản lý thu thuế. Bên cạnh thiết lập cơ chế giám sát đồng bộ thì cải tiến phương pháp thu ngân sách, đóng một vai trò quan trọng trong hoàn thiện công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân. Hiện nay, thuế thu nhập cá nhân được thu vào ngân sách tức nộp cho kho bạc. Tuy nhiên, nếu thu qua ngân hàng thì sẽ có nhiều ưu điểm hơn.
Nếu dùng phương pháp thu tại nguồn thì chỉ thực hiện được khi người lao động là lao động thường xuyên của doanh nghiệp. Còn đối với những lao động tự do hoặc thu nhập không thường xuyên thì khó khăn hơn vì phòng thuế không thể chuyển trả về cho nguồn được mà chính người lao động phải đến lập bảng quyết toán, làm giấy cam đoan trình cho phòng thuế các biên nhân, sau khi có xác nhận của phòng thuế, họ mới đến kho bạc lĩnh tiền. Giải pháp cho việc thu thuế với những lao động tự do thông qua hệ thống ngân hàng như sau:
Mỗi lao động tự do đều có bổn phận mở tài khoản cá nhân tại một ngân hàng nào mà có cung cấp dịch vụ thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Trong đó, ngân hàng sẽ phát hành cho họ 2 số tài khoản chính:
- Tiền Việt Nam
- Tiền ngoại tệ
Và hai mã tài khoản phụ là
- Tiền Việt Nam- Thuế thu nhập cá nhân
- Tiền ngoại tệ- Thuế thu nhập cá nhân
+ Tài khoản chính: là tài khoản mà cá nhân đó có thể dùng để bỏ tiền tiết kiệm. Tài khoản này thì cá nhân có thể đưa tiền vào và rút tiền ra tùy ý.
+ Tài khoản phụ: là tài khoản tạm ứng thuế thu nhập cá nhân.
Tiền tạm ứng thuế thu nhập cá nhân sẽ do một đơn vị nào đó trả cho người lao động được trích ra 10% sẽ được nộp cuối tháng vào tài khoản tạm ứng thuế thu nhập cá nhân. Đơn vị này sẽ phát hành biên nhận do bộ tài chính ban hành cho người lao động và khi báo thuế sẽ chứng minh số tiền này đã được thanh toán qua ngân hàng. Người lao động có thể kiểm tra tài khoản của mình và nếu có sai sót có thể khiếu nại đơn vị phải thanh toán cho ngân hàng đúng thời gian.
Ngoài ra, có thể sử dụng thanh toán qua ngân hàng đối với lao động trong đoàn thể như công nhân, giáo viên, các nhân viên làm trong các doanh nghiệp, sở ban ngành… Ngân hàng sẽ xây dựng bảng kê khai phát cho các doanh nghiệp, ban ngành… Bảng kê lương, tên họ, tiền thuế thu nhập phải nộp có thể chuyển đổi thành mã vạch. Cuối tháng, các đơn vị sẽ đem danh sách và số tiền tương ứng nộp cho ngân hàng. Có thể nhập số liệu thông qua trang web. Tiền này sẽ bị khóa tại cá tài khoản riêng của từng nhân viên trong ngân hàng đó và được hưởng lãi theo định kỳ theo quy định của ngân hàng. Ngân hàng sẽ cấp biên nhận cho các đơn vị, các đơn vị sẽ báo thuế hàng tháng kèm theo tường trình này. Nếu hàng tháng doanh nghiệp không báo phần này thì sẽ bị phạt hành chính, phạt lãi ngân hàng…
Như vậy, việc thanh toán qua hệ thống ngân hàng đã tiết kiệm được thời gian của người nộp thuế cũng như giúp cho cán bộ quản lý thuế giảm tải được một số việc vào cuối năm như : xem hồ sơ hoàn thuế của các cá nhân, thu thập các biên lai, xác nhận không phải đóng thuế thu nhập cá nhân hoặc tính toán phải đóng thêm… Sau đó, cán bộ thuế còn phải chuyển hồ sơ đến kho bạc mới lĩnh được tiền và với số lượng người xin lĩnh ra cũng như người đóng thêm vào cũng rất lớn.
Việc thu thuế qua hệ thống ngân hàng là rất cần thiết bởi lẽ nếu chúng ta không thực hiện việc này thì khi luật thuế thu nhập cá nhân mới ra đời sẽ có nhiều đối tượng nộp thuế hơn nếu vẫn dùng cách thu cũ chúng ta sẽ phải tăng thêm cám bộ thuế rất nhiều mà ngay lập tức tăng thêm cán bộ thuế sẽ dẫn đến tình trạng sẽ có những cán bộ thiếu kinh nghiệm trong chuyên môn và nhất định sẽ dẫn tới hậu quả quá tải trong công tác quản lý thu thuế thu nhập cá nhân đây cũng chính là mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Ngoài ra, việc sử dụng tài khoản ngân hàng để giao dịch sẽ còn mang lại những ưu điểm như hạn chế được lạm phát, hạn chế tiền giả, kích thích phát triển hệ thống ngân hàng hiện đại…
Nếu như nhà nước muốn khuyến khích người lao động dùng tài khoản ngân hàng để giao dịch như một thói quen thì đây là thời điểm đã chín muồi và thích hợp nhất.
Giải pháp 9: nâng cấp cơ sở hạ tầng cho ngành thuế, đào tạo nguồn nhân lực và kèm theo các phúc lợi cho cán bộ thuế
Về cải thiện cơ sở vật chất của ngành thuế
Cùng với sự phát triển liên tục của nền kinh tế và nhiều vấn đề nảy sinh trong công tác quản lý thuế, cơ sở vật chất, kỹ thuật của ngành thuế cần được hiện đại hóa hơn nữa. Ngành thuế cần sớm có một hệ thống quản lý thuế bằng mạng vi tính nội bộ. Xét tại thời điểm ban đầu điều này có thể đòi hỏi chi phí cao, nhưng xét về lâu dài thì sẽ tiết kiệm về thời gian và chi phí rất nhiều. Hệ thống này sẽ không chỉ phục vụ riêng cho công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân mà còn cho tất cả các sắc thuế khác. Trong điều kiện mới, nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, hoạt động buôn bán ngày càng đa dạng và tăng mạnh về quy mô, các thủ đoạn trốn thuế ngày càng tinh vi thì việc quản lý thu thuế một cách thô sơ là không còn thích hợp.
Về đào tạo năng lực và phẩm chất cho đội ngũ cán bộ thuế
Nâng cao năng lực và phẩm chất đội ngũ cán bộ thuế sẽ có tác động tích cực tới toàn bộ công tác quản lý thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng. Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thuế trong thời gian tới phải đạt được những mục tiêu:
- Tạo ra một đội ngũ cán bộ thuế có năng lực nghiên cứu hoạch định chính sách, nghiên cứu hoạch định chính sách, nghiên cứu các biện pháp nghiệp vụ thu để hướng dẫn, chỉ đạo kiểm tra thực hiện trong toàn ngành.
- Tạo ra một đội ngũ cán bộ thuế thực hành quản lý thuế giỏi, theo hướng chuyên môn hóa sâu theo từng chức năng công việc, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế hiện đại. Để đạt được các mục tiêu trên, công tác đào tạo trong thời gian tới cần được định hướng như sau:
- Tiếp tục lựa chọn một số công chức là cán bộ lãnh đạo chưa có trình độ đại học hoặc cán bộ thuộc diện quy hoạch lãnh đạo đã có trình độ trung cấp để đưa đi đào tạo đại học, đồng thời, nâng tỉ lệ tuyển dụng các ngạch công chức có trình độ đào tạo đại học để đẩy mạnh việc đáp ứng đúng số công chức đã được bộ duyệt.
Việc đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ thuế các cấp được đặt ra như sau:
Với cấp tổng cục: cần đào tạo để phát triển được đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính sách thuế, có khả năng hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra cơ quan thuế cả về cơ chế chính sách và nghiệp vụ quản lý thuế, thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế. Vì vậy, đối với cán bộ cấp này cần trang bị kiến thức toàn diện về mặt lý thuyết và thực tiễn kinh nghiệm quản lý thuế trong nước và nước ngoài, bảo đảm cán bộ có đủ năng lực trong việc phân tích, đánh giá thành thạo nghiệp vụ quản lý thuế hiện đại, nghiên cứu, hoạch định chính sách thuế, đề xuất các biện pháp quản lý thu. Đó là đội ngũ cán bộ đầu ngành, đảm đương công việc mũi nhọn của ngành và các lĩnh vực quản lý thuế phức tạp. Đồng thời, đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ thuế đủ sức triển khai các chương trình hội nhập về thuế trong khu vực và quốc tế. Số cán bộ này sẽ được đào tạo trong nước và ở nước ngoài.
Với cấp cục thuế và chi cục thuế: Đào tạo theo hướng chuyên môn hóa từng chức năng công việc: xử lý tính thuế, đôn đốc cưỡng chế thu, thanh tra, kiểm tra và một số chức năng quản lý nội bộ ngành…
Ngoài ra, nội dung đào tạo và bồi dưỡng phải đảm bảo trang bị đầy đủ kiến thức chủ yếu như các chính sách kinh tế, tài chính và luật pháp liên quan đến thuế, phân tích dự báo thuế, yều cầu và lộ trình hội nhập thuế quốc tế, kế toán doanh nghiệp, kiến thức quản lý thuế bằng máy tính, kiến thức quản lý nhà nước,ngoại ngữ, phương pháp thanh tra, kiểm tra thuế …
Công tác đào tạo bồi dưỡng cũng không phải là việc đơn giản vì vậy ngành thuế cần phải tiến hành các bước như sau:
+ Xác định đối tượng và xây dựng nội dung, chương trình và giáo trình theo từng khóa đào tạo, bồi dưỡng thống nhất.
+ Thành lập tổ chức làm nhiệm vụ tham mưu, đề xuất về mục tiêu, đối tượng, nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành thuế, quản lý và kiểm tra việc thực hiện công tác đào tạo và bồi dưỡng trong toàn ngành. Chúng ta đã thành lập trung tâm bồi dưỡng cán bộ ngành thuế thường xuyên tổ chức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ trong ngành. Trung tâm có trụ sở chính ở Hà Nội và hai chi nhánh ở TP.HCM và Đà Nẵng. Trong tương lai, trung tâm này sẽ được nâng lên thành trường Thuế Quốc gia hoặc học viện Thuế.
+ Lựa chọn và xây dựng đội ngũ giáo viên kiêm chức tại các Cục Thuế, đủ trình độ, kinh nghiệm và năng lực để đảm đương công tác giảng dạy cho các cán bộ ở địa phương. Hiện nay, trung tâm bồi dưỡng cán bộ vẫn chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của toàn ngành nên Cục thuế vẫn phải tiến hành bồi dưỡng cho số cán bộ cấp dưới ở Chi cục Thuế. Vì vậy, cần lựa chọn đội ngũ giáo viên kiêm công chức tại các cục thuế: là những người giỏi chuyên môn, nghiệp vụ thuế, được đào tạo thêm về phương pháp sư phạm làm nòng cốt cho công tác đào tạo cán bộ địa phương.
+ Xây dựng quy chế kiểm tra, đánh giá trình độ công chức hàng năm để đánh giá hiệu quả công tác đào tạo, thường xuyên cải tiến và lựa chọn hình thức, nội dung đào tạo thích hợp.
+ Tăng dần nguồn kinh phí dành cho đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
Về cải cách chính sách tiền lương
Thực hiện Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 9, Nghị quyết của Quốc hội về việc cải cách chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước. Ngày 14/12/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 205/2004/NĐ-CP quy định chế độ tiền lương áp dụng trong các doanh nghiệp nhà nước và Nghị định số 204/2004/NĐ-CP, quy định chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức làm công việc trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nước và lực lượng vũ trang, thời hiệu thực hiện từ ngày 01/10/2004.
Việc thực hiện cải cách chế độ tiền lương năm 2004 cho đến ngày nay, đã đạt được một số kết quả tích cực như bội số tiền lương nâng từ 10 lần lên 13 lần, hệ số tiền lương của từng mức lương tăng từ 18- 25%, chủ yếu tăng ở nhóm có mức lương thấp, quy định cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập áp dung riêng cho từng nhóm đối tượng ở mỗi lĩnh vực khác nhau, những kết quả của việc cải cách tiền lương đã góp phần nâng cao thu nhập về mặt danh nghĩa đối với lao động, cán bộ, công chức và viên chức. Nhưng thực tế sau hơn một năm thực hiện, dưới sự tác động bởi các quy luật của nền kinh tế thị trường những kỳ vọng của việc cải cách tiền lương không được như mong muốn, đời sống của người làm công ăn lương chưa được cải thiện nhiều so với mặt bằng chung của xã hội. Điều đó đã dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực trong cơ quan nhà nước. Các hiên tượng tham nhũng, sách nhiễu người dân đã trở thành quốc nạn. Chảy máu chất xám cũng là hậu quả tất yếu. Quan điểm trên thực tế đời sống kinh tế xã hội minh họa một cách rất phong phú và cụ thể, sự lý giải biện chứng về mối quan hệ giữa thu nhập hợp pháp (thu nhập danh nghĩa) với tài sản hiện có (thu nhập thực tế) của mỗi cá nhân trong các thành phần kinh tế, đặc biệt là đối với khu vực nhà nước là một việc rất khó khăn nhưng không có nghĩa là chúng ta không tháo gỡ khó khăn đó. Vậy để khắc phục thực tế trên trong lộ trình cải cách tiền lương và thu nhập của mỗi thành viên trong xã hội, đặc biệt là đối với các cá nhân trong khu vực nhà nước, làm được như vậy thì luật thuế thu nhập cá nhân sắp tới ra đời sẽ có ý nghĩa kinh tế - xã hội thiết thực hơn, giúp cho việc thực hiện vai trò điều tiết về thuế thu nhập của nhà nước được thực hiện một cách triệt để và có ý nghĩa thiết thực.
Về tổ chức khen thưởng với những đơn vị và cán bộ thuế tích cực trong công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân
Để khuyến khích các đơn vị quản lý thuế được tốt thì Chi cục Thuế Quận 2 cần chú trọng đến việc khen thưởng các đơn vị có thành tích cao trong công tác và cả những cán bộ thu thuế hoàn thành tôt nhiệm vụ. Có chế độ khen thưởng như vậy sẽ tạo ra những động lực tốt tới các đơn vị quản lý thuế
Giải pháp 10: về nguyên tắc công bằng, vấn đề này trong pháp luật các nước thường quy định cho phép người nộp thuế lựa chọn, tính thu nhập chung cho cả vợ lẫn chồng hay tính riêng từng người. Mỗi trường hợp sẽ áp mức thuế suất khác nhau để đảm bảo công bằng. Hơn nữa, cần phân biệt mức giảm trừ đối với người phụ thuộc có sức khoẻ bình thường và những người bị mắc chứng bệnh hiểm nghèo, từ đó giảm được sự bất công bằng khi xác định thu nhập tính thuế.
Ngoài ra, về giảm trừ gia cảnh Luật thuế TNCN cũng còn có những quy định cần hướng dẫn cụ thể khi triển khai thi hành. Việc xác định thời điểm phát sinh và thời điểm chấm dứt nghĩa vụ nuôi dưỡng là thời điểm nào ? Có cần xác nhận của cơ quan chính quyền không? Đây là vấn đề cũng tương đối nan giải, bởi lẽ sẽ phát sinh rất nhiều trường hợp kê khai, gian lận thuế khi người nuôi dưỡng đã chết hoặc đã chuyển đi nơi khác sinh sống nhưng vẫn thuộc diện được giảm trừ gia cảnh.
Bên cạnh vấn đề nêu trên, việc xác định mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế (khoản 2 Điều 19). Điều này có nghĩa là khi các đối tượng nộp thuế có chung người nuôi dưỡng thì nguyên tắc thoả thuận được áp dụng để xác định đăng kí giảm trừ gia cảnh cho một đối tượng nộp thuế. Vì vậy, trong thời gian sắp tới đòi hỏi quy định phải thật chặt chẽ, tránh tình trạng chung chung, nếu không mục tiêu của đạo luật là tạo nguồn thu và công bằng xã hội sẽ không đạt được.
Giải pháp 11: giảm trừ gia cảnh và chi phí khấu trừ
Về giảm trừ gia cảnh
Tuy nhiên, khi áp dụng Luật thuế TNCN vào thực tế đã nảy sinh rất nhiều điều cần phải điều chỉnh Luật thuế TNCN cho phù hợp với thực tế. Cụ thể như: Không nên cố định mức giảm trừ mà cần phải tăng mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế từ 4 triệu đồng lên 6 triệu đồng/tháng và người phụ thuộc từ mức 1,6 triệu đồng lên 2,4 triệu đồng/tháng. Ngoài mức điều chỉnh tăng như trên còn có thể gắn mức giảm cho bản thân và người phụ thuộc theo mức lương tối thiểu chung. Cụ thể lên gấp 10 lần lương tối thiểu chung/tháng cho người nộp thuế và cho người phụ thuộc là bốn lần lương tối thiểu chung/tháng. Như vậy khi mức lương tối thiểu chung được điều chỉnh thì mức khởi điểm chịu thuế cũng được điều chỉnh phù hợp theo mặt bằng chung. Quốc Hội sẽ không sửa Luật nhiều lần.
Sau khi đã xác định được thu nhập chịu thuế, các khoản giảm trừ cho bản thân và người phụ thuộc, bước tiếp theo cần phải làm để hoàn thành quyết toán thuế TNCN là phải xác định số thuế phải nộp thông qua biểu lũy tiến từng phần. Theo các chuyên gia trong ngành thuế nhận định thì biểu lũy tiến từng phần hiện nay quá dày, dẫn đến thiệt thòi cho người nộp thuế. Do vậy, Bộ Tài Chính cũng nên kéo giãn các bậc thuế, đồng thời nâng mức thu nhập chịu thuế của từng bậc nhằm giảm bớt gánh nặng cho người nộp thuế. Xin đề xuất phương án sửa biểu thuế lũy tiến từng phần như sau:
HIỆN HÀNH
ĐỀ XUẤT
Phần thu nhập tính thuế/tháng
(đơn vị: triệu đồng)
Thuế suất
(đơn vị: %)
Phần thu nhập tính thuế/tháng
(đơn vị: triệu đồng)
Thuế suất
(đơn vị: %)
Đến 5
5
Trên 5 đến 10
10
Đến 30
10
Trên 10 đến 18
15
Trên 18 đến 32
20
Trên 30 đến 60
20
Trên 32 đến 52
25
Trên 52 đến 80
30
Trên 60
30
Trên 80
30
Về các chi phí khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế
Theo thông lệ ở các nước và cũng là hợp lí khi xác định các khoản được khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế bao gồm cả: chi phí nghề nghiệp, hoàn cảnh bản thân (có nhà ở, gia đình hay chưa, chi phí y tế, giáo dục… Luật thuế TNCN của Việt Nam không có quy định như vậy. Để phù hợp với thông lệ quốc tế thì trong thời gian sắp tới Việt Nam cần phải chấp nhận các chi phí liên quan đến việc tạo ra nguồn thu nhập, bởi vì muốn đóng góp thuế cho Nhà nước thì người dân phải có thu nhập nhưng để tạo ra thu nhập và đóng góp một phần chi ngân sách nhà nước thì bản thân họ phải khoẻ mạnh, nghề nghiệp, nơi ở phải đàng hoàng, khang trang…
Ngoài ra, do đặc thù nghề nghiệp ví dụ đối với ca sĩ, cầu thủ bóng đá… thường có tuổi thọ nghề nghiệp ngắn, hay gặp rủi ro, những người làm nghề này phải tự bỏ ra những khoản chi phí nhất định để nâng cao tay nghề, để học hỏi kinh nghiệm, duy trì sự tồn tại và phát triển, thậm chí để hạn chế rủi ro do nghề nghiệp gây ra. Nên chăng cần có những hướng dẫn bổ sung về vần đề này trong thời gian sắp tới để tạo sự động viên, khích lệ người dân yêu nghề, tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
KẾT LUẬN
Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế cơ bản giữ vai trò quan trọng trong hệ thống của các nước phát triển. Thuế thu nhập cá nhân không chỉ là công cụ phân phối thu nhập đảm bảo sự công bằng xã hội, mà còn là công cụ hữu hiệu động viên nguồn thu to lớn cho NSNN, góp phần quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Ở nước ta, Luật thuế thu nhập cá nhân mặc dù đã được ban hành song mới chỉ là hình thức sơ khai và được áp dụng cho một bộ phận nhỏ dân cư có thu nhập cao, nhưng nó đã bộc lộ nhiều nhược điểm và hạn chế, trong đó nổi lên vấn đề thuế chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phân phối thu nhập công bằng và chưa đảm bảo được tính hiệu quả về kinh tế - xã hội. Trong điều kiện hội nhập tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực, nhiều quy định trong Luật thuế TNCN tỏ ra chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân ở nước ta là yêu cầu tất yếu khách quan.
Trên cơ sở lý luận và xuất phát từ những hạn chế còn tồn tại của thực tiễn chính sách thuế TNCN hiện hành, nội dung luận văn đã đưa ra các giải pháp nhằm sửa đổi chính sách thuế TNCN cho hợp lý với điều kiện, hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Hy vọng luận văn sẽ góp phần trong việc hình thành một chính sách thuế TNCN tốt hơn trong giai đoạn tới.
Bộ phận quản lý theo chức năng
Phòng Quản lý thuế thu nhập cá nhân
Phòng Hành chính QT Tài vụ Ấn chỉ