Thành phố cần chủ động tăng chi ngân sách nhà nước, phục vụ mục đích giảm hoặc trợ giá cho các hoạt động khuyến khích xuất khẩu và xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp, trong đó bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mức ưu đãi cao nhất nên giành cho mục tiêu khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm đã chế biến, chế biến tinh, các sản phẩm chất lượng cao, đặc biệt là những sản phẩm mang thương hiệu của Việt Nam.
Hiện này thị trường hàng hoá, dịch vụ phát triển mạnh, nhưng quản lý chưa tốt nên tình trạng kinh doanh trái pháp, trốn lậu thuế, gian lận thương mại còn phổ biến đã ảnh hưởng tới các nhà sản xuất. Thành phố cần đề nghị Bộ tài chính khẩn trương nghiên cứu hoặc cho phép Hồ Chí Minh thí điểm các chế tài tài chính đủ mạnh (trong đó phạt tiền thật nặng) theo khuôn khổ pháp lý thích hợp để tránh tình trạng bán phá giá, bán hàng kém chất lượng ra thị trường, chống gian lận thương mại và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hoá . Đồng thời, thành phố cần sử dụng phối hợp cả các biện pháp kinh tế lẫn các biện pháp hành chính để ngăn chặn hiệu quả nạn buôn lậu, hàng giả, kinh doanh thiếu đạo đức, thực thi nghiêm ngặt luật cạnh tranh, luật chống đầu cơ .
Bên cạnh đó, thành phố cũng cần sửa đổi hệ thống mã thuế tương ứng với hệ thống mã hàng quốc tế, tránh việc tuỳ tiện áp mã thuế xuất nhập khẩu. Rút ngắn qui trình khai, kiểm hoá và tính thuế. Nghiên cứu xây dựng mẫu khai cho nhiều loại hàng trong một số lô hàng và nghiên cứu phương thức chỉ mở tờ khai một lần cho nhiều lần nhập khẩu một mặt hàng để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp. Cần tiến hành xử phạt hợp lý khi chủ hàng tính thuế sai do các văn bản thuế hay thay đổi và loại bỏ tình trạng thiếu tính minh bạch, rõ ràng trong công tác thực thiện các qui định về thuế.
75 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1667 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng thu hút và sử dụng FDI tại Thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thu hút nhiều dự án đầu tư nhất so với cả nước. Các cấp chính quyền thành phố có nhiều kinh nghiệp trong việc tiếp nhận các dự án đầu tư nước ngoài. Thành phố cũng là nơi “năng động” nhất trong việc thực hiện các chương trình xúc tiến và khuyến khích đầu tư.
Thời gian là tiền bạc đối với các nhà đầu tư. Tại thành phố HCM các nhà đầu tư có thể được bảo đảm tiến trình cấp phép đầu tư một cách nhanh chóng nhất. HCM được uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án có tổng vốn đầu tư từ 10 triệu USD trở xuống. Sở Kế hoạch & Đầu tư Hồ Chí Minh cam kết thẩm định trong thời gian không quá 20 ngày và đăng ký trong thời gian không quá 10 ngày đối với các dự án thuộc thẩm quyền cấp phép của UBND thành phố.
Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị đi đầu trong cả nước về cải cách các thủ tục hành chính. Lãnh đạo thành phố đã cho áp dụng thí điểm chế độ một cửa đối với một số lĩnh vực thuộc dịch vụ công.
Khuyến khích đầu tư vào các Khu công nghiệp, Khu chế xuất:
Riêng đối với các KCN, KCX thì thành phố đưa ra một chính sách riêng nhằm đặc biệt thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài.
Công ty phát triển Công viên phầm mềm Quang Trung là đầu mối duy nhất cung cấp cơ sở hạ tầng và các dịch vụ cần thiêt cho nhà đầu tư đầu tư. Các dự án đầu tư vào khu công viên này sẽ được hưởng :
Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 4 năm đầu kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lãi.
Thuế suất thuế giá trị gia tăng là 0%, miễn thuế xuất nhập khẩu đối với các sản phẩm phần mềm.
Thuế suất thuế chuyển lợi nhuận về nước là 3%.
Thuế thu nhập cá nhân đối với người Việt nam làm việc trong khu công nghiệp này được áp dụng theo mức thuế như đối với người nước ngoài (mức này thấp hơn mức thuế thu nhập của người Việt nam theo luật thuế thu nhập cá nhân năm ...).
Giá thuê văn phòng là 2 USD/m2/tháng.
Giá điện là 880 VND/Kw (trong khi giá điện trung bình cho sản suất là 1.100 VND/Kw).
Giá nước là 3.000 đồng/m3 (trong khi giá nước trung bình là 4.000 đồng/m3).
Các Khu chế xuất, Khu công nghiệp khác:
Hiện Hồ Chí Minh đang có 11 khu công nghiệp và khu chế xuất.
Ban quản lý các khu chế xuất, khu công nghiệp sẽ trực tiếp được phép cấp giấy phép đầu tư cho các dự án không quá 40 triệu USD.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong suốt thời gian hoạt động của dự án.
Thuế VAT là 0% và thuế chuyển lợi nhuận về nước là 3%.
Khu y tế kỹ thuật cao:
Công ty dịch vụ công ích Bình Chánh là đầu mối cung cấp các dịch vụ cần thiết cho nhà đầu tư trong khu, cung cấp dịch vụ miễn phí cho các chủ đầu tư về các loại thủ tục giao đất, thuê đất, giấy phép xây dựng.
Tiền thuê đất là 20 USD/m2/50 năm, tiền bảo dưỡng hạ tầng là 0,2 USD/m2/năm.
Nhìn chung, có thể tóm tắt nội dung các chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu tư vào khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX) theo Bảng 11 tiếp sau đây.
Bảng 11 : Tóm tắt nội dung các chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu tư vào khu công nghiệp và khu chế xuất tại thành phố Hồ Chí Minh.
Thuế
Nội dung
KCX
KCN
Thuế XK
- Sản phẩm, hàng hoá
Miễn
Miễn
Thuế nhập khẩu
- Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng tạo thành TSCĐ- Nguyên vật liệu, nhiên liệu
MiễnMiễn
MiễnMiễn tương ứng tỷ lệ xuất khẩu
Thuế thu nhập doanh nghiệp
* Doanh nghiệp sản xuất- 4 năm từ khi kinh doanh có lời- 4 năm tiếp theo* Doanh nghiệp dịch vụ- 2 năm kinh doanh có lãi
10%MiễnGiảm 50%15%Miễn
* Doanh nghiệp sản xuất+ Xuất khẩu từ 80-100% sản phẩm- 4 năm từ khi kinh doanh cú lãi- 4 năm tiếp theo+ Xuất khẩu từ 50- <80% sản phẩm- 2 năm từ khi kinh doanh có lãi- 2 năm tiếp theo+ Xuất khẩu từ <50% sản phẩm- 2 năm từ khi kinh doanh có lãi* Doanh nghiệp dịch vụ- 1 năm từ khi kinh doanh có lãi
10%MiễnGiảm 50%15%MiễnGiảm 50%15%Miễn20%Miễn
Thuế giá trị gia tăng (VAT)
Miễn
Theo luật thuế VAT hiện hành
Thuế chuyển lợi nhuận
5%
5%
(Nguồn Sở Kế hoạch & Đầu tư TP HCM)
Ban hành các danh mục khuyến khích đầu tư :
Đây là biện pháp hữu hiệu nhất nhằm định hướng đầu tư theo chủ trương của lãnh đạo thành phố cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Danh mục khuyến khích đầu tư có thể bao gồm các địa bàn đặc biệt, các ngành nghề đặc biệt hoặc các lĩnh vực đặc biệt.
Song song với việc ban hành các danh mục khuyến khích đầu tư là chính sách cụ thể nhằm khuyến khích đầu tư vào địa bàn, lĩnh vực đó.
Ngoài việc ban hành các doanh mục khuyến khích đầu tư, nhà cầm quyền còn cần phải chú ý tới vấn đề phổ biến danh mục đó đến đối tượng là các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Xây dựng các công cụ hỗ trợ khác :
Ngoài các biện pháp tác động trực tiếp vào môi trường đầu tư, lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh cũng đã rất chú trọng đến việc phát triển các công cụ trợ giúp hữu dụng cho các nhà đầu tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho họ khi đầu tư vào địa bàn của mình.
Có thể lấy ví dụ điển hình như xây dựng các trang web cả tiếng Anh và tiếng Việt giới thiệu, cung cấp thông tin và hướng dẫn cho các chủ đầu tư nước ngoài về mọi vấn đề liên quan đến địa bàn đầu tư.
Ngoài ra, lãnh đạo thành phố còn xây dựng một hệ thống các phương tiện trợ giúp hữu hiệu như các công ty vận tải, văn phòng tư vấn đầu tư, các công ty chuyên cung cấp các dịch vụ cho nhà đầu tư nước ngoài như lập dự án, liên hệ mặt bằng, điện, nước ...
Tất cả các công cụ nêu trên được xây dựng nên đều nhằm một mục đích là tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài có thể tiến hành việc đầu tư một cách nhanh chóng và thuận tiện.
III. Các kết quả đạt được
Qui mô và tốc độ tăng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Nói về kết quả của FDI thì đầu tiên ta cần phải nhắc đến qui mô và tốc độ tăng của nó vì đấy chính là những biểu hiện rõ nét nhất về thực trạng thu hút và sử dụng FDI của địa bàn sở tại.
Bảng 12 : Số Dự áN ĐầU TƯ NƯớC NGOàI ĐƯợC CấP GIấY PHéP
Năm
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
(Triệu USD)
Tổng vốn pháp định
(Triệu USD)
1988-1990
87
976
713
1991
73
621
329
1992
87
714
413
1993
102
1.585
679
1994
121
1.575
670
1995
155
2.498
1.005
1996
114
2.376
858
1997
89
1.179
891
1998
90
707
328
1999
109
471
224
2000
122
224
106
2001
182
619
367
(Nguồn cục thống kê thành phố hồ chí Minh)
Số lượng dự án được cấp phép, tổng vốn đầu tư, tổng vốn pháp định là những chỉ tiêu để xác định về qui mô của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại một địa bàn mà cụ thể ở đây là thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng 13 : tốc độ tăng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(Đơn vị tính : %, năm trước = 100)
Năm
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
(Triệu USD)
Tổng vốn pháp định
(Triệu USD)
1990
184,0
141,6
361,9
1991
158,6
116,9
64,0
1992
119,2
114,9
125,5
1993
117,2
221,9
164,4
1994
118,6
99,3
98,6
1995
128,0
158,6
150,0
1996
73,5
95,1
85,4
1997
78,0
49,6
103,8
1998
101,1
59,9
36,8
1999
121,1
66,6
68,3
2000
111,9
47,6
47,3
2001
149,2
276,3
346,2
(Nguồn cục thống kê thành phố hồ chí Minh)
Cho dù có những bước thăng trầm nhưng nhìn một cách bao quát cho cả giai đoạn phát triển vừa qua thì tốc độ tăng về số lượng dự án được cấp phép cũng như lượng vốn đầu tư của FDI ở Hồ Chí Minh là rất đáng kể, tỷ lệ tăng năm sau thường lớn hơn năm trước hàng chục phần trăm.
Nhìn nhận về tốc độ phát triển của FDI còn cần đánh giá theo chỉ tiêu tổng sản phẩm tạo thành (GDP). ở chỉ tiêu này, tốc độ tăng của FDI có giảm sút trong thời gian gần so với thời điểm những năm 95, 96 (chi tiết tại bảng dữ liệu số 14 dưới đây). Nhưng cũng cần lưu ý rằng GDP của FDI tại thời điểm năm 1994 thấp hơn năm 1999 nên việc đạt tỷ lệ phát triển cao trong những năm trước là dễ dàng hơn những năm sau này.
Bảng 14 : tốc độ phát triển tổng sản phẩm (gdp) chia theo khu vựctrên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
(Đơn vị tính : %, năm trước = 100)
1995
1996
2000
2001
1. Khu vực kinh tế trong nước
111,7
110,9
108,9
109,4
- Kinh tế quốc doanh
110,7
111,6
111,3
108,8
+ QD Trung ương
111,5
113,6
114,2
109,5
+ QD địa phương
109,6
108,6
106,1
107,6
- Kinh tế ngoài quốc doanh
112,9
110,2
106,1
110,0
2. Có vốn đầu tư nước ngoài
155,7
144,5
109,5
110,0
(Nguồn : Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh)
Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh :
Phân tích về cơ cấu FDI sẽ cho một cái nhìn theo một khía cạnh khác của thành quả mà FDI mang lại cho nền kinh tế địa phương. Có thể xét cơ cấu của FDI theo từng khía cạnh nhìn nhận.
Phân theo lĩnh vực đầu tư :
Trước hết ta hãy xem xét cơ cấu theo lĩnh vực kinh tế vì nó thể hiện rõ nét nhất tác động của FDI đối với nền kinh tế địa bàn sở tại. Tỷ lệ phân bổ FDI theo các ngành kinh tế là không đều (chi tiết tại bảng dữ liệu số 15 dưới đây). Kết quả này cũng một phần xuất phát từ định hướng thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài của của lãnh đạo thành phố. Bảng dữ liệu cho ta thấy hai ngành du lịch, dịch vụ và công nghiệp thu hút được nhiều FDI nhất, tiếp đến là ngành thông tin và kém nhất là công nghệ và kỹ thuật. Có thể hiểu ngành du lịch, dịch vụ thu hút được nhiều FDI bởi đầu tư vào những lĩnh vực này thường có thời gian thu hồi vốn nhanh với tỷ lệ lợi nhuận trên đồng vốn đầu tư lớn. Tuy nhiên kết quả này chưa thực sự là hữu ích cho một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp như Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung.
Bảng 15 : phân bổ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo lĩnh vực đầu tưtrên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2001
Lĩnh vực
Số lượng dự án
Tỷ lệ phân bổ (%)
Số lượng vốn (USD)
Tỷ lệ phân bổ (%)
Nông nghiệp
11
0.99
25.842.500
0.25
Xây dựng
31
2.78
444.504.404
42.5
Văn hoá, giáo dục, thể thao, y tế.
61
5.47
446.790.403
4.25
Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm
28
2.51
243.592.000
2.33
Du lịch, dịch vụ
106
9.51
3.695.156.307
35.32
Công nghiệp
714
64.04
4.149.738.507
39.67
Thương mại
7
0.63
53,966,000
0.52
Thông tin
43
3.86
1.283.799.826
12.27
Công nghệ & kỹ thuật
20
1.79
7.352.000
0.07
Sản phẩm khác
16
1.43
18.056.900
0.17
Dịch vụ khác
78
7.00
93,136,983
0.89
Tổng cộng
928
100%
10,461,935,830
100%
(Nguồn : Sở Kế hoạch & Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh)
Phân theo hình thức đầu tư :
Ngoài việc phân định theo các lĩnh vực kinh tế, ta còn có thể phân chi FDI theo hình thức đầu tư (Chi tiết tại bảng dữ liệu số 16 dưới đây).
Bảng 16 : thống kê Số Dự áN CòN HIệU LựC chia theo loại hình đầu tưtính đến năm 2001
(Đơn vị tính : %)
Loại hình đầu tư
Số dự án
Vốn đầu tư
Vốn pháp định
Tổng Số
100,0
100,0
100,0
- Liên doanh
34,3
56,4
46,3
- Hợp tác kinh doanh
4,7
12,7
24,2
- 100% vốn nước ngoài
61,0
30,9
29,5
(Nguồn : Sở Kế hoạch & Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh)
Các dự án 100% vốn nước ngoài có số lượng dự án nhiều hơn hẳn các loại hình khác nhưng lại chỉ chiếm 1/3 tống lượng vốn đầu tư. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài còn rất dè dặt khi đầu tư vào HCM nói chung và Việt Nam nói riêng.
Thực tế phần vốn góp của phía Việt nam vào các dự án liên doanh là rất thấp, chỉ đủ để có quyền tham dự vào điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài thông qua các liên doanh chiếm 1/2 tổng lượng vốn đầu tư cho thấy một vấn đề nhạy cảm khi các nhà đầu tư nước ngoài đã biết lợi dụng những thuận lợi sẵn có của đối tác liên doanh về các phương diện như quan hệ với cơ quan quản lý chức năng, đầu ra của sản phẩm, cơ sở hạ tầng hiện có.
Phân theo đối tác đầu tư :
Phân chia FDI theo đối tác đầu tư để tìm hiểu về nguồn gốc của ròng vốn đầu tư vào địa bàn nghiên cứu để từ đó nhận định về chất lượng của đồng vốn đầu tư cũng như khả năng thu hút của môi trường đầu tư sở tại.
Nhìn vào Bảng dữ liệu số 17 dưới đây, ta thấy có sự vượt trội cả về số lượng dự án lẫn lượng vốn đầu tư của hai vùng lãnh thổ là Đài Loan và Hồng Kông. Cả hai đối tác lớn này đều là những đặc khu kinh tế của Trung Quốc và đều không phải là khu vực có nền kinh tế thực sự phát triển nên lợi ích từ đồng vốn đầu tư sẽ chưa thật sự hiểu quả, đặc biệt nếu ta nhìn theo khía cạnh của chuyển giao công nghệ.
Bảng 17 : thống kê Số Dự áN CòN HIệU LựC phân theo đối tác đầu tư chủ yếu tính đến năm 2001
(Đơn vị tính : %)
Quốc gia và vùng lãnh thổ
Số dự án
Vốn đầu tư
Vốn pháp định
Tổng Số
100,0
100,0
100,0
Đài Loan
24,3
18,7
16,4
Hồng Kông
8,8
17,8
14,5
Korea
12,9
7,1
6,3
Singapore
9,2
13,0
12,2
Nhật
11,7
6,9
6,5
Pháp
4,4
8,1
15,1
CHLB Nga
1,3
0,6
0,8
úc
3,3
4,2
7,4
Mỹ
3,9
1,7
1,7
Thái Lan
2,6
1,0
1,1
Anh
2,6
5,3
4,8
Malaysia
1,8
2,8
2,5
Hà Lan
1,2
3,7
3,5
Trung Quốc
1,4
0,3
0,3
Các nước khác
5,3
1,6
1,5
(Nguồn : Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh)
Đóng góp của FDI đối với nền kinh tế và xã hội :
Một khía cạnh không thể thiếu khi phân tích về thực trạng thu hút và sử dụng FDI ở một địa bàn đó là nói về những đóng góp của nó đối với nền kinh tế - xã hội nói chung của địa phương. Từ những con số thống kê, chúng tôi đã ghi nhận đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế và nâng cao đời sống xã hội của thành phố Hồ Chí Minh theo một số đề mục chủ yếu sau:
Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế :
Nhận xét về những đóng góp của FDI thì đầu tiên phải kể đến vai trò của nó trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì đây chính là mục tiêu đầu tiên của lãnh đạo đảng và nhà nước ta đề ra khi quyết định chủ trương thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Nhìn vào những dữ liệu tại bảng 18 dưới đây, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra tỷ lệ đóng góp vào GDP của FDI ngày càng lớn chứng tỏ vai trò của nó đối với nền kinh tế quốc dân ngày một quan trọng.
Bảng 18 : doanh thu từ các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoàihoạt động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1997 - 2001
1997
1998
1999
2000
2001
Tổng doanh thu(tỷ đồng)
3,815
3,910
4,600
6,167
7,400
Doanh thu xuất khẩu (tỷ đồng)
1,790
1,982
2,547
3,300
3,560
Tỷ lệ đóng góp GDP (%)
9.07
10.03
12.24
13.25
13.5
(Nguồn : Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh)
Số dự án hoạt động, cơ hội việc làm, tổng doanh thu, doanh thu xuất khẩu năm sau đều cao hơn năm trước chứng tỏ thành quả của những chính sách thu hút FDI của chính phủ Việt nam.
Bảng 19 : Giá trị sản xuất công nghiệp chia theo khu vực kinh tế
(Đơn vị tính : tỷ đồng)
Năm
Tổng số
Chia ra
Quốc doanh
Ngoài QD
Đầu tư NN
1990
14.011,1
8.125,8
4.535,3
1.350,0
1991
15.471,0
8.632,2
4.872,9
1.965,9
1992
18.116,8
10.026,3
5.331,7
2.758,8
1993
20.412,0
11.511,9
5.765,1
3.135,0
1994
23.214,3
13.260,6
6.416,7
3.537,0
1995
26.584,1
15.236,6
7.500,4
3.847,1
1995
103.374,7
51.990,5
25.451,0
25.933,2
1996
118.096,7
58.165,7
28.369,1
31.561,9
1997
134.420,6
64.474,8
31.068,0
38.877,8
1998
151.223,3
69.462,5
33.402,3
48.358,5
1999
166.965,3
72.604,3
36.342,0
58.019,0
2000
199.809,1
83.059,4
44.803,8
71.967,0
2001
228.182,0
93.608,0
53.899,0
80.675,0
(Nguồn : Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh)
Mặc dù có những biến động về tốc độ thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng giá trị sản xuất công nghiệp của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã không ngừng tăng kể từ năm 1990 đến năm 2001. Đây có thể nói gọi là một thành công, thể hiện rõ nét nhất đóng góp của FDI vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Góp phần vào công cuộc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế:
Bảng 20: cơ cấu tổng sản phẩm (gdp) trên địa bàn thành phố hồ chí minh chia theo ngành kinh tế
(Đơn vị tính : %)
Năm
1995
1996
2000
2001
1. Nông lâm thủy sản
3,3
2,9
2,0
1,8
- Nông lâm nghiệp
2,9
2,5
1,8
1,6
- Thủy sản
0,4
0,4
0,2
0,2
2. Công nghiệp và xây dựng
38,9
40,1
45,6
46,6
- Công nghiệp khai thác
0,1
0,1
0,1
0,0
- CN chế biến
31,7
32,6
37,6
38,6
- CN SX phân phối điện, nước
1,7
1,6
2,2
2,4
- Xây dựng
5,5
5,8
5,8
5,6
3. Các ngành dịch vụ
57,8
57,0
52,4
51,6
- Thương nghiệp
16,9
18,2
14,5
13,8
- Khách sạn và nhà hàng
8,3
8,0
6,2
6,1
- Vận tải kho bãi, bưu điện
7,7
7,4
8,9
9,0
- Tài chánh, tín dụng
3,4
3,1
2,6
2,6
- Kinh doanh tài sản và tư vấn
6,4
5,8
4,1
4,0
- Các hoạt động dịch vụ khác
15,1
14,5
16,1
16,1
(Nguồn : Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh)
Ta có thể dễ dàng nhận thấy cơ cấu GDP của các ngành công nghiệp và xây dựng tại thành phố Hồ Chí Minh tăng dần trong những năm gần đây trong khi chỉ số này ở các ngành nông lâm thuỷ sản và dịch vụ lại giảm. Đấy là những dấu hiệu cho thấy thành phố đang dần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng hiện đại hoá, công nghiệp hoá, đúng như chủ trương của đảng và nhà nước ta.
Góp phần vào công cuộc chuyển mình ấy, đầu tư trực tiếp nước ngoài với ý nghĩa là đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển đã có những đóng góp đáng kể (chi tiết tại bảng dữ liệu số 21 dưới đây).
Bảng 21 : cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bàn thành phố hồ chí minh năm 2001
(Đơn vị tính : %)
Tổng số
Chia ra
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Có vốn đầu tư nước ngoài
Tổng số
100,0
100,0
100,0
100,0
1. Nông lâm thủy sản
1,8
0,4
4,4
0,1
- Nông lâm nghiệp
1,6
0,3
3,9
0,1
- Thủy sản
0,2
0,0
0,5
-
2. Công nghiệp và xây dựng
46,6
50,4
29,8
69,5
- Công nghiệp khai thác
0,0
0,0
0,1
0,0
- CN chế biến
38,6
41,2
22,5
62,4
- Xây dựng
5,6
6,2
7,2
1,5
3. Các ngành dịch vụ
51,6
49,2
65,8
30,4
- Thương nghiệp
13,8
10,5
25,0
0,2
- Khách sạn và nhà hàng
6,1
1,4
12,3
4,5
- Vận tải kho bãi, bưu điện
9,0
13,3
4,5
8,2
- Kinh doanh tài sản và tư vấn
4,0
2,3
5,6
4,6
- Các hoạt động dịch vụ khác
16,1
19,2
16,8
8,5
(Nguồn : Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh)
Những số liệu về cơ cấu GDP năm 2001 của Hồ Chi Minh cho ta thấy, để đạt được sự điều chỉnh về cơ cấu nền kinh tế, thành phố đã phải tập trung thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp và xây dựng đồng thời hạn chế FDI cho các ngành dịch vụ và gần như không thu hút FDI cho các ngành nông lâm thuỷ sản.
Góp phần tạo công ăn việc làm :
Một trong những chính sách xã hội được các nhà cầm quyền mỗi địa phương quan tâm đến đó là tỷ lệ thất nghiệp. Vì nếu tỷ lệ này lớn sẽ tiềm ẩn những nguy cơ ra tăng tệ nạn xã hội và một loạt các vấn đề phát sinh khác. Trong tiến trình nhằm giảm tỷ lệ thất nghiệp, FDI đã mang đến cho thành phố Hồ Chí Minh và người lao động các tỉnh lân cận rất nhiều cơ hội việc làm mới (Chi tiết tại bảng dữ liệu số 22 dưới đây)
Bảng 22 : thống kê về số việc làm được tạo mới tại thành phố hồ chí minh
(Đơn vị tính : người)
1995
1996
2000
2001
Tổng số việc làm mới
174.564
174.921
186.659
190.240
1. Việc làm ổn định
147.465
162.291
164.260
167.411
a. Khu vực quốc doanh
10.000
11.003
8.787
8.955
b. Khu vực ngoài quốc doanh và đầu tư nước ngoài
137.465
151.288
155.473
158.456
2. Làm việc tạm thời
27.099
12.630
22.399
22.829
(Nguồn : Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh)
Thực tế trong những năm qua FDI đang mang lại cơ hội việc làm rõ rệt cho người lao động tại thành phố Hồ Chí Minh và khu vực lân cận. Thêm vào đó, thu nhập của người lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường cao hơn là doanh nghiệp 100% vốn trong nước trong cùng một lĩnh vực ngành nghề. Chính việc này đã góp phần làm cải thiện đời sống của người lao động và gián tiếp nâng cao mức sống trung bình của người dân nói chung.
Tăng nguồn thu cho Ngân sách:
Bảng 23 : thu ngân sách trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
(Đơn vị tính : tỷ đồng)
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng thu ngân sách trên địa bàn
19.576
20.537
23.869
25.933
25.725
Thu ngân sách địa phương
2.843
3.279
3.208
3.133
3.396,6
Tỷ lệ so với tổng thu NS trên địa bàn (%)
14,52
15,97
13,44
12,08
13,20
(Nguồn : Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh)
Cùng với sự phát triển kinh tế, ngân sách thành phố cũng liên tục tăng trong những năm qua. Khối doanh nghiệp trực thuộc địa phương vẫn luôn duy trì được tỷ trọng đóng góp cho ngân sách thành phố. Trong số đó phải kể đến phần đóng góp không nhỏ của khối các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Dữ liệu thống kê tại bảng 24 dưới đây sẽ chỉ cho chúng ta điều đó.
Bảng 24 : tốc độ thu ngân sách trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
(Đơn vị tính : %, năm trước = 100)
Năm
1995
1996
2000
2001
- Quốc doanh trung ương
95,7
115,9
96,6
112,4
- XN Đảng, an ninh QP
...
103,8
-
-
- Quốc doanh địa phương
143,0
90,6
115,6
128,4
- Đơn vị có vốn nước ngoài
206,6
151,3
128,5
110,3
- Khu vực ngoài quốc doanh
142,1
142,7
104,3
116,9
- Các khoản thu khác
128,8
124,2
112,9
117,6
(Nguồn : Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh)
Nếu như khối doanh nghiệp quốc doanh (cả trung ương và địa phương) đã có những thời điểm giảm sút về tốc độ nộp ngân sách thì khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh và có vốn đầu tư nước ngoài luôn duy trì được sự tăng trưởng tuy rằng với tốc độ giảm dần trong những năm gần đây.
Bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển và xây dựng cơ sở hạ tầng :
Trong giai đoạn phát triển mới, lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc sử dụng các nguồn vốn để thực hiện ý đồ phát triển kinh tế theo chủ trương đã đề ra (Chi tiết tại bảng dữ liệu số 25 dưới đây).
Bảng 25 : Nguồn vốn đầu tư cho phát triển
Nguồn vốn đầu tư
Năm 2000
Giai đoạn 2001 - 2005
Tỷ đồng
Cơ cấu (%)
Bình quân năm (Tỷ đồng)
Cơ cấu (%)
Tổng 5 năm (tỷ đồng)
1. Vốn ngân sách
2.994
15,2
3.100
7,6
15.500
Trong đó:
- Ngân sách địa phương
2.669
13,5
2.600
6,3
13.000
- Ngân sách trung ương
325
1,7
500
1,2
2.500
2. Vốn doanh nghiệp nhà nước
4.518
22,9
5.000
12,2
25.000
3. Vốn tín dụng
1.107
5,6
4.000
9,8
20.000
4. Vốn doanh nghiệp ngoài quốc doanh
2.574
13,1
5.000
12,2
25.000
5. Vốn đầu tư khác
3.012
15,3
15.440
37,6
47.000
6. Vốn đầu tư FDI
4.940
25,1
6.000
14,6
30.000
7. Vốn ODA
556
2,8
2.460
6
12.300
Tổng số
19.701
100
41.000
205.000
(Nguồn UBND thành phố Hồ Chí Minh)
Nếu như không tính đến nguồn đầu tư khác (chiếm 37,6% nhưng lại là đầu tư không chính thức, không ổn định) thì nguồn vốn đến từ FDI là lớn nhất, điều này chứng tỏ vai trò của FDI trong cơ cầu phát triển kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh. Điều này cũng nói lên sự quan tâm của lãnh đạo thành phố đỗi với nguồn lực từ bên ngoài này.
Việt nam nói chung và Hồ Chí Minh nói riêng đang trong giai đoạn đầu của phát triển một nền kinh tế công nghiệp nên vấn đề đáng quan tâm nhất là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Dưới đây là những ghi nhận về đóng góp của FDI đối với yêu cầu này của nền kinh tế.
Biểu đồ cơ cấu vốn đầu tư XDCB trên địa bàn TP.HCM theo khu vực trong nước và ngoài nước giai đoạn 1990 - 2000 (% theo giá thực tế)
(Nguồn UBND TP HCM)
Nếu như tại thời điểm năm 1990 phần lớn vốn đầu tư cho XDCB là từ nguồn trong nước thì đến thời điểm 2000 gánh nặng này đã được san xẻ cho cả các nguồn từ bên ngoài. Con số thống kê chi tiết tại Bảng 26 dưới đây cho chúng ta thấy nếu như không kể đến lượng vốn của nhà nước đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các doanh nghiệp nhà nước thì khối các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là đáng kể nhất.
Bảng 26 : Giá trị và tốc độ tăng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1991 - 2000
Giá trị tuyệt đối(Tỷ đồng)
Tốc độ tăng (%)
1990
1995
2000
91-95
96-2000
91-2000
Tổng số
2.711
11.264
11.961
33,0
1,2
16,0
1. Vốn ngân sách
432
930
1.887
16,6
15,2
15,9
2. Các loại vốn tín dụng
-
-
714
-
-
-
3. Vốn của các doanh nghiệp nhà nước
1.309
3.276
2.425
20,1
-5,8
6,4
4. Vốn của các tổ chức ngoài QD
213
1.066
1.775
38,0
10,7
23,6
5. Vốn nội địa khác
357
1.242
1.737
28,3
6,9
17,2
6. Vốn đầu tư nước ngoài
401
4.749
3.422
63,9
-6,3
23,9
(Nguồn UBND TP HCM)
Trên đây là những con số thống kê tại địa bàn thành phố. Tuy nhiên để liên hệ trực tiếp đến những đóng góp của FDI đối với phát triển cơ sở hạ tầng trên bình diện quốc gia thì cần có sự so sánh giữa đầu tư vào XDCB của thành phố với các địa bàn khác trên cả nước.
Theo các dữ liệu ở bảng 27 dưới đây thì ta có thể nhận thấy đầu tư XDCB của Hồ Chí Minh luôn chiếm từ 20 - 25% tổng lượng vốn của toàn quốc, đây là một con số không nhỏ nếu như ta so sánh diện tích của HCM với nhiều tỉnh thành khác trong toàn quốc.
Bảng 27 : thống kê đầu tư vào xây dựng cơ bản của thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1990 - 1999 và so với cả nước
Năm
Lượng vốn đầu tư của HCM (tỷ đồng)
Lượng vốn đầu tư trong cả nước (tỷ đồng)
Tỷ lệ của TP HCM
1990
1.020
7.035
14,5 %
1991
2.772
13.471
20,6 %
1992
4.551
24.737
18,4 %
1993
7.278
42.176
17,3 %
1994
9.557
54.296
17,6 %
1995
12.713
68.048
18,7 %
1996
18.645
79.361
23,5 %
1997
22.960
96.870
23,7 %
1998
23.984
97.336
24,6 %
1999
18.897
103.900
18,2 %
Tổng số
122.377
587.230
(Nguồn UBND TP HCM)
Riêng trong lĩnh vực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, Quảng Ninh đã mạnh dạnh áp dụng mô hình đổi đất lấy cơ sở hạ tầng. Theo đó nhà đầu tư sau khi bỏ vốn đầu tư xây dựng cho tỉnh Quảng Ninh một công trình hạ tầng sẽ được lãnh đạo tỉnh ưu tiên cấp quyền sử dụng một diện tích đất được định giá tương ứng với phần vốn đã đầu tư. Thực chất, giá trị quyền sử dụng đất sau khi đã được đầu tư cơ sở hạ tầng tăng lên rất nhiều lần so với thời điểm trước khi đầu tư nên hình thức này thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư Cách làm này của Quảng Ninh đã bước đầu gặt hái được thành công khi đã có một khu du lịch tại đảo Tuần Châu với qui mô lớn nhất Việt nam từ trước đến nay. Nên chăng đây cũng là một mô hình phát triển cơ sở hạ tầng mà các địa bàn khác trên toàn quốc và đặc biệt là Hồ Chí Minh nên học.
Mở rộng quan hệ quốc tế:
Chính phủ Việt nam luôn yêu cầu các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào sản xuất (đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp) phải xuất khẩu tối thiểu là 70% sản lượng, điều này khiến cho chủ đầu tư phải chủ động tìm đầu ra cho sản phẩm tại một thị trường khác. Ngoài ra, đã có rất nhiều các nhà đầu tư đến từ Hàn Quốc sẵn sàng đầu tư xây dựng nhà máy ở Việt nam để sản xuất các mặt hàng nhằm phục vụ nhu cầu thị trường chính quốc gia của họ. Thực tế đã có hơn 20 quốc gia và vùng lãnh thổ thiết lập quan hệ đầu tư vào địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt nam nói chung (chi tiết tại bảng dữ liệu số 17 ở trên). Tất cả những yếu tố trên sẽ mang lại cho hàng hoá thương hiệu Việt nam cơ hội đến được với thị trường nước ngoài đồng thời mở ra những vận hội lớn về giao thương quốc tế.
Những hạn chế cần khắc phục :
Bên cạnh những thành tựu mà FDI đã mang lại cho nền kinh tế thành phố trong thời gian qua, ta không thể không nhắc đến những tồn tại, hạn chế trong việc thu hút và sử dụng FDI để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đồng thời kịp thời khắc phục những yếu kém đó.
Dưới đây chỉ là một vài nhận định của người viết về một số mặt chưa đạt được trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chưa có sự thống nhất trong nhận thức cũng như việc thực hiện thu hút và sử dụng FDI :
Sự cần thiết lâu dài các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vai trò quan trọng của các doanh nghiệp với tư cách là một thành phần kinh tế tư bản nhà nước mặc dù đã được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng nhưng vẫn chưa thực sự có nhận thức thống nhất, chưa được cụ thể hoá đầy đủ và chưa được quán triệt thông suốt ở các địa phương, Bộ, ngành dẫn đến quan điểm xử lý nhiều vấn đề cụ thể liên quan đến FDI còn khác nhau, gây khó khăn cho hoạt động của nhà đầu tư nếu như không nói đến sự chồng chéo trong một loạt các văn bản do các cơ quan hữu quan ban hành khiến cho đống hồ sơ tuy rất dầy nhưng trên thực tế lại vẫn thiếu những kết luận quan trọng nhất.
Trên nhiều vấn đề xử lý cụ thể đối với các dự án đầu tư nước ngoài cũng còn những quan điểm chưa thống nhất như về lựa chọn, cho phép và mở rộng các hình thức đầu tư, về tỷ lệ góp vốn của bên Biệt Nam, về sử dụng máy móc, thiết bị đã qua sử dụg, về lĩnh vực đầu tư, về phát triển các Khu công nghiệp. Những hạn chế trên không chỉ diễn ra trong địa bàn thành phố mà còn là tồn tại trong công tác quản lý FDI trên phạmh vi cả nước. Những quan điểm còn chưa thống nhất trên đây dẫn đến lúng túng trong hoạch định chính sách, trong điều hành xử lý cụ thể, làm chậm tiến dộ xem xét dự án và lỡ cơ hội thu hút vốn đầu tư, làm giảm tính hấp dẫn của môi trườg đầu tư. Tình hình đó cùng với những nhận định còn nặng về xem xét chỉ trích mặt hạn chế trong dự án đầu tư cụ thể đã dẫn đến sự đánh giá chưa thực thống nhất và thiếu khách quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dư luận xã hội.
Có thể xem xét một ví dụ điển hình về sự thiếu thống nhất giữa nhà đầu tư và phía Việt Nam trong công tác hoạch định chính sách : quan điểm về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các nhà đầu tư cho rằng Việt Nam là thị trường mới, với dân số ngày càng tăng, hiện nay có khoảng 80 triệu dân. Đây là nguồn khách hàng cho họ, nên đa số sản phẩm của doanh nghiệp FDI sản xuất tại Việt Nam chủ yếu phục vụ người tiêu dùng Việt Nam trong khi các nhà quản lý hoạch định chính sách của Việt Nam lại cho rằng các sản phẩm của doanh nghiệp FDI là để phục vụ mục tiêu xuất khẩu. Sự vênh trong quan điểm như vậy trong không ít trường hợp đã làm nản lòng nhà đầu tư, dẫn đến mất cơ hội thu hút các nhà đầu tư mới vào địa bàn thành phố nói riêng và trên phạm vi toàn quốc nói chung.
Tốc độ tăng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đang giảm sút :
Bảng 28 : Giá trị và tốc độ tăng của vốn đầu tư vào địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1990 - 2000
Giá trị tuyệt đối (tỷ đồng)
Tốc độ tăng (%)
Năm
1990
1995
2000
91-95
96-00
91-00
Tổng đầu tư
2.711
11.264
11.961
33,0
1,2
16,0
Đầu tư trong nước
2.310
6.514
8.539
23,0
5,6
14,0
Đầu tư nước ngoài
401
4.750
3.422
10,85
-0,28
7,53
(Nguồn : Sở kế hoạch & đầu tư thành phố Hồ Chí Minh)
Chúng ta nhận thấy lượng vốn đầu tư nước ngoài vào thành phố tăng đột biến trong giai đoạn 90 - 95 nhưng lại giữ nguyên thậm chí còn sút giảm trong 5 năm tiếp theo. Trong khi đó đầu tư trong nước vẫn tiếp tục tăng trưởng từng bước vững trắc điều này cho thấy khả năng huy động nguồn lực trong nước của Hồ Chí Minh nói chung và toàn lãnh thổ Việt nam nói riêng là rất cao.
Biểu đồ về tốc độ tăng vốn FDItừ năm 1997 đến năm 2001
Có nhiều nguyên nhân khiến cho đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 95 -2000 sút giảm. Một trong số các nguyên nhân ấy là cuộc khủng hoảng kinh tế của khu vực Đông nam á vào năm 1997. Tuy Việt nam được ghi nhận là đã không bị ảnh hưởng lớn từ cuộc khủng hoảng này nhưng do xu thế đầu tư vào khu vực giảm sút đáng kể nên đầu tư nước ngoài vào Hồ Chí Minh nói riêng và Việt Nam nói chung cũng vì thế mà không duy trì được mức tăng trưởng như trong giai đoạn đầu mở cửa.
Riêng trong lĩnh vực đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, một lĩnh vực luôn được lãnh đạo thành phố quan tâm phát triển thì mặc dù GDP của thành phố vẫn tăng đều qua từng năm nhưng mức độ đầu tư vào xây dựng cơ bản lại không tăng dần theo tỷ lệ với mức tăng về GDP (chi tiết tại bảng dữ liệu số 29 dưới đây). Đỉnh cao của đầu tư cơ sở hạ tầng là năm 1997 với mức đầu tư 23 nghìn tỷ đồng. Mức đầu tư này được tiếp tục duy trì trong năm 1998 nhưng lại giảm dần trong các năm tiếp theo.
Bảng 29 : đầu tư vào xdcb so với GDP của Hồ Chí Minh giai đoạn 1990 - 2000.
Năm
Đầu tư XDCB (tỷ đồng)
GDP (tỷ đồng)
Tỷ lệ đầu tư XDCB/GDP
1990
1.020
6.795
15,0 %
1991
2.772
12.976
21,4 %
1992
4.551
18.587
24,5 %
1993
7.278
23.722
30,7 %
1994
9.557
28.271
33,8 %
1995
12.713
36.975
34,4 %
1996
18.645
45.545
40,9 %
1997
22.960
52.765
43,5 %
1998
23.984
61.226
39,2 %
1999
18.897
69.001
27,4 %
2000
19.688
76.522
25,7 %
(Nguồn : UBND thành phố Hồ Chí Minh)
Cơ cấu FDI còn thiếu cân đối :
Tuy rằng việc phân bổ nguồn vốn đầu tư nước ngoài chịu tác động từ chiến lược phát triển kinh tế của chính quyền địa phương nhưng kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng còn thể hiện tính đúng đắn trong các chính sách đang áp dụng.
Bảng 30 : vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố hồ chí minh giai đoạn 1990-2000 phân theo hình thức đầu tư
(Đơn vị tính : tỷ đồng)
Năm
Tổng số
Chia theo hình thức đầu tư
Liên doanh
Hợp tác KD
100% vốn nước ngoài
1990
646
284
357
5
1991
470
439
3
28
1992
583
478
2
103
1993
1.412
1.038
8
366
1994
1.227
918
82
227
1995
2.317
1.790
23
504
1996
1.373
679
-
694
1997
1.018
195
584
239
1998
711
244
26
441
1999
508
143
25
340
2000
215
22
-
193
2001
618
31
304
283
(Nguồn : Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh)
Bảng dữ liệu cho thấy sự mất cân đối giữa các hình thức đầu tư cả về tỷ lệ phân bổ lẫn tốc độ phát triển. Phải chăng đây là do sự khác biệt của mỗi hình thức đầu tư ? Mỗi hình thức đầu tư đều có những điểm ưu việt riêng, vấn đề ở đây là cần phân bổ một cách hài hoà nhằm vận dụng được tối đa lợi thế của mỗi hình thức đó.
Bảng 31 : vốn đầu tư còn hiệu lực phân theo ngành kinh tế tính đến 31/12/2001
(Đơn vị tính : tỷ đồng)
Ngành kinh tế
Tổng số
Chia ra
Liên doanh
Hợp tác kinh doanh
100% vốnnước ngoài
- Nông lâm thủy sản
43
34
-
9
- Công nghiệp
4.491
1.621
32
2.838
- Xây dựng
425
404
2
19
- Thương nghiệp, KS NH
1.738
1.535
52
151
- Vận tải bưu điện
1.391
163
1.222
6
- Tài chính tín dụng
267
47
-
220
- Kinh doanh bất động sản, tư vấn
2.384
2.208
105
71
- Ngành khác
359
249
1
109
(Nguồn : Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh)
Cùng trong một lĩnh vực bất động sản nhưng ngành kinh doanh lại chiếm lượng vốn lớn hơn rất nhiều so với ngành xây dựng trong khi không thể nói ngành xây dựng mang lại lợi ích cho nước chủ nhà ít hơn ngành kinh doanh bất động sản nếu như không muốn nói là hơn rất nhiều vì những đóng góp của nó cho những vấn đề xã hội khác.
Phải chăng ngành nông, lâm, thuỷ sản của Việt Nam đã đủ mạnh nên không cần vốn, khoa học và công nghệ tiên tiến của nước ngoài ? Vấn đề này cũng có ở lĩnh vực tài chính tín dụng khi lượng vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào các công ty 100% vốn nước ngoài. Điều này khó có thể tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền tài chính của địa bàn sở tại.
Tuy nhiên cũng cần công nhận một kết quả đáng khích lệ khi lượng vốn đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm cao nhất và phân bổ tương đối đồng đều theo hai hình thức chính là liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên cơ cấu phân bổ chi tiết theo từng chủng loại sản phẩm trong ngành công nghiệp lại chưa thật sự hợp lý. Các số liệu dưới đây sẽ cho thấy điều đó.
Bảng 32 : cơ sơ sản xuất công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(Đơn vị tính : cơ sở)
Năm
1995
1996
2000
2001
Tổng số
181
200
364
390
Công nghiệp chế biến
180
199
363
389
- Thực phẩm và đồ uống
20
21
34
36
- Dệt
12
14
15
19
- Trang phục
23
25
61
67
- Thuộc da, sản xuất vali, túi xách
15
18
34
40
- Chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, tre, nứa
8
8
11
13
- Giấy, sản phẩm từ giấy
4
5
9
8
- Xuất bản, in và sao bản
3
1
-
-
- Sản xuất than, sản phẩm dầu mỏ
-
-
2
3
- Hóa chất và các sản phẩm hóa chất
19
18
23
21
- Sản phẩm từ cao su, plastic
15
18
35
29
- Sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại
8
9
11
13
- Sản xuất kim loại
1
-
1
1
- Sản phẩm từ kim loại
12
17
41
42
- Máy móc thiết bị chưa được phân vào đâu
4
5
12
14
- SX thiết bị văn phòng, máy tính
1
1
1
1
- Máy móc và thiết bị điện chưa được phân vào đâu
2
2
15
15
- Radio, tivi và thiết bị truyền thông
9
9
13
17
- Dụng cụ y tế, dụng cụ quang học, đồng hồ các loại
3
4
4
7
- Xe có động cơ, rơ móc
6
6
7
8
- Phương tiện vận tải khác
3
3
6
6
- Giường tủ, bàn, ghế, các SP chưa được phân vào đâu
12
15
28
29
Sản xuất, phân phối điện nước
1
1
1
1
- Sản xuất và phân phối điện
1
1
1
1
(Nguồn : Cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh)
Nếu như nhìn vào số cơ sở công nghiệp thì có thể nói nền công nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh chưa thể phát triển được.
Hạn chế trong các hình thức đầu tư :
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều tồn tại dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Thực tế này cho thấy lãnh đạo thành phố nói riêng và Việt Nam nói chung còn chưa trú trọng tới các hình thức thu hút vốn khác như thành lập công ty cổ phần, cho phép mua bán, sáp nhập doanh nghiệp trong nước với các công ty nước ngoài ... Đây là nguyên nhân dẫn đến trong nhiều năm quan tâ vẫn chưa tạo được các kênh mới để thu hút ròng vốn đầu tư nước ngoài thật hiệu quả.
Trong chỉ đạo và điều hành, thành phố dành ưu tiên thu hút FDI theo hình thức doanh nghiệp liên doanh. Với 6.261 tỷ đồng vốn hiện đang còn hiệu lực, đây là hình thức phổ biến nhất. Tuy nhiên thực tiễn những năm qua cho thấy chính các doanh nghiệp liên doanh lại có tỷ lệ lỗ vốn, giải thể nhiều nhất, mâu thuẫn giữa các bên liên doanh là khá phổ biến. Bên Việt Nam trong liên doanh hầu hết là các doah nghiệp nhà nước, số doanh nghiệp dân doanh tham gia vào liên doanh chiếm tỷ trọng hầu như không đáng kể. Nguồn vốn góp của phía Việt Nam còn rất nhỏ bé, chủ yếu là bằng giá trị quyền sử dụng đất . Thông thường toàn bộ vốn vay do bên nước ngoài thu xếp, không ít trường hợp vay với lãi suất cao, điều kiện vay khắt khe trở thành gánh nặng cho doanh nghệp, dẫn đến tình trạng thua lỗ kéo dài. Do vốn góp trong liên doanh của phía Việt Nam khá nhỏ, tiềm lực tài chính hạn chế, nên trong nhiều trường hợp tình trạng mất vốn trở thành nguy cơ có thật. Mặc khác, đối với dự án có quy mô lớn, tỷ lệ đóng góp của bên Việt nam không đáng kể, do đó thường bị yếu thế trong doanh nghiệp. Trong khi đó, Việt Nam lại vẫn thiều cơ chế huy động các nguồn lực khác nhau để góp vốn vào liên doanh.
Việc các dự án BCC chiếm tỷ trọng còn rât nhỏ, trong khi chưa thu hút được dự án dưới các hình thức BOT, BTO, BT cho thấy sự hạn chế trong khả năng thu hút FDI của thành phố. Trong tương lai, thành phố cần có nhiều hơn những giải pháp thích hợp đê kích thích các hình thức này phát triển, đặc biệt nên dành nhiều hơn nữa những ưu đãi cho các dự án BOT, BTO, BT.
Chưa thu hút được nhiều FDI từ các nước kinh tế phát triển với tiềm năng về vốn thực sự đáng kể :
Một trong những mục tiêu cơ bản trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt nam là tiếp nhận những công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài nhằm làm tiền đề cho nền công nghiệp non trẻ của nước nhà phát triển. Với ý nghĩa đó thì mục tiêu thu hút FDI của nước ta là những nước công nghiệp phát triển hoặc các nước có nền kinh tế phát triển nhưng thực tế trong giai đoạn vừa qua chúng ta chưa làm được điều đó. Các số liệu tại bảng 33 dưới đây sẽ phần nào chỉ ra điều đó.
Bảng số liệu được sắp xếp theo lượng vốn đầu tư. Chúng ta dễ dàng nhận thấy các nhà đầu tư lớn nhất lại là từ các nước công nghiệp mới phát triển - NIC hoặc các nước ở trong cùng khu vực Đông Nam á có vị trí địa lý gần với nước ta. Các nước có nền kinh tế phát triển chỉ đứng ở vị trí thứ 4 trở về sau.
Bảng 33 : thống kê 10 quốc gia dẫn đầu về đầu tư vào Hồ Chí Minh (1988-2001)
Quốc gia
Số lượng dự án
Tỷ lệ so với tổng số lượng dự án
Lượng vốn đầu tư(USD)
Tỷ lệ so với tổng lượng vốn đầu tư
Hồng Kông
93
10,92 %
1.773.204.469
19,45 %
Đài Loan
258
16,01 %
1.726.352.670
10,49 %
Singapore
110
8,13 %
1.462.238.983
9,93 %
Pháp
44
3,54 %
888.094.504
6,69 %
Hàn Quốc
140
11,68 %
711.101.319
5,74 %
Nhật
127
11,99%
640.249.979
5,49 %
Anh
33
3,54 %
552.182.784
5,01 %
úc
17
1,89 %
425.222.679
4,06 %
Thụy Điển
15
1,70 %
408.404.000
4,06 %
Hà Lan
15
1,73 %
528.404.000
5,48 %
Tổng cộng
852
71,10 %
9.115.455.387
76,40 %
(Nguồn : Trung tâm xúc tiến đầu tư thành phố Hồ Chí Minh)
Chương iIi một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và tăng hiệu quả sử dụng fdi tại thành phố Hồ chí minh
i. định hướng thu hút fdi tại thành phố hồ chí minh
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội thành phố giai đoạn 2002 - 2005 tập trung xây dựng 16 ngành chủ lực: chế biến thực phẩm, cơ khí, điện tử, hoá chất, nhựa cao su, dệt may, giày da, xây dựng, vận tải, du lịch, thương mại, công nghiệp phần mềm, bưu chính - viễn thông, kinh doanh tài sản - tư vấn và dịch vụ tài chính - ngân hàng.
Công nghiệp:
Đóng và sửa chữa tàu biển phục vụ giao thông đường thuỷ.
Sản xuất mạch điện tử nhiều lớp, cụ linh kiện máy tính, viễn thông, điện tử.
Sản xuất vật liệu và sản phẩm từ tính, linh kiện thạch anh, màn hình tinh thể lỏng.
Sản xuất nguyên liệu cho ngành nhựa (bột PVC, tạo hạt PVC, PP, PEHD, PELD)
Sản xuất sợi các loại phụ vụ cho ngành dệt
Sản xuất vải cao cấp dùng cho xuất khẩu
Sản xuất xút và soda với qui mô trên 50.000 tấn/năm ; các loại hoá chất và các sản phẩm thuộc ngành hoá chất sử dụng tài nguyên khoáng sản ; hoá chất sử dụng nguyên liệu từ thực vật có trong nước.
Thuộc da, giả da.
Sản xuất phôi thép kỹ thuật cao phục vụ ngành cơ khí.
Trung tâm cơ khí chế tạo sản phẩm mẫu: có chức năng thiết kế sản phẩm, thiết kế công nghệ chế tạo và sản xuất sản phẩm mẫu theo đặt hàng của các doanh nghiệp, các trường Đại học đê chuyển giao sản phẩm và công nghệ cho các doanh nghiệp, để phục vụ cho sự phát triển của các ngành chế biến thực phẩm, nông nghiệp, dược phẩm, nhựa ...
Lĩnh vực đào tạo:
Đào tạo lập trình viên phần mềm ; đào tạo công nhân lành nghề cho các ngành cơ khí, điện tử.
Thu hút các trường đại học chuyên ngành kỹ thuật, công nghệ thông tin, kinh tế có uy tín trên thế giới đầu tư đào tạo đại học và sau đại học.
Hạ tầng:
Dự án xử lý nước thải và cải tạo hệ thống kênh rạch thành phố.
Dự ná xử lý rác thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp và chất thải độc hại.
Phát triển dịch vụ xe buýt vận tải hành khách công cộng.
Xây dựng đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi
Xây dựng hệ thống đường Metro cho thành phố (tuyến Tân Sơn Nhất - Bến Thành và Bến Thành - Bình Tây).
Xây dựng cảng cá Cần Giờ
Xây dựng cảng chuyên dùng xuất khẩu khi công nghiệp Hiệp Phước.
Xây dựng trục đường trên cao dọc kênh Nhiêu Lộc - thị Nghè tuyến đường Hoàng Văn Thụ - Công trường Dân chủ.
Công nghệ cao:
Khu công nghệ có của thành phố sẽ được xây dựng ở quận 9.
Các chương trình công nghệ sinh học để sản xuất con giống chất lượng cao, các loại bò sữa, bò thịt, tôm sú, tôm hùm.
Công viên phần mềm Quang Trung.
Khu nông nghiệp công nghệ cao.
Khu y tế kỹ thuật cao.
Cao ốc công nghệ thông tin - viễn thông thành phố Hồ Chí Minh.
Thương mại, du lịch, giải trí:
Khu du lịch Bình Quới - Thanh Đa.
Công viên tháp truyền hình thành phố.
Công viên lịch sử văn hoá dân tộc.
Trung tâm thương mại (Thương xá Tax).
Trung tâm triển lãm hội chợ thành phố Hồ Chí Minh tại quận 2.
Khu thể dục thể thao Rạch Chiếc.
Xây dựng Thảo Cầm Viên thành phố (tại huyện Củ Chi)
Khu du lịch sinh thái Cần Giờ.
Y tế:
Viện thần kinh.
Trung tâm cấp cứu Trưng Vương.
Trung tâm chấn thương chỉnh hình.
Trung tâm kiểm định xét nghiệm chuẩn.
Trung tâm Ung bướu.
Trung tâm tai mũi họng.
Ngân hàng máu.
Bệnh viện Quốc tế (quận 2).
ii. một số giải háp nhằm tăng cường thu hút và tăng hiệu quả sử dụng fdi tại thành phố Hồ chí minh
Thống nhất định hướng trong thu hút và sử dụng FDI :
Việc xây dựng đường hướng cho các chính sách thu hút FDI không thể tách khỏi định hướng chung của quốc gia. Từ định hướng chung, dựa trên những thế mạnh sẵn có của mình, các nhà lãnh đạo xây dựng chiến lược cho HCM một cách cụ thể, thống nhất. Sự thống nhất định hướng còn thể hiện ở việc thống nhất giữa các ngành hữu quan về thu hút cũng như quản lý việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài sao cho đồng bộ và không chồng chéo lên nhau. Sức mạnh của một tổ chức thể hiện ở sự đồng bộ và gắn kết giữa các bộ phận của tổ chức đó.
Xây dựng chính sách hỗ trợ thị trường và tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài :
Thành phố cần chủ động tăng chi ngân sách nhà nước, phục vụ mục đích giảm hoặc trợ giá cho các hoạt động khuyến khích xuất khẩu và xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp, trong đó bao gồm các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mức ưu đãi cao nhất nên giành cho mục tiêu khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm đã chế biến, chế biến tinh, các sản phẩm chất lượng cao, đặc biệt là những sản phẩm mang thương hiệu của Việt Nam.
Hiện này thị trường hàng hoá, dịch vụ phát triển mạnh, nhưng quản lý chưa tốt nên tình trạng kinh doanh trái pháp, trốn lậu thuế, gian lận thương mại còn phổ biến đã ảnh hưởng tới các nhà sản xuất. Thành phố cần đề nghị Bộ tài chính khẩn trương nghiên cứu hoặc cho phép Hồ Chí Minh thí điểm các chế tài tài chính đủ mạnh (trong đó phạt tiền thật nặng) theo khuôn khổ pháp lý thích hợp để tránh tình trạng bán phá giá, bán hàng kém chất lượng ra thị trường, chống gian lận thương mại và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hoá ... Đồng thời, thành phố cần sử dụng phối hợp cả các biện pháp kinh tế lẫn các biện pháp hành chính để ngăn chặn hiệu quả nạn buôn lậu, hàng giả, kinh doanh thiếu đạo đức, thực thi nghiêm ngặt luật cạnh tranh, luật chống đầu cơ ...
Bên cạnh đó, thành phố cũng cần sửa đổi hệ thống mã thuế tương ứng với hệ thống mã hàng quốc tế, tránh việc tuỳ tiện áp mã thuế xuất nhập khẩu. Rút ngắn qui trình khai, kiểm hoá và tính thuế. Nghiên cứu xây dựng mẫu khai cho nhiều loại hàng trong một số lô hàng và nghiên cứu phương thức chỉ mở tờ khai một lần cho nhiều lần nhập khẩu một mặt hàng để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp. Cần tiến hành xử phạt hợp lý khi chủ hàng tính thuế sai do các văn bản thuế hay thay đổi và loại bỏ tình trạng thiếu tính minh bạch, rõ ràng trong công tác thực thiện các qui định về thuế.
Xác định đối tượng cho các chính sách thu hút FDI :
Thực tế thu hút FDI của thành phố Hồ Chí Minh cũng như Việt Nam trong thời gian qua đã cho thấy nguồn vốn nước ngoài mà chính phủ ta thu hút được phần lớn đều đến từ các nước trong khu vực và thuộc khối NIC (các nước công nghiệp mới) nên chưa thể gọi là có hiệu quả đặc biệt nếu như nhìn từ khía cạnh chuyển giao công nghệ mới.
Với mục đích tạo bước đệm cho tiến trình hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước, nguồn vốn từ nước ngoài sẽ hiệu quả hơn rất nhiều nếu nó xuất phát từ những nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật ... Vấn đề là các nhà hoạch định chính xác cần xác định rõ thị trường mục tiêu để từ đó xây dựng những chính sách thích hợp hơn nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư từ những nền kinh tế phát triển trên thế giới.
Cũng cần phải nói thêm rằng, một chính sách rõ ràng sẽ tạo được lòng tin ở nhà đầu tư đồng thời cũng định hướng đầu tư đúng theo mong muồn của các nhà hoạch định chính sách.
Chính sách đó phải được xây dựng dựa trên điều kiện sẵn có của địa phương để từ đó phát huy tối đa các ưu điểm đồng thời hạn chế các nhược điểm của mình. Một yếu tố rất quan trọng và không được phép xa rời đó là đảm bảo được sự cân bằng về lợi ích giữa nhà đầu tư và chính quyền sở tại.
Sử dụng nguồn vốn FDI thu hút được một cách hiệu quả nhất :
Thực tế cho thấy, không chỉ tập trung vào việc thu hút mà quan trọng hơn là phải biết sử dụng nguồn vốn đó sao cho hiệu quả. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nên kinh tế bản địa. Nếu chính quyền địa phương có chính sách sử dụng hiệu quả sẽ giúp họ định hướng và kiểm soát được sự phát triển kinh tế địa phương đồng thời cũng mang lại hiệu quả cao hơn từ đồng vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
Kết luận
Trải qua hơn mười năm tiến hành thu hút FDI, hoạt động đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh đã trải qua những giai đoạn thăng trầm nhất định. Sau những năm đầu chập chững mở cửa kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài, các nhà lãnh đạo thanh phố đã rút ra những bài học quí giá và ngày càng hợp lý hơn trong chính sách thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Sau bước nhảy vọt về FDI vào nhứng năm 1993 – 1996 là một giai đoạn trùng lắng trong những năm 1997 – 1999, tuy nhiên cũng đã có dấu hiệu dần hồi phục và phát triển trong những năm gần đây. Nguyên nhân của sự phát triển không đều này một phần từ những lý do chủ quan như việc thẩm định cấp phép không được trú trọng đúng mức khiến cho nhiều dự án đã được cấp phép nhưng không hoạt động hoặc hoạt động thiếu hiệu quả, một nguyên nhân khác đến từ khách quan như biến động kinh tế của khu vực và trên toàn thế giới. Song, nhìn một cách tổng quát thì dù có từng giai đoạn phát triển khác nhau nhưng thực tế trong những năm qua cho thấy FDI đã góp một phần không nhỏ và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước nói chung và tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. FDI đã làm tốt vai trò của một đòn bẩy kinh tế tạo đà cho nền kinh tế thành phố nói riêng và Việt nam nói chung tiến triển.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo thành phố không nên dựng lại ở những thành công đã đạt được mà cần tiếp tục tìm ra những giải pháp nhằm hoàn thiện hơn chính sách thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, đánh trúng vào thị trường mục tiêu để có thể thu hút được lượng vốn nhiều hơn, chất lượng hơn và luôn biết kết hợp sử dụng nguồn vốn cả trong lẫn ngoài nước để thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển, luôn giữ vững vị trí đi đầu trong cả nước từ đó tạo động lực cho các địa phương khác vươn theo.
Tin tưởng rằng, trong tương lai, với những nỗ lực từ các cấp, các ngành, hoạt động thu hút và sử dụng FDI tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và Việt nam nói chung sẽ không ngừng đạt được những thành tựu mới, cùng góp sức đưa đất nước tiên lên, ngày càng giàu mạnh.
Hà nội 05/2003.