Để tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất lợn xuất khẩu nhanh chóng cải thiện cơ cấu, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm (tăng nhanh tỷ lệ nạc), Nhà nước cần ưu tiên đầu tư phát triển đàn lợn giống chất lượng theo hướng nạc.
Viện Chăn Nuôi Quốc Gia, Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, một số doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Chăn nuôi Việt Nam nhập khẩu đàn lợn giống cụ kỵ, năng suất chất lượng cao và nuôi dưỡng đàn lợn giống ông bà. Để đáp ứng yêu cầu thị trường Nga, đối với thịt lợn mảnh và thịt block đông lạnh, xuất khẩu sang Nga đạt yêu cầu thịt 25 kg/mảnh ; độ dày mỡ lưng ≤ 3cm, các địa phương trong vùng nuôi lợn có thể thực hiện một trong hai công thức sau đây :
Thực hiện công thức lai 3 giống, lấy lợn nái nền là lợn Móng Cái và sử dụng lợn đực ngoại từ 2 giống Yorkshire hoặc Landrace để có sản phẩm lợn thịt 3/4 máu ngoại, đảm bảo tỷ lệ nạc 42 – 45%, đọ dày mỡ lưng ≤ 3cm.
Những nơi chọn lọc lợn nái nền Móng Cái tốt, kiểm tra cá thể đực giống Yorkshire hoặc Landrace tốt, có thể sử dụng công thức lai hai máu: lợn nội Móng Cái x đực ngoại Landrace hoặc Landrece (đực giống loại tốt đã qua kiểm tra năng suất cá thể) tạo ra con lai F1 thương phẩm 85 – 90kg/con, độ dầy mỡ lưng chỉ gần 3cm.
Để đáp ứng nhu cầu thị trường xuất khẩu thịt lợn sữa cho Hồng Kông, Malaysia, tương lai là thị trường Singapore, Nam Trung Quốc, thực hiện lấy nái nền Móng Cái x đực ngoại Yorkshire hoặc Landrace tạo ra lợn sữa thương phẩm 6 – 7kg hơi/con. Đối với mặt hàng này bạn hàng Hồng Kông chỉ yêu cầu là lợn lai F1, khối lượng sau khi giết mổ ướp đông lạnh đạt 3kg/con, không rách da thịt lợn sữa này có sẵn máu lợn Móng Cái đảm bảo thơm ngon và chắc thịt. Nếu chúng ta đầu tư vào công tác chọn và nhân giống tốt, đảm bảo chất lượng nguyên liệu theo yêu cầu của đối tác sẽ là điều kiện tiên quyết duy trì bạn hàng lâu dài.
Đối với những nước nhập khẩu thịt lợn choai (Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc, Malaysia, Nhật Bản) 40 – 45 kg/con, tỉ lệ nạc >52% thực hiện lai 2 hoặc 3 giống lợn ngoại với nhau (Yorshire, Landrace, Duroc).
Các tỉnh trong vùng chăn nuôi lợn xuất khẩu, đầu tư xây dựng trại lợn giống cấp ông bà với quy mô 300- 500 lợn nái, đầu tư nâng cấp trung tâm và trạm truyền tinh nhân tạo lợn, xây dựng vùng giống lợn nhân dân.
Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức cá nhân, hộ gia đình chăn nuôi lợn có quy mô thường xuyên từ 10 lợn nái trở lên.
103 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1662 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và các giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lợn của Việt Nam thời kỳ đến năm 2010 theo 2 phương án sau :
Bảng 3.1 : Dự báo xuất khẩu thịt lợn Việt Nam
Phương án I
2005
2010
Sản lượng
(nghìn tấn)
Giá trị
(triệu USD)
Sản lượng
(nghìn tấn)
Giá trị
(triệu USD)
Tổng số
45,0
110,0
105,0
275,0
So với thế giới (%)
1,30
2,28
1. Hồng Kông
15,0
25,0
2. Nga
10,0
25,0
3. Malaixia
0,10
1,00
4. Singapore
1,80
22,00
5. Các nước khác
11,90
29,00
Phương án II
Tổng số
56,0
147,0
125,0
330,0
So với thế giới (%)
1,6
3,33
1. Hồng Kông
20,0
30,0
2. Nga
15,0
35,0
3. Malaixia
0,13
2,5
4. Singapore
12,0
25,0
5. Các nước khác
8,87
40,5
Nguồn Dự báo thị trường một số hàng hoá xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam thời kỳ đến năm 2010, Bộ Thương Mại, 5/2001.
Trong số các thị trường xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, thị trường Nga và thị trường Hồng Kông là những thị trường đã có quy mô xuất khẩu khá trong thập kỷ 90, nhưng hiện vẫn đang gặp khó khăn do khả năng cạnh tranh về giá của Việt Nam thấp so với nhiều nước xuất khẩu khác; thị trường Singapore và Malaixia là những thị trường đã đạt được quan hệ, nhưng chất lượng xuất khẩu của Việt Nam chưa được các thị trường này chấp nhận. Vì vậy, trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, các phương án xuất khẩu được đề xuất trên cơ sở giả định rằng Việt Nam sẽ tập trung vào việc tạo giống con có chất lượng xuất khẩu và hạ giá thành sản xuất, đặc biệt là giá thức ăn gia súc. Đồng thời, trong xu thế tự do hoá thương mại như hiện nay, Việt Nam sẽ tiếp cận được các thị trường nhập khẩu lớn như Mỹ, Nhật và các thị trường tiềm năng, đặc biệt là thị trường Trung Quốc với triển vọng nhập khẩu thịt lợn trên dưới 200 ngàn tấn/năm trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.
Dự báo đầu năm 2005 thịt lợn của Việt Nam sẽ xuất khẩu vào thị trường Hồng Kông chiếm 33,3%, vào thị trường Liên Bang Nga 22,2%, Singapore chiếm 17,8%, Malaixia chiếm 0,2% vào các thị trường khác chiếm 26,5%. Đến năm 2010 cơ chế thị trường xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam như sau: Liên Bang Nga chiếm 28,6%; Hồng Kông chiếm 23,8%; Singapore chiếm 19,0%; Malaixia 0,9% và các thị trường khác chiếm 27,6%.
3. Khả năng sản xuất thịt lợn của Việt Nam thời kỳ đến năm 2010
Tại Việt Nam, các kết quả trong nghiên cứu và ứng dụng trong chăn nuôi lợn tập trung vào công nghệ chăn nuôi theo phương thức công nghiệp như: Giống lợn thịt nuôi phổ biến là lợn lai 4 máu hoặc 5 máu. Thức ăn chế biến công nghiệp, lợn cai sữa sớm ở 21 ngày tuổi, sử dụng vắc xin phòng bệnh, chất thải được xử lý qua hệ thống xử lý hoàn thiện, sản phẩm thịt lợn được chế biến công nghiệp và tiêu thụ qua mạng lưới siêu thị hoặc các cửa hàng bán thực phẩm an toàn.
Từ 1990 đến nay, tổng đàn lợn của cả nước đạt 20 triệu con với sản lượng thịt 1,42 triệu tấn. Năng suất 1200 - 1400 kg thịt lợn/nái/năm; tăng trọng bình quân đạt 500 - 550 gram/ngày, tiêu tốn dưới 3,5kg thức ăn/1 kg lợn hơi.
Năm 2000 đàn lợn của cả nước có 20,2 triệu con, năm 1999 đàn lợn có 16,3 triệu con, như vậy đàn lợn của cả nước tăng bình quân 5% năm.
Tổng sản lượng thịt hơi năm 1995 là 1 triệu tấn, năm 2000 là 1,42 triệu tấn, bình quân tăng 7% năm.
ở nước ta đã xuất hiện một số hộ gia đình nuôi lợn với quy mô lớn, những hộ nuôi lợn với quy mô lớn tập trung chủ yếu ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ, phần lớn lợn nuôi là lợn lai và lợn ngoại.
Mục tiêu đến năm 2005 đàn lợn đạt 24 triệu con và đến năm 2010 đàn lợn là 30 triệu con.
Năm 1999 mức sản xuất thịt lợn hơi các loại là 22 kg/đầu người/năm, phấn đấu đưa mức sản xuất thịt lợn lên 30kg/đầu người năm 2005 và 35kg/đầu người năm 2010. Cố gắng nâng cao tỷ lệ đàn nái lai và nái ngoại lên 70 - 75%, giảm dần đàn nái ỉ và nái là không rõ nguồn gốc.
Trong 10 năm tới, tốc độ tăng trưởng giá trị sản lượng chăn nuôi hàng năm đạt 4,5 - 5% phấn đấu đưa sản lượng thịt hơi lên 30kg/người (tương đương 22 kg thịt sẻ/ người) vào năm 2005 và đến năm 2010 đạt 35 kg thịt hơi/người tương đương 26kg thịt sẻ/người. Tổ chức sản xuất nguyên liệu chăn nuôi, chế biến sản phẩm thịt, phấn đấu đến năm 2005 xuất khẩu đạt 80.000 tấn giai đoạn 2006 - 2010 mỗi năm xuất khẩu đạt 100.000 tấn thịt lợn đạt hiệu quả cao, kim ngạch xuất khẩu đạt 100 - 150 triệu USD/năm.
II. Định hướng xuất khẩu mặt hàng thịt lợn giai đoạn 2001-2010
1. Quan điểm chiến lược về phát triển xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam thời kỳ đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020
Xuất khẩu thịt lợn nhằm thực hiện mục tiêu chung của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trong thời kỳ 10 năm tới đã được xác định tại Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là: “nỗ lực gia tăng tốc độ xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá ; hiện đại hoá, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ ; về nhập khẩu, chú trọng thiết bị và nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất – nhập khẩu, mở rộng đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh, hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới”.
1.1. Ưu tiên cho xuất khẩu mặt hàng thịt lợn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển sản xuất, thu hút lao động, tăng thu nhập cho người dân nhất là vùng nông thôn
Phát triển xuất khẩu mặt hàng thịt lợn không những có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa rất to lớn về các mặt chính trị xã hội. Đó là, tăng thu nhập cho quốc gia, nâng cao đời sống xã hội, tạo công ăn việc làm, đặc biệt giải quyết được một số lượng lớn ở nông thôn. Vì vậy mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là vừa chú trọng phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu, vừa chú trọng đẩy mạnh sản xuất hàng hoá xuất khẩu trên cơ sở đẩy mạnh chuyên môn hoá và phát huy tối đa lợi thế so sánh quốc gia. Đây là sản phẩm hàng hoá chúng ta có tiềm năng phát triển lớn tại khu vực nông thôn, đồng thời là sản phẩm hàng hoá mà chúng ta có lợi thế về điều kiện tự nhiên, chi phí nhân công rẻ.
Hình thành các vùng chăn nuôi lợn với các trang trại có quy mô vài chục con đến vài trăm con và các nhà máy chế biến cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
Cần xác định đầu tư vào các vùng chăn nuôi lợn để tạo ra nguyên liệu cho chế biến và xuất khẩu. Trên cơ sở quy hoạch các vùng chăn nuôi và tiến hành xây dựng các dự án cụ thể để thu hút vốn đầu tư trên từng vùng cụ thể cần có chính sách ưu tiên sát thực để khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển kinh tế vùng. Việc phát triển chăn nuôi theo vùng sinh thái đặc biệt có ý nghĩa trong việc nâng cao phẩm cấp, chất lượng hàng hoá.
Song song với việc phát triển nguồn nguyên liệu, cần chú ý công tác chống thất thoát sau thu hoạch và quản lý thị trường…Đối với các vùng chăn nuôi lợn tập trung thì hình thức đa dạng nhằm gắn cơ sở chế biến với vùng nguyên liệu, gắn kết giữa sản xuất với tiêu thụ. Đối với những vùng chăn nuôi chưa phát triển thì cần chú trọng hình thức lưu thông cấp độ vừa và nhỏ, coi trọng kênh tiêu thụ qua chợ.
Từng bước xây dựng hệ thống tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh thịt lợn xuất khẩu ngang tầm của một nền kinh tế hướng về xuất khẩu, của một nền xuất khẩu lớn trên cơ sở liên kết của nhiều loại hình tổ chức kinh tế của Việt Nam và của Việt Nam với nước ngoài ; đảm bảo tạo dựng thế liên hoàn vững chắc từ khâu nghiên cứu - triển khai - sản xuất - thu mua- chế biến - tiêu thụ - hệ thống phân phối hàng thịt lợn xuất khẩu của Việt Nam và các dịch vụ sau bán hàng…
Đặc biệt là cần có chính sách ưu đãi (tín dụng, lãi suất, thưởng…) để khuyến khích phát triển các trang trại chăn nuôi lợn mới. Việc phát triển theo các trang trại chăn nuôi có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó có khả năng tác động đến tốc độ mở rộng thị trường vừa đóng vai trò tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, tăng kim ngạch xuất khẩu, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động.
Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực vững vàng về chính trị, thông thạo về nghiệp vụ có tác phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn nhân lực theo những tiêu chuẩn chung, cần chú trọng đào tạo đội ngũ quản lý và kinh doanh hiểu biết sâu về pháp luật quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt những chuyển biến trên trường quốc tế để ứng xử kịp thời. Bên cạnh đó cần hế sức coi trọng đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ có tay nghề cao. Cùng với việc đào tạo nhân lực cần có chính sách thu hút, bảo vệ và sử dụng nhân tài ; bố trí, sử dụng cán bộ đúng với ngành nghề được đào tạo và sở trường năng lực của từng người.
1.2. Chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới trên cơ sở phát huy tối đa những lợi thế so sánh của đất nước
Chủ động và khẩn trương hội nhập kinh tế đổi mới công nghệ và trình độ quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế so sánh của nước ta, ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ, bắt kịp thay đổi nhanh chóng trên thị trường thế giới để thịt lợn chiếm thị phần ngày càng lớn trên thị trường trong nước và thế giới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tiến hành điều tra phân loại đánh giá khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm, từng dịch vụ, từng doanh nghiệp, từng địa phương để có biện pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường khả năng cạnh tranh. Gắn quá trình thực hiện Nghị Quyết hội nghị trung ương 3 khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tích cực chủ động tranh thủ mọi cơ hội mở rộng thị trường hàng hoá xuất khẩu đa dạng hoá và đa phương hoá đối tác thương mại phòng ngừa rủi ro các chấn động đột biến ; mở rộng tối đa về phương diện nhưng đồng thời phải chú trọng đến các thị trường trọng điểm, trước hết là thị trường có sức mua lớn về mặt hàng thịt lợn như Hồng Kông, Nhật… tiếp cận các thi trường công nghệ nguồn nhằm gắn nhập khẩu với xuất khẩu, phục vụ tốt cả “đầu vào” và “đầu ra” của quá trình thực hiện mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng về xuất khẩu.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa bảo vệ lợi ích dân tộc giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ môi trường.
Xây dựng một cơ cấu ngành công nghiệp chủ lực theo hướng hội nhập quốc tế bao gồm những ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu và những ngành dịch vụ hướng ngoại. Tính chất hội nhập của cơ cấu công nghiệp sẽ đặt toàn bộ nền kinh tế của một nước đối mặt với thị trường thế giới, trong đó không chỉ có ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ xuất khẩu phải nỗ lực để chiếm lĩnh thị trường ngoài nước, mà ngay cả những ngành phục vụ những nhu cầu nội địa cũng phải cạnh tranh gay gắt tại sân nhà với hàng nhập khẩu trong điều kiện không còn hàng rào bảo hộ để tồn tại. Một cơ cấu công nghiệp chế biến theo hướng hội nhập quốc tế sẽ không chỉ có ý nghĩa hướng ra thế giới mà còn bao hàm cả lĩnh vực được tạo dựng để hấp thụ các nguồn lực: vốn công nghệ, nhân lực và các giá trị tinh hoa của thế giới.
Xây dựng một thể chế kinh tế - xã hội theo hướng hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, những định chế pháp lý của thị trường không biên giới sẽ hình thành và tác động, bao gồm ít nhất là trên lĩnh vực thương mại, đầu tư, dịch vụ tiền tệ, tài chính lao động, văn hoá… nếu trong mô hình công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu, thể chế kinh tế - xã hội của một nước vẫn mang tính quốc gia là chính, tuy có sự tác động của thị trường quốc tế, thì thể chế của mô hình công nghiệp hoá theo hướng hội nhập tất yếu sẽ có những đặc trưng thích hợp với những định chế khu vực và toàn cầu, và do những định chế này quy định.
Tích cực chủ động mở rộng thị trường. Đa phương hoá và đa dạng hoá các đối tác, phòng ngừa chấn động đột ngột, tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn hiện nay còn chiếm tỉ trọng thấp.
1.3. Phát huy nội lực đổi mới cơ chế quản lý, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu thịt lợn
Với một nền sản xuất nhỏ, phân tán, sức cạnh tranh hàng thịt lợn của ta còn kém, cơ hội thâm nhập thị trường quốc tế mới chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng. Hàng hoá trong khu vực phần lớn giống chủng loại hàng hoá của ta nhưng có sức cạnh tranh cao hơn nên khi mở cửa thị trường Việt Nam dễ mất chỗ đứng ngay cả trên thị trường nội địa, nếu không có biện pháp bảo vệ hợp lý và thực hiện chiến lược phát triển, thay đổi công nghệ cao thích ứng để vươn lên.
Chúng ta cần phát huy tối đa những lợi thế so sánh mà chúng ta đã có, tận dụng những lợi thế về các nhân tố điều kiện tự nhiên và nhân lực trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm cũng như doanh nghiệp trên trường quốc tế.
Thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, tạo điều kiện thông thoáng trong thủ tục, hành chính và hải quan. Giảm bớt các thủ tục hành chính không cần thiết, tránh lãng phí thời gian, gây phiền toái cho nhà sản xuất kinh doanh.
Hội nhập buộc hệ thống chính sách kinh tế – thương mại của Việt Nam phải phù hợp với các nguyên tắc và luật chơi quốc tế. Đây cũng là một thách thức lớn, khi mà các chính sách của Việt Nam còn nhiều điều bất cập, kỹ thuật xây dựng còn thô sơ, chưa đồng bộ. Sớm nghiên cứu, ban hành đồng bộ một hệ thống chính sách phù hợp với các thông lệ và nguyên tắc quốc tế, tận dụng triệt để những lợi ích ưu đãi cho Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Hoàn chỉnh hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật kinh doanh, ký kết các Hiệp định thương mại, tham gia WTO là điều kiện cần thiết cho việc tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Tiếp tục bổ sung sửa đổi pháp luật về đầu tư. Trong tiến trình đi đến xây dựng một luật chung cho đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, trước mắt để đảm bảo một môi trường đầu tư có sức hấp dẫn và tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực, cần sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Đầu tư nước ngoài hiện hành và các văn bản pháp luật liên quan.
Mục tiêu của nhà nước thông qua chiến lược, kế hoạch, bằng công cụ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, kết hợp với việc sử dụng lực lượng vật chất và thông qua định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước có điều kiện góp phần nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu.
Tạo một môi trường pháp lý thuận lợi cho cạnh tranh trong kinh doanh xuất khẩu gắn bó chặt chẽ với môi trường pháp lý về kinh doanh nói chung, kinh doanh hàng xuất khẩu nói riêng. Sớm đưa vào áp dụng Luật cạnh tranh bảo đảm yêu cầu bình đẳng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế, thúc đấy hoạt động xuất nhập khẩu.
Tích cực tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại hình thị trường hàng hoá, dịch vụ, lao động, khoa học công nghệ, vốn, bất động sản…, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý kinh tế nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt chú trọng đổi mới và củng cố hệ thống tài chính, ngân hàng.
1.4. Gắn thị trường trong nước với nước ngoài, mở rộng thị trường, đa dạng hoá, đa phương hoá thị trường xuất khẩu
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa dạng hoá đa phương hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Gắn thị trường trong nước với thị trường ngoài nước ; vừa chú trọng phát triển thị trường trong nước vừa ra sức mở rộng đa dạng hoá các thị trường ngoài nước
Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
đa dạng hoá thị trường tiếp tục là hướng cơ bản trong 10 năm tới. Tuy trọng tâm vẫn đặt vào thị trường của Châu á Thái Bình Dương (do vị trí địa lý gần gũi, còn nhiều tiềm năng …) song cần nâng tỷ trọng các thị trường khác để vừa đẩy mạnh xuất khẩu, vừa tăng khả năng phòng ngừa chấn động đột ngột.Theo đó các thị trường Hồng Kông, Nga, Singapore, Malaysia, Nhật Bản sẽ là những thị trường cần được quan tâm đặc biệt, trong khi cần tích cực chủ động xâm nhập các thị trường còn lại.
Gắn thị trường trong nước với nước ngoài, mở rộng thị trường
Vấn đề phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu, đặc biệt là thị trường xuất khẩu, thị trường ngoài nước có vị trí vai trò quan trọng trong chiến lược hướng về xuất khẩu. Yêu cầu đặt ra đối với chiến lược này là lấy việc đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới làm mục tiêu và định hướng cho sản xuất trong nước. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất trong nước thích ứng với những đòi hỏi của thị trường thế giới.
Thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, đẩy mạnh đàm phán công tác thương mại song phương và đa phương tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp, cụ thể là đàm phán mở cửa thị trường mới, thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và nới lỏng các hàng rào phi quan thuế, duy trì và mở rộng thị phần trên thị trường quen thuộc, đảm bảo cơ cấu thị trường hợp lý.
Đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu
Đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu như thịt mảnh, block, lợn sữa … đảm bảo cho doanh nghiệp phân tán bớt rủi ro trong kinh doanh có khả năng gặp phải đối với xuất khẩu mặt hàng nào đó. Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu giúp doanh nghiệp khai thác mọi năng lực sẵn có vào sản xuất, kinh doanh xuất khẩu nhiều chủng loại hàng hoá khác nhau của thị trường mục tiêu.
Để đa dạng hoá sản phẩm, trong những năm trước mắt doanh nghiệp với sự hỗ trợ tích cực của Nhà Nước, cần khẩn trương đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại, đồng bộ từ khâu chăn nuôi đến khâu bảo quản… từ khâu vận chuyển đến khâu chế biến đóng gói, nhãn mác và các dịch vụ kỹ thuật phụ trợ
1.5. Đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế và chủ thể kinh doanh, các tổ chức Chính phủ và phi Chính Phủ ; khuyến khích tất cả mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước tham gia mở rộng phát triển thị trường xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam với nhiều con đường nhiều mức độ, nhiều quy mô khác nhau.
Nhà nước và Bộ Thương mại cần có hệ thống chính sách, cơ chế đồng bộ áp dụng chung cho mọi thành phần kinh tế về xuất khẩu trong tầm nhìn dài hạn, đảm bảo đồng thời 3 yếu tố : tốc độ phát triển, cơ cấu thị trường và cơ cấu mặt hàng.
Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu thịt lợn phải tổ chức tiếp cận, phân tích khai thác các thông tin trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua các hội thảo, triển lãm, hội chợ… Đẩy mạnh tiếp thị, tự mình lo bạn hàng, thị trường, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý, bố trí lại nhân lực để nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu, tránh ỷ lại trông chờ vào nhà nước bằng các giải pháp đồng bộ là áp dụng hiệu quả công nghệ Marketing xuất khẩu quản lý chiến lược kinh doanh cạnh tranh xuất khẩu, nghiên cứu phát triển và xuất khẩu công nghệ mới.
2. Định hướng chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam thời kỳ đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020
Trên cơ sở thực trạng xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam trong thời gian qua và quá trình nghiên cứu thị trường của các nước nhập khẩu thịt lợn trên thế giới trong thời kỳ đến 2010, định hướng phát triển thị trường xuất khẩu thịt lợn của nước ta sẽ tăng vào những thị trường tiềm năng mà mặt hàng thịt lợn của Việt Nam có khả năng xâm nhập trong thời gian tới, gồm :
Thị trường Nga: Hàng năm Nga nhập khẩu 38 vạn tấn thịt. Đây là thị trường quen thuộc với 150 triệu dân. Cùng với mức sống tăng lên, dự báo đến năm 2010 Nga nhập khẩu khoảng 50-70 vạn tấn thịt hàng năm.
Thị trường Hồng Kông: hàng năm Hồng Kông nhập khoảng 26 vạn tấn thịt, trong đó có khoảng 2,5-3 vạn tấn lợn sữa, 2 vạn tấn lợn choai ; sức tiêu thụ thịt đạt 55kg/người. Dự kiến năm 2010 đạt mức 60kg/người.
Thị trường Singapore và Malaysia: Thị trường này chúng ta bắt đầu khai thông nhưng chất lượng lợn sữa của ta chưa cao, không ổn định. Đây là thị trường tiềm năng, đòi hỏi các nhà kinh doanh xuất khẩu có các giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm, giữ uy tín với khách hàng để duy trì thị trường này lâu dài.
Thị trường Nhật: Là thị trường có nhu cầu lớn, nhưng đòi hỏi các tiêu chuẩn về sản phẩm được tuân thủ nghiêm ngặt. Hàng năm Nhật nhập khẩu khoảng 70-80 vạn tấn thịt các loại. Đây là thị trường tiềm năng, cần phấn đấu lâu dài để xuất khẩu thịt sang thị trường này.
Thị trường Nam Trung Quốc: Là thị trường tiêu thụ nhiều thịt lợn sữa bằng đường xuất khẩu tiểu ngạch. Ta cần cố giắng duy trì chất lượng , hương vị lợn sữa như hiện nay để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng.
Thị trường các nước Đông Nam á là thị trường gần, có lợi thế về khoảng cách về vận chuyển, tiêu thụ với số lượng thịt lớn, được giá. Nhưng đây là thị trường yêu cầu chất lượng cao, vệ sinh thú y chặt chẽ. Chính phủ cần có Hiệp định hoặc thoả thuận với các nước trong khu vực, tạo cơ sở pháp lý cho doanh nghiệp xuất khẩu thịt lợn với các nước Đông Nam á.
Ngoài các thị trường trên cần tiếp tục đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, thông tin thị trường và đàm phán để ký kết hoặc thoả thuận các Hiệp định thú y với các nước nhập khẩu thịt lợn của nước ta như Trung Quốc, Mỹ, các nước Tây và Đông Âu …
III. Các giải pháp thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu thịt lợn
1. Mục tiêu phát triển xuất khẩu thịt lợn của Việt Nam thời kỳ đến 2010, tầm nhìn đến 2020
1.1. Tăng sản lượng thịt
Hiện nay thịt lợn nước ta còn rất hạn chế về sản lượng chỉ bằng 0,7% của thế giới và chất lượng chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới. để tăng xuất khẩu, phải nâng cao chất lượng vật nuôi phù hợp với yêu cầu thị trường thế giới, cải thiện mạnh mẽ công nghệ chế biến, vệ sinh thực phẩm, phương tiện vận chuyển, đổi mới phương thức chăn nuôi từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn , hiện đại. Thị trường định hướng trước mắt là Hồng Kông , Nga , về lâu dài là Singapore và Nhật Bản.
Từ năm 1990 đến nay chăn nuôi lợn của Việt Nam đã phát triển với tốc độ tăng trưởng bình quân 4 - 4,5%, tổng đàn lợn của cả nước đạt 20 triệu con với sản lượng thịt đạt 1,42 triệu tấn. Sự gia tăng của sản lượng thịt trong nước đã đưa ngành sản xuất này trở thành ngành có tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020
Trong giai đoạn 2001–2010, với định hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp vì những tiến bộ có thể đạt được trong sản xuất thức ăn gia súc, chăn nuôi lợn Việt Nam sẽ phát triển theo hướng tập trung hoá, hình thành các trại chăn nuôi có quy mô lớn và trên cơ sở đó sẽ có điều kiện để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ thấp giá thành. Mục tiêu đến 2005 đàn lợn đạt 24 triệu con và đến 2010 đàn lợn là 90 triệu con. Sản lượng thịt lợn hơi sẽ tăng bình quân 11,7% năm trong giai đoạn 2001 – 2005 và 13,2% giai đoạn 2006 – 2010. Sản lượng thịt hơi sẽ đạt 2.450 ngàn tấn 2005 và 4.550 ngàn tấn năm 2010.
1.2. Mục tiêu xuất khẩu
Giai đoạn 2001 – 2005:
Năm 2005 : xuất khẩu 80.000 tấn/năm đạt kim ngạch trên 100 triệu USD
Giai đoạn 2006 – 2010: mỗi năm xuất khẩu trên 100.000 tấn thịt lợn các
loại. Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 100 – 150 Triệu USD/năm.
2. các giải pháp chính sách khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước
Để ngành chăn nuôi, chế biến thịt lợn ở nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới với chất lượng sản phẩm cao, bảo đảm vệ sinh phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày càng tăng và đẩy mạnh xuất khẩu, một mặt cần tranh thủ khai thác, thực hiện tốt các chính sách khuyến khích, ưu đãi đã có của Nhà nước trong lĩnh vực này, đồng thời kiến nghị Nhà nước ban hành bổ sung một số chính sách, biện pháp nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu, phương hướng đã nêu ở trên.
2.1. Giải pháp về thị trường
Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp chăn nuôi, xuất khẩu thịt lợn vào các thị trường tiềm năng mà thịt lợn Việt nam có thể xâm nhập trong thời gian tới đó là thị trường Hồng Kông, Liên Bang Nga, Nhật Bản, Singapore, Malaysia và Trung Quốc. Ngoài ra Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu thịt lợn sang các nước khác, thông qua các nước khác bằng xúc tiến thương mại, thông tin quảng cáo, tổ chức khảo sát giới thiệu sản phẩm thông qua các cơ quan đại diện ở nước ngoài như Tham tán thương mại, ngoại giao. Tổ chức nghiên cứu thị trường tư vấn giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thịt lợn có điều kiện tiếp cận với các thị trường mới trên cơ sở lợi thế.
2.2. Giải pháp về đầu tư
Để phát triển thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu thịt lợn, rất cần sự đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách vào những khâu trọng yếu của quá trình chăn nuôi chế biến, xuất khẩu thịt, những khâu mà người kinh doanh không có khả năng về vốn, công nghệ để phát triển kinh doanh, cụ thể:
Đầu tư cải tạo giống chăn nuôi lợn xuất khẩu bằng cách nhập khẩu lợn giống và tinh lợn giống cụ kỵ, ông bà có năng suất và chất lượng cao ; xây dựng bình tuyển, chọn lọc đàn lợn giống, xây dựng hệ thống nhân giống lợn ở các địa phương.
Các giống lợn cần cải tạo phục vụ chăn nuôi xuất khẩu là giống lợn tạo thịt mảnh và thịt block đông lạnh, với yêu cầu 25kg/mảnh ; độ dày mỡ lưng nhỏ để xuất khẩu vào thị trường Hồng Kông, Malaysia, thị trường Singapore, thị trường Nam Trung Quốc và giống tạo thịt lợn choai 40-50kg/con, có tỷ lệ nạc>52% xuất khẩu vào thị trường Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc, Malaysia, Nhật Bản.
Củng cố, xây dựng mới các trạm thụ tinh nhân tạo, các vùng lợn giống nhân dân, đầu tư lợn đực ngoại thuần chủng loại tốt.
Cấp kinh phí tiêm phòng miễn phí 3 loại văcxin phòng bệnh: dịch tả, tụ huyết trùng, đóng dấu trong vùng an toàn dịch bệnh để nuôi lợn xuất khẩu.
Hỗ trợ kinh phí xây dựng hệ thống xử lý chất thải bằng công nghệ Biogas cho các cơ sở chăn nuôi lợn xuất khẩu nuôi từ 10 lợn nái hoặc 50 lợn thịt thường xuyên trở lên.
Trợ cước vận tải thịt mảng, thịt block sang thị trường Nga với mức bình quân 60USD/tấn, trước mắt trong 2 năm tới như các nước khác trên thế giới.
Hỗ trợ kinh phí khuyến nông, đào tạo, hướng dẫn kỹ thuật cho người nông dân.
2.3. Giải pháp về chính sách tín dụng
Các cơ sở chăn nuôi, giết mô và chế biến lợn xuất khẩu được hưởng ưu đãi đầu tư theo Nghị định 51/1999/NĐ-CP ngày 18/7/1999 của Chính phủ, được vay quĩ tín dụng từ Quỹ hỗ trợ phát triển theo qui định tại Nghị định số 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 của Chính phủ với mức lãi suất 3% năm thời kỳ 12 năm và hưởng các chính sách hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu khác của Nhà nước.
2.4. Giải pháp về chính sách thuế
Để khuyến khích chăn nuôi lợn xuất khẩu, hướng bổ sung chính sách thuế như sau:
Nhà nước có thể miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp ở những vùng qui hoạch xây dựng trang trại và các công trình phục vụ chăn nuôi lợn xuất khẩu trong 3 năm đầu. Tiền thuê đất được để lại 100% cho xã (phường) nhằm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại khu vực qui hoạch làm trại chăn nuôi.
Điều chỉnh thuế nhập khẩu bằng 0% đối với các thiết bị nhập khẩu phục vụ chăn nuôi, chế biến, giết mổ, bảo quản, vận chuyển thịt lợn và các nguyên liệu thức ăn nhập khẩu như khô dầu, các loại thức ăn bổ sung như premix vitamin, premix khoáng, các loại vitamin, các loại muối khoáng đa vi lượng phục vụ chăn nuôi.
Cho các cơ sở chăn nuôi lợn, Hiệp hội xuất khẩu thịt lợn, Hiệp hội thức ăn chăn nuôi được đăng ký nhập khẩu các nguyên liệu sản xuất thức ăn để xuất khẩu theo chế độ như nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu.
Đối với cơ sở giết mổ chế biến thịt Hải Phòng của Tổng Công ty chăn nuôi Việt nam, xây dựng năm 1991 với thiết bị và vốn vay của úc trị giá 2,4 triệu USD. Những năm gần đây xuất khẩu thịt cho Nga bị đình trệ, không có nguồn trả nợ, theo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ cho khoanh nợ và hỗ trợ lãi suất 5 năm đầu (2001 – 2005) để Tổng công ty tập trung đầu tư vốn phục vụ ngay nhu cầu xuất khẩu thịt sang Nga.
2.5. Giải pháp hỗ trợ, khuyến khích chăn nuôi, xuất khẩu thịt
Để mở rộng thị trường xuất khẩu thịt, Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp chăn nuôi, xuất khẩu thịt tìm kiếm thị trường.
Đề nghị Bộ Tài chính bổ sung mặt hàng thịt lợn choai xuất khẩu vào danh mục các mặt hàng được thưởng xuất khẩu theo qui định tại quyết định số 65/2001/QĐ-BTC ngày 29/6/2001 của Bộ Tài chính.
3. Các giải pháp phát triển nguồn hàng thịt lợn xuất khẩu của Việt Nam
3.1. Quan điểm, phương hướng phát triển sản xuất
Quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ số 166/2001/QĐ - TTg ngày 26 tháng 10 năm 2001 về một số biện pháp và chính sách phát triển chăn nuôi lợn xuất khẩu giai đoạn 2001 – 2010 đã nêu rõ quan điểm, phương hướng phát triển chăn nuôi lợn xuất khẩu của Việt Nam như sau:
Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi lợn hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ thịt lợn trong nước và xuất khẩu, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người nông dân.
Phát triển chăn nuôi lợn xuất khẩu ở các vùng có điều kiện thuận lợi, đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường khi chăn nuôi với quy mô phù hợp. Giai đoạn đầu (2002 – 2005) tập trung ở một số vùng như đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên Hải, Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ.
Khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân, hộ gia đình thuộc các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư nước ngoài phát triển chăn nuôi lợn giống đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. ở vùng chăn nuôi lợn xuất khẩu phải có đủ cơ sở chăn nuôi lợn giống ông, bà (quy mô 300 – 500 con) và lợn giống bố mẹ để nhân đủ giống cung cấp cho nhu cầu chăn nuôi lợn xuất khẩu trong vùng.
Hình thức tổ chức chăn nuôi lợn xuất khẩu chủ yếu là hộ trang trại và doanh nghiệp tư nhân. Khuyến khích các hộ trang trại nuôi từ 50 lợn nái hoặc 100 lợn thịt thường xuyên trở lên, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư chăn nuôi lợn xuất khẩu quy mô phù hợp, không gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến nguồn nước ngầm.
Khuyến khích việc hình thành các tổ chức kinh tế hợp tác, hợp tác xã làm dịch vụ giống, thú y, kỹ thuật, vốn và tiêu thụ sản phẩm.
3.2. Giải pháp quy hoạch vùng chăn nuôi xuất khẩu
Trước khó khăn thách thức do tình trạng thị trường xuất khẩu và tiêu thụ của Việt Nam không ổn định vững chắc, sản lượng xuất khẩu còn quá bé. Để phát triển nguồn hàng thịt lợn xuất khẩu ổn định, nâng cao sức cạnh tranh thì Nhà nước cần:
Quy hoạch vùng chăn nuôi lợn xuất khẩu để chủ động cung ứng nguồn nguyên liệu có chất lượng và đạt tiêu chuẩn cho các cơ sở giết mổ, chế biến thịt xuất khẩu.
Vùng chăn nuôi tập trung là các vùng đất được quy hoạch đáp ứng yêu cầu xây dựng các trang trại chăn nuôi quy mô lớn và vừa (hàng vạn con và hàng ngàn con), có điều kiện xây dựng các cơ sở hạ tầng cần thiết, thuận lợi cho việc xử lý các vấn đề môi trường, không quá gần trung tâm đô thị ; và điều quan trọng là ở đây các nhà kinh doanh (thuộc các thành phần kinh tế và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) có thể thuê đất để tổ chức chăn nuôi theo dự án được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước về tiền thuê đất, và được sử dụng kết cấu hạ tầng cơ sở do Nhà nước hỗ trợ xây dựng.
Khi cần thiết, nơi đây có thể thực hiện các dự án đầu tư xây dựng trung tâm giống và thú y, cơ sở sản xuất thức ăn gia súc, cơ sở giết mổ và chế biến thịt theo công nghệ hiện đại phục vụ trực tiếp cho vùng chăn nuôi. Đồng thời các vùng chăn nuôi này cũng phải đáp ứng được các yêu cầu phòng tránh dịch bệnh và một số ảnh hưởng độc hại.
Quy hoạch cụ thể như sau:
Vùng I: Gồm 9 tỉnh đồng bằng sông Hồng là Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Ninh Bình. Đây là các tỉnh thuần nông có 4,3 triệu con lợn chiếm 22,5% đàn lợn cả nước, gần 700 nghìn lợn nái, sản xuất 340.000 tấn thịt chiếm 25,6% tổng sản lượng cả nước. Đây là vùng có tỷ lệ lợn nái cao nhất, chiếm 16,1% tổng đàn lợn trong vùng (nhu cầu cho sản xuất chỉ cần từ 10 – 11%) hàng năm vùng này dư thừa 4 – 5 triệu con lợn sữa lai kinh tế 2 máu (nái nội x đực ngoại) nếu không bán ra ngoài vùng hoặc xuất khẩu lợn sữa thì lợn con giống vùng này sẽ thấp hơn giá thành sản xuất 20 – 30 %. Vùng này có 4 xí nghiệp (xí nghiệp giết mổ thịt tại Hải Phòng của tổng công ty chăn nuôi Việt Nam ; xí nghiệp giết mổ Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình) đủ tiêu chuẩn giết mổ thịt đông lạnh và thịt block xuất khẩu sang thị trường Nga. Xuất khẩu thịt lợn sữa đông lạnh và thịt lợn choai đông lạnh sang thị trường Hồng Kông có 9 xí nghiệp đã được bạn hàng thú y Hồng Kông, Nga kiểm tra công nhận là đủ tiêu chuẩn đó là xí nghiệp chế biến thực phẩm tư nhân Minh Hiền- Hà Tây,Thanh Hảo – Hải Phòng ; Công ty chế biến gia súc xuất khẩu Hải Phòng ; xí nghiệp chế biến thịt - Sở thương mại Hải Phòng ; xí nghiệp chế biến súc sản xuất khẩu Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. Số cơ sở này đủ điều kiện kho tàng bảo quản lạnh xuất khẩu.
Với thế mạnh về thịt lợn, lợn giống và tiêu chuẩn giết mổ, cao, vùng cần được đầu tư hơn nữa cho các cơ sở để chất lượng sản phẩm và bán sản phẩm đạt tiêu chuẩn nhập khẩu của thị trường khó tính như Nhật Bản, Singapore… tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
Vùng II: Gồm Thanh Hoá và Nghệ An. Hai tỉnh này có gần 2 triệu con lợn với đàn nái chiếm khoảng 11,7%, hàng năm xuất khẩu ra gần 2 triệu con lợn. Đây là vùng nghèo, thu nhập thấp, sức mua kém, hàng năm vẫn tồn thịt lợn phải tiêu thụ ra ngoài vùng như: Hà Nội, các tỉnh phía Nam…, nhưng giá trị chất lượng thấp, mỡ nhiều nạc ít, phòng trừ dịch kém. Có hai cơ sở giết mổ thịt xuất khẩu, thịt mảnh đông lạnh, thịt block xuất khẩu cho Nga là chủ yếu. Mỗi cơ sở công suất giết mổ đạt 2000 tấn /năm, nhưng thiết bị cũ, nhà máy xuống cấp , xí nghiệp giết mổ của Thanh Hoá cần phải đầu tư lại đủ tiêu chuẩn chế biến xuất khẩu. Xí nghiệp giết mổ xuất khẩu Nghệ An phải đầu tư trang thiết bị lại gần như mới đủ tiêu chuẩn là xí nghiệp chế biến xuất khẩu. Hiện nay 2 xí nghiệp này đều chưa được phía đối tác nhập khẩu thịt của thú y Nga công nhận là cơ sở đủ tiêu chuẩn giết mổ xuất khẩu.
Việc phát triển chăn nuôi có ý nghĩa quan trọng trong cải thiện đời sống của nhân dân vùng này, nên đầu tư vào cơ sở vật chất, giống vật nuôi cũng như phổ biến phương pháp chăn nuôi trong phạm vi toàn vùng.
Vùng III: Gồm 5 tỉnh Trung du miền núi phía Bắc là Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Bắc Ninh, Thái Nguyên. Vùng này có 2,2 triệu con lợn, trong đó lợn nái chiếm 12,6% tổng đàn lợn trong vùng (thực tế sản xuất chỉ cần 10 – 11% lợn nái là đủ), tổng sản lượng thịt là 145.000 tấn/năm. Vùng này duy nhất chỉ có một cơ sở chế biến thịt mảnh xuất khẩu cho Nga, các tỉnh Phú Thọ với công suất 500 tấn/năm, thiết bị, đội ngũ kĩ thuật lạc hậu.
Lợi thế sản xuất chăn nuôi lợn vùng này là vùng đất trung du, vườn đồi, vườn rừng, vườn nhà đều rộng rãi, dễ dàng tổ chức chăn nuôi qui mô tập trung loại vừa và lớn để xuất khẩu. Tuy nhiên vùng này chất lượng con giống thấp, tập quán chăn nuôi còn quá lạc hậu, hệ thống thụ tinh nhân tạo lợn, trạm thú y, trại giống chưa được chú trọng đầu tư, lợi thế về cũng như điều kiện về phạm vi chăn nuôi lớn. Tuy nhiên cần chú trọng đầu tư mở rộng cơ sở chế biến, giết mổ với tiêu chuẩn hợp vệ sinh, an toàn thực phẩm, phổ biến các kiến thức chăn nuôi và đầu tư vào con giống không chỉ cho xí nghiệp mà cả các hộ dân.
Vùng IV: Gồm 5 tỉnh duyên hải miền trung, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà. Vùng có 1,7 triệu con lợn trong đó có 13,8% là lợn nái đạt gần 100.000 tấn thịt lợn, có 4 xí nghiệp chế biến giết mổ thịt lợn mảnh, đông lạnh xuất khẩu sang Nga. Tuy nhiên các xí nghiệp này cho đến nay chưa đạt tiêu chuẩn xí nghiệp giết mổ chế biên xuất khẩu thịt mảnh cho Nga. Đây là vùng sản xuất mầu nhiều hơn lúa, dân ngèo khí hậu khắc nghiệt, nuôi lợn nhiều hơn là chất đạm nên lợn chóng béo, thịt mỡ nhiều hơn thịt nạc. Cả vùng chỉ có một trại giống lợn quốc doanh của Trung Ương ở Điện Bàn – Quảng Nam, qui mô 300 lợn nái ngoại và 100 lợn nái Móng Cái và 1 trại giống lợn ngoại của Bình Định (Trại Nhơn Hoà) qui mô 200 nái ngoại. Các địa phương khác trong vùng đều chưa đầu tư trại giống lợn, trại thụ tinh nhân tạo lợn để cải tạo giống lợn giúp nông dân.
Đề án phát triển chăn nuôi xuất khẩu của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (tháng 8 năm 2001) đã đề ra chỉ tiêu xuất khẩu thịt lợn thời kỳ đến năm 2010 cho từng vùng sản xuất như sau:
Năm 2005 : Xuất khẩu 72 nghìn tấn bằng 129 nghìn tấn thịt lợn hơi đạt 95,4 triệu USD.
Năm 2010 : xuất khẩu 106 nghìn tấn bằng 195,9 nghìn tấn thịt lợn đạt 141 triệu USD
Chỉ tiêu cho các vùng như sau:
Đồng bằng sông Hồng: là vùng chủ yếu tổ chức chăn nuôi lợn xuất khẩu, hàng năm xuất khẩu 7 - 10% sản lượng thịt lợn và 10 - 30% sản lượng lợn sữa sản xuất trong vùng. Số lượng thịt xuất khẩu hàng năm của vùng này chiếm 61- 65% so với tổng sản lượng thịt chế biến xuất khẩu của cả nước, doanh thu xuất khẩu thịt lợn đạt từ 50 triệu USD nâng lên 100 triệu USD hàng năm.
Nghệ An và Thanh Hoá:
Chỉ tiêu xuất khẩu thịt lợn thời kỳ đến năm 2010 như sau:
Năm 2005: xuất khẩu 16.000 tấn thịt lợn thành phẩm bằng 21.200 tấn thịt hơi đạt 21 triệu USD.
Năm 2010: xuất khẩu 33.000 tấn thịt lợn thành phẩm bằng 59.700 tấn thịt hơi đạt 46 triệu USD.
Thực hiện được chỉ tiêu này mới xuất khẩu được 8 – 14% sản lượng thịt lợn của 2 tỉnh sản xuất ra. Doanh thu tính bằng USD năm 2001 – 2002 mới đạt 7-8 triệu USD, nhưng phấn đấu để sau 2005 phải có doanh thu từ 20-40 triệu USD/năm.
Các tỉnh trung du miền Bắc:
Chỉ tiêu xuất khẩu thịt lợn thời kỳ đến năm 2010 như sau:
Năm 2005 xuất khẩu 10.000 tấn thịt thành phẩm bằng 18.600 tấn thịt lợn hơi đạt 13,2 triệu USD.
Năm 2010 xuất khẩu 19.000 tấn thịt thành phẩm bằng 34.400 tấn thịt lợn hơi đạt 24,5 triệu USD.
Thực hiện chỉ tiêu này vùng III thực hiện 10,6% sản phẩm dự án xuất khẩu thịt, doanh thu từ 5 triệu USD lên 24 triệu USD.
Các tỉnh Duyên Hải miền Trung.
Chỉ tiêu xuất khẩu thịt lợn thời kỳ đến năm 2010 như sau:
Năm 2005 xuất khẩu 10.000 tấn thịt thành phẩm bằng 21.000 tấn thịt lợn hơi đạt 14,2 triệu USD.
Năm 2010 xuất khẩu 12.000 tấn thịt thành phẩm bằng 21.900 tấn thịt lợn hơi đạt 17 triệu USD.
Thực hiện các chỉ tiêu trên mới chỉ chiếm 10-12% sản lượng thịt toàn vùng và doanh thu từ 8-17 triệu USD, cần cải tạo đàn lợn, tập quán chăn nuôi quy mô chăn nuôi trong vùng.
Hiện nay trên cả nước có hơn 30 cơ sở giết mổ và chế biến, với tổng công suất giết mổ và chế biến 41.000 tấn thịt thành phẩm/năm, có 14 kho lạnh với tổng công suất 2.900 tấn. Trong đó, có 6 cơ sở giết mổ chế biến dược công nhận đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thịt mảnh cho Liên Bang Nga và 9 cơ sở được công nhận đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thịt sang thị trường Hồng Kông, Malaysia
Đầu tư vào các trại lai tạo lợn giống, tạo giống phù hợp với điều khách quan của vùng, thêm vào đó là các phương pháp nuôi lợn cho phù hợp với điều kiện các vùng.
Với giá buôn thịt trên thị trường quốc tế hiện nay so với giá thịt tiêu thụ nội địa ở khu vực Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh (thành phố 5 triệu dân lại có hàng triệu khách du lịch, khách vãng lai) là tương đương gần nhau. Vì vậy khi qui hoạch vùng chăn nuôi lợn xuất khẩu chủ yếu từ khu vực Trung Trung Bộ trở ra phía Bắc vì giá thịt lợn sản xuất ở vùng này thấp hơn. ở các tỉnh miền Đông và miền Tây Nam Bộ thì cần xem xét các điều kiện về vị trí, thời điểm, giá cả… để xây dựng vùng nuôi lợn xuất khẩu.
3.3. Cải tạo giống vùng chăn nuôi lợn xuất khẩu
Để tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất lợn xuất khẩu nhanh chóng cải thiện cơ cấu, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm (tăng nhanh tỷ lệ nạc), Nhà nước cần ưu tiên đầu tư phát triển đàn lợn giống chất lượng theo hướng nạc.
Viện Chăn Nuôi Quốc Gia, Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, một số doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Chăn nuôi Việt Nam nhập khẩu đàn lợn giống cụ kỵ, năng suất chất lượng cao và nuôi dưỡng đàn lợn giống ông bà. Để đáp ứng yêu cầu thị trường Nga, đối với thịt lợn mảnh và thịt block đông lạnh, xuất khẩu sang Nga đạt yêu cầu thịt 25 kg/mảnh ; độ dày mỡ lưng ≤ 3cm, các địa phương trong vùng nuôi lợn có thể thực hiện một trong hai công thức sau đây :
Thực hiện công thức lai 3 giống, lấy lợn nái nền là lợn Móng Cái và sử dụng lợn đực ngoại từ 2 giống yorkshire hoặc Landrace để có sản phẩm lợn thịt 3/4 máu ngoại, đảm bảo tỷ lệ nạc 42 – 45%, đọ dày mỡ lưng ≤ 3cm.
Những nơi chọn lọc lợn nái nền Móng Cái tốt, kiểm tra cá thể đực giống Yorkshire hoặc Landrace tốt, có thể sử dụng công thức lai hai máu: lợn nội Móng Cái x đực ngoại Landrace hoặc Landrece (đực giống loại tốt đã qua kiểm tra năng suất cá thể) tạo ra con lai F1 thương phẩm 85 – 90kg/con, độ dầy mỡ lưng chỉ gần 3cm.
Để đáp ứng nhu cầu thị trường xuất khẩu thịt lợn sữa cho Hồng Kông, Malaysia, tương lai là thị trường Singapore, Nam Trung Quốc, thực hiện lấy nái nền Móng Cái x đực ngoại yorkshire hoặc Landrace tạo ra lợn sữa thương phẩm 6 – 7kg hơi/con. Đối với mặt hàng này bạn hàng Hồng Kông chỉ yêu cầu là lợn lai F1, khối lượng sau khi giết mổ ướp đông lạnh đạt 3kg/con, không rách da …thịt lợn sữa này có sẵn máu lợn Móng Cái đảm bảo thơm ngon và chắc thịt. Nếu chúng ta đầu tư vào công tác chọn và nhân giống tốt, đảm bảo chất lượng nguyên liệu theo yêu cầu của đối tác sẽ là điều kiện tiên quyết duy trì bạn hàng lâu dài.
Đối với những nước nhập khẩu thịt lợn choai (Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc, Malaysia, Nhật Bản) 40 – 45 kg/con, tỉ lệ nạc >52% thực hiện lai 2 hoặc 3 giống lợn ngoại với nhau (yorshire, Landrace, Duroc).
Các tỉnh trong vùng chăn nuôi lợn xuất khẩu, đầu tư xây dựng trại lợn giống cấp ông bà với quy mô 300- 500 lợn nái, đầu tư nâng cấp trung tâm và trạm truyền tinh nhân tạo lợn, xây dựng vùng giống lợn nhân dân.
Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức cá nhân, hộ gia đình chăn nuôi lợn có quy mô thường xuyên từ 10 lợn nái trở lên.
3.4. Phát triển thêm cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi công nghiệp, tăng tỷ trọng thức ăn công nghiệp, hạ giá thành và nâng cao chất lượng thức ăn
Vừa qua Chính phủ đã đưa nhiều chính sách về sản xuất nguyên liệu thức ăn, miễn giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu chế biến thức ăn công nghiệp… nhằm giảm giá bán thức ăn trong nước, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu nên giá bán vẫn rất cao. Để xử lý vấn đề này, trong thời gian tới cần phải tiếp tục thực hiện các chính sách đã có, triển khai Nghị Quyết 09/2000/NQ – CP của Chính phủ về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, các địa phương và doanh nghiệp chế biến thức ăn tiến hành quy hoạch mở rộng diện tích sản xuất ngô, đậu tương ở những địa bàn phù hợp tạo nguồn nguyên liệu trong nước. Đồng thời có kế hoạch nhập khẩu đảm bảo đủ nguyên liệu cho sản xuất thức ăn.
Cùng với quá trình này cần phải quy hoạch và tìm kiếm đối tác, vốn đầu tư để phát triển thêm các cơ sở chế biến thức ăn công nghiệp, phá thế độc quyền tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, giảm giá bán thức ăn cho người sản xuất.
3.5. Tăng cường công tác thú y, đảm bảo an toàn dịch bệnh cho vùng chăn nuôi lợn xuất khẩu
Đối với vùng nuôi lợn xuất khẩu, con lợn phải được tiêm phòng định kỳ đối với 3 loại bệnh: dịch tả lợn, tụ huyết trùng, đóng dấu lợn, ở một số địa phương tiêm phòng bệnh lở mồm long móng. Thường xuyên kiểm tra dịch bệnh miễn phí cho các cơ sở chăn nuôi lợn xuất khẩu, giáo dục nhân dân có ý thức phòng dịch xây dựng chuồng trại hợp lý, đảm bảo vệ sinh chuồng trại, đảm bảo vệ sinh môi trường xử lý chất thải và có cán bộ thú y cơ sở.
Khẩn trương đàm phán để ký kết hoặc thoả thuận Hiệp định thú y các nước nhập khẩu thịt lợn của Việt Nam, trước mắt tập trung vào các thị trường trong khu vực như Hồng Kông, Hàn quốc, Singapore, Malaysia, Đài Loan, Trung Quốc và Nhật.
Đầu tư nâng cấp các cơ sở giết mổ chế biến xuất khẩu theo vùng:
Vùng I: Đồng Bằng Sông Hồng, vùng này hiện có 100 cơ sở giết mổ gia súc xuất khẩu nhưng mới chỉ có 4 cơ sở đạt chất lượng xuất khẩu cho Nga và có 9 cơ sở đủ tiêu chuẩn để chế biến xuất khẩu lợn sữa, lợn choai cho Hồng Kông với công suất từ 1.000 tấn đến 8.000 tấn/năm. Để đảm bảo tiêu chuẩn những mặt hàng lợn mảnh, thịt lợn block xuất khẩu cho Nga, mặt hàng lợn sữa, lợn choai xuất khẩu cho Hồng Kông, Singapore cần tập trung nâng cấp các xí nghiệp chế biến thịt xuất khẩu, đầu tư trang thiết bị xây dựng hợp lý, đảm bảo vệ sinh cảnh quan môi trường, hệ thống xử lý nước thải… đúng tiêu chuẩn, quy cách theo đúng yêu cầu thị trường.
Vùng II: Tại Thanh Hoá, Nghệ An, nâng cấp 2 xí nghiệp mổ súc sản chủ yếu sản xuất mặt hàng thịt lợn mảnh, thịt block xuất khẩu vào thị trường Nga và trang thiết bị giết mổ lợn choai và lợn sữa công suất 2000 tấn/năm.
Vùng III: 5 tỉnh trung du phía Bắc. Cả 5 tỉnh này duy nhất 1 xí nghiệp giết mổ gia súc của Phú Thọ công suất 500 tấn thịt mảnh/năm, thiết bị nội địa lạc hậu, cũ kỹ. Cần quy hoạch xây dựng cơ sở giết mổ, chế biến thực phẩm xuất khẩu hiện đại.
Vùng IV: 5 tỉnh Duyên hải miền Trung, chỉ có 4 xí nghiệp giết mổ xuất khẩu (1 của Quảng Ngãi công suất 2000 tấn/năm, 2 của Bình Định 4000 tấn/năm, 1 của Đà Nẵng 1000 tấn /năm). Cả 4 cơ sở này đều không đủ tiêu chuẩn vệ sinh sản xuất sản phẩm xuất khẩu thịt mảnh, thịt mảnh block đông lạnh cho Nga và sản phẩm thịt sữa, lợn choai Hồng Kông, Vì vậy cần phải nâng cấp thiết bị, xây dựng lại cơ sở chế biến và xử lý môi trường.
3.6. Tăng cường công tác khuyến nông, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và xây dựng vùng nguyên liệu xuất khẩu
Nhà nước tăng kinh phí cho hệ thống khuyến nông để tổ chức tập huấn chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật về lợn giống, thức ăn chăn nuôi chuồng trại, công tác thú y.
Các cơ sở chế biến giết mổ lợn xuất khẩu có phương án đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu, có hợp đồng thu mua nguyên liệu trực tiếp và cam kết rõ trách nhiệm, quyền lợi của hai bên.
3.7. Tăng cường công tác thị trường
Mở rộng mạng lưới thông tin, dự báo thị trường cho các cơ sở chăn nuôi, giết mổ và chế biến thịt.
Nghiên cứu phát triển mạnh thị trường xuất khẩu đã tiếp cận trong những năm vừa qua như Nga, Hồng Kông, Trung Quốc, đồng thời mở thêm thị trường mới.
Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí, tạo điều kiện cho các cơ sở giết mổ chế biến, xuất khẩu tư nhân được xuất khẩu trực tiếp và được hưởng ưu đãi của Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí, tạo điều kiện cho cơ sở giết mổ chế biến, xuất khẩu tư nhân được xuất khẩu trực tiếp và được hưởng ưu đãi của Nhà Nước như các xí nghiệp quốc doanh.
4. Một số giải pháp khác
4.1. Khuyến khích, hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp chế biến thịt
Công nghiệp chế biến thịt cùng với hệ thống kho bảo quản lạnh và phương tiện vận chuyển phù hợp đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu thịt lợn. Chúng ta nên có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích ngành này như một bộ phận cần thiết của chính sách khuyến nông, trợ cấp phát triển nông nghiệp và chăn nuôi, theo các hướng như sau:
Nhà nước cần sớm quy hoạch phát triển ngành chế biến thịt để lựa chọn các dự án xét duyệt theo quy hoạch và cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư.
Không đặt vấn đề tách riêng các nhà máy chế biến thịt xuất khẩu để có chính sách ưu đãi đặc biệt, mà hệ thống nhà máy chế biến thịt phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu đều được hưởng chính sách khuyến khích và ưu đãi chung của Nhà nước, đơn vị nào đủ tiêu chuẩn tham gia chế biến thịt xuất khẩu thì được hưởng ưu đãi bổ sung theo quy định hiện hành.
Nếu cần thiết, Nhà nước có thể hỗ trợ ngành chế biến thịt trong một số trường hợp như:
Khi cần giữ giá sản phẩm chăn nuôi không để xuống thấp, thay vì hỗ trợ trực tiếp cho ngành chăn nuôi, Nhà nước hỗ trợ cho nhà máy nào bảo đảm điều kiện mua sản phẩm chăn nuôi để chế biến thịt theo giá hướng dẫn của Nhà nước.
Trường hợp cần mở thị trường xuất khẩu hoặc bảo đảm thực hiện hợp đồng xuất khẩu đã cam kết nhằm duy trì quan hệ thị trường ngoài nước, khi thị trường trong nước hoặc ngoài nước biến động lớn về giá cả,... thay vì hỗ trợ trực tiếp cho đơn vị xuất khẩu, Nhà nước hỗ trợ cho cơ sở sản xuất chế biến thịt nào tham gia thực hiện hợp đồng xuất khẩu có liên quan.
Nguồn vốn hỗ trợ trong những trường hợp tương tự như trên có thể rút ra từ quỹ khuyến nông hoặc Quỹ hỗ trợ xuất khẩu.
Ngoài ra, Nhà nước cũng cần có các chính sách trợ giá tiêu thụ cho các sản phẩm (thực phẩm) chế biến từ thịt trước hết là để tiêu dùng nội địa tạo tiền đề xuất khẩu các sản phẩm này trong tương lai.
4.2. Giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài
Ngành chăn nuôi, chế biến thịt theo hướng kinh tế trang trại, công nghiệp hiện đại đòi hỏi vốn đầu tư tương đối lớn, thường hiệu quả không cao, chậm thu hồi vốn ; trong sản xuất kinh doanh lại hay gặp rủi ro gây tổn thất nghiêm trọng ; ta cần thu hút thêm một số nhà kinh doanh nước ngoài vì không những họ có vốn mà còn có nhiều kinh nghiêm trong tổ chức sản xuất kinh doanh ngành hàng này theo quy mô lớn, có kinh nghiệm tiếp cận và mở rộng thị trường tiêu thụ ở nước ngoài đối với loại hàng đặc thù này..., cần có chính sách khuyến khích, ưu đãi đặc biệt, chủ động tìm kiếm đối tác, nhất là trong những năm đầu phát triển.
Các dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này (dự án liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài) chủ yếu là để thực hiện mục tiêu xuất khẩu nhằm khai thác khả năng về điều kiện tự nhiên và lao động có nhiều thuận lợi ở nước ta, góp phần thúc đẩy phát triển ngành chăn nuôi chế biến và xuất khẩu thịt trong những năm tới ; đồng thời trong quá trình phát triển các cơ sở chăn nuôi chế biến thịt trong nước có điều kiện trực tiếp học tập, tiếp thu được kinh nghiệm tiên tiến để đẩy mạnh phát triển ngành chăn nuôi chế biến thịt đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
4.3. Một số giải pháp khác
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cùng Bộ thương mại hỗ trợ các doanh nghiệp thiết lập Hiệp hội ngành hàng, Hiệp hội chăn nuôi, xuất khẩu thông tin và hướng dẫn các doanh nghiệp thu mua nguyên liệu trong nước, chào bán ra các thị trường nước ngoài; hạn chế tình trạng tranh mua, tranh bán, ép cấp, ép giá, giảm giá bán ở thị trường nước ngoài.