Đối với hệ thống NHTM nói chung và chi nhánh NHNo Hải Phòng nói riêng, huy động vốn đã, đang và sẽ luôn là một trong những hoạt động chủ chốt, quan trọng và có tính chất quyết định đến mọi hoạt động khác của Ngân hàng. Vì vây, việc tăng cường huy động vốn hiện nay rất cần thiết vì nó liên quan đến các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay - một hoạt động tạo ra lợi nhuận cao nhất cho Ngân hàng.
Trên thực tế, không có một khuôn mẫu nhất định nào cho công tác huy động vốn cho các NHTM. Huy động vốn được hình thành vốn từ thực tiễn phát triển của nền kinh tế. Nó là kết quả của quá trình nghiên cứu, tìm tòi và ứng dụng đầy tính sáng tạo và khoa học. Để gặt hái thành công trong lĩnh vực này, ngoài sự nỗ lực, cố gắng không mệt mỏi của bản thân chi nhánh, cần có sự quan tâm hỗ trợ của Đảng, Nhà nước, NHNo Việt Nam , các cấp, các ngành . trong việc thực hiện tốt chiến lược kinh tế xã hội nói chung và chiến lược huy động vốn của bản thân chi nhánh nói riêng.
76 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1783 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và giải pháp huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biện pháp quan trọng để nâng cao nguồn vốn theo từng thời điểm và có ưu đãi theo khu vực, môi trường hoạt động.
2.4.4.2- Một số hạn chế trong công tác huy động vốn và nguyên nhân.
*- Những mặt hạn chế
Bên cạnh những thành công đã đạt được, trong công tác huy động vốn của NHNo&PTNT Hải Phòng còn những hạn chế cần được khắc phục, cụ thể:
- Huy động vốn có tăng nhưng tốc độ tăng trưởng chưa đạt được sự ổn định, tính bền vững. Thị phần nguồn vốn và dư nợ đều nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng trên địa bàn đô thị loại I.
- Nguồn vốn đầu tư cho trung, dài hạn tuy đã có chuyển biến tích cực nhưng vẫn chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu vẫn tập trung vào nguồn vốn ngắn hạn, chưa ổn định, dòng chảy vốn vào Ngân hàng vẫn còn hạn chế. Điều này chứng tỏ chi nhánh chưa chú trọng về nguồn vốn huy động trung, dài hạn, các chính sách huy động vốn trung, dài hạn chưa hấp dẫn.
- Nói là đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và dịch vụ nhưng còn hạn chế. Hình thức huy động vốn và dịch vụ vẫn còn mang tính cổ truyền, chưacó bước đột phá trong công tác huy động vốn.
- Huy động vốn ngoại tệ mới chỉ dừng lại ở việc huy động tiền gửi ngoại tệ của các đơn vị kinh tế và khu vực dân cư nội thành, chưa tổ chức huy động ngoại tệ ở khu vực ngoại thành. Do đó nguồn huy động vốn ngoại tệ còn rất thấp. Nguồn ngoại tệ cho vay gần như phụ thuộc tuyệt đối vào nguồn vốn do NHNo&PTNT Việt Nam điều tiết làm hạn chế sự chủ động kinh doanh của Ngân hàng.
- Nguồn vốn tự huy động tại địư phương còn thấp nên thường xuyên thiếu vốn phải sử dụng vốn điều tiết nội bộ của NHNo&PTNT Việt nam bình quân từ 150-200 tỷ và vốn vay các NHTM bình quân 100-200 tỷ với lãi suất cao, làm hạn chế kết quả kinh doanh của Ngân hàng.
- Lãi suất huy động vốn của NHNo&PTNT Hải Phòng còn thấp hơn lãi suất một số tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính trên địa bàn nên gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút nguồn vốn nhất là trong điều kiện trên địa bàn có nhiều tổ chức tín dụng tham gia cạnh tranh.
- Địa bàn thành thị là địa bàn có nhiều ưu thế trong việc huy động vốn, song mạng lưới huy động vốn của chi nhánh còn mỏng, chưa tích cực mở rộng mạng lưới huy động ở khu vực này.
- Thị trường nông thôn không còn là độc quyền nên nguồn vốn huy động được rất hạn chế, mạng lưới hoạt động chưa thật tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền cả về thời gian và địa điểm giao dịch. Phong cách giao dịch của cán bộ Ngân hàng vẫn còn những hạn chế nhất định.
- Chưa có bộ phận riêng và cán bộ chuyên trách làm công tác huy động vốn. Hiện nay mảng nghiên cứu, phân tích thị trường và tiếp thị khách hàng gần như bị bỏ ngỏ, chưa có chiến lược huy động vốn rõ ràng.
*- Nguyên nhân
a - Nguyên nhân khách quan:
Thời gian qua, nền kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, lãi suất trên thị trường quốc tế giảm mạnh, mặt bằng lãi suất trong nước cũng giảm theo đã tác động làm giảm nguồn vốn huy động vào Ngân hàng.
- Tác động của luật doanh nghiệp mới đã hấp dẫn đáng kể lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh hy vọng hưởng thu nhập cao hơn thay vì gửi tiền vào Ngân hàng.
- Một số kênh huy động vốn khác ngoài Ngân hàng như quỹ tiết kiệm bưu điện, các công ty bảo hiểm, kho bạc ... cũng đã thu hút một lượng vốn đáng kể từ dân cư.
- Hệ thống pháp lý trong lĩnh vực Ngân hàng vẫn chưa thật chặt chẽ, đồng bộ và nhất quán, chưa đủ sức bảo vệ người dân trước những biến động rủi ro mất vốn của họ.
-Thị trường bất động sản, thị trường vàng bạc nhộn nhịp trở lại đã thu hút một lượng vốn khá lớn vào đấy.
- Do tập quán thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán của người dân, người dân chưa có thói quen sử dụng các tiện ích của Ngân hàng làm ảnh hưởng đến việc huy động tiền gửi vào Ngân hàng.
- Do tâm lý lo sợ trượt giá của đồng tiền, người dân thích cất trữ tài sản dưới dạng ngoại tệ mạnh (như USD), vàng và bất động sản hơn là gửi tiền vào Ngân hàng. Đây là hậu quả của một thời kỳ đồng tiền Việt Nam bị mất giá liên tục.
- Do đặc điểm về tổ chức mạng lưới hoạt động của NHNo Hải Phòng hiện tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn là địa bàn mà đa số dân cư có thu nhập thấp, tích lũy ít. Địa bàn nội thành đã được quan tâm nhưng mạng lưới còn mỏng cơ sở vật chất chưa đạt yêu cầu nên chưa hấp dẫn người gửi.
- Trên địa bàn có đồng thời rất nhiều tổ chức tín dụng cùng cạnh tranh trong việc huy động vốn.
b - Nguyên nhân chủ quan:
- Chi nhánh áp dụng các hình thức huy động vốn chưa thật phong phú, giải pháp thu hút vốn chưa phù hợp, chưa tạo dược sự hấp dẫn đối với khách hàng gửi tiền.
- Chưa tích cực mở rộng mạng lưới huy động, chính sách lãi suất chưa thật mềm dẻo và hấp dẫn, chưa đáp ứng tốt nhất yêu cầu huy động vốn trên địa bàn có cạnh tranh.
- Khâu tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị chưa được chú ý đúng mức, hình thức còn nghèo nàn. Chính vì thế, người dân thiếu sự hiểu biết về Ngân hàng làm ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng huy động vốn của chi nhánh.
- Công nghệ Ngân hàng áp dụng trong việc cung ứng các dịch vụ cho khách hàng, nhất là quan hệ gửi và rút tiền của khách hàng vẫn chủ yếu là trực tiếp và thủ công, chưa được cải tiến nhiều.
- Chưa tổ chức thực hiện huy động vốn tiết kiệm ngoại tệ từ khu vực nông thôn, đã bỏ qua một khối lượng vốn ngoại tệ đáng kể ở khu vực này.
- Chính sách khách hàng còn đơn điệu vẫn chưa thực sự tạo nên sức hấp dẫn đối với khách hàng.
- Phong cách phục vụ, tác phong giao tiếp của nhân viên giao dịch chưa phù hợp với yêu cầu của thời kỳ đổi mới còn chậm. Mặt khác, thời gian giao dịch lại trùng với giờ hành chính nên gây bất tiện cho một số khách hàng.
Tóm lại: Qua phân tích như trên, ta có thể thấy được sự ảnh hưởng của các nhân tố khách quan đóng vai trò quan trọng, các nhân tố chủ quan đóng vai trò quyết định. Chính trên cơ sở đó, sẽ tìm ra được các giải pháp hữu hiệu nhất tạo bước chuyển biến rõ rệt cho hoạt động huy động vốn của chi nhánh NHNo Hải Phòng.
Chương 3
giải pháp đẩy mạnh công tác huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn hải phòng
3.1- Định hướng hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT thành phố Hải Phòng
3.1.1- Định hướng phát triển kinh doanh của NHNo&PTNT Việt Nam.
Giữ vững và nâng cao chất lượng kinh doanh nhằm phục vụ tốt nghị quyết TW5 khoá 9 “Đẩy nhanh CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2001-2010”. Đẩy mạnh phát triển màng lưới, mở rộng hoạt động tín dụng khép kín với thanh toán, tăng nhanh thị phần trên địa bàn đô thị lớn cả về nguồn vốn, dư nợ và tỷ trọng dịch vụ. Đưa nhanh công nghệ hiện đại, cơ sở vật chất, các sản phẩn dịch vụ và tiện ích mới, nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển Ngân hàng hiện đại, nâng cao hiệu quả hoạt động và vị thế của Ngân hàng Nông nghiệp, tạo lực cho NHNo &PTNT phát triển trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế thế giới.
3.1.2- Định hướng và mục tiêu phát triển kinh doanh của NHNo&PTNT Hải phòng.
Thực hiện tốt định hướng kinh doanh toàn ngành đã được HĐQT phê duyệt, kế hoạch kinh doanh từng thời kỳ của NHNo&PTNT Việt nam giao cùng với những yêu cầu về phát triển kinh tế- xã hội theo tinh thần nghị quyết Đại hội 12 của Thành uỷ Hải phòng.
*/ Mục tiêu kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT Hải Phòng giai đoạn 2001 – 2005 và 2010 là: Tăng cường công tác huy động vốn phấn đấu đảm bảo đủ và thừa vốn kinh doanh vào năm 2005, đẩy mạnh cho vay mở rộng tín dụng, áp dụng công nghệ hiện đại, tăng thu dịch vụ:
- Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn bình quân đạt 30% - 35%/năm. Với cơ cấu tiền gửi dân cư 60%và tiền gửi của các tổ chức kinh tế là 40%.
- Tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân đạt 22 – 25%/năm. Tỉ lệ trung dài hạn 45 - 50%.
- Tăng thu dịch vụ đạt 7-10% tổng thu nhập, thực hiện tốt dịch vụ uỷ thác cho Ngân hàng chính sách xã hội.
- Phấn đấu đảm bảo hệ số tiền lương theo quy định.
*/. Mục tiêu cụ thể.
Đơn vị: tỷ đồng.
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Tổng nguồn vốn huy động
1.500
2.000
2.700
Tốc độ tăng trưởng
35%
35%
35%
1. Nguồn vốn huy động nội tệ
1.450
1.900
2.500
- Tiền gửi dân cư.
710
960
1.300
- Tiền gửi KBNN+BHXH
240
300
400
- Tiền gửi các TCKT
220
300
430
- Tiền gửi các TCTD
200
200
200
- Tiền gửi khác
80
140
170
Tỷ trọng/ nguồn vốn huy động
97%
94%
91%
2. Nguồn vốn huy động ngoại tệ
50
100
200
3.2- Giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hải Phòng.
3.2.1- Hoàn thiện bộ máy tổ chức làm công tác huy động vốn và giải pháp tự tìm đến khách hàng.
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc mở rộng khách hàng là mục tiêu vô cùng quan trọng đối với bất kỳ một Ngân hàng nào. Muốn tăng cường huy động vốn Ngân hàng không thể ngồi chờ khách hàng mang tiền đến gửi như từ trước đến nay mà Ngân hàng phải làm ngược lại là chủ động đi tìm khách hàng, đến tận nhà để tìm khách hàng (điều này tổ chức bảo hiểm đã làm được) Ngân hàng chưa làm được. Lý do: Ngân hàng chưa có một bộ phận riêng làm công tác huy động vốn( hiện nay dang nằm chung trong phòng kế hoạch), chưa có cán bộ chuyên quản chuyên sâu về nghiệp vụ huy động vốn nên việc nghiên cứu thị trường và nắm bắt nhu cầu khách hàng còn hạn chế dẫn đến những chính sách đưa ra chưa thực sự mang lại hiệu quả. Do vậy: giải pháp đưa ra cần thành lập 1 phòng hoặc 1 bộ phận riêng ( có cán bộ chuyên quản) thực hiện nhiệm vụ huy động vốn. Bộ phận này sẽ làm nhiệm vụ tiếp thị, nghiên cứu, phân tích thị trường và giúp Ban giám đốc xây dựng được chiến lược huy động vốn phù hợp với điều kiện cụ thể của Ngân hàng mình, phải đưa ra các sản phẩm phù và phải có biện pháp quảng cáo cho các sản phẩm của mình...
Nhiệm vụ của bộ phận này làkhông thểBộ phận này cần chú ý các nội dung sau:
3.2.1.1- Làm tốt hơn công tác nghiên cứu khách hàng.
*/- Đối với khách hàng là doanh nghiệp: Khi đưa ra các sản phẩm, dịch vụ, Ngân hàng cần xem phản ứng doanh nghiệp như thế nào với sản phẩm của mình. Cán bộ Ngân hàng cần phải tìm hiểu, nghiên cứu các tiêu chuẩn mà doanh nghiệp lựa chọn trong quá trình ra quyết định sử dụng và thâm nhập vào quá trình ra quyết định của doanh nghiệp để thoả mãn các yêu cầu của doanh nghiệp khi lựa chọn sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng.
*/- Đối với khách hàng là các cá nhân
Hiểu biết về các yếu tố cá nhân có ý nghĩa đặc biệt đối với hoạt động Ngân hàng. Chúng có ảnh hưởng tới các loại dịch vụ cung ứng, lựa chọn điểm mua các dịch vụ đó và cả phương pháp tác động tới khách hàng để lôi kéo họ về phía Ngân hàng. Trong các yếu tố cá nhân, yếu tố quan trọng nhất là lứa tuổi, tình hình kinh tế, tính cách cá nhân, lối sống ... Khi nghiên cứu khách hàng, Ngân hàng phải phân tích được động cơ chủ yếu nào thúc đẩy khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng:
+ Lợi nhuận và tiết kiệm: động cơ quan trọng của khách hàng này là tìm kiếm lợi nhuận khi sử dụng các sản phẩn dịch vụ của Ngân hàng. Vì vậy với các khách hàng này thì lãi suất có một ý nghĩa to lớn.
+ Tính linh hoạt của dịch vụ và chất lượng dịch vụ: Là điều khách hàng rất quan tâm tới. Chất lượng dịch vụ còn là cơ sở cho sự cạnh tranh phi giá. Cần chú ý rằng, khi lãi suất huy động cao nhưng chất lượng dịch vụ tồi cũng không thu hút được khách hàng.
+ An toàn, thuận tiện: Một Ngân hàng hoạt động tốt địa điểm thuận lợi có nhiều sản phẩm để lựa chọn khách hàng sẽ lựa chọn để gửi tiền vì nó là nơi bảo quản tốt nhất cho khách hàng.
+ Uy tín, kỹ thuật hiện đại : Đây cũng là một tiêu chuẩn lựa chọn Ngân hàng của khách hàng. Đó là một tiêu chuẩn để phòng ngừa rủi ro khi đầu tư vốn.
Trên cơ sở phân tích được sẽ là điều kiện giúp Ngân hàng hiểu về khách hàng một cách tốt nhất. Sau đó tiến hành phân loại khách hàng, rút ra những đặc điểm của từng loại khách hàng, chia thị trường thành phân đoạn và xác định thị trường mục tiêu. Trên cơ sở đó, đi sâu phân tích những đặc điểm nổi bật của thị trường mục tiêu để thấy rõ được những nhu cầu, mong muốn cụ thể của khách hàng đối với những sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng.
3.2.1.2- Chủ động tìm hiểu và đối phó với các đối thủ cạnh tranh.
Phải xác định được đối thủ cạnh tranh, điều tra, nắm bắt được mục tiêu, chiến lược, nắm được mặt mạnh, mặt yếu của đối thủ cạnh tranh, đưa ra những giải pháp thích hợp để đối phó nhằm giành được thắng lợi trong cạnh tranh.
Xu hướng ngày nay là các Ngân hàng ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực huy động vốn. Ngoài các NHTM khác trên địa bàn, các Ngân hàng cổ phần, các Ngân hàng liên doanh với nước ngoài, còn có các công ty bảo hiểm, công ty bưu điện ... , đặc biệt khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết thì việc cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là vấn đề vô cùng gay gắt.
3.2.1.3- Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo.
Sự hiểu biết và thiện cảm của khách hàng đối với Ngân hàng là một yếu tố quan trọng trong việc mở rộng hoạt động của Ngân hàng. Vì vậy, công tác tuyên truyền quảng cáo ngày càng không thể thiếu được. Ngân hàng phải làm sao cho mọi người biết đến của mình, cho họ thấy lợi ích khi giao dịch với Ngân hàng. Ngân hàng cần đẩy mạnh, đa dạng hoá các hình thức quảng cáo, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, vô tuyến truyền hình ... cũng như qua chính các công việc giao dịch hàng ngày sẽ làm cho khách hàng hiểu biết chính xác hơn, tin tưởng hơn về các loại hình hoạt động Ngân hàng. Từ đó sẽ lựa chọn sử dụng sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng có thể áp dụng một số hình thức khuyến mãi như tặng quà cho khách hàng, quay số dự thưởng ... hay tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về Ngân hàng, phải làm sao cho hình ảnh Ngân hàng và sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng luôn luôn là hình ảnh quen thuộc đi sâu vào tiềm thức khách hàng. Có như vậy mới thu hút được ngày càng nhiều khách hàng, tăng cường được nguồn vốn huy động.
3.2.2- Mở rộng mạng lưới huy động vốn.
3.2.2.1- Mạng lưới khách hàng
Cũng như những nhà Địa chất, họ không đi khai khoáng theo kiểu cuốc lăm lăm trong tay, ai xúi ở đâu là bổ thật lực ở đó. Mà họ tiến hành việc tìm kiếm, thăm dò, khai thác theo Bản đồ địa chất được tích luỹ từ hàng chục, hàng trăm năm trước. Đã đến lúc chúng ta- ngành Ngân hàng- cũng phải có “Bản đồ khách hàng” cùng các tiêu chí được theo dõi sát sao theo định kì. Mỗi sự biến đổi, sự phát triển, sự tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, cùng các chỉ số giao dịch, chỉ số quan hệ… đều phải được thể hiện ngay và chính xác trên bản đồ. Không thể có một chiến lược khách hàng tổng thể nếu không có mạng lưới khách hàng thân thiết, và chỉ căn cứ vào vào những thông tin cảm tính được cặp nhật một cách thất thường của từng nhân viên..
Sự gắn kết thông qua hình thức Câu lạc bộ và các chính sách ưu đãi riêng, những nỗ lực bền bỉ trong việc xây dựng khách hàng tiềm năng, chính sách cán bộ, chính sách hậu mãi, chính sách biệt đãi và bài toán tín dụng- tất cả cùng với thời gian- sẽ giúp ta xây dựng thành công “Mạng lưới khách hàng thân thiết”.
3.2.2.1- Mạng luới giao dịch Ngân hàng
Đi đôi với việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, trên cơ sở "bản đồ khách hàng" Ngân hàng còn phải quan tâm phát triển mở rộng màng lưới giao dịch. Các phòng giao dịch trên địa bàn Hải phòng chỉ thực hiện một chức năng là huy động vốn và mới chỉ quan tâm đến việc mở điểm giao dịch, công tác tuyên truyền, tiếp thị còn hạn chế và kém hơn hẳn so với các tổ chức bảo hiểm. Do vậy giải pháp đưa ra là: Thành lập mô hình phòng giao dịch 2 chức năng ở khu vực nội thành và thành lập tổ huy động vốn lưu động ở cả khu vực nội thành và ngoại thành sẽ mang lại hiệu quả hơn.
*/ Phòng giao dịch 2 chức năng: Vừa huy động vốn , vừa cho vay với số lao động là 05 người ( gồm: 01 kế toán, 01 thủ quỹ, 02 tín dụng, 01 trưởng phòng kiêm kiểm soát).
Lợi thế của phòng giao dịch 02 chức năng:
+ Hoạt động của phòng giao dịch sôi động lên.
+ Nó đặc biệt hơn so với các phòng giao dịch hiện tại đang hoạt động trên địa bàn .
+ Chênh lệch lãi suất cao hơn.
+ Tạo điều kiện cho CBCNV mở rộng quan hệ hơn với khách hàng.
+ Mở rộng được mức độ quảng cáo, tuyên truyền hơn.
+ Tận dụng được công suất máy móc, thiết bị, cơ sở vật chất nhiều hơn.
Điều kiện:
+ Đối tượng: Chỉ cho vay CBCNV (khối hành chính sự nghiệp) cho vay đời sống, hưu trí và các hộ kinh doanh buôn bán nhỏ.
+ Mức cho vay nhỏ: tối đa 15 triệu.
Các điều kiện khác theo quy định hiện hành của
*/ Thành lập tổ huy động vốn lưu động (áp dụng cả nội và ngoại thành): 01 tổ từ 2-3 người hoặc từ 3-4 người phân chia phụ trách địa bàn phường, xã đến từng nhà, từng cơ sở, các tổ, hội, xóm thôn... tuyên truyền vận động và xác lập hợp đồng theo các hình thức huy động. Cách làm giống như bán bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm. Có thể sử dụng lao động hợp đồng để làm công tác huy động vốn lưu động và thực hiện khoán lương đến người lao động theo doanh số vốn huy động được. Cách làm này tiết kiệm được nhiều chi phí và lao động nên sẽ hiệu quả hơn.
3.2.3 - Mở rộng và đa dạng hóa các hình thức huy động vốn
3.2.3.1- Không ngừng hoàn thiện và phát triển các hình thức huy động tiết kiệm.
Hiện tại, chi nhánh NHNo TP Hải Phòng đang sử dụng một số hình thức tiền gửi truyền thống như tiết kiệm không kỳ hạn , tiết kiệm có kỳ hạn, kỳ phiếu. Tuy nhiên, nếu chỉ bó hẹp trong các hình thức này thì tổng nguồn vốn huy động của chi nhánh khó có thể tăng nhanh được. Vừa qua trong năm 2003 NHNo&PTNT Hải phòng đã thực hiện thêm 2 hình thức huy động mới đó là tiền gửi tiết kiệm gửi góp và tiền gửi tiết kiệm hưởng lãi bậc thang đã thu được kết quả khả quan.....tỷ. Do vậy giải pháp đưa ra là tiếp tục thực hiện thêm nhiều hình thức huy động mới nữa như:
- Tiết kiệm xây dựng nhà hoặc mua sắm nhà ở:
Hình thức này hiện nay đã thực hiện ở một số Ngân hàng nhưng chưa phát triển mạnh, chưa được phổ biến rộng rãi, cần được đẩy mạnh hơn để phát huy tác dụng hỗ trợ đời sống nhân dân. Ngân hàng có thể thực hiện cho vay bổ sung để khách hàng gửi tiền tiết kiệm xây dựng nhà hoặc mua nhà có đủ số tiền cần thiết để mua hoặc xây nhà theo lãi suất thoả thuận với điều kiện khách hàng có đủ khả năng trả nợ và số dư tiền gửi đã đạt tới tỷ lệ nhất định so với giá trị nhà theo quy định của Ngân hàng. Khi có dấu hiệu khó thu hồi món nợ, Ngân hàng có thể phát mại ngôi nhà khách hàng mua mà Ngân hàng đang cầm giữ giấy tờ. Tiết kiệm xây dựng nhà (hoặc mua sắm nhà) là một hình thức hấp dẫn không những giúp Ngân hàng mở rộng hình thức do đó đã mang lại sự hỗ trợ đắc lực đối với người gửi tiền mà còn tạo thêm một kênh mới để mở rộng tín dụng.
Tuy nhiên hình thức huy động và cho vay này cũng có những rủi ro do quy định của Nhà nước về đất đai và nhà ở còn một số vướng mắc, khó khăn do cơ sở pháp lý xác định quyền sở hữu nhà (cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và sử dụng đất) còn nhiều bất cập. Chi phí cho việc huy động và theo dõi các khoản vay này còn lớn dẫn đến lợi nhuận thu được thấp hơn so với lợi nhuận thu được từ dịch vụ khác. Nhưng hình thức này rất thích hợp cho các tầng lớp dân cư với mức thu nhập ổn định và có nhu cầu mua hoặc xây dựng nhà riêng.
- Tiết kiệm rút định kỳ số tiền bằng nhau:
Loại tiền huy động này nhằm giải toả tâm lý của người gửi, cho phép người gửi được rút ra theo định kỳ một số tiền bằng nhau cho đến khi hết hạn. Giúp người gửi giải quyết được các khó khăn hoặc nhu cầu cần thiết đột xuất nảy sinh mà không bị giảm lãi tiền gửi như các loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, khi rút trước hạn khách hàng chỉ được hưởng lãi không kỳ hạn, gây thiệt thòi cho người gửi tiền.
- Tiết kiệm báo trước thời hạn rút:
Hình thức huy động này chỉ nên áp dụng với thời hạn gửi tiền ít nhất là 3 năm nhằm phục vụ cho những nhu cầu có tính chất ổn định như: Chuẩn bị tiền cho con vào đại học, cho con tham gia lao động học tập tại nước ngoài..... mà người gửi dự tính được gần đúng nhu cầu cần thiết trong tương lai, và được báo trước chính xác ngày rút tiền từ 1 đến 2 tháng tùy theo lượng tiền gửi vào Ngân hàng .
- Tiết kiệm bằng vàng:
Tâm lý người Việt Nam từ xưa đến nay rất coi trọng vàng. Vàng cũng là phương tiện để trao đổi, buôn bán. Vì vậy, cũng có thể dùng để gửi vào Ngân hàng. Khi có một lượng vốn dư thừa dưới dạng vàng, việc gửi trực tiếp vào Ngân hàng sẽ đảm bảo an toàn cho khách hàng. Khách hàng có thêm một khoản lãi và tiết kiệm được thời gian và chi phí chuyển đổi từ vàng thành tiền. Các Ngân hàng đã bỏ qua một nguồn vốn huy động lớn từ tiết kiệm bằng vàng, bởi theo số liệu điều tra của bộ kế hoạch đầu tư và tổng cục thống kê thì 44% lượng tiền để dành của người dân là nhằm mục đích mua vàng và ngoại tệ. Nhằm thu hút tối đa lượng vàng này, Ngân hàng nhà nước đã ra quyết định 432/2000/QĐ- NHNN1 về huy động bằng vàng và huy động VND bảo đảm giá trị bằng vàng. Chi nhánh nên triển khai tiết kiệm bằng vàng nhằm tăng thêm lượng vốn.
- Tiết kiệm học đường:
Hình thức được triển khai và áp dụng tại các trường học với mục đích giáo dục ý thức tiết kiệm cho học sinh chuẩn bị vào đời trong sinh hoạt cộng đồng, trên cơ sở hình thành số dư tiết kiệm đáp ứng một phần chi tiêu cho nhu cầu học tập và làm tiền đề cho vay để trang trải một số chi phí vào đại học. Khi triển khai phương thức này cần quan tâm vấn đề sau:
+ Thời hạn nên kéo dài vừa đủ phù hợp với từng lứa tuổi học sinh và khi chuẩn bị bước vào đại học.
+ Lãi suất là phần thưởng nhằm khuyến khích và giáo dục ý thức tiết kiệm cho lứa tuổi học sinh.
- Tiết kiệm đảm bảo giá trị theo vàng hoặc theo đôla:
Trong điều kiện hiện nay của nước ta, hình thức tiết kiệm có đảm bằng vàng hay USD sẽ có sức hấp dẫn rất lớn. Từ nhiều năm nay, người dân Việt Nam có thói quen dùng vàng, USD để đo giá trị của hàng hóa, tài sản có giá trị lớn như nhà cửa, xe máy...và có thói quen cất trữ tiền để dành dưới dạng vàng, USD. Như vậy nếu hình thức này được áp dụng sẽ tạo điều kiện tiền đề dần xóa bỏ thói quen cất trữ tiền dưới dạng vàng, USD của dân. Thu hút lượng tiền lớn vào Ngân hàng vì người dân thấy yên tâm hơn khi tiền của mình không bị mất giá trị, an toàn và có lãi.
Tiết kiệm dưỡng lão:
Hợp đồng tiết kiệm dưỡng lão có thể coi là một loại "Bảo hiểm nhân thọ "đặc thù do Ngân hàng cung cấp cho dân cư, nhằm bổ khuyết sự thiếu vắng về loại sản phẩm này của ngành bảo hiểm Việt Nam. Mặt khác, nó lại thích ứng hơn với đặc điển tâm lý của người Việt Nam, nhờ các lợi thế sau:
+ Cung cấp cho người dân một dịch vụ quản lý nguồn tích lũy của cá nhân để đảm bảo nguồn sống khi về già hoặc hết khả năng lao động, mà không đòi hỏi quá nhiều giấy tờ, thủ tục hành chính như các loại hình bảo hiểm chính thống.
+ Phần vốn gốc tích lũy không mất đi nếu người thụ hưởng bị chết mà sẽ được thừa kế trọn vẹn theo di chúc hoặc có thể được trả lại toàn bộ cùng lãi suất (Sau một thời hạn nhất định theo quyết định) cho người thụ hưởng ngay khi còn sống hoặc được chuyển đổi thành các khoản niên kim thu nhập ổn định trọn đời.
+ Sản phẩm này mang tính linh hoạt, mềm dẻo, người gửi có quyền quyết định số tiền gửi mỗi lần tùy theo khả năng tích lũy của mình mà không bị bó buộc định kỳ, định mức như đóng tiền bảo hiểm.
+ Với loại hình tiết kiệm dưỡng lão này, Ngân hàng sẽ khai thác được ưu thế về mặt tài chính một loại sản phẩm bảo hiểm truyền thống: Ngân hàng thu nhận, quản lý được một nguồn tiền ổn định, liên tục và lâu dài. Vì vậy, nguồn này có thể được sử dụng để đầu tư trung, dài hạn nhằm đạt được tỉ suất sinh lời cao.
Với các xu hướng nêu trên, sản phẩm này có sử dụng cạnh tranh đặc biệt đối với ngành bảo hiểm.
Trên đây là một số hình thức tiết kiệm mà chi nhánh có thể xem xét, tham khảo và lựa chọn. Không nhất thiết sử dụng tất cả các phương thức đó mà chỉ cần thực hiện một số hình thức phù hợp với khả năng và quan trọng hơn, đó là phát huy triệt để thế mạnh của mình.
3.2.3.2- Đẩy mạnh việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân, séc cá nhân thẻ thanh toán.
Hiện nay ở chi nhánh, hình thức tài khoản cá nhân đã được triển khai nhưng cũng chưa được sử dụng rộng rãi. Thực tế đó là những hình thức tiên tiến mang lại nhiều thuận tiện cho người sử dụng và giảm bớt được gánh nặng của việc thanh toán trực tiếp bằng các hoạt động thanh toán phát sinh thường xuyên như trả lương, và các dịch vụ công cộng: tiền điện, nước, điện thoại...Vì vậy nếu phát triển mạnh hình thức này thì đây sẽ là những nguồn vốn không nhỏ mà Ngân hàng có thể tận dụng, đồng thời có thêm nguồn thu từ các dịch vụ thanh toán. Các hình thức này chưa thực sự phát triển không phải do khách hàng không có nhu cầu mà họ chưa có thói quen sử dụng. Vì vậy sẽ có khả năng phát triển tốt nếu Ngân hàng làm tốt hoạt động marketing Ngân hàng.
3.2.3.3- Phát hành trái phiếu có kỳ hạn và mệnh giá đa dạng.
Trong cơ cấu huy động của chi nhánh NHNo TP Hải Phòng chưa có hình thức huy động bằng trái phiếu. Trong khi đó, đây là một hình thức hữu hiệu trong việc huy động vốn trung , dài hạn. Sự đa dạng về kỳ hạn, mệnh giá của trái phiếu sẽ tạo cho người mua nhiều cơ hội đầu tư khác nhau. Do đó, Ngân hàng có thể mở rộng huy động vốn do thoả mãn những nhu cầu khác nhau của khách hàng. Hơn nữa, hiện nay thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động này phát triển.
3.2.3.4- Tiến hành huy động vốn tiết kiệm ngoại tệ trên địa bàn nông thôn.
Địa bàn nông thôn Hải Phòng khá rộng, có nhiều việt kiều gửi tiền về cho gia đình, nhưng chi nhánh hiện đang bỏ trống trận địa này làm cho người dân phải đi lại xa khi gửi tiền. Vì vậy, chi nhánh nên gấp rút triển khai huy động tiết kiệm ngoại tệ để thu hút lượng ngoại tệ trong khu vực nông thôn, tránh để hiện tượng lãng phí khi bỏ qua nguồn vốn ngoại tệ đáng kể ở khu vực này. Đồng thời giúp cho khách hàng khỏi phải đi lại vất vả khi có nhu cầu gửi tiền cũng như đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng và tạo cho họ một khoản lợi nhuận từ tiền gửi thay vì để tiền cất trữ trong nhà. Mặt khác, nhu cầu vốn ngoại tệ hiện đang đòi hỏi rất lớn, huy động được ngoại tệ sẽ giúp Ngân hàng dễ dàng chủ động hơn trong việc cân đối giữa nguồn và sử dụng ngoại tệ.
3.2.4 - Vận dụng lãi suất huy động vốn hợp lý, linh hoạt, hấp dẫn.
Mỗi Ngân hàng đều có chiến lược kinh doanh riêng, trong đó chiến lược lãi suất là một trong những chiến lược quan trọng. Lãi suất là yếu tố cấu thành chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập và chi phí. Vì vậy, mọi biến động về lãi suất đều có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Lãi suất huy động cao sẽ khuyến khích dân chúng gửi tiền vào Ngân hàng, làm tăng quy mô nguồn tiền gửi của Ngân hàng nhưng lại có tác động đi ngược lại lợi ích của chính Ngân hàng đó là lợi nhuận giảm. Như vậy, việc xây dựng chính sách lãi suất hợp lý là vấn đề rất quan trọng.
Giải pháp về lãi suất:
- Điều hành lãi suất theo cơ chế kinh tế thị trường và mối quan hệ cung cầu về vốn. Lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, căn cứ vào lãi suất sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy động vốn bảo đảm Ngân hàng kinh doanh có lãi.
- Lãi suất danh nghĩa phải bằng lãi suất thực cộng với lạm phát dự kiến: nghĩa là phải theo dõi sát lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ trượt giá để điều chỉnh kịp thời và linh hoạt, sao cho lãi suất luôn phải thực “dương” để đảm bảo được quyền lợi của cả người gửi tiền và Ngân hàng
- Lãi suất tiền gửi trong dài hạn phải cao hơn đáng kể so với lãi suất tiền gửi ngắn hạn để khuyến khích việc gửi tiền lâu dài, tránh sự dư thừa quá nhiều tiền gửi ngắn hạn gây khó khăn và mất cân đối trong kinh doanh của Ngân hàng.
- Có chính sách hợp lý giữa hai đồng vốn nội tệ và ngoại tệ, rút ngắn khoảng cách giữa hai loại lãi suất này để đảm bảo huy động được cả vốn nội tệ và ngoại tệ đồng thời đảm bảo cân đối trong việc sử dụng vốn. Bằng cách tăng giá trị khuyến mại đối với khách hàng mới gửi hoặc tặng đối với khách hàng đang có số dư vừa hấp dẫn khách hàng vừa tăng quảng cáo.
- áp dụng các hình thức trả lãi khác nhau như trả lãi trước, trả lãi theo chu kỳ nhất định để khách hàng lựa chọn.
- áp dụng cả hai chế độ lãi suất cố định và lãi suất thả nổi để khách hàng khi gửi tiền hay mua kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng có thể chọn một trong hai loại lãi suất đó. Nếu khách hàng đồng ý với mức lãi suất hiện hành và tin tưởng vào sự ổn định của đồng tiền thì họ sẽ chấp nhận lãi suất cố định. Trái lại, khách hàng không muốn duy trì một mức lãi suất cho trước, họ có thể yêu cầu Ngân hàng điều chỉnh mức lãi suất 6 tháng hay 1 năm một lần bằng cách tính chênh lệch với lãi suất huy động bình quân trên thị trường một tỷ lệ nào đó. Do vậy Ngân hàng phải nghiên cứu kỹ và phải đưa ra một mức lãi suất thả nổi khung áp dụng trong từng thời kỳ
- Tiếp tục thực hiện những ưu đãi về lãi suất cho khách hàng gửi những khoản tiền lớn và có số dư ổn định, thường xuyên để hấp dẫn, khuyến khích và lôi kéo khách hàng .
Như vậy chính sách lãi suất một mặt phải tạo ra được sự linh hoạt, mềm dẻo không theo khuôn mẫu định sẵn, mặt khác phải tuân thủ những quy định kinh tế cơ bản. Để làm được tốt việc này hiện nay đối với các Ngân hàng nói chung và chi nhánh NHNo TP Hải Phòng nói riêng là rất khó khăn. Vì vậy, việc điều hành về lãi suất có thể thực hiện được khi Ngân hàng kết hợp với việc đa dạng hoá các loại hình huy động vốn và Ngân hàng phải điều hành lãi suất một cách linh hoạt phù hợp với đặc điểm kinh tế đất nước.
3.2.5- Phát triển và đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ Ngân hàng.
Phương thức cạnh tranh hiện đại giữa các Ngân hàng này nay là cạnh tranh bằng công nghệ và chất lượng dịch vụ. Thông qua các dịch vụ cung ứng, Ngân hàng sẽ nhanh chóng nắm bắt được nhu cầu của khách hàng. Để thu hút được nhiều khách hàng, khơi tăng nguồn vốn huy động, chi nhánh NHNo Hải Phòng nghiên cứu, triển khai thêm các hình thức sau:
3.2.5.1- Dịch vụ tư vấn.
- Dịch vụ tư vấn đầu tư:
Trong dịch vụ tư vấn đầu tư, Ngân hàng có thể hướng dẫn khách hàng xây dựng dự án, lựa chọn sản phẩm sản xuất, kinh doanh, tính toán nguồn tài trợ cho dự án với lãi suất tiền vay có lợi nhất. Trong việc tham gia thị trường tiền tệ, Ngân hàng tư vấn cho khách hàng về số lượng vốn và thời gian cần thiết tham gia thị trường tiền tệ ngắn ngày hưởng lãi suất cao.
Làm tốt công tác này, Ngân hàng sẽ trở thành một điểm tựa không thể thiếu được đối với các doanh nghiệp, dân chúng. Vì thế, khách hàng sẽ tin tưởng Ngân hàng hơn, từ đó họ yên tâm ký gửi các khoản tiền của mình tại Ngân hàng, và khi cần họ sẽ vay vốn tại Ngân hàng. Chi nhánh nên mở rộng hình thức này để nó vừa trở thành công cụ quảng cáo vừa tạo niềm tin vững chắc cho khách hàng.
- Dịch vụ tư vấn tài chính
Cán bộ Ngân hàng am hiểu về lĩnh vực tài chính - Ngân hàng có thể triển khai cách thức tư vấn tài chính giúp doanh nghiệp lập kế hoạch tài chính, phân tích tài chính ... Làm như vậy, Ngân hàng vừa có thể kiểm soát được tình hình tài chính của doanh nghiệp, đồng thời là chỗ dựa cho khách hàng truyền thống của Ngân hàng.
- Dịch vụ tư vấn tiền gửi:
Ngân hàng hướng dẫn tư vấn cho khách hàng nên gửi tiền theo hình thức nào, thời gian bao lâu để đáp ứng được nhu cầu sử dụng tiền của khách hàng lại vừa giúp khách hàng có thu nhập cao. Nhằm tạo sự tin tưởng cho khách hàng và giúp thu hút khách hàng về Ngân hàng mình.
3.2.5.2- Dịch vụ chi lương
Từ số dư tài khoản của doanh nghiệp tại Ngân hàng, Ngân hàng sẽ thực hiện việc chi trả lương cho nhân viên của doanh nghiệp. Nếu nhân viên nào có tài khoản tại Ngân hàng thì Ngân hàng tự động nhập tiền lương vào tài khoản của họ. Còn đối với những nhân viên có tài khoản ở Ngân hàng khác thì Ngân hàng có thể gửi tiền vào tài khoản của họ tại Ngân hàng kia. Hoặc Ngân hàng cùng kế toán doanh nghiệp phát lương trực tiếp bằng tiền mặt đến người lao động. Khi thực hiện dịch vụ này, Ngân hàng có điều kiện tiếp cận vận động công nhân viên doanh nghiệp mở tài khoản tại Ngân hàng mình.
Dịch vụ này mang lại nhiều thuận lợi: Đối với doanh nghiệp không mất chi phí đi lại rút tiền từ Ngân hàng về để chi trả lương; Đối với công nhân viên họ được hưởng thêm phần lãi suất của khoản tiền chưa cần sử dụng đến, mặt khác lại an toàn và đảm bảo bí mật tài chính của họ; Đối với Ngân hàng thì có được nguồn vốn và phí dịch vụ ( nếu thoả thuận) thông qua dịch vụ này.
3.2.5.3- Dịch vụ khấu trừ tự động.
Bên cạnh dịch vụ chi trả lương Ngân hàng có thể kiêm luôn dịch vụ khấu trừ tự động. Ngân hàng sẽ đứng ra thu hộ tiền các công ty cung ứng từ các hộ gia đình khi sử dụng điện, nước, điện thoại ... khi đến kỳ thanh toán, các nhà phân phối sẽ gửi trực tiếp các hoá đơn thanh toán đến Ngân hàng, nơi người thanh toán có tài khoản. Lúc đó, Ngân hàng sẽ trích tiền từ tài khoản của chủ thanh toán sang tài khoản của công ty cung ứng dịch vụ. Công việc này rất đơn giản, làm giảm bớt chi phí cho các bên. Hoặc có thể làm dịch vụ cho cục thuế về thu thuế các tổ chức, cá nhân có đăng ký sản xuất kinh doanh.
3.2.5.4- Dịch vụ chuyển tiền nhanh.
Ngân hàng cần quan tâm hơn nữa đến loại hình dịch vụ này vì nó vừa giúp tăng thêm thu nhập lại vừa làm tăng thêm uy tín cho Ngân hàng. Trong tương lai, cùng với xu hướng quốc tế hoá ngành thương mại thì dịch chuyển tiền nhanh, dịch vụ đại lý, dịch vụ uỷ thác đầu tư... sẽ rất phát triển.
Có thể nói rằng, khi mở rộng các dịch vụ nêu trên, nguồn vốn huy động trực tiếp qua đó không nhiều nhưng Ngân hàng có khả năng nâng cao uy tín của mình trên thị trường, góp phần thu hút đông đảo khách hàng đến với Ngân hàng và tăng chi phí trực tiếp.
3.2.6- Hoàn thiện chính sách đối với người lao động trong chi nhánh.
Yếu tố con người quyết định sự thành công hay thất bại của mọi hoạt động kinh doanh. Bên cạnh công nghệ, trang thiết bị hiện đại thì vấn đề nhân lực luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi chủ thể kinh doanh trong việc đảm bảo cho sự phát triển ổn định và vững mạnh, nhất là những đơn vị mà hoạt động kinh doanh mang tính nhạy cảm cao như Ngân hàng. Những sai sót, vi phạm trong công tác nghiệp vụ cũng như điều hành đều bắt đầu từ yếu tố nhân sự.
Việc cần thiết đầu tiên là không ngừng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, bao gồm cả cán bộ quản lý nghiệp vụ ở các phòng ban và cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng. Trình độ cán bộ cần phải toàn diện cả về trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ, vi tính ... để có thể sử dụng tốt các phương tiện hiện đại và giao tiếp với đối tác nước ngoài. Cần bố trí cán bộ nhân viên đúng người đúng việc, sắp xếp các công việc phù hợp chuyên môn, trình độ và ưu điểm của mỗi người. Cơ cấu lao động ở các phòng ban phải đạt yêu cầu tinh giản, gọn nhẹ, hiệu quả. Phát huy tối đa năng lực của tập thể cán bộ công nhân viên trong hoạt động của Ngân hàng. Đối với cán bộ giỏi nên có chế độ đãi ngộ hợp lý để khuyến khích sự nhiệt tình, tâm huyết của họ. Có chính sách phát triển nguồn nhân lực với mục tiêu là: Nâng cao toàn diện trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, giáo dục thái độ, ý thức tác phong giao dịch lịch thiệp, niềm nở, ân cần cho đội ngũ nhân viên, đặc biệt là các nhân viên tại quầy, phòng giao dịch, bàn tiết kiệm.
3.2.7- Nâng cao chất lượng phục vụ, củng cố uy tín của Ngân hàng.
Uy tín của Ngân hàng trong con mắt của khách hàng được đánh giá dựa trên những kết quả khả quan về tài chính mà Ngân hàng đạt được và chất lượng công tác phục vụ khách hàng. Trong đó, chất lượng phục vụ hay giao tiếp ứng xử là yếu tố dễ nhận biết hơn, có tác động trực tiếp đến khách hàng. Vì vậy, ngoài lợi ích cần phải giải quyết, Ngân hàng còn phải quan tâm tới các tiện ích mà khách hàng có được trong quá trình sử dụng dịch vụ Ngân hàng... Đối với huy động vốn, Ngân hàng cần phát triển các hình thức đem lại cho khách hàng sự thuận tiện thoái mái nhất như hình thức gửi một nơi rút nhiều nơi, nâng cao tính chuyển nhượng của các công cụ huy động ... Cải tiến thủ tục theo hướng đơn giản, thuận tiện và chính xác để tiết kiệm thời gian và chi phí giao dịch, tránh hiện tượng khách hàng phải chờ đợi lâu. Tiết kiệm thời gian cho xử lý công việc, thời gian cho một cuộc giao dịch luôn là vấn đề đặt ra đòi hỏi chi nhánh phải quan tâm. Đây là một thước đo để đánh giá chất lượng phục vụ của Ngân hàng. Vì vậy, Ngân hàng cần cải tiến cách thức, quy trình thủ tục nghiệp vụ để cho khách hàng thực hiện một cuộc giao dịch nhanh chóng, thuận tiện nhất, nhằm đem lại sự thoả mãn cao nhất cho khách hàng.
- Chi nhánh cần bố trí thời gian giao dịch thuận tiện, thích hợp với mọi tầng lớp nhân dân. Chi nhánh cũng như đa số các NHTM khác chỉ giao dịch trong giờ hành chính ,vì lẽ đó, những viên chức có nhu cầu gửi tiền vào Ngân hàng thì phải nghỉ làm việc và mất rất nhiều thời gian. Do đó, cần phải tổ chức giao dịch ngoài giờ hành chính như bố trí làm việc theo ca để tăng thêm giờ làm việc thậm chí cả ngày nghỉ để thoả mãn nhu cầu của người gửi tiền.
- Cải thiện về phong cách giao dịch: Đây là một trong những giải pháp rất cần thiết trong điều kiện có nhiều tổ chức tín dụng cùng cạnh tranh huy động vốn trên địa bàn, nhất là đội ngũ cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng. Chi nhánh cần lựa chọn và bồi dưỡng để có những cán bộ tinh thông về nghiệp vụ, hiểu biết nhiều mặt, nhanh nhẹn, tháo vát có khả năng tác nghiệp thành thạo. Đồng thời, giải đáp được hầu hết những thắc mắc, làm thoả mãn tất cả những khách hàng, kể cả những khách hàng khó tính nhất.
- Thực hiện chính sách khách hàng: Tổ chức định kỳ hội nghị khách hàng nhằm nắm bắt nhanh nhất nhu cầu của khách hàng và tự đánh giá vị trí của mình trong lòng mỗi khách hàng.
3.2.8- Tiếp tục đổi mới và hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng.
Hiện đại hoá công nghệ giúp cho Ngân hàng vừa nâng cao chất lượng dịch vụ vừ có thể cạnh tranh với các Ngân hàng trên địa bàn và trong cả nước. Ngân hàng nào có công nghệ hiện đại Ngân hàng đó có nhiều lợi thế hơn. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về công nghệ, dịch vụ Ngân hàng là cạnh tranh không có giới hạn. Do vậy, vấn đề tiếp tục hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng đang được đặt ra cho mỗi Ngân hàng. Đây là con đường nhanh nhất để có thể chiến thắng trong cạnh tranh. Để đáp ứng nhu cầu phục vụ với số lượng khách hàng ngày càng lớn và đòi hỏi ngày càng cao thì Ngân hàng càng phải cần đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ. Từ đó nâng cao sức cạnh tranh, thu hút được nhiều vốn đầu tư, phát triển Ngân hàng có công nghệ tiên tiến, góp phần nâng cao chất lượng phục vụ, thoả mãn tốt nhất yêu cầu khách hàng. Ngân hàng cần ứng dụng các thành tựu ứng dụng tiên tiến để thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiện lợi. Nhanh chóng thiết lập hệ thống thanh toán tự động, liên kết mạng thanh toán quốc gia giữa các Ngân hàng với nhau, giữa Ngân hàng với khách hàng trong cả nước. Chuẩn bị từng bước tham gia hoà nhập hệ thống truyền thông quốc tế để phục vụ thanh toán quốc tế nhanh chóng. Từng bước áp dụng mở rộng thẻ thanh toán điện tử của Ngân hàng và doanh nghiệp, thẻ thanh toán không dùng tiền mặt, thẻ rút tiền mặt. Phát triển và hoàn thiện môi trường pháp lý, hoà nhập với thông lệ quốc tế, làm cơ sở thúc đẩy hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng.
Tóm lại: Các giải pháp nêu trên phải áp dụng một cách tổng hoà. Khi Ngân hàng áp dụng một hoặc một nhóm giải pháp có thể tạo ra các tác động tới các giải pháp khác. Vì vậy, trong từng thời kỳ nên lựa chọn các nhóm giải pháp thích hợp, xác định mức độ thích hợp của từng giải pháp để đạt được mục tiêu mong muốn.
3.3 - Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Hải Phòng.
3.3.1. Kiến nghị với nhà nước.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến hoạt động Ngân hàng. Hiện nay, ngoài hiến pháp là đạo luật cơ bản, những bộ luật căn bản cần thiết trong quan hệ kinh tế, đặc biệt trong cơ chế hiện nay, vẫn chưa thực sự hoàn thiện, gây tâm lý lo lắng sợ gặp phải những rủi ro cho người đầu tư và người sử dụng vốn đầu tư. Như vậy, để đảm bảo quyền lợi cho tất cả các bên thì cần phải có một hệ thống pháp lý rõ ràng và bình đẳng. Chính phủ cần luật hoá mọi hoạt động liên quan đến tiền tệ, tín dụng, tạo môi trường lành mạnh và hành lang pháp lý rõ ràng cho các Ngân hàng phát huy hết khả năng của mình, đồng thời tạo nên niềm tin vững chắc cho dân chúng đối với hệ thống Ngân hàng. Không chỉ có vậy trên cơ sở luật Ngân hàng và luật của các tổ chức tín dụng, chính phủ phải cùng với Ngân hàng làm sao cho dân chúng hiểu rõ và tin tưởng rằng: Quyền lợi của khách hàng luôn được đảm bảo vì luật pháp đứng về phía họ.
- ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của mọi chủ thể kinh tế, đặc biệt với hoạt động Ngân hàng. Trong công tác huy động vốn của Ngân hàng, tăng cường công tác huy động vốn, nhất là vốn trung và dài hạn phục vụ cho hoạt động tín dụng thì sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô là rất cần thiết. Việc người dân có sử dụng một lượng lớn tiền nhàn rỗi để mua vàng, ngoại tệ, bất động sản cũng một phần do thiếu tin tưởng vào khả năng ổn định của nền kinh tế. Qua giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới nền kinh tế, các điều kiện kinh tế vĩ mô đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa thực sự tạo được sự thuận lợi cho hoạt động Ngân hàng và chưa thực sự tạo được sự tin tưởng của nhân dân. Chỉ trong điều kiện lạm phát được kiềm chế thì khách hàng mới yên tâm gửi tiền và vay tiền để sản xuất kinh doanh. Bên cạnh việc sử dụng hiệu quả các công cụ vĩ mô, nhà nước nên có sự tuyên truyền, giáo dục hợp lý nhằm thay đổi tâm lý và thói quen tích trữ tiêu cực nói trên. Điều đó không chỉ có lợi cho Ngân hàng mà còn góp phần tăng tỷ lệ tiết kiệm để đầu tư phát triển kinh tế. Nhà nước cũng cần có những biện pháp xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực trong lĩnh vực kinh tế, Ngân hàng, làm cho hoạt động Ngân hàng trong sạch, vững mạnh, củng cố lòng tin của dân chúng vào hệ thống Ngân hàng quốc doanh chủ lực.
- Thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính, tiền tệ trong nước. Hình thành thị trường vốn ở quy mô toàn quốc để mọi nguồn vốn phân tán nhỏ bé đều được tập trung vào các cơ hội đầu tư sinh lời. Sự thiếu vắng của một thị trường vốn được tổ chức quy củ, bài bản, hiệu quả là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho tiềm năng vốn còn rất lớn trong dân hiện nay chưa được khai thác đúng mức vào các hoạt động kinh tế ích nước, lợi nhà. Gấp rút kiện toàn về mặt tổ chức, thể chế và đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp là những bước đi cần thiết để thị trường vốn sớm được ra đời và phát huy tác dụng.
Ngoài ra, nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ đối với hệ thống NHTM để về lâu dài có đủ sức mạnh chủ đạo của hệ thống NHTM đối với nền kinh tế.
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế và là Ngân hàng của các Ngân hàng. NHNN có vị trí vai trò vô cùng quan trọng trong việc đề ra định hướng chiến lược huy động vốn phục vụ cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, NHNN cần:
- Thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước, tổ chức thanh tra kiểm tra chấn chỉnh và xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng.
- Cùng với Chính phủ NHNN cần sớm áp dụng các công cụ thị trường mở, để điều hành chính sách tài chính tiền tệ thay vì tập trung sử dụng các công cụ mang tính quản lý hành chính (công cụ lãi suất,hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc) Đăy là những nhân tố đòi hỏi phải được duy trì ổn định và nó ảnh hưởng trực tiếp và gây biến động rất lớn đến hoạt động của NHTM cũng như nền kinh tế. Khi nhà nước điều chỉnh lãi suất lập tức các NHTM gặp rủi ro, có thể dẫn đến kinh doanh thua lỗ hoặc không huy động được vốn.
- Hướng các NHTM chuyển sang cạnh tranh bằng uy tín, chất lượng và tiện lợi trong phục vụ khách hàng, hạn chế và loại trừ dần tính cạnh tranh trong huy động vốn bằng lãi suất.
- Có chính sách bình ổn tỷ giá: Khi tỷ giá có biến động tăng tì đồng tiền Việt nam mất giá. Do vậy mặc dù lãi suát ngoại tệ có hạ xuống và lãi suất đồng Việt nam có tăng lên cao thì huy động tiền VNĐ của NGTM cũng không tăng đáng kể. Trong khi đó các Doanh nghiệp vay vốn lại muốn vay tiền VNĐ, còn những doanh nghiệp có ngoại tệ muốn găm giữ không muốn chuyển đổi thành tiền Việt nam, dẫn đến trở lên khan hiếm tiền đồng và Ngân hàng cũng khó khăn hơn trong việc huy động VNĐ trừ khi Chính phủ có chính sách bình ổn giá. Nếu tỷ giá ổn định thì NHTM sẽ huy động được nhiều tièn mà không cần phải tăng lãi suất.
- Cần sớm đưa vào sử dụng các phương tiện thanh toán hiện đại qua mạng máy tính trong cả nước nhằm đẩy nhanh tốc tộ thanh toán không dùng tiền mặt. Hệ thống thanh toán hiệu quả sẽ làm tăng lòng tin của khách hàng đối với Ngân hàng.
3.3.3. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam.
- NHNo Việt Nam khi xây dựng định hướng chiến lược kinh doanh chung, cần lưu ý đến thực tế điều kiện, môi trường của các đơn vị thành viên.
- Hải phòng đang là đơn vị thực hiện thí điểm chương trình hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng (WB).......
- Trong quá trình thực hiện đề án mở rộng màng lưới. Đề nghị NHNo&PTNT việt nam hỗ trợ giúp NHNo&PTNT Hải phòng tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trang thiết bị cho các phòng giao dịch mới được thành lập sớm đi vào hoạt động.
- Thường xuyên tổ chức hội thảo trao đổi kinh nghiệm hoạt động của các chi nhánh thành viên, thu thập ý kiến đóng góp và những kiến nghị từ cơ sở để góp phần đề ra các văn bản quy định phù hợp hơn nữa với thực tế phong phú và biến động như hiện nay.
Kết luận
Đối với hệ thống NHTM nói chung và chi nhánh NHNo & PTNT Hải Phòng nói riêng, huy động vốn đã, đang và sẽ luôn là một trong những hoạt động chủ chốt, quan trọng và có tính chất quyết định đến mọi hoạt động khác của Ngân hàng. Vì vây, việc tăng cường huy động vốn hiện nay rất cần thiết vì nó liên quan đến các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay - một hoạt động tạo ra lợi nhuận cao nhất cho Ngân hàng.
Trên thực tế, không có một khuôn mẫu nhất định nào cho công tác huy động vốn cho các NHTM. Huy động vốn được hình thành vốn từ thực tiễn phát triển của nền kinh tế. Nó là kết quả của quá trình nghiên cứu, tìm tòi và ứng dụng đầy tính sáng tạo và khoa học. Để gặt hái thành công trong lĩnh vực này, ngoài sự nỗ lực, cố gắng không mệt mỏi của bản thân chi nhánh, cần có sự quan tâm hỗ trợ của Đảng, Nhà nước, NHNo & PTNT Việt Nam , các cấp, các ngành ... trong việc thực hiện tốt chiến lược kinh tế xã hội nói chung và chiến lược huy động vốn của bản thân chi nhánh nói riêng.
Do năng lực và kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế, thời gian chuẩn bị có hạn nên khoá luận khó tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các anh chị đồng nghiệp để đề tài được toàn diện hơn sâu sắc hơn và quan trọng hơn là để nội dung của đề tài thực sự được đi vào cuộc sống.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Giảng viên TS. cô giáo Nguyễn Kim Nhung và Ban lãnh đạo NHNo & PTNT thành phố Hải Phòng đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHNo & PTNT Hải Phòng năm 2001, 2002, 2003
Công nghệ Ngân hàng thương mại Mỹ - PTS Nguyễn quốc Việt - Nguyễn Thành - Nhà xuất bản giáo dục.
Marketing Ngân hàng - Học viện Ngân hàng
Ngân hàng thương mại - Edward W. Reed & Edward K. Gill
Tạp chí Ngân hàng
Thông tin Ngân hàng
Tạp chí thị trường tài chính
Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng thương mại nâng cao - Học viện Ngân hàng
Ngân hàng thương mại – GS.TS Lê Văn Tư; Lê Tùng Vân; Lê Nam Hải - Nhà xuất bản Thống kê.
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
Họ và tên giáo viên hướng dẫn:
Đơn vị :
Chức vụ :
Nhận xét khoá luận tốt nghiệp của học viên : Nguyễn Thị tuyết Chinh
Lớp : QT51 - Hệ chuyển đổi Đại học - Khoá 5
Đề tài:
Thực trạng và giải pháp huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hải Phòng
Điểm : - Bằng số
- Bằng chữ
Người nhận xét
(Ký tên)
Nhận xét của giáo viên phản biện
Họ và tên giáo viên phản biện
Đơn vị :
Chức vụ :
Nhận xét khoá luận tốt nghiệp của học viên : Nguyễn Thị Soa
Lớp : Tín dụng 1 - Hệ chuyển đổi Đại học - Khoá 4
Đề tài:
Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn
tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hải Phòng
Điểm : - Bằng số
- Bằng chữ
Người nhận xét
(Ký tên)
Kết luận
Đối với hệ thống NHTM nói chung và chi nhánh NHNo Hải Phòng nói riêng, huy động vốn đã, đang và sẽ luôn là một trong những hoạt động chủ chốt, quan trọng và có tính chất quyết định đến mọi hoạt động khác của Ngân hàng. Vì vây, việc tăng cường huy động vốn hiện nay rất cần thiết vì nó liên quan đến các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động cho vay - một hoạt động tạo ra lợi nhuận cao nhất cho Ngân hàng.
Trên thực tế, không có một khuôn mẫu nhất định nào cho công tác huy động vốn cho các NHTM. Huy động vốn được hình thành vốn từ thực tiễn phát triển của nền kinh tế. Nó là kết quả của quá trình nghiên cứu, tìm tòi và ứng dụng đầy tính sáng tạo và khoa học. Để gặt hái thành công trong lĩnh vực này, ngoài sự nỗ lực, cố gắng không mệt mỏi của bản thân chi nhánh, cần có sự quan tâm hỗ trợ của Đảng, Nhà nước, NHNo Việt Nam , các cấp, các ngành ... trong việc thực hiện tốt chiến lược kinh tế xã hội nói chung và chiến lược huy động vốn của bản thân chi nhánh nói riêng.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của cô giáo Tiến sĩ Nguyễn Kim Nhung và Ban lãnh đạo NHNo&PTNT Hải Phòng đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Tài liệu tham khảo
1. Ngân hàng thương mại - Edward W. Reed & Edward K. Gill
2. Quản trị NHTM - Peter S Rore, nhà xuất bản tài chính
3. Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính - Frederíc S Michkin, nhà xuất bản khoa học kỹ thuật.
4. Ngân hàng thương mại – GS.TS Lê Văn Tư; Lê Tùng Vân; Lê Nam Hải - Nhà xuất bản Thống kê.
5. Marketing Ngân hàng - Học viện Ngân hàng
6. Tạp chí Ngân hàng
7. Thông tin Ngân hàng
8. Tạp chí thị trường tài chính, thời báo kinh tế
9. Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHNo Hải Phòng năm 2001, 2002, 2003
10. Đề án mở rộng kinh doanh trên địa bàn Hải Phòng giai đoạn 2001 - 2010 của NHNo Hải Phòng.
11. Đề án huy động vốn NHNo Hải Phòng giai đoạn 2003 - 2005
Bảng ký hiệu các chữ viết tắt
GDP : Tổng sản phẩm trong nước
UBND : Uỷ ban nhân dân.
NHNN : Ngân hàng nhà nước
NHNo : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTW : Ngân hàng trung ương
CBCNV : Cán bộ công nhân viên
TCTD : Tổ chức tín dụng.
HTX : Hợp tác xã.
TP : Thành phố.
VND : Việt Nam đồng
USD : Đô la Mỹ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29215.doc