Khóa luận Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng vốn FDI trong lĩnh vực bưu chính viễn thông Việt Nam

Về quản lí các Liên doanh, hiện nay đã tập trung vào một đầu mối là Ban KHCN&HTQT của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông. Tuy nhiên cần xác định rõ phạm vi trách nhiệm đại diện Tổng công ty của Ban KHCN&HTQT đối với các Liên doanh và mối quan hệ giữa các ban để quản lí có hiệu quả hơn. Các thành viên Hội đồng quản trị thuộc bên Việt Nam sau khi kết thúc các cuộc họp Hội đồng quản trị của các Liên doanh cần gửi biên bản cuộc họp tới một đầu mối để Tổng công ty và các ban có liên quan có thể liên hệ và nắm bắt kịp thời các quyết định của Hội đồng quản trị Liên doanh. Một số Liên doanh sau một thời gian triển khai hoạt động vẫn chưa công bố các số liệu, chỉ tiêu về tình hình sản xuất kinh doanh. Do vậy, yêu cầu các Liên doanh này tiến hành xác định kết quả kinh doanh trong năm ngay khi kết thúc năm tài chính. Nếu Liên doanh nào có nhu cầu mở rộng sản xuất, dùng lợi nhuận tái đầu tư thì phải tiến hành ngay các thủ tục đề nghị Tổng công ty và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, nếu không phải tiến hành chia lợi nhuận cho các bên cùng góp vốn. Nhiều điều khoản trong hợp đồng Liên doanh đã lạc hậu so với luật mới sửa đổi ban hành, vì vậy bên Việt Nam và đối tác nước ngoài cần làm việc với nhau để điều chỉnh cho phù hợp. Các cán bộ , nhân viên của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông được cử vào Hội đồng quản trị và sang Liên doanh làm việc càn có một qui chế rõ ràng, thoả mãn. Phần vốn góp của Việt Nam trong hợp đồng Liên doanh chủ yếu là cơ sở hạ tầng hiện có, đất đai. Tuy nhiên, việc làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn gặp nhiều trở ngại, gây ảnh hưởng đến giá trị vốn góp của bên Việt Nam. Phía Việt Nam cần khẩn trương hoàn tất thủ tục cho công việc này.

doc78 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1812 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng vốn FDI trong lĩnh vực bưu chính viễn thông Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các doanh nghiệp Bưu chính Viễn thông có vốn FDI vẫn chưa làm chủ được hoàn toàn công nghệ sản xuất cả phần cứng và phần mềm. 4.2. Hạn chế về phía doanh nghiệp ã Hạn chế về lĩnh vực đầu tư. Hiện nay, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực Bưu chính Viễn thông tập trung chủ yếu vào hai lĩnh vực: khai thác và công nghiệp viễn thông. Trong khi đó hầu như chưa có một dự án nào cho việc phát triển bưu chính. Ngay cả trong lĩnh vực được nhận đầu tư vẫn còn tồn tại các hạn chế cần khắc phục. Các dự án mạng viễn thông tuy có công nghệ tiên tiến nhưng qui mô còn nhỏ, chất lượng mạng nội hạt chưa cao, diện phục vụ còn ít, chưa thu hút đầu tư nhiều vào các vùng sâu, vùng xa. Các công nghệ quản lí, bảo dưỡng mạng tiên tiến vẫn chưa được áp dụng rộng rãi. Việc xây dựng các trung tâm quản lí mạng, trung tâm tính cước, trung tâm chăm sóc khách hàng vẫn chưa đạt được tiến độ và mục tiêu mong muốn. Mặc dù đã có nhiều dịch vụ viễn thông mới được triển khai trên mạng nhưng tốc độ triển khai lại chậm. ã Hạn chế về hình thức thu hút vốn. Trong giai đoạn đầu, hai hình thức thu hút vốn FDI trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông là Liên doanh và BCC đã mang lại lợi ích kinh tế cao nhưng chưa có đối trọng để tăng cường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo qui định hiện hành, đối với các dự án BCC trong Bưu chính Viễn thông, bên nước ngoài đầu tư thiết bị và chịu trách nhiệm về kĩ thuật, bên Việt Nam chịu trách nhiệm vận hành và khai thác mạng. Lí do lựa chọn mô hình BCC những năm qua là để vừa phát huy mặt tích cực trong việc huy động vốn và kĩ thuật cho phát triển hạ tầng mạng lưới Bưu chính Viễn thông, vừa bảo đảm chủ quyền, an ninh qua khai thác mạng của nước chủ nhà. Đối với lĩnh vực nhạy cảm này, không chỉ ở nước ta mà ở nhiều nước khác, chủ nhà cũng phải nắm quyền điều hành. Tuy nhiên, theo nhiều nhà đầu tư, một trong những nguyên nhân của tình trạng dự án BCC trong khai thác mạng viễn thông triển khai khó khăn là do các qui định như vừa nói trên, cộng với thực tế kinh doanh không hoàn toàn thuận lợi như dự tính ban đầu dẫn đến hình thức BCC không còn đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư và cũng không khuyến khích họ bỏ vốn đầu tư tiếp. ã Thị trường tiêu thụ sản phẩm và hiệu quả đầu tư: hiện nay Bưu chính Viễn thông Việt Nam vẫn chưa có những qui định cụ thể trong việc bảo hộ thị trường cho sản xuất công nghiệp trong nước. Chính điều đó đã ảnh hưởng tới hiệu quả các dự án đầu tư nước ngoài và hạn chế sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trong khi chúng ta chưa có đủ nội lực để phát triển. Bên cạnh đó, với mức độ tiêu thụ sản phẩm như hiện nay, các Liên doanh chỉ khai thác hết 50-60% công suất thiết bị, thị phần không đủ để thuyết phục các đối tác nước ngoài đầu tư công nghệ sâu hơn. 4.3. Nguyên nhân của các hạn chế trên Các hạn chế, tồn tại trên đều xuất phát từ một số nguyên nhân nhất định: 4.3.1. Nguyên nhân từ phía cơ quan quản lí Nhà nước ã Chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ về kĩ thuật công nghệ. Qua kết quả khảo sát về thiết bị nhập khẩu trong 42 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc ngành công nghiệp do Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường tiến hành cho thấy trong 727 thiết bị và dây chuyền công nghệ sản xuất có hơn 70% số máy đã hết khấu hao, 50% là thiết bị cũ được tân trang lại có nguy cơ ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư. Trong riêng ngành Bưu chính Viễn thông tình trạng này tuy ở mức thấp nhưng hậu quả là rất to lớn, do vậy vai trò của một cơ chế giám sát là hết sức quan trọng. ã Vẫn còn bất cập trong khâu tuyển chọn đối tác Liên doanh hoặc đối tác của dự án BCC. Việc tuyển chọn cần phải theo phương thức giám định đấu thầu chọn đối tác hoặc thẩm định chọn thầu. Nhưng trong thực tế, nhiều dự án có tính khả thi lại không được chọn mà chọn dự án không khả thi nên có một số đối tác không có thực lực. Có những trường hợp mặc dù chúng ta đã coi trọng công tác thẩm định mà vẫn sơ hở, bị phía nước ngoài lợi dụng sự không hiểu biết rõ của ta về tình hình cũng như chế độ quản lí tài chính ở công ty mẹ, dẫn tới việc chọn đối tác không có chuyên môn, không có vốn, làm ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư của toàn ngành cũng như của toàn bộ nền kinh tế. ã Chưa làm tốt khâu thẩm định máy móc thiết bị và quản lí đầu vào, đầu ra. Theo Bộ Xây dựng thì Việt Nam chưa đủ thực lực để qui hoạch và thiết kế một khu đô thị, khách sạn, cao ốc, văn phòng hiện đại; các ngành cơ sở khác thì chưa đủ khả năng thiết kế, sản xuất, lại thiếu thông tin, do đó có khó khăn trong việc thẩm định giá trị công trình xây dựng và máy móc, thiết bị. Thực tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới chỉ là đầu mối trong việc thẩm định cấp giấy phép và điều chỉnh giấy phép. Còn trong quá trình triển khai các chủ đầu tư nước ngoài phải chạy quá nhiều cửa, nhiều cấp. Giá đầu vào của nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu của Liên doanh và Hợp đồng BCC do đối tác nước ngoài bao tiêu hoặc uỷ thác. Nhưng đến nay, giá nguyên liệu nhập khẩu chưa có cơ quan nào thẩm định. Chính tình trạng trên dễ dẫn đến khả năng lãi giả lỗ thật, bởi vì các đối tác nước ngoài trong các doanh nghiệp Liên doanh hoặc các dự án BCC rất hạn chế sự tham gia của cán bộ Việt Nam có thẩm quyền trong quá trình đàm phán về giá. 4.3.2. Nguyên nhân về môi trường pháp lí ã Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tuy qua nhiều lần sửa đổi nhưng vẫn còn khá chung chung, chưa cụ thể. Chẳng hạn, một loạt vấn đề liên quan đến FDI như tổ chức điều hành, đất đai, lao động, tiền lương, công nghệ, môi trường, xuất nhập khẩu được Luật Đầu tư qui định là “phải theo qui định của pháp luật Việt Nam”. Bên cạnh đó còn thiếu nhiều đạo luật, văn bản pháp luật hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Đầu tư tại Việt Nam. ã Việt Nam vẫn duy trì hai hệ thống luật khác biệt cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Chính sự khác biệt về thủ tục, điều kiện đầu tư, mục tiêu và phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp đã gây tâm lí không an tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài, bởi họ cho rằng các ưu đãi về thuế lợi tức và miễn giảm thuế lợi tức chưa hẳn là yếu tố quan trọng khi họ xem xét quyết định đầu tư, mà các yếu tố thị trường mới là quan trọng. ã Chính sách thuế hiện nay chưa bao quát hết các nguồn thu đã và đang phát sinh trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, chưa có chính sách điều tiết lãi cổ phần, lãi tiền gửi, lãi cho vay, thuế thu nhập từ tiền bản quyền,... Thuế suất nhập khẩu các thiết bị viễn thông vẫn ở mức cao dẫn tới giá thành sản phẩm cao, chưa khuyến khích được các nhà đầu tư nâng tỉ lệ sản phẩm sản xuất tại Việt Nam. Một số doanh nghiệp Liên doanh đã được Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường công nhận là doanh nghiệp công nghệ cao nhưng vẫn không được hưởng chế độ thuế nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào là 0% do khái niệm vật liệu đầu vào chưa được làm rõ. Bên cạnh đó, hệ thống chính sắc thuế còn rất phức tạp. Trong một sắc thuế thu còn thu chồng chéo, trùng lắp, chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường đa dạng, đa thành phần, chưa hoà nhập với hệ thống thuế quốc tế. 4.3.2. Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp ã Điều lệ của các dự án BCC hoặc các Liên doanh được xây dựng từ những năm 1990 cho đến nay vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với nhiều văn bản pháp luật mới ban hành. ã Các cơ chế điều hành sản xuất kinh doanh chưa đủ sức tạo ra những động lực mới giúp các doanh nghiệp đổi mới tư duy, chủ động sáng tạo, nâng cao hiệu quả kinh doanh. ã Công tác điều hành còn nặng về những vấn đề tác nghiệp, bức xúc, chưa tập trung nhiều thời gian bàn về chiến lược phát triển với các bước đi cụ thể của ngành trong điêù kiện cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. ã Công tác đào tạo đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận nhưng nhìn chung chưa đáp ứng kịp để tham gia các dự án đầu tư nước ngoài. Trong cơ cấu lao động của các Liên doanh, lực lượng lao động có trình độ đại học hoặc trên đại học tương đối lớn. Tuy nhiên việc tổ chức các bộ phận nghiên cứu và phát triển còn yếu, chức năng chưa được phân định rõ ràng nên không phát huy được sức mạnh của đội ngũ cán bộ có trình độ cao. Ngoài ra còn phải kể đến các nguyên nhân khách quan từ khủng hoảng tài chính, khu vực, thiên tai nặng nề trên nhiều miền của đất nước, tình hình phát triển kinh tế xã hội chững lại, xu hướng cạnh tranh gia tăng, sức ép giảm cước viễn thông quốc tế,... Các nguyên nhân này cần sớm có biện pháp đồng bộ và hữu hiệu của các cơ quan quản lí Nhà nước cũng như các doanh nghiệp Bưu chính Viễn thông để nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lí và sử dụng vốn FDI, nhằm đáp ứng được các yêu cầu và đòi hỏi của ngành Bưu chính Viễn thông nói riêng và xã hội nói chung. I/ Định hướng phát triển của ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam 1. Xu hướng phát triển của viễn thông thế giới . Xu hướng toàn cầu hoá Trong lịch sử, việc xuất hiện ngôn ngữ là cuộc cách mạng truyền thông lớn đầu tiên gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của loài người. Cuộc cách mạng thông tin tiếp theo xảy ra khi con người biết dùng chữ viết. Sự ra đời của máy điện thoại, điện tín,...kết hợp với công nghệ vi mạch điện tử là tiền đề cho sự ra đời của thông tin kĩ thuật số vào những thập kĩ 70, 80 của thế kỉ XX. Đến cuối thập kỉ 90, đặc biệt là bước sang thế kỉ mới, nói đến thông tin và công nghệ thông tin, người ta thường nói đến sự kết hợp và hội tụ của công nghệ viễn thông - máy tính - điện tử và truyền thông đại chúng. Công nghệ viễn thông và tin học là chìa khoá đưa loài người bước sang một kỉ nguyên mới: kỉ nguyên xã hội thông tin. Xuất phát từ tầm quan trọng của viễn thông trong kết cấu hạ tầng của nền kinh tế, WTO cũng như Liên minh viễn thông thế giới (ITU) đã đưa ra viễn cảnh về cơ sở hạ tầng thông tin toàn câù GI I; APEC đưa ra AP I; và ASEAN ủng hộ ý tưởng xây dựng một mạng lưới thông tin thống nhất trong khu vực. Thực chất, việc xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu hay khu vực chính là việc ứng dụng các công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, tốc độ cao theo các tiêu chuẩn kĩ thuật thống nhất để liên kết cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia của các nước thành một “siêu xa lộ” thông tin chung. Xét về khía cạnh thương mại, viễn thông là một trong những lĩnh vực sinh lợi nhiều nhất và phát triển rất năng động. Theo dự báo của WTO thì thị trường viễn thông trên toàn thế giới có tổng giá trị 1.150 tỉ USD. Tuy nhiên những lợi ích mà nó mang lại còn lớn hơn nhiều. Thống kê của OECD cho thấy thông qua các đường truyền viễn thông, mỗi ngày có 1.000 tỉ USD bằng tiền và 250 tỉ USD bằng cổ phiếu được lưu chuyển thương mại trên thế giới, nhưng chủ yếu là qua các mạng chuyên dụng như các mạng ngân hàng, thương mại điện tử qua mạng thông tin công cộng như Internet chỉ chiếm khoảng 500 triệu USD/ngày. Theo thống kê của OECD, đến năm 2002, với những tiến bộ đạt được trong công nghệ và thương mại thông tin, thương mại điện tử qua Internet là 5 tỷ USD/ngày. Chính vì nguồn lợi khổng lồ này mà viễn thông luôn là một lĩnh vực “nóng”, được quan tâm hàng đầu và được đưa ra đàm phán hết sức chi tiết tại các diễn đàn và vòng đàm phán thương mại quốc tế và khu vực. Như vậy, xu hướng cạnh tranh toàn cầu trong viễn thông đã buộc chính phủ các nước phải cải cách môi trường pháp lý và mở cửa thị trường viễn thông. Xu hướng này đã được khẳng định trong trong Hiệp định về mở cửa thị trường viễn thông cơ bản, do 69 nước thành viên WTO ký ngày 15/12/1997. Việt Nam cũng là một trong các nước ký thỏa thuận về viễn thông của WTO, có nghĩa là phải mở cửa thị trường chậm nhất là vào năm 2007. 1.2. Xu hướng phát triển công nghệ Bưu chính viễn thông. Đó là sự hội tụ giữa viễn thông, tin học và phát thanh truyền hình sẽ làm thay đổi cơ cấu thị trường dịch vụ cũng như thiết bị mạng lưới công nghệ thông tin phát triển theo hướng gắn kết giữa Internet và điện thoại di động tạo ra khả năng truy cập nhanh vào các mạng thông tin cho con người sử dụng mọi nơi, mọi lúc. Bên cạnh đó, xu hướng cải cách, tự do hóa đang diễn ra ở nhiều quốc gia nhằm thích ứng với sự phát triển nhanh về công nghệ, dịch vụ, làm tăng hiệu quả phát triển bưu chính viễn thông cũng đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nước. 1.3. Xu hướng phát triển dịch vụ Bưu chính viễn thông. 1.3.1. Dịch vụ Bưu chính Với sự tham gia sâu sắc của công nghệ tin học và viễn thông vào đời sống kinh tế xã hội, kéo theo công nghệ và dịch vụ bưu chính ngày càng được cải tin. Công nghệ IP tạo điều kiện cho Bưu chính khai thác dịch vụ thương mại điện tử như bán hàng qua bưu chính, Datapost, Bưu chính ảo,... với chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Các dịch vụ bưu phẩm không địa chỉ, Datapost, thư hỏi đáp thương mại, nhu cầu quảng cáo, giới thiệu sản phẩm,... sẽ làm gia tăng nhu cầu đối với các dịch vụ bưu chính. 1.3.2. Dịch vụ viễn thông Công nghệ Internet phát triển bùng nổ trong các năm tới cùng với công nghệ IP, tạo điều kiện cho nhiều dịch vụ ký sinh trên Internet phát triển. Đặc biệt, dịch vụ VOIP sẽ chiếm tỷ trọng đáng kể trong lưu lượng điện thoại đường dài trong nước và quốc tế, chia sẻ thị phần với các dịch vụ truyền thống. Tuy nhiên các dịch vụ viễn thông truyền thống như điện thoại di động, cố định vẫn tiếp tục phát triển và tăng trưởng trong thời gian tới. Các dịch vụ điện báo, telex, nhắn tin có xu hướng giảm dần do khách hàng sử dụng các dịch vụ thay thế như điện thoại, fax, Internet,... 2. Định hướng phát triển ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2005 đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX thông qua là: “...Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2005 tăng gấp 2 lần so với năm 1995." Trong đó mục tiêu của ngành thuộc kết cấu hạ tầng là: “ Phát triển kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và mạng lưới thông tin liên lạc quốc gia và quốc tế hiện đại, dung lượng lớn, chất lượng cao; đầu tư để tăng dần tỉ lệ nội địa hoá trong việc sản xuất, lắp ráp thiết bị thông tin liên lạc". Riêng đối với ngành Bưu chính Viễn thông, mục tiêu là: “ Tiếp tục phát triển nhanh và hiện đại hoá dịch vụ Bưu chính Viễn thông, phổ cập sử dụng Internet. Điều chỉnh giá cước để khuyến khích sử dụng rộng rãi. Đến năm 2010, số người sử dụng Internet, số máy điện thoại trên 100 dân đạt mức trung bình trong khu vực”. Từ đó, ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã đề ra mục tiêu tổng quát là: “Tập trung mọi nguồn lực duy trì tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh và đầu tư, cơ cấu lao động theo hướng trở thành một tập đoàn kinh tế - kĩ thuật chủ đạo, xây dựng một cơ sở hạ tầng thông tin mạnh, kinh doanh đa dạng với các dịch vụ Bưu chính ,Viễn thông và tin học là nòng cốt; có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế, có năng lực cạnh tranh và hội nhập hiệu quả trên thị trường Bưu chính Viễn thông quốc tế; góp phần giữ vững và bảo vệ an ninh chính trị, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ." Các mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là: - Tập trung mọi nguồn lực cho mục tiêu phát triển, đạt tốc độ tăng trưởng doanh thu bình quân hàng năm là 8-10%. - Tiếp tục phát triển, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng truyền thông tin học một cách vững chắc, đồng bộ, rộng khắp với công nghệ tiên tiến, cập nhật, đi kịp trình độ của khu vực và thế giới. Phấn đấu 100% tuyến cáp quang liên tỉnh được cáp quang hoá vào năm 2005 để cơ bản hình thành xa lộ thông tin quốc gia. - Nâng cao mức độ sử dụng cơ bản bình quân về điện thoại từ 6% hiện nay lên mật độ 7-8% vào năm 2005, tạo điều kiện phát triển mạnh dịch vụ Internet tới hầu hết các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu, bệnh viện trong cả nước, phục vụ nhu cầu thông tin kinh tế xã hội, khoa học, giáo dục, đào tạo, y tế, khám chữa bệnh từ xa,... - Đẩy mạnh việc tiếp thu chuyển giao công nghệ hiện đại, từng bước tiến tới làm chủ công nghệ kể cả phần cứng lẫn phần mềm, sản xuất các sản phẩm có chất lượng quốc tế, giá cả hợp lí, chiếm lĩnh được thị trường trong nước và có được thị trường xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2005 đạt 30-40% tỉ lệ nội địa hoá trong một số sản phẩm chính. - Chú trọng, ưu tiên đầu tư phát triển công nghệ phần mềm. Phấn đấu giai đoạn 2001-2005 công nghiệp phần mềm Bưu chính Viễn thông đóng góp 15-20% doanh số công nghiệp phần mềm toàn quốc. - Nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực trong điều kiện hội nhập, tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lí của các nước, các tổ chức, các đối tác để phục vụ các mục tiêu phát triển của ngành. Như vậy, để thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu phát triển của ngành đến năm 2005, cần phải huy động một lượng vốn đầu tư rất lớn, khoảng 28.720 tỉ đồng, chiếm hơn 4% tổng đầu tư của toàn xã hội. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư như sau: Bảng 10: Nguồn vốn Số tiền (tỉ VND) Tỉ trọng (%) Ngân sách Nhà nước 160 0,56 Tín dụng thương mại 5.157 17,96 ODA 5.700 19,85 FDI 4.700 16,36 Tái đầu tư 13.003 45,27 Tổng nguồn vốn 28.720 100 Nguồn: Kế hoạch phát triển giai đoạn 2001-2005, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, 2000 Đến năm 2005, mục tiêu của Bưu chính Viễn thông Việt Nam là hiện đại hoá hệ thống Bưu chính Viễn thông đạt mức trung bình của khu vực. Do đó cần số ngoại tệ nhiều hơn để nhập vật tư, trang thiết bị, trong đó chủ yếu nhập vật tư , thiết bị của ngành viễn thông. Dự kiến thu hút vốn FDI từ 17-20% tổng vốn đầu tư cho toàn ngành thì tổng số vốn phải huy động vào khoảng 4.700 tỉ đồng, tương đương khoảng hơn 350 triệu USD (bảng 10). Đây quả là một khó khăn rất lớn, đòi hỏi phải tìm ra những giải pháp hữu hiệu để huy động đủ vốn kể cả vốn trong nước và vốn nước ngoài cho đầu tư phát triển đến năm 2005, trong đó có công tác tổ chức nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài là vô cùng quan trọng. II/ Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng vốn FDI trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông Việt Nam. 1. Giải pháp vĩ mô 1.1. Thống nhất xây dựng kế hoạch và chiến lược nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông Việt Nam 1.1.1. Khẳng định chủ trương hợp tác đầu tư nước ngoài của ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam Định hướng về hợp tác đầu tư nước ngoài thực chất là chiến lược phát triển kinh tế của ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam, gắn liền với quá trình hội nhập của ngành và nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi một doanh nghiệp trong ngành. Trong các chính sách cũng như các văn bản pháp luật, các báo cáo đánh giá, ngành Bưu chính Viễn thông luôn khẳng định một cách dứt khoát: "Hợp tác đầu tư nước ngoài là một chủ trương lớn của ngành nhằm tiếp cận công nghệ cao, tiên tiến, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả kinh tế và rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước khu vực và trên thế giới; từ đó tạo sự nhất trí cao trong toàn ngành." 1.1.2. Xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển tổng thể của toàn ngành Trên cơ sở thống nhất chủ trương, định hướng của hợp tác đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển của ngành, ngành Bưu chính Viễn thông cần xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển tổng thể và có biện pháp thu hút và sử dụng vốn cụ thể cho từng giai đoạn. Trước mắt là kế hoạch phát triển cho những năm còn lại của giai đoạn 2001-2005, xa hơn là mục tiêu phát triển đến năm 2010, 2020. Các kế hoạch, chiến lược đề ra phải khắc phục được những tồn tại của giai đoạn trước, điều chỉnh lại những bất hợp lí trong qui hoạch đầu tư, bố trí lại cơ cấu sử dụng vốn FDI, quan tâm hơn nữa đến chất lượng và hiệu quả đầu tư. Cần tận dụng triệt để “lợi thế của nước đi sau” để giải quyết những vướng mắc, giành được thế chủ động trong việc xây dựng nền công nghiệp viễn thông hiện đại, tránh đầu tư lãng phí và cạnh tranh không cần thiết. 1.1.3. Xây dựng chiến lược tạo vốn và sử dụng vốn Chiến lược tạo vốn hiện nay của nước ta được xác định là “huy động cả vốn trong nước và nước ngoài theo phương châm vốn trong nước là chủ yếu, vốn nước ngoài là quan trọng, trong đó vốn FDI có vị trí quan trọng và ngày càng chiếm tỉ trọng lớn." Chiến lược tạo vốn này phải được lập và tổ chức thực hiện sao cho đem lại hiệu quả cao nhất. Đồng thời, hiệu quả huy động vốn phải đi liền với hiệu quả sử dụng vốn. Đây là một quan điểm cần phải thể hiện rõ trong tất cả các dự án đầu tư, trong các Hợp đồng hợp tác kinh doanh, Liên doanh liên kết. Kế hoạch huy động vốn phải đi liền với kế hoạch sử dụng vốn. Vốn được sử dụng vào mục đích nào, hiệu quả kinh tế ra sao đều phải tính toán song song với kế hoạch huy động vốn. Không thể tách rời kế hoạch huy động vốn và kế hoạch sử dụng vốn vì dễ đi đến tình trạng vốn huy động được rồi không biết sử dụng và đâu hoặc sử dụng không đúng mục đích, gây ra lãng phí, thấ thoát, không có hiệu quả . Muốn vậy, ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam cần phải: Hoàn thiện qui hoạch phát triển mạng lưới Bưu chính Viễn thông Qui hoạch phát triển mạng lưới Bưu chính Viễn thông là nền tảng đầu tiên cho hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài về công nghệ, qui mô, lĩnh vực và từ đó làm cơ sở cho việc lựa chọn đối tác cũng như hình thức đầu tư phù hợp. Và vì vậy, trong qui hoạch phát triển mạng lưới cần lưư ý và tính toán đầy đủ các yếu tố cơ bản sau: ă Nhu cầu và thị trường tiềm năng về dịch vụ Bưu chính Viễn thông. Nhu cầu ngày càng cao về cả số lượng và chất lượng dịch vụ; thị trường tiêu thụ và sử dụng sản phẩm, dịch vụ Bưu chính Viễn thông sẽ dần mở rộng ra các vùng nông thôn, vùng kinh tế mới, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,... ă Tốc độ và xu hướng phát triển công nghệ truyền thông toàn thế giới. ă Xu hướng quốc tế hoá dịch vụ Bưu chính Viễn thông trên toàn thế giới. ă Đồng bộ hoá mạng lưới và chuyển đổi kĩ thuật công nghệ được áp dụng trong tương lai nhằm nâng cao chất lượng để đạt tới tiêu chuẩn quốc tế và mở rộng dịch vụ có độ tin cậy cao. Tổ chức tốt công tác vận động đầu tư Công tác vận động đầu tư không chỉ dừng lại ở việc xây dựng và ban hành các danh mục kêu gọi đầu tư. Nhiệm vụ quan trọng của vận động đầu tư là tuyên truyền danh mục này, động viên và lôi cuốn sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài theo các danh mục đó. Vì vậy, cần có các biện pháp tích cực, dành một khoản kinh phí nhất định và sự quan tâm thoả đáng cho hoạt động này. Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội Hiệu quả kinh tế xã hội được coi là tiêu chuẩn cao nhất trong hợp tác đầu tư. Bưu chính Viễn thông là một ngành thuộc kết cấu hạ tầng quan trọng nên ngành phải xác định rõ, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng lựa chọn các dự án và tính chất công nghệ. Vốn, công nghệ, tri thức và kinh nghiệm quản lí là những hiệu quả kinh tế xã hội mà các dự án FDI đã và đang mang lại cho ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Tuy nhiên, không vì vậy mà coi nhẹ hiệu quả tài chính vì nó là lợi ích trực tiếp của nhà đầu tư, khuyến khích và thu hút nhà đầu tư. Vì vậy, một dự án đầu tư mới cần phải đáp ứng được hiệu quả kinh tế xã hội và các chỉ tiêu tài chính nhất định. 1.2. Cải thiện môi trường pháp lí và môi trường đầu tư 1.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Hiện nay các hoạt động đầu tư nước ngoài đều phải tuân theo các qui định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Luật sửa đổi bổ sung của năm 2000). Mặc dù đã có những thay đổi tích cực qua nhiều lần sửa đổi bổ sung của Luật đầu tư nước ngoài, chúng ta vẫn cần tiếp tục nghiên cứu, tạo dựng hệ thống pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định, một hệ thống ưu đãi và khuyến khích mang tính cạnh tranh cao sp với các nước trong khu vực. Cụ thể trong từng lĩnh vực, các Bộ, ngành đều có những chủ trương chính sách cho các dự án đầu tư. Tháng 8/2002 vừa qua, Bộ Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã được thành lập, đồng thời là việc ban hành Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường Bưu chính Viễn thông. Tuy vậy hệ thống pháp luật về Bưu chính Viễn thông vẫn cần được tiếp tục hoàn chỉnh để tạo lập một san chơi bình đẳng cho các nhà khai thác dịch vụ Bưu chính Viễn thông. Cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau: ỉ Phân định rõ hoạt động công ích, hoạt động kinh doanh để có các chính sách ưu đãi về tài chính, thuế, các khoản trích nộp đối với dịch vụ Bưu chính Viễn thông công ích. ỉ Các vấn đề trong cấp phép khai thác dịch vụ. ỉ Những vấn đề liên quan đến thương quyền khai thác các dịch vụ Bưu chính Viễn thông. ỉ Tỉ lệ, phương thức ăn chia giữa các đối tác tham gia. ỉ Vấn đề chống phá giá. ỉ Những vấn đề liên quan đến phát triển và áp dụng công nghệ mới và dịch vụ mới cung cấp cho khách hàng. Trên cơ sở những qui định của Nhà nước mới có thể vừa đảm bảo có sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà khai thác, vừa giữ ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của lĩnh vực Bưu chính Viễn thông. Nhà nước cần xem xét việc ban hành cơ chế, chính sách theo hướng tăng thêm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cac doanh nghiệp trong ngành để tạo sự năng động, nhạy bén trong môi trường cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2.2. Mở rộng hình thức và lĩnh vực thu hút vốn FDI cho ngành Bưu chính Viễn thông Hiện nay ở Việt Nam, Nhà nước vẫn đang giữ độc quyền trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông, chỉ cho phép Hợp tác kinh doanh với nước ngoài trong khai thác mạng viễn thông và Liên doanh trong sản xuất công nghiệp viễn thông. Tuy nhiên hai hình thức này đang dần bộc lộ những hạn chế, không còn đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư và không khuyến khích họ vỏ vốn ra đầu tư tiếp. Trong khi đó, xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đang ngày càng mở rộng, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của các tổ chức quốc tế lớn như ASEAN, APECT, AFTA,...Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam là thành viên của Liên minh viễn thông thế giới (ITU), Liên minh viễn thông châu á-Thái Bình Dương (APT) và các tổ chức Thông tin vệ tinh quốc tế (Intelsat), Thông tin vũ trụ quốc tế (Intersputnik), Hiệp hội GSM,...Đây là những điều kiện thuận lợi tạo ra những cơ hội mới để tăng cường hơn nữa sự đa dạng hoá các hình thức hợp tác quốc tế. Theo phân tích của Ericsson, một tập đoàn viễn thông hàng đầu thế giới khi nghiên cứu thị trường Bưu chính Viễn thông Việt Nam để tìm hướng đầu tư thì “ đối với Việt Nam, mọi sự chú ý cao nhất trong hiện tại nên đặt vào việc thực hiện một loại hình mới, khác với loại hình BCC về hợp tác với các nhà đầu tư ngoại quốc. Để làm điều này, chính phủ cần thực hiện nhiều thay đổi trong nhiều thiếu sót thuộc về cấu trúc hợp tác trong lĩnh vực này...Cuộc khủng hoảng kinh tế, cấu trúc ăn chia doanh lợi và sự thiếu hụt toàn bộ trách nhiệm về vận hành và bảo trì trong loại hình BCC hiện tại đã khiến cho các đối tác BCC dịch vụ hữu tuyến từ chối triển khai phần đóng góp của mình, và thay vào đó tìm cách thương thảo lại các điều khoản của BCC. Chính phủ nên thay đổi lại cấu trúc của BCC hoặc tốt hơn nên thực hiện các hình thức hợp tác nước ngoài mới như BOT, hoặc chuyển các BCC thành Liên doanh.” Thực tiễn, ở Thái Lan hình thức BOT rất phổ biến và cũng đạt được những kết quả nhất định. Chính phủ Việt Nam có thể xem xét và nghiên cứu hướng áp dụng ở các vùng nông thôn, vùng kém phát triển. Về lĩnh vực đầu tư, ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam cũng như các doanh nghiệp trong ngành cần nghiên cứu mô hình thích hợp để tăng cường thu hút hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài và các lĩnh vực mới như: xây dựng các mạng viễn thông khác như mạng Internet, mạng di động, thông tin vệ tinh,... tại Việt Nam; hoặc đầu tư phát triển dịch vụ mới như: dịch vụ trên nền IP, VAS trên mạng PSTN; hoặc đề nghị đối tác đầu tư và một số công ty trực thuộc Bưu điện tỉnh, thành phố nhằm tăng cường nămg lực hoạt động của các doanh nghiệp này như: Công ty thiết kế, Công ty xây dựng, Công ty viễn thông,... 1.2.3. Cải thiện môi trường kinh doanh trên thị trường Bưu chính Viễn thông Các vấn đề liên quan đến môi trường kinh doanh của thị trường Bưu chính Viễn thông Việt Nam hiện nay nổi cộm hai vấn đề cơ bản về chính sách giá cước và chính sách thuế. Về giá cước, cần cải cách chính sách giá cước dịch vụ Bưu chính Viễn thông theo hướng Nhà nước chỉ qui định khung giá cước và giá các dịch vụ cơ bản phổ cập, cho phép các nhà khai thác chủ động hơn trong xây dựng; ban hành giá cước dịch vụ giá trị gia tăng mang tính thương mại căn cứ vào quan hệ cung cầu trên thị trường; cho quyền doanh nghiệp có phương án, mức cước trong các điều kiện đặc biệt trên cơ sở đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh. Về chính sách thuế: hiện nay thuế nhập khẩu các thiết bị, máy móc, linh kiện viễn thông vẫn được coi là quá cao đã làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cung cấp thiết bị viễn thông Việt Nam (các Liên doanh). Các hãng viễn thông quốc tế có thời gian dài phát triển với thị phần quốc tế rộng lớn và khả năng tài chính mạnh nên sản phẩm của họ có sức cạnh tranh mạnh mẽ về cả kĩ thuật và giá cả. Các Liên doanh Việt Nam còn non trẻ với vốn đầu tư hạn chế cần được sự hỗ trợ của Nhà nước để có thể tồn tại và phát triển lâu dài. Như vậy, cần thay đổi, điều chỉnh hợp lí thuế suất các loại thuế như: thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài,...theo hướng mức độ nội địa hoá càng cao thì mức thuế càn thấp; sự chênh lệch vừa đủ để các Liên doanh có khả năng cung cấp các sản phẩm có sức cạnh tranh với thiết bị nhập thẳng, từng bước thực hiện miễn giảm thuế hay giảm thu nhập chịu thuế đối vỡi những đối tác quan trọng hoặc các dự án trong thời gian đầu hoạt động. 1.3. Hoàn thiện cơ chế quản lí dự án đầu tư nước ngoài 1.3.1. Hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản và cơ chế chính sách về quản lí dự án FDI trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính trong việc thẩm định dự án, cấp giấy phép hoạt động theo hướng đơn giản hoá các thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài trong việc tiến hành đăng kí kinh doanh cũng như tìm kiếm cơ hội đầu tư. Hiện nay Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam vẫn là đơn vị chủ quản bên Việt Nam chủ yếu trong các dự án FDI vào lĩnh vực Bưu chính Viễn thông. Do vậy, Nhà nước có thể xem xét cải tiến mô hình Tổng công ty 91, cho phép Tổng công ty hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế. Nhà nước chỉ nên giao một số chỉ tiêu cơ bản như lợi nhuận, nộp Ngân sách, thu trên vốn; còn những vấn đề như quyết định đầu tư, chính sách giá cước, các cơ chế về tiền lương, khuyến khích vật chất, thu hút nhân tài,...cho phép Tổng công ty được tự quyết định trên cơ sở đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh và tuân thủ các qui định của pháp luật. Có như vậy mới đảm bảo phát huy tối đa nội lực của Tổng công ty, tận dụng tốt các lợi ích của hợp tác đầu tư cụ thể về các mặt: nhu cầu vốn đầu tư, yêu cầu về phát triển kinh doanh và hiệu quả kinh tế, yêu cầu về chuyển giao công nghệ kĩ thuật và quản lí,...Khuyến khích, tạo điều kiện cho các đơn vị có dự án đầu tư nước ngoài chủ động triển khai dự án theo tiêu chí Hiệu quả - Đúng luật. 1.3.2. Xây dựng cơ chế quản lí các hoạt động về Đầu tư, Kinh doanh, Chuyển giao công nghệ theo nguyên tắc chuyển từ “xin phép và trình duyệt chi tiết” sang “trình duyệt tổng thể hàng năm và giám sát thực hiện”. Tuy nhiên, trong các trường hợp cần thiết, quyền chỉ đạo và phủ quyết vẫn thuộc về Bộ Bưu chính Viễn thông. Theo đó các đơn vị có dự án đầu tư nước ngoài cần thực hiện: - Hàng năm, doanh nghiệp phải xây dựng và trình lên Bộ các kế hoạch về đầu tư, chuyển giao công nghệ (gồm cả đào tạo, hỗ trợ quản lí,...), phát triển dịch vụ, thị trường và kinh doanh,... trình ban lãnh đạo chuyên trách phê duyệt. - Trên cơ sở đó, doanh nghiệp phối hợp với đối tác triển khai cụ thể theo tiến độ đăng kí. Với mỗi một dự án thực hiện, doanh nghiệp phải gửi hồ sơ tài liệu, báo cáo lên Bộ Bưu chính Viễn thông. 1.3.3. Tăng cường công tác quản lí dự án FDI. Khả năng quản lí là yếu tố cơ bản trong hợp tác đầu tư trực tiếp, nếu không có nó thì việc tiếp thu công nghệ chỉ mang tính hình thức. Trên thực tế, tất cả các nước đang phát triển dều thiếu cán bộ kĩ thuật và quản lí có trình độ chuyên môn cao. Điều đó ảnh hưởng tới việc tiếp nhận công nghệ của nước tiếp nhận đầu tư. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chính là nâng cao hiệu quả của các dự án đầu tư, trong đó công tác quản lí sau cấp giấy phép chiếm vai trò vô cùng quan trọng. Mỗi một dự án có vốn đầu tư nước ngoài được hình thành đều chứa đựng những ý đồ riêng. Vì vậy, công tác quản lí nói chung và quản lí tài chính nói riêng phải được tổ chức chặt chẽ theo dự án từ khâu xây dựng, triển khai và đánh giá kết quả hoạt động qua các năm. Qua đó phát hiện, kịp thời điều chỉnh những mặt không hợp lí có ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư; mặt khác, nó còn là những thông tin hết sức quan trọng và quí báu cho việc chỉ đạo các dự án khác cũng như khi xây dựng các dự án mới. Tăng cường công tác quản lí phải tính đến cả hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gían tiếp của dự án, cũng như khả năng làm chủ về kĩ thuật và thương mại của phía Việt Nam. 1.3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát Hiện nay trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông Việt Nam mới chỉ có hệ thống bước đầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chưa có hệ thống điều phối hợp lí giám sát, kiểm tra, đôn đốc thực hiện để nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư. Như vậy nếu phấn đấu thu hút được một lượng vốn đầu tư nhất định đã coi là thành tích thì chưa đủ, mà chúng ta cần phải tính toán, xem xét thử sau này nó có trở thành sức mạnh hay là gánh nặng cho nền kinh tế. Các doanh nghiệp có vốn FDI tuy hoạt động trong khuôn khổ Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, song do đặc thù trong tổ chức xây dựng dự án, sản xuất kinh doanh mà lại càng phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Trong đó phải kể đến trước tiên là kiểm tra giám sát việc thực hiện các Hợp đồng hợp tác kinh doanh và các Hợp đồng Liên doanh một cách toàn diện. Bên cạnh đó, cần phải tổ chức thực hiện quản lí hợp lí sau cấp phép, nâng cao vai trò của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Tiến hành giải quyết kịp thời những vướng mắc phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi. Môi trường pháp lí của Việt Nam hiện nay chưa đồng bộ và hoàn thiện. Doanh nghiệp có vốn FDI có ít nhất hai chủ nhân ở hai quốc gia khác nhau và cũng có những mục tiêu khác mhau trong qua trình hợp tác. Do đó, Nhà nước, Bộ Bưu chính Viễn thông, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường cùng các ban ngành có liên quan cần có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lí hoạt động của dự án; tăng cường công tác kiểm tra giám sát nhằm giữ vững kỉ cương, ổn định môi trường kinh doanh ở Việt Nam, loại trừ những hiện tượng tiêu cực, sách nhiễu, cửa quyền, gây tác động xấu đến hiệu quả đầu tư, tạo lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, ban hành những qui định hướng dẫn rõ ràng, minh bạch về cơ chế giám sát, điều hành quản lí hoạt động đầu tư nước ngoài. Mặt khác, tăng cường công tác kiểm tra giám sát sẽ có tác dụng ngưn chặn các tư tưởng làm ăn không hợp pháp của các đối tác nước ngoài có thể gây thiệt hại và thất thu cho Ngân sách Nhà nước. 1.4. Tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng của ngành Bưu chính Viễn thông - Nền tảng cho sự phát triển lâu dài Chúng ta đang bước vào kỉ nguyên của sự hội nhập viễn thông - tin học - truyền thông trên một cơ sở hạ tầng chung. Nhờ sự phát triển của khoa học, áp dụng công nghệ mới nên người ta ước tính rằng, chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng viễn thông ngày nay giảm đi 1/10 so với trước đây nhưng lại cung cấp được nhiều dịch vụ tiện ích, nhanh chóng hơn cho khách hàng trên cùng một hệ thống thiết bị hạ tầng kĩ thuật, vì vậy gía phí dịch vụ sẽ ít tốn kém hơn, đầu tư xây dựng một hệ thống đường trục quốc gia sẽ rẻ hơn. Việc xây dựng một hệ thống đường trục quốc gia (backbone) và mạng truy nhập bằng cáp quang hiện đại, dung lượng lớn, tốc độ cao, nhiều Gbit/giây, cho phép dịch vụ đa truyền thông tới tận nhà thuê bao sẽ thực sự tạo ra một cuộc cách mạng trong lĩnh vực viễn thông và cả các lĩnh vực kinh tế khác. Như vậy việc đầu tư cho cơ sỏ hạ tầng của ngành Bưu chính Viễn thông có ý nghĩa chiến lược và cần được đẩy mạnh hơn nữa. Có như vậy mới tạo nền tảng vững chắc cho việc cung cấp các dịch vụ viễn thông hiện đại, tiên tiến, tiện ích cho xã hội. 1.5. Tăng cường phát triển nguồn nhân lực Đầu tư nước ngoài không còn là một lĩnh vực hoạt động mới; tuy nhiên đội ngũ cán bộ tham gia vào hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành Bưu chính Viễn thông vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của giai đoạn mới. Tỉ trọng lao động chưa qua đào tạo vẫn chiếm tỉ trọng đáng kể (10%) và giảm chậm. Đội ngũ cán bộ công nhân viên chức tuy đã được nâng lên một mức về trình độ nhưng việc xây dựng đội ngũ cán bộ đầu đàn, đặc biệt trong lĩnh vực quản lí còn yếu, thiếu, chưa đủ sức đáp ứng với đòi hỏi của tình hình mới và nhu cầu ngày càng tăng của nguồn vốn FDI. Qua quá trình đào tạo, một số đã vươn lên đáp ứng được yêu cầu của công tác mới. Tuy nhiên, sự gia tăng về qui mô và tính phức tạp của hoạt động đầu tư nước ngoài và yêu cầu quản lí hữu hiệu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở cấp vĩ mô lẫn vi mô, đội ngũ này cần được đào tạo lại, trang bị thêm các kiến thức kinh tế - chính trị, vừa tinh thông về chuyên môn, vừa vững vàng về phẩm chất để bắt kịp yêu cầu của thời đại. Bên cạnh đó phải tính đến việc đào tạo một cách có bài bản, chính qui cho tầng lớp kế cận. Chính vì vậy trong những năm tới cần khẩn trương tiến hành một số các giải pháp sau: F Thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn cho cán bộ, công nhân viê nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ quản lí, cập nhật những kiến thức về khoa học công nghệ hiện đại, trình độ tay nghề, ngoại ngữ,...đảm bảo đáp ứng yêu cầu làm việc trong môi trường có yếu tố quốc tế. F Căn cứ vào công tác qui hoạch nguồn nhân lực, lựa chọn và cử cán bộ có khả năng tham gia vào các khoá học chính qui do bên nước ngoài đào tạo. F Tổ chức tốt công tác tuyển chọn và thu hút kĩ sư điện tử viễn thông có trình độ chuyên môn cao vào ngành, tăng cường công tác phát triển nhân lực ngay trong quá trình công tác tai doanh nghiệp cũng như trong quá trình tham gia vào các dự án đầu tư nước ngoài. F ổn định và không ngừng nâng cao đời sống cuả cán bộ, công nhân viên chức cả về vật chất và tinh thần, có chính sách phân phối thu nhập hợp lí, khuyến khích người lao động phát huy hết khả năng của mình. Hiện nay, đội ngũ nhân lực cho ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam chủ yếu được đào tạo tại Học viện Bưu chính Viễn thông, các trường Cao đẳng, Trung cấp chuyên ngành và các Chuyên ngành về viễn thông ở một số trường Đại học. Tuy nhiên khi tham gia vào các dự án FDI còn đòi hỏi một trình độ quản trị, ngoại ngữ nhất định. Do vậy ngành cần đào tạo kết hợp và khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực đã và đang đào tạo, tránh lãng phí nhân lực, tránh hiện tượng “chảy máu chất xám”. 1.6. Tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt chú trọng tới các đối tác đầu tư lớn. Một đất nước muốn phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ với các nước trên thế giới thì không thể dừng lại ở chỗ chỉ đáp ứng nhu cầu dịch vụ Bưu chính Viễn thông của nước đó, mà phải hội nhập đáp ứng nhu cầu quốc tế hoá và trở thành một mắt xích của hệ thống thông toàn cầu (Global Communication System). Trong bối cảnh khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế, việc mở cửa thị trường viễn thông để hội nhập vào nền kinh tế thế giới là điều tất yếu. Tuy nhiên việc mở cửa như thế nào (lĩnh vực nào, thời điểm nào) để có thể vừa kịp tiếp thu được công nghệ, kiến thức, kinh nghiệm tiên tiến của thế giới, đồng thời đảm bảo cho các công ty viễn thông trong nước tồn tại và phát triển vững chắc là điều vô cùng quan trọng, không chỉ cho tương lai của ngành Bưu chính Viễn thông mà còn của các ngành khác có liên quan. “ Tôi tin tưởng vào chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông của Việt Nam đến năm 2010 bằng việc mở cửa thị trường Bưu chính Viễn thông và Internet, đồng thời nâng cấp các dịch vụ nhằm theo kịp các nước trong khu vực."(Trích bài trả lời phỏng vấn của ông Ricardo Rothe, trưởng đại diện hãng Siemens AG tại Việt Nam trong triển lãm Telecomp 2002 tại thành phố Hồ Chí Minh.) Hiện nay thị trường Bưu chính Viễn thông Việt Nam có sức thu hút rất lớn các nhà đầu tư nước ngoài đều là các tập đoàn viễn thông hàng đầu thế giới. Tuy nhiên việc lựa chọn đối tác đầu tư là một khâu vô cùng quan trọng. Chủ trương mở cửa, hội nhập nhưng cũng không thể chủ quan, nóng vội “bắt tay” với tất cả những ai muốn tham gia thị trường. Đây là bài học kinh nghiệm thực tiễn mà ngành Bưu chính Viễn thông cần rút ra trong quá trình hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn vừa qua. 2. Giải pháp vi mô Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông vừa được ban hành và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/10/2002 nhằm mục đích chuyển đổi từ cơ chế đọc quyền sang cơ chế cạnh tranh, cho phép mở rộng thành phần tham gia vào thị trường Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Tuy nhiên cho đến nay, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam vẫn chiếm hơn 89% thị phần và là đơn vị chủ quản bên Việt Nam trong hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực Bưu chính Viễn thông. Qua thực tiễn hoạt động của các Liên doanh và các dự án BCC trong giai đoạn vừa qua, với những thành tựu đạt được vẫn còn tồn tại không ít khó khăn, vướng mắc. Để có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lí và sử dụng vốn FDI cho kế hoạch phát triển trước mắt cũng như chiến lược lâu dài của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam cũng như các doanh nghiệp trong ngành sắp sửa tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài trong ngành, xin đề xuất một số giải pháp cụ thể sau: 2.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng vốn FDI ở các Liên doanh 2.1.1. Giải pháp cho hiệu quả sản xuất kinh doanh a. Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Mỗi một Liên doanh cần có định hướng phát triển lâu dài về năng lực sản xuất, chủng loại sản phẩm phù hợp với tình hình phát triển công nghệ và tình hình biến động của thị trường viễn thông. Muốn vậy cần phải làm tốt khâu nghiên cứu thị trường để đưa ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cao về giá cả và công nghệ. Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam cần hỗ trợ các Liên doanh kịp thời tháo gỡ khó khăn, cung cấp các thông tin về kế hoạch phát triển mạng lưới để các đơn vị này có cơ sở xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh được sát hơn và chủ động hơn trong việc triển khai. Hiện nay có một số Liên doanh (VKX, ANSV, Vina-GSC, Vina-Daesung) đã có sản phẩm xuất khẩu. Để đẩy mạnh hơn nữa việc xuất khẩu, mỗi Liên doanh cần cụ thể hơn các kế hoạch đã được đề ra trong dự án. Đồng thời Tổng công ty nên có chính sách và cơ chế hỗ trợ các đơn vị có sản phẩm xuất khẩu; cũng như cần làm việc trực tiếp với các đối tác nước ngoài của một số Liên doanh không có thiện chí thực hiện các chỉ tiêu xuất khẩu mặc dù đã có thoả thuận từ ban đầu. b. Quản lí giá cả nguyên vật liệu, linh kiện đầu vào. Hiện nay mức thuế nhập khẩu đầu vào của các thiết bị viễn thông ở Việt Nam bị các nhà sản xuất phàn nàn là quá cao và không thống nhất. Các Liên doanh và Tổng công ty có thể kiến nghị với cơ quan nhà nước điều chỉnh mức thuế đến một mức hợp lí để bảo hộ và khuyến khích sản xuất công nghiệp Bưu chính Viễn thông trong nước, tránh rơi vào tình trạng bị ép giá hoặc bị ăn chận đầu vào so có sự liên kết giữa đối tác nước ngoài và nhà cung cấp. c. Điều chỉnh giá cả sản phẩm. Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam vừa là người góp vốn vừa là người tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của các Liên doanh công nghiệp viễn thông. Do vậy Tổng công ty nên có chính sách điều tiết giá bán sản phẩm của các Liên doanh sao cho vừa bảo đảm hài hoà quyền lợi của Tổng công ty cũng như của các đối tác Liên doanh. 2.1.2. Giải pháp cho hiệu quả quản lí v Về quản lí các Liên doanh, hiện nay đã tập trung vào một đầu mối là Ban KHCN&HTQT của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông. Tuy nhiên cần xác định rõ phạm vi trách nhiệm đại diện Tổng công ty của Ban KHCN&HTQT đối với các Liên doanh và mối quan hệ giữa các ban để quản lí có hiệu quả hơn. v Các thành viên Hội đồng quản trị thuộc bên Việt Nam sau khi kết thúc các cuộc họp Hội đồng quản trị của các Liên doanh cần gửi biên bản cuộc họp tới một đầu mối để Tổng công ty và các ban có liên quan có thể liên hệ và nắm bắt kịp thời các quyết định của Hội đồng quản trị Liên doanh. v Một số Liên doanh sau một thời gian triển khai hoạt động vẫn chưa công bố các số liệu, chỉ tiêu về tình hình sản xuất kinh doanh. Do vậy, yêu cầu các Liên doanh này tiến hành xác định kết quả kinh doanh trong năm ngay khi kết thúc năm tài chính. Nếu Liên doanh nào có nhu cầu mở rộng sản xuất, dùng lợi nhuận tái đầu tư thì phải tiến hành ngay các thủ tục đề nghị Tổng công ty và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, nếu không phải tiến hành chia lợi nhuận cho các bên cùng góp vốn. v Nhiều điều khoản trong hợp đồng Liên doanh đã lạc hậu so với luật mới sửa đổi ban hành, vì vậy bên Việt Nam và đối tác nước ngoài cần làm việc với nhau để điều chỉnh cho phù hợp. v Các cán bộ , nhân viên của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông được cử vào Hội đồng quản trị và sang Liên doanh làm việc càn có một qui chế rõ ràng, thoả mãn. v Phần vốn góp của Việt Nam trong hợp đồng Liên doanh chủ yếu là cơ sở hạ tầng hiện có, đất đai. Tuy nhiên, việc làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn gặp nhiều trở ngại, gây ảnh hưởng đến giá trị vốn góp của bên Việt Nam. Phía Việt Nam cần khẩn trương hoàn tất thủ tục cho công việc này. 2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng vốn FDI của các dự án BCC 2.2.1. Giải pháp cho hiệu quả sản xuất kinh doanh. a. Tăng cường qui mô đầu tư về vốn, lĩnh vực và khu vực địa lí. Hiện nay, các dự án BCC tuy đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu về tốc độ và trình độ phát triển chung. Việc tăng qui mô đầu tư vừa đáp ứng được nguyện vọng của các nhà đầu tư vừa mở rộng hơn nữa qui mô thị trường, hấp dẫn khách hàng. Phiá Việt Nam nên gợi mở thu hút đầu tư vào các khu vực tiềm năng nhưng chưa được để ý tới. b. Xây dựng một cơ chế hạch toán độc lập cho mỗi dự án. Có như vậy các đơn vị triển khai dự án mới có thể tự chủ động trong việc điều tiết doanh thu, chi phí; tạo điều kiện thuận lợi cho bên Việt Nam khi Việt Nam phải tiếp tục tự đầu tư và quản lí khai thác dự án. Đồng thời, việc chuyển đổi sang cơ chế hạch toán độc lập sẽ giúp đơn vị quản lí dự án có một vị trí tài chính độc lập nên tăng khả năng huy động các nguồn vốn trực tiếp cũng như gián tiếp. Đon vị phải tự chịu trách nhiệm sản xuất kinh doanh cũng như tự chủ trong việc khai thác và điều hành mạng lưới viễn thông của dự án. c. Xem xét việc chuyển đổi một số dự án sang hình thức đầu tư khác cho phù hợp. Chẳng hạn như các dự án về điện thoại thẻ, di động, trang vàng nếu chuyển sang hình thức Liên doanh hoặc cổ phần hoá quốc tế sẽ nâng cao hiệu quả khai thác hơn. 2.2.2. Giải pháp cho hiệu quả quản lí ¯ Đàm phán, điều chỉnh lại một số nội dung và các cam kết trong các hợp đồng BCC để phù hợp với nhu cầu mở rộng đầu tư của các đối tác nước ngoài hiện đang hợp tác cũng như gợi mở nhu cầu đầu tư cho các đối tác đang muốn tham gia vào thị trường Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Các nội dung cần phải hết sức được chú ý là: cam kết đầu tư, cam kết hỗ trợ quản lí và kinh doanh, đào tạo, chia doanh thu, trách nhiệm của các bên trong dự án. ¯ Tạo lập một cơ chế quản lí dự án thông thoáng, đơn giản, phân cấp trách nhiêm rõ ràng. Hiện nay Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giao cho Tổng công ty Bưu chính Viễn thông chủ động phê duyệt đầu tư và đấu thầu một số dự án BCC. Như vậy, Tổng công ty chỉ nên xem xét duyệt các khâu quan trọng, cần thiết như: các kế hoạch đầu tư hàng năm của dự án, Thiết kế dự án, Thang điểm chấm thầu dự án, kết quả đấu thầu và quyết toán công trình,... Còn các bước như Lập dự án, Lập hồ sơ mời thầu, Họp hội đồng thương mại nên giao cho mỗi một đơn vị tham gia cùng phối hợp với bên đối tác cùng lập và tự chịu trách nhiệm. ¯ Tổ chức điều hành dự án. Ban quản lí, điều hành dự án nên thống nhất các hoạt động có tính chức năng đang được thực hiện riêng biệt hiện nay. Mỗi một dự án có nhiều giai đoạn triển khai và hoạt động. Vì vậy công tác tổ chức điều hành dự án cũng phải phù hợp với từng giai đoạn của dự án. Ban điều hành phải phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành về chuyên môn cũng như kĩ thuật. ¯ Xây dựng cơ chế cùng hợp tác kinh doanh dự án. (Cần phân biệt cơ chế này với việc điều hành mạng lưới). Đây là một cơ chế đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài để thống nhất các vấn đề về chia doanh thu, lợi nhuận cũng như các hoạt động có liên quan đến các hoạt động riêng lẻ hỗ trợ cho dự án. Nhiệm vụ của cơ chế này là phối hợp chuyên viên Việt Nam của dự án với chuyên gia nước ngoài thực hiện các công việc như: tổ chức điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng của hệ thống tổ chức và kinh doanh của vùng dự án, xây dựng các biện pháp quảng cáo, khuyến mãi,...kích thích tiêu dùng, xây dựng các chương trình tập huấn, hội thảo, huấn luyện cho cán bộ tham gia quản lí dự án. Các bên cũng cần lưu ý phân định rõ nguồn chi phí cho các hoạt động này kể cả chi phí cho các chuyên gia. Mỗi một dự án nên lập riêng một khoản Trợ giúp quản lí dự án để hỗ trợ cho các hoạt động này. **************************** Thu hút và sử dụng vốn FDI trong ngành Bưu chính Viễn thông nói riêng cũng như trong nền kinh tế quốc dân nói riêng luôn chiếm vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Trên đây chỉ là một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng và quản lí vốn FDI trong ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Để các giải pháp mang tính khả thi, ngoài nỗ lực của mỗi doanh nghiệp trong ngành còn cần phải có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của tất cả các cấp, ngành có liên quan để có thể đưa Bưu chính Viễn thông đi trước một bước, góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, nâng cao dân trí, văn minh xã hội và góp phần vào sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuanVan.doc
  • docbia LV.doc
  • docmucluc.doc
  • docphu luc LV.doc
Tài liệu liên quan