Trong quá trình phát triển kinh tế, các quốc gia luôn đứng trước một bài toán nan giải, đó là bài toán tìm nguồn cung về vốn. Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam, vấn đề huy động vốn trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Đại hội Đang toàn quốc lần thứ VIII đà chỉ rõ "Vốn là chìa khoá để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước" đồng thời đặt ra nhiệm vụ " Phát triển thị trường vốn, thu hút các nguồn vốn trung và dài hạn thông qua ngân hàng và các công ty tài chính để đáp ứng nhu cầu vay đâug tư phát triển và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước xây dựng thị trường chứng khoán phù hợp với điều kiện Việt nam và định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước". Văn kiện đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục chỉ rõ nhiệm vụ: " Phát tiển thị trường vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội"
Thực hiện nghị quyết của Đảng, Ngày 20/7/2000 Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức khai trương và đi vào hoạt động. Thế nhưng qua hơn hai năm đi vào hoạt động, tuy có được những thành tựu đấng khích lệ nhưng thị trường chứng khoán Việt nam mới chỉ đạt được mục tiêu đầu tiên là "Khẳng định sự xuất hiện và triển khai hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam" mà chưa trở thành kênh quan trọng cho các doanh nghiệp huy động vốn. Con số 19 công ty niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán là quá nhỏ so với số lượng các doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn và nếu so với tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế thì con số đó lại càng nhỏ bé.
Như vậy như ta đã đề cập trong phần giải pháp, nhiệm vụ đầu tiên và cấp bách nhất trong việc phát triển thị trường chứng khoán Việt nam hiện nay đó là UBCKNN phối hợp cùng các Bộ ngành liên quan cần xây dựng một hành lang pháp lý hoàn thiện và đồng bộ điều chỉnh mọi hoạt động của thị trường chứng khoán. Chỉ khi nào có một môi trường pháp lý ổn định và lành mạnh thì hoạt động phát hành, niêm yết và đầu tư chứng khoán mới sôi động và hiệu quả được.
Thế nhưng để những nỗ lực từ phía cơ quan quản lý nhà nước thực sự phát huy được kết quả mong muốn thì cần có sự đồng tình ủng hộ của tất cả các thành phần đã và sẽ tham gia thị trường đó là : các doanh nghiệp, các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư chứng khoán, các ngân hàng thương mại, các nhà đầu tư.để có thể khai thác được hiệu quả những tiềm năng vốn có của nền kinh tế, giúp thị trường chứng khoán Việt nam thực sự phát huy được vai trò đích thưc: là kênh huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả cho nền kinh tế.
89 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1768 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng về hàng hóa trên thị trường chứng khoán Việt Nam và giải pháp thúc đẩy sự phát triển hàng hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thị trường chứng khoán Việt nam sẽ có một tương lai tốt đẹp. Đến ngày 29/7/2002, nhiều tờ báo không còn nhắc đến thị trường chưng khoán Việt Nam nữa. Một không khí bi quan bao trùm lên toàn bộ thị trường. Nhiều nhà đầu tư hết kiên nhẫn, rút vốn ra và đóng tài khoản. Tình hình giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt nam có thể chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất từ 20/7/2002 đến 25/6/2001: Đây là giai đoạn nhà đầu tư tham gia thị trường với sự hào hứng, mong muốn mua được cổ phiếu niêm yết, với kỳ vọng thu được lãi lớn ngay những phiên giao dịch sau đó. Bên cạnh đó thời gian này những người đang nắm giữ cổ phiếu đã niêm yết hầu như không muốn bán ra những cổ phiếu mà họ đang năm giữ, họ chờ đợi để hưởng lợi lớn hơn do giá cổ phiếu không ngừng tăng. Trong giai đoạn này cung quá nhỏ so với cầu.
Thực tế cho thấy, các nhà đầu tư trong giai đoạn này hầu như không quan tâm đến các thông tin về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như những thông tin về những biến động từ những công ty tham gia niêm yết. Tâm lý của các nhà đầu tư theo các chuyên gia nhận định là đầu tư theo hiệu ứng đám đông. Trong giai đoạn này, giá cổ phiếu tăng liên tục và luôn tăng kịch trần với biên độ 2%. Chỉ số giá chứng khoán VN-Index trong giai đoạn này đã đạt đến mức đỉnh điểm là 571,04 điểm ở phiên giao dịch thứ 137 ngày 25/6/2001. Đây là đỉnh cao nhất của chỉ số giá chứng khoán Việt Nam tính tới thời điểm hiện nay.
Giai đoạn thứ hai là từ 25/6/2001 đến nay: Thị trường chứng khoán Việt Nam luôn ở trong tình trạng sụt giảm nghiêm trọng cả sức cầu và chỉ số chung của thị trường. Ban đầu thị trường "hạ nhiệt" do có sự chủ động điều chỉnh thông qua các chính sách điều tiết của cơ quan nhà nước đối với thị trường chứng khoán. Cụ thể như thay đổi biên độ dao động giá từ 2% lên 7%; áp dụng quy định khối lượng đặt lệnh tối đa trong các phiên giao dịch, đồng thời đưa thêm chủng loại cũng như khối lượng cổ phiếu đủ tiêu chuẩn niêm yết vào thị trường. Gần đây thị trường chao đảo bởi lượng cầu chứng khoán trên thị trường sụt giảm nghiêm trọng, chỉ số Vn-index tụt xuống đáy ở mức 174,34 điểm, có những phiên giao dịch hầu như không có lệnh đặt mua nào.
2.2. Tình hình trái phiếu niêm yết
Hoạt động được hơn hai năm nhưng thị thị truờng trái phiếu có vẻ như vẫn đang bị bỏ quên, dù rằng khối lượng trái phiếu chính phủ và trái phiếu Ngân hàng đầu tư phát triển có khối lượng niêm yết trên Trung Tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh là khá lớn với 28 loại trái phiếu Chính Phủ, 2 loại trái phiếu ngân hàng đầu tư với giá trị niêm yết trên 80% tổng giá trị niêm yết trên toàn thị trường. Tuy nhiên việc giao dịch các loại trái phiếu này trong thời gian qua diễn ra hết sức nghèo nàn. Trái phiếu Chính phủ dường như không có giao dịch, trái phiếu Ngân hàng đầu tư chỉ được giao dịch nhỏ giọt.
Trước khi thị trường chứng khoán đi vào hoạt động, chúng ta đã đặt kỳ vọng rất cao vào thị trường trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu Chính phủ và hi vọng là thị trường này sẽ là tiền đề cho sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam với ba mục đích chính là: huy động vốn cho nền kinh tế với chi phí thấp hơn các hình thức khác; tạo hàng hoá cho thị trường phát triển và hình thành lãi suất cơ bản. Tuy vậy từ khi thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động, tình trạng thị trưòng trái phiếu chưa có những giao dịch đáng kể đã gây ra những ảnh hưởng rất lớn đến hàng hoá và hoạt động của thị trường. Nguyên nhân những tồn tại của giao dịch trái phiếu niêm yết trên thị trường đó là:
Các đơn vị trúng thầu hiện nay thông qua các đợt đấu thầu trên thị trường chứng khoán chủ yếu là các Ngân hàng thương mại và một số công ty bảo hiểm. Các tổ chức này không có nhu cầu bán lại trên thị trường thứ cấp, họ nắm giữ trái phiếu như một mục tiêu đầu tư dài hạn.
Trái phiếu chính phủ được phát hành với độ an toàn cao nhưng với lãi suất cố định và lợi tức thấp đã không hấp dẫn các nhà đầu tư ưa thích mạo hiểm và kỳ vọng vào mức lợi tức cao của cổ phiếu. Hơn nữa, chủng loại trái phiếu thực sự chưa đa dạng và cơ chế giao dịch trái phiếu chưa phù hợp cũng là nguyên nhân không thể thu hút được các nhà đầu tư tham gia thị trường.
Thị trường chứng khoán Việt Nam còn thiếu các nhà đầu tư có tổ chức là nhân tố có thể thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển.
2.3. Tình hình thực hiện việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Đối với các nước trên thế giới, việc công bố thông tin đã trở thành một thứ văn hoá kinh doanh, nhưng với các doanh nghiệp Việt Nam, công bố thông in là một lĩnh vực hoàn toàn mới. Đây là một trong những vấn đề còn trăn trở của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đang còn do dự khi tham gia niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Các công ty hiện đang niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán là những tổ chức đầu tiên đã thực hiện việc công khai hoá thông tin.
UBCKNN đã ban hành quy chế về công bố thông tin của Công ty Niêm yết theo quyết định số 79/2000/QĐ-UBCK, bước đầu tạo lập hàng lang pháp lý để đưa việc thực hiện chế độ công bố thông tin của các công ty niêm yết vào khuôn khổ. Hơn nữa bản thân mỗi công ty Niêm yết đã xây dựng được quy trình công bố thông tin riêng trên cơ sở quy trình công bố thông tin mẫu của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Thế nhưng qua thực tế hai năm hoạt động của thị trường chứng khoán, công bố thông tin là khâu mà các tổ chức niêm yết gặp phải khó khăn. Hầu hết công chúng mua chứng khoán theo tin đồn. các báo cáo tài chính của các công ty phát hành chuẩn bị sơ sài và cung cấp không kịp thời để ngươì đầu tư dễ phân tích và đánh giá đúng tình hình trước khi quyết định đầu tư. Các tổ chức niêm yết còn có các vi phạm về quy định công bố thông tin tùy theo mức độ. Có thể như: cung cấp thông tin không kịp thời (không đúng quy định về công bố thông tin định kỳ); không công bố thông tin kịp thời về giao dịch cổ phiếu của các thành viên Hội đồng quản trị và các cổ đông chủ chốt; đưa ra những đánh giá, nhận định không chính xác về thị trường; cung cấp thông tin cho báo chí trước khi công bố cho Trung tâm giao dịch chứng khoán; không công bố thông tin tức thời trên phương tiện thông tin đại chúng.... Mới đây, Vụ trưởng phụ trách thị trường của UBCKNN đã ký qyết định phạt công ty đồ hộp Hạ Long (Halongcanfoco) 10 triệu đồng vì vi phạm quy chế về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Theo cơ quan quản lý nhà nước, Canfoco có hai vi hạm về vấn đề thông tin: thứ nhất là tháng 12/2002, Tổng cục thuế đã có công văn gửi một số doanh nghiệp ở BT về việc các doanh nghiệp này đã mua hoá đơn khống của Halong Canfoco. tuy nhiên, vấn đề này đã không được Halong Cafoco công bố ra thị trường. Thứ hai là vào 28/9/2002, công an Hải Phòng đã có quyết định khởi tố vụ án liên quan đến thuế Giá trị gia tăng tại Halong Canfoco nhưng thông tin này công ty này cũng không công bố ra thị trường.
Nguyên nhân của những yếu kém trong công tác công bố thông tin trên thị trường chứng khoán hiện nay đó là:
Quy chế về công bố thông tin còn khá sơ lược, chưa cụ thể hoá về thủ tục, quy trình và cách thức công bố thông tin. Nội dung thông tin công bố về các vấn đề tương đồng chưa có sự đồng nhất. Các phương tiện công bố thông tin còn hạn chế . Sự phối hợp trong kênh thông tin giữa các tổ chức niêm yết, UBCKNN, Trung tâm giao dịch chứng khoán, các công ty chứng khoán thành viên và các tổ chức khác chưa có sự liên quan chặt chẽ, tức thời và còn nhiều vướng mắc. Bên cạnh đó, công tác giám sát việc công bố thông tin và chấn chỉnh, xử lý những vi phạm công bố thông tin của UBCKNN, TTGDCK mặc dù đã được thực hiện thường xuyên nhưng còn chưa kịp thời.
Các tổ chức niêm yết chưa thấy được tầm quan trọng của việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, chỉ chú trọng việc công bố những thông tin tốt còn các thông tin gây bất lợi thì không muốn công bố ra thị trường. Hơn nữa, các tổ chức niêm yết chưa có nhân viên chuyên trách việc công bố thông tin. Các nhân viên công bố thông tin chưa chủ động trong việc thực hiện cung cấp thông tin, chưa nắm vững các quy chế về công bố thông tin của UBCNN và Trung tâm giao dịch chứng khoán.
chương iii:Giải pháp phát triển hàng hoá và tiềm năng phát triển thị trường chứng khoán Việt nam
I - Tiềm năng phát triển hàng hoá của thị trường chứng khoán Việt Nam
1. Nhu cầu vốn của nền kinh tế
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần IX đề ra nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế trong 5 năm (2001-2005) là 54,5 tỷ USD. Đây là một con số rất lớn mà nếu chỉ huy động thông qua các hoạt động đầu tư nước ngoài (ODA, FDI) thông qua hệ thống ngân hàng và hệ thống kho bạc thì không thể đáp ứng nổi. Do vậy đòi hỏi thị trường chứng khoán thực sự phát huy vai trò của mình la kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế.
2. Tiềm năng về cung chứng khoán
Theo số liệu mới nhất từ cục Tài Chính Doanh nghiệp (Bộ tài chính) tới thời điểm hiện tại đã có hơn 1000 công ty thực hiện cổ phần hoá, trong số đó có 107 công ty cổ phần có vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng. Như vậy tiềm năng về chủ thể phát hành chứng khoán là rất lớn.
Hơn nữa Nghị định 64 /NĐ-CP ra đời đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp. Đây là dấu hiệu tốt lành cho công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, trong tương lai số lượng các công ty cổ phần sẽ tăng lên và mục tiêu đến năm 2005 sẽ có 2000 doanh nghiệp cổ phần hoá.
Nhà nước đang triển khai kế hoạch thực hiện thí điểm cổ phần hoá công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Theo nguồn tin từ cơ quan quản lý, hiện tại đã có hơn 20 công ty có vốn đầu tư nước ngoài đăng ký xin cổ phần hoá trong giai đoạn đầu này. Trong tương lai tiềm năng các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán là rất lớn.
3. Tiềm năng về cầu chứng khoán
Hiện tại tiềm năng về cầu chứng khoán của nước ta là khá lớn.Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và đầu tư đăng trên báo Đầu Tư, tổng vốn nhàn rỗi còn đang nằm đọng trong dân là khoảng 12 tỷ USD, trong đó vốn nhàn rỗi dưới dạng tiền mặt vào khoảng 7 tỷ USD, vốn nhàn rỗi bằng vàng khoảng 5 triệu USD. Nếu chúng ta có những khuyến khích hợp lý thì đây sẽ là nguồn vốn quan trọng phục vụ cho việc phát triển đất nước.
Hơn nữa các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu quan tâm và hướng sự chú ý của mình đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Theo nguồn tin từ một số công ty chứng khoán thời gian gần đây có khá nhiều nhà đầu tư từ châu á đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu tư chứng khoán như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan..... Luồng đầu tư của các nhà đầu tư Châu á chưa đến mức độ trở thành trào lưu xong theo các nhà phân tích cả về mặt chủ quan và khách quan nhận ra rằng "các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và ở châu á nói riêng đang thực sự quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Về mặt chủ quan, cơ hội đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt nam hiện nay là rất lớn vì giá cổ phiếu đang ở mức hấp dẫn, chỉ số P/E của thị trường trong thời điểm hiện tại xấp xỉ 7, tỷ lệ cổ tức /giá cổ phiếu vào khoảng 6%/năm, 1 số công ty tỷ lệ này là 12-15%/năm. Mặt khác tình hình hoạt động của các công ty niêm yết được đánh giá là rất tốt và hầu hết các doanh nghiệp này đang trong giai đoạn tăng trưởng. Về mặt khách quan, sự ảm đạm của nhiều thị trường tài chính thế giới khiến một lượng vốn lớn rút ra khỏi thị trường là cơ hội cho những thị trường mới nổi trong đó có cả thị trường chứng khoán Việt Nam.
Như vậy tiềm năng và triển vọng phát triển thị trường thị trường chứng khoán Việt nam nói chung và phát triển lượng cung hàng hoá cho thị trường chứng khoán nói riêng là rất lớn, thế nhưng thực trạng thị trường chứng khoán Việt nam qua hai năm hoạt động cho thấy rằng chúng ta vẫn chưa thực sự tận dụng được những tiềm năng sẵn có đó. Thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động với quy mô còn quá nhỏ bé, tổn giá trị thị trường cổ phiếu chỉ vào khoảng 190 triệu USD, chiếm khoảng 0,5 % GDP. Nhiều công trình nghiên cứu của các chuyên gia về thị trường chứng khoán và của các nhà kinh tế học trên thế giới chứng minh là Thị trường chứng khoán sẽ khó có thể hoạt động hiệu quả nếu lượng chứng khoán cung cấp trên thị trường không nhiều và số lượng các nhà đầu tư trên thị trường nhỏ. Một thị trường như vậy được gọi là một thị trường "mỏng", rất thiếu tính ổn định, ít có khả năng tự điều chỉnh và dễ bị những tác động bởi các yếu tố bên ngoài cũng như dễ đổ vỡ bởi những cuộc tấn công mang tính chất đầu cơ trên thị trường. Và điều này sẽ làm cho TTCK dễ đi lệch ra khỏi quỹ đạo được xác định trước trong vai trò là một nơi huy động và phân bổ một cách có hiệu quả những nguồn lực trong xã hội, đồng thời là một định chế bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư. Hàng hoá trên thị trường chứng khoán Việt Nam tuy đã tăng về số lượng nhưng thực sự chưa nhiều và chưa đa dạng về chủng loại. Số lượng các công ty niêm yết không chỉ quá ít mà cổ phiếu niêm yết lại chưa đại diện cho các nhóm ngành hàng sản suất trong nền kinh tế. Chính vì thế, chỉ số VN-index chưa thực sự có ý nghĩa và chưa phản ánh đúng tình hình phát triển của nền kinh tế. Như vậy việc đưa hàng hoá vào thị trường chứng khoán là một quá trình liên tục ngay cả khi thị trường đã phát triển.
II- Kinh nghiệm của thế giới về giải pháp phát triển hàng hoá cho thị trường chứng khoán
Nhìn chung tất cả các nước trên thế giới khi xây dựng thị trường chứng khoán đều có những điều kiện và bước đi văn bản giống nhau như: chuẩn bị khung pháp lý, chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật, con người...và không thể thiếu khâu chuẩn bị hanhg háo cho thị trường. nhưng việc chuẩn bị và phát triển hàng hoá cho thị trường nhanh hay chậm là tuỳ thuộc vào tình hình riêng của mỗi nước.
Hàn Quốc : thị trường chứng khoán Hàn quốc chính thức đi vào hoạt động một cách có tổ chức vào năm 1956. Ban đầu tại sở chỉ có 12 công ty niêm yết với rất nhiều giao dịch cổ phiếu, mà chủ yếu là các giao dịch trái phiếu chính phủ. do trong thời kỳ đầu, mới có thị trường chứng khoán, các doanh ngiệp còn bỡ ngỡ và chưa thấy lợi ích của việc niêm yết, chính phủ hàn quốc đã thực hiệnchỉ định bắt buộc những doanh nghiẹp có đủ tiêu chuẩn phải đưa cổ phiếu lên niêm yết trên thị trường. Biện pháp này đã giúp cải thiện hàng hoá trên Sở giao dịch chứng khoán Hàn quốc. Bên cạnh đó chính phủ và Uỷ ban chứng khoán Hàn Quốc luôn cố gắng thể hiện vai trò giám sát, kiểm soát thị trường chặt chẽ, nỗ lực duy trì một thị trường công bằng, ổn định và có trật tự. Từ đó, tự bản thân các doanh nghiệp nhận thức được lợi ích của việc niêm yết chứng khoán trên thị trường, số lượng công ty niêm yết ngày càng nhiều.
Singapore là một quốc gia có nền kinh tế mạnh trong khu vực, thị trường chứng khoán Singapore cũng được xem là rất phát triển. Với đặc điểm địa lý nhỏ bé, quốc gia này cho phép các nhà đầu tư giao dịch các chứng khoán quốc tế niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán nước ngoài để tăng thêm lượng hàng hoá cho thị trường chứng khoán trong nước.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, đây là một giải pháp đáng để xem xét. Sắp tới, khi hàng rào thuế quan được bãi bỏ, hàng hoá của các nước trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) lưu thông tự do, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có triển vọng phát triển rõ rệt thì chắc chắn người đầu tư chứng khoán cũng sẽ không bỏ lỡ cơ hội mua bán chứng khoán của các quốc gia trong khu vực.
Thái Lan, là một quốc gia có điều kiện kinh tế xã hội gần giống với Việt Nam, Sở giao dịch chứng khoán Thái Lan chính thức đi vào hoạt độngtừ năm 1975. Trong khoảng 10 năm đầu, giao dịch còn thưa thớt và kém hiệu quả vì thị trường còn mới mẻ mà luật lệ chưa chặt chẽ trong khi đó lạm phát lại cao. Từ những năm sau đó, bằng những biện pháp hạ lãi suất đồng đôla,và lạm phát được kiểm soát đồng thời với việc tăng cường các luật lệ liên quan đến thị trường, tự động hoá các giao dịch, thành lập uỷ ban giao dịch chứng khoán, và phi vật chất hoá chứng khoán. Thị trường chứng khoán Thái Lan đã phát triển mạnh mẽ và đạt hiệu quả cao: tổng số vốn chu chuyển những năm qua đã đạt tới 80% GDP/năm so với mức trung bình của những nước đang phát triển là 50-60%. Bên cạnh sự phát triển của thị trường chính thức, các thị trường OTC về cổ phiếu và trái phiếu cũng lần lượt ra đời vào cuối năm 1994 và 1995. Thị trường OTC của Thái lan dành cho các công ty vừa và nhỏ và các công ty trong quá trình xin niêm yết. ở Thái lan còn có hoạt động của câu lạc bộ giao dịch trái phiếu nhằm khuyến khích các giao dịch trái phiếu phát triển. Việc đa dạng hoá các hình thức thị trường đã giúp rất nhiều cho các cơ quan quản lý và cũng phù hợp với tâm lý của các doanh nghiệp và của người đầu tư. Sự phân chia rạch ròi các chuyên môn cho từng loại thị trường sẽ giúp khuyến khích cho thị trường chứng khoán có nhiều hàng hoá, dồi dào hơn và đa dạng hơn.
Trung Quốc : cấu trúc kinh tế Trung Quốc đã thay đổi khá nhiều kể từ khi Trung Quốc thực hiện chính sách mở của vào đầu những năm 1980. Ngoài việc chính phủ Trung Quốc phát hành một số loại tín phiếu, trái phiếu huy động vốn trong dân chúng, Nhà nước Trung Quốc còn đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà Nước, đây là biện pháp quan trọng trong việc phát triển hàng hoá cho thị trường chứng khoán. Thị trường cổ phiếu Trung Quốc bắt đầu hoạt động với mười công ty niêm yết vào năm 1990, và vào đầu năm 1992 số lượng các công ty niêm yết đã đạt 53 công ty với tỷ lệ tổng giá trị thị trường trên GDP đạt 3,93 %. Vào năm 1997, thị trường chứng khoán Trung Quốc đã mở rộng một cách nhanh chóng với 745 công ty niêm yết với tỷ lệ tổng giá trị thị trường trên GDP đạt 23.44%. Trong thời kỳ 1997-2001, thị trường chứng khoán Trung Quốc phát triển ở mức độ nhanh hơn với tỷ lệ tổng giá trị thị trường trên GDP đạt 34,6 %.
Do từ năm 1991, với nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế cao, Chính phủ Trung Quốc đã quan tâm khai thác nguồn đầu tư nước ngoài. Điều này được thực hiện thông qua việc phát hành loại cổ phiếu B là loại cổ phiếu dành riêng cho người nước ngoài. Cuối năm 1991 đã có 10 công ty phát hành cổ phiếu B thì đến 30/6/1994 số công ty phát hành loại cổ phiếu này tăng lên tới 50 với khối lượng vốn chu chuyển qua thị trường trong những năm qua ước tính 1,871 tỉ USD.
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời muộn hơn nên có điiêù kiện học hỏi kinh nghiệm các nước đi trước, như có thể áp dụng giải pháp bắt buộc những doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn phải đưa cổ phiếu lên niêm yết ở trên thị trường của Hàn Quốc hay đa dạng hoá chủng loại chứng khoán bằng cách bằng cách cho phép các nhà đầu tư giao dịch các chứng khoán quốc tế niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán nước ngoài của Singapore... đó là những cách thức mà các quốc gia này đã áp dụng rất hiệu quả để phát triển hàng hoá nói riêng và phát triển thị truờng chứng khoán nói chung. Thế nhưng thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy rằng, cần phải áp dụng tổng hoà nhiều biện pháp vì dẫu sao hai năm hoạt động của thị trường chứng khoán vừa qua cũng chỉ là hai năm tập dượt, hạn chế còn rất nhiều. Điều quan trọng là nhà nước phải có những chính sách đồng bộ nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh và thực sự hấp dẫn để thu hút sự tham gia đông đảo của các thành phần thị trường.
III - Giải pháp phát triển hàng hoá cho thị trường chứng khoán Việt Nam
1. Xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ về chứng khoán và thị trường chứng khoán
Sự xuất hiện của hàng hoá trên thị trường chứng khoán thường gắn liền với các điều kiện pháp lý nhất định và các điều kiện đó thường có tính ổn định trong một khoảng thời gian dài. Để góp phần cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, các quy định về hàng hoá trên thị trường chứng khoán Việt Nam cũng được đề cập đến. Thế nhưng chưa có quy định nào nêu cụ thể các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Chỉ có nghị định 48/1998/NĐ-CP là nêu về khái niệm chứng khoán và các loại chứng khoán giao dịch trên thị trường chứng khoán; các khái niệm về cổ phiếu, trái phiếu được quy định trong thông tư 01/1998/TT-UBCK. Ngoài ra chỉ có cổ phiếu được phân loại trong Luật doanh nghiệp.
Trong thời gian đầu xây dựng thị trường chứng khoán, việc xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh không phải là chuyện đơn giản. Bước đầu chỉ có thể ban hành các văn bản như nghị định, thông tư, để điều chỉnh những nội dung cơ bản về thị trường chứng khoán. Sau đó trong quá trình vận hành của thị trường sẽ dần dần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế.
Về lâu dài, chúng ta cần phải xây dựng Luật chứng khoán và thị trường chứng khoán. Luật chứng khoán và thị trường chứng khoán do Quốc hội ban hành sẽ có hiệu lực pháp lý cao. Thế nhưng khi mà thị trường chứng khoán Việt nam chưa đi vào hoạt động ổn định thì sẽ còn có nhiều sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Nếu đã xây dựng thành luật thì khi muốn sửa đổi bổ sung sẽ gặp rất nhiều khó khăn và không đáp ứng đưọc tính linh hoạt của thị trường chứng khoán. Vì vậy nhiệm vụ cấp bách hiện nay là cần phải xây dựng một pháp lệnh về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Trong pháp lệnh cần đưa vào
- Quy định cụ thể về khái niệm, tính chất, phân loại và chủ thể phát hành của từng loại chứng khoán được giao dịch trên thị trường chứng khoán. Trước khi đưa vào pháp lệnh những khái niệm này, cần nghiên cứu khái niệm chung nhất, đúng nhất của các khái niệm và tính chất về các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán thế giới, sau đó so sánh với các khái niệm đã được ban hành trong các văn bản pháp luật khác như Luật Doanh nghiệp và Luật ngân hàng... để cuối cùng đưa ra được quy định đúng nhất về loại hàng hoá được phép giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Thực hiện việc này để tránh sự chồng chéo, sai lệnh giữa các khái niệm về chứng khoán ở những văn bản pháp luật khác nhau.
- Về chủng loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán, hiện nay tuy chỉ giao dịch hai loại chứng khoán chủ yếu là cổ phiếu và trái phiếu. Nhưng hàng hoá của thị trường chứng khoán Việt nam sẽ không chỉ dừng lại ở chỗ đó, mà còn giao dịch các loại chứng khác như chứng chỉ quỹ đầu tư, các chứng khoán phái sinh. Vì vậy, ngay từ bây giờ chúng ta nên nghiên cứu các khái niệm, tính chất của các loại chứng chỉ quỹ đầu tư và chứng khoán phái sinh để dần dần đưa ra những quy định tốt nhất, hợp lý nhất về các loại hàng hoá mới này cho thị trường chứng khoán.
- Nhiên cứu xây dựng một Nghị định chung về phát hành trái phiếu ( thay thế Nghị định 01/2000/NĐ-CP về phát hành trái phiếu Chính Phủ và Quyết định số 120 ngày 17/9/1994 của thủ tướng Chính phủ quy định tạm thời về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu) theo hướng quy định khung pháp lý cơ bản cho việc phát hành tất cả các loại trái phiếu trong nước, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển và trái phiếu doanh nghiệp.
2. Giải pháp về phát hành chứng khoán
2.1 Nhóm giải pháp nhằm đẩy mạnh việc phát hành cổ phiếu
Một trong các biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh việc phát hành cổ phiếu là thực hiện tốt chủ trương sắp xếp, đổi mới và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Trước tiên cần chú trọng hoàn chỉnh các luật lệ, chính sách liên quan đến cổ phần hoá: để tiến trình cổ phần hoá diễn ra thuận lợi, vấn đề hiện nay là phải tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý cho việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Việc ra đời Nghị định 64/2002/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 44/1998/NĐ-CP ghi nhận sự đổi mới đáng kể về các vấn đề định giá doanh nghiệp, phương thức bán cổ phần, đối tượng được mua cổ phần và ưu đãi đối với người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá. Cơ quan quản lý nhà nước cần nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định, đặc biệt là hướng dẫn về việc áp dụng các phương pháp định giá doanh nghiệp, sự tham gia của các chuyên gia kỹ thuật, kinh tế tài chính vào quá trình định giá, việc lựa chọn các tổ chức tài chính trung gian, các phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành cổ phiếu.
Nhà nước cần có biện pháp đôn đốc và quy trách nhiệm cụ thể cho các Bộ, ngành, UBNN tỉnh, thành phố và các tổng công ty 91 trong việc thực hiện tốt công tác sắp xếp, phân loại và cổ phần hoá doanh nghiệp. Các bộ ngành, địa phương và tổng công ty nhà nước nên chủ động đưa ra lộ trình cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu cho các doanh nghiệp thuộc đối tượng quản lý, kiên quyết thực hiện việc giải thể, phá sản đối với những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện cổ phần hoá, xắp xếp doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời Chính phủ cần tăng cường chỉ đạo và thường xuyên kiểm tra tiến độ triển khai cổ phần hoá cuả các Bộ ban ngành, địa phương, kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, biểu dương những đơn vị làm tốt và có biện pháp xử lý kiên quyết đối với những đơn vị triển khai yếu kém.
Không ngừng cải tiến quy trình cổ phần hoá theo hướng đơn giản, dễ thực hiện
Cải tiến quy trình, phương pháp định giá doanh nghiệp, áp dụng phương pháp đấu thầu khi có thể được, cho phép các tổ chức tư vấn, bảo lãnh phát hành tham gia quá trình định giá doanh nghiệp trên cơ sở thị trường.
Khi cổ phần hoá, các doanh nghiệp có khối lượng cổ phần lớn ra công chúng cần có các tổ chức tư vấn chuyên ngành như ngân hàng, công ty chứng khoán đứng ra làm tư vấn trong quá trình xây dựng phương án cổ phần hoá và đại lý hoặc bảo lãnh phát hành.
Xây dựng phương án bán cổ phiếu cho người đầu tư, xác định số lượng tương đối và định giá cổ phần sẽ bán ra cán bộ và người đầu tư bên ngoài doanh nghiệp. Đồng thời cần quy định các doanh nghiệp phải công khai hoá việc bán cổ phần của doanh nghiệp, ngoài ra cần quy định việc công bố thông tin bắt buộc, đặc biệt là các doanh nghiệp có tối thiểu 20% vốn cổ phần bán cho cổ đông bên ngoài doanh nghiệp
Xây dựng các phương thức phân bổ nguồn tiền thu được từ bán cổ phiếu sao cho đạt hiệu quả cao nhất và duy trì được lòng tin đối với người đầu tư.
Xây dựng kế hoạch cơ cấu lại vốn và hoạt động cũng như tổ chức cho giai đoạn sau cổ phần hoá nhằm tăng cường khả năng hoạt động có lãi của công ty.
Thực hiện triển khai cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Muốn thực hiện được tốt việc này trước hết cần xây dựng hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn việc cổ phần hoá và xây dựng chương trình cổ phần hoá thí điểm một số doanh nghiệp liên doanh tiên phong cổ phần hoá.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về công tác cổ phần hoá: Qua kinh nghiệm cổ phần hoá, khâu quan trọng nhất và thời gian lâu nhất là khâu làm tư tưởng, tức là phổ biến chính sách, chế độ rồi làm công tác tư tưởng đối với những người lao động... Do vậy, một yêu cầu nữa là nâng cao nhận thức của các cấp ngành về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Ngoài việc tuyên truyền về chủ trương của Đảng và Nhà nước, cần phải phổ biến rộng rãi các chế độ cổ phần hoá cho mọi đối tượng trong xã hội để mọi người hiểu rõ chủ trương và chính sách cổ phần hoá.
2.2 Nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy việc phát hành trái phiếu
a) Giải pháp thúc đẩy phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Để giúp các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng hình thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, trước mắt chúng ta phải ưu tiên tiến hành cải cách trong lĩnh vực có ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường hoạt động của trái phiếu doanh nghiệp. Đồng thời cần tiến hành những công việc sau đây:
Xây dựng một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ và thống nhất quản lý việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tránh tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo từ văn bản pháp lý đến chức năng của cơ quan quản lý.
Nhà nước cần tăng cường hơn nữa tính tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước bằng việc giảm và tiến dần đến loại bỏ hoàn toàn việc ưu đãi đối với các doanh nghiệp không thuộc diện các doanh nghiệp công ích.
Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào thị trường trái phiếu thông qua việc đơn giản hoá các điều kiện và thủ tục phát hành và niêm yết trái phiếu.
Phát triển các tổ chức tài chính trung gian bao gồm các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư, công ty chứng khoán thực hiện các điều kiện bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư, môi giới chứng khoán giúp cho trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường được lưu thông và có tính thanh khoản cao.
Thành lập và phát triển hệ thống các tổ chức định mức tín nhiệm làm cơ sở cho việc xác định lãi suất trái phiếu doanh nghiệp khi phát hành.
Các ngân hàng thương mại quốc doanh cần phải áp dụng các biện pháp cơ cấu lại nợ, lành mạnh hoá hoạt động tài chính. Nhằm mục đích nhanh chóng chuyển đổi thành các Ngân hàng thương mại cổ phần đủ điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Với thực trạng phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam như hiện nay, cũng như những khó khăn mà các doanh nghiệp đang gặp phải, một vấn đề nổi lên là cần có những giải pháp trước mắt cũng như lâu dài nhằm thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển lành mạnh và hiệu quả để góp phần tháo gỡ những khó khăn về vốn cho doanh nghiệp cũng như đáp ứng được những chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Giải pháp thúc đẩy phát hành trái phiếu chính phủ
Phát hành và đưa trái phiếu chính phủ vào giao dịch tại thị trường chứng khoán tập trung là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta, nó không chỉ nhằm tạo nguồn hàng cung ứng cho thị trường mà còn tạo điều kiện cho công chúng đầu tư quen dần với việc nắm giữ trái phiếu chính phủ. Ngoài ra nó còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc huy động vốn ngân sách rất lớn cho hoạt động chi tiêu của chính phủ. Tuy nhiên tình hình phát hành trái phiếu chính phủ trong thời gian qua trên cả thị trường bán lẻ và thị trường trái phiếu đều rất khó khăn. Vì vậy việc tìm ra giải pháp đẩy mạnh phát hành và giao dịch trái phiếu chính phủ là vô cùng bức thiết. Cụ thể:
Bộ tài chính cần đưa ra những thời điểm hợp lý hơn khi phát hành trái phiếu chính phủ thông qua hình thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành, sao cho hai hình thức phát hành trên được tổ chức không quá gần nhau, tránh tình trạng cạnh tranh, thu hút vốn giữa hai hình thức.
Do đặc thù của loại mặt hàng này là có lãi suất cố định trong một thời gian dài nên rủi ro lãi suất khá cao, chưa hấp dẫn được các nhà đầu tư. Chính phủ cần có những thay đổi về cơ chế xác định lãi suất trái phiếu Chính phủ hiện hành hợp lý hơn. Nên chăng Chính phủ cần nghiên cứu để phát hành trái phiếu chính phủ có lãi suất điều chỉnh theo lãi suất thị trường (lãi suất thả nổi) để tăng tính hấp dẫn hơn cho mặt hàng này. Loại trái phiếu này chắc chắn sẽ nhận được sự ủng hộ của các nhà đầu tư vì nó bảo vệ quyền lợi của họ, trong trường hợp thị trường bất ổn.
Để đa dạng hoá các loại hàng hoá, có thể phát hành thêm các loại trái phiếu chính phủ có thời hạn khác nhau: 2 năm, 4 năm, 6 năm...đan xen kẽ nhau hoặc phát hành các loại trái phiếu công trình, các dự án chiến lược của nền kinh tế. Điều đó sẽ làm tăng sự quan tâm và thu hút thêm người đầu tư vì họ sẽ có các lựa chọn đa dạng hơn.
3. Nhóm giải pháp về phát triển chứng khoán niêm yết
Việc đưa hàng hoá vào thị trường chứng khoán là một quá trình liên tục ngay cả khi thị trường đã phát triển. Khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt động, qui mô của thị trường còn nhỏ thì việc tăng lượng chứng khoán niêm yết trên thị trường chứng khoán trở thành nhiệm vụ bức thiết và cấp bách.
áp dụng nhiều hơn nữa các chính sách ưu đãi đối với các công ty niêm yết.
Theo ý kiến của nhiều doanh nghiệp thì các chính sách ưu đãi hiện nay chưa đủ mạnh để khuyến khích các doanh nghiệp cổ phần của Việt nam nhiệt tình tham gia niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Trong giai đoạn đầu phát triển thị trường chứng khoán, hỗ trợ chính sách từ phía chính phủ là điều kiện tiên quyết trong việc phát triển thị trường.
Do chính sách thuế là phương tiện hữu hiệu nhất thể hiện ý chí của nhà nước. Ưu đãi thuế cho các công ty niêm yết để tạo cho các doanh nghiệp có thêm lợi nhuận trả cổ tức, hấp dẫn nhà đầu tư. Chẳng hạn như: đối với doanh nghiệp niêm yết phát hành lần đầu sẽ được miễn thuế doanh thu từ 3-5 năm, đối với công ty phát hành bổ sung sẽ được giảm thuế doanh thu từ 3-5 năm.
Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các công ty niêm yết trong việc vay vốn ngân hàng. Tình trạng tài chính và hoạt động của công ty niêm yết là tương đối ổn định và đáng tin cậy do tính minh bạch được đảm bảo hơn so với các công ty không niêm yết. Một ngân hàng cung cấp tín dụng cho một cong ty niêm yết sẽ phải chịu ít rủi ro hơn so với việc cung cấp tín dụng cho các công ty không niêm yết do tài sả thế chấp đôí với khoản vay ngân hàng của công ty niêm yết được định giá cao hơn. Do đó, công ty niêm yết xứng đáng được hưởng những ưu đãi về lãi suất ví dụ như ưu đãi trong lãi suất cơ bản, kỳ hạn khoản vay, hạn mức tín dụng...
Thắt chặt mối quan hệ giữa cổ phần hoá và niêm yết chứng khoán
Giải pháp trước tiên của vấn đề này là làm cho các tiêu chuẩn cổ phần hoá đồng bộ với các tiêu chuẩn niêm yết tại trung tâm giao dịch, đồng thời bắt buộc các doanh nghiệp Nhà nước đáp ứng được các điều kiện niêm yết phải thực hiện niêm yết.
Đối với các công ty đã cổ phần hoá, các biện pháp ưu đãi về thuế bổ sung sẽ được áp dụng tuỳ thuộc vào khoảng thời gian giữa quá trình cổ phần hoá và niêm yết. Ví dụ như, một công ty tiến hành niêm yết trong vòng 6 tháng sau khi cổ phần hoá sẽ được hưởng chế độ giảm 50 % thuế trong vòng hai năm bên cạnh ưu đãi về thuế dành cho công ty niêm yết. Trong trường hợp niêm yết một năm sau khi cổ phần hoá, công ty sẽ được hưởng chế độ ưu đãi thuế thêm một năm nữa. Các công ty niêm yết trong thời gian hơn một năm kể từ khi cổ phần hoá sẽ không được hưởng chế độ ưu đãi thuế phụ thêm này.
Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp trung ương và ở các ngành, địa phương cần có sự phối hợp chặt chẽ, định kỳ với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước để hướng dẫn các doanh nghiệp cổ phần hoá đủ tiêu chuẩn kết hợp quá trình cổ phần hoá với việc phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết hoặc đăng ký niêm yết lại taị trung tâm giao dịch chứng khoán.
Tuyên truyền mở các lớp bồi dưỡng kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho cán bộ các doanh nghiệp, đặc biệt là cán bộ quản lý. Làm cho các doanh nghiệp hiểu được lợi ích và tầm quan trọng của việc tham gia vào thị trường chứng khoán tập trung. Hầu hết các doanh nghiệp đều lo sợ về vấn đề công khai thông tin khi tham gia vào thị trưòng chứng khoán chính thức. Điều quan trọng đối với các cơ quan quản lý nhà nước hiện nay là phải làm sao giúp các doanh nghiệp hiểu được việc minh bạch hoá và công khai thông tin về doanh nghiệp là một thứ văn minh kinh doanh.
Xây dựng cơ chế đăng ký trước đối với hoạt động phát hành chứng khoán
Theo cơ chế đăng ký trước, công ty niêm yết được phép lập và phát hành tài liệu công bố hoạt động phát hành đã được đăng ký truớc bao gồm các thông tin trên cơ sở hướng dẫn của cơ quan quản lý. Nếu một tổ chức phát hành dự định phát hành thêm một laọi chứng khoán trong một thời hạn nhất định trong khuôn khổ thời hạn đăng ký trước, công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu mà không cần tiến hành quy trình đăng ký phát hành chứng khoán mới với cơ quan quản lý. Tất nhiên là bất kỳ thay đổi nào xảy ra kể từ thời điểm đăng ký trước cũng phải được báo cáo lên cơ quan quản lý.
Cơ chế đăng ký trước có các lợi ích sau: cho phép tiết kiệm đwocj một khoảng thời gian đáng kể trong việc tiến hành chuẩn bị hồ sơ phát hành chứng khoán tư đó cho phép các côngty tiếp cận kịp thời với các cơ hội kinh doanh; giảm thiểu các công việc cần tiến hành cho một đợt phát hành chứng khoán; giảm chi phí phát hành thường xuyên.
Giải pháp kích cầu chứng khoán.
Tăng cường kiến thức cho các nhà đàu tư thông qua các chiến dịch đào tạo và phổ biến kiến thức cho công chúng.
Tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trên thị trường bằng việc tăng cường công tác công bố thông tin, nâng cao chất lượng kiểm toán, đồng thời thông qua sự trợ giúp quốc tế từng bước phổ biến và áp dụng những thông lệ về quản trị công ty tốt trên thế giới vào các doanh nghiệp Việt Nam.
Giảm chi phí giao dịch và thời gian cho các nhà đầu tư, đồng thời đa dạng hoá các phương thức giao dịch trên thị trường giúp các nhà đầu tư có thể dễ dàng tiếp cận với thị trường bất kể thời gian và không gian.
Khuyến khích sự ra đời của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như các quỹ đầu tư cá nhân và tập thể, các quỹ hưu trí và sự tham gia của các công ty bảo hiểm nhằm tăng cường yếu tố đầu tư dài hạn, khắc phục xu hướng đầu tư ngắn hạn nhằm mục đích đầu cơ.
Cấp phép thành lập các công ty tư vấn đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp: các công ty tư vấn đầu tư có chức năng kinh doanh là cung cấp các dịch vụ tư vấn đầu tư và thông tin cho khách hàng. Ngoài ra theo yêu cầu của khách hàng, công ty còn cung cấp những dịch vụ đầu tư cụ thể như quản lý tài sản mà khách hàng tín thác. Trong giai đoạn đầu phát triển của thị trường chứng khoán, các công ty tư vấn đầu tư có thể đống vai trò quan trọng trong việc cung cấp những thông tin hữu ích, đánh giá giá trị thực của các chứng khoán và xác định thời điểm đầu tư phù hợp.
4. Giải pháp nâng cao tính hiệu quả của việc công bố thông tin
Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp lý đối với các quy định về hoạt động công bố thông tin.
Việc hoàn thiện khung pháp lý cho công bố thông tin trên thị trưòng sẽ có nhiều ưu điểm nổi bật đó là: Hiệu lực pháp lý của công bố thông tin sẽ rất cao, tạo tâm lý ổn định yên tâm cho các tổ chức cá nhân khi tham gia kinh doanh đầu tư vào thị trường chứng khoán, đồng thời tạo môi trường quản lý thông tin có tính ổn định, nhanh, chính xác, kịp thời ... Mặt khác, nâng cao hiệu lực cho việc xử lý, răn đe đối với hành vi vi phạm công bố thông tin sai sự thật nhằm ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường, từ đó làm cho hoạt động của thị trường an toàn hơn và từ đó thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường, đây sẽ là một nhân tố quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán.
Đối với các tổ chức niêm yết.
Các tổ chức niêm yết cần phải có bộ phận chuyên trách công bố thông tin. Các cán bộ phụ trách công bố thông tin cần phải là người có thẩm quyền trong công ty..
Cần phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các thông tin định kỳ, tức thời và theo yêu cầu. Trong đó thông tin tức thời là quan trọng nhất vì có tác dụng trực tiếp đến giá chứng khoán trên thị trường. Thông tin tức thời bao gồm các thông tin tốt và không tốt của tổ chức niêm yết. Bên cạnh những thông tin về tổ chức niêm yết phải công bố theo quy định, tổ chức niêm yết có thể tiến hành công bố thông tin tự nguyện. Tổ chức niêm yết có thể vận dụng công bố thông tin tự nguyện vừa góp phần cung cấp thông tin cho thị trường vừa là hình thức quảng cáo cho chính mình.
Hình thức công bố thông tin
Thiết lập các mẫu công bố thông tin để tạo sự đồng nhất và tránh trường hợp công bố thông tin sai sót, thiếu chính xác.
Phát triển và hoàn thiện hệ thống truyền thông nối mạng trực tiếp giữa Trung tâm giao dịch chứng khoán với các công ty chứng khoán. Thông tin từ hệ thống giao dịch tại Sàn sẽ truyền thẳng đến các màn hình của các công ty chứng khoán. Như vậy, nhà đầu tư có thể theo dõi trực tiếp các thông tin do Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố một cách nhanh chóng qua màn hình tại các công ty chứng khoán.
Không ngừng nâng cao chất lượng thông tin được cung cấp trên trang chủ của Trung tâm giao dịch chứng khoán, trang chủ cần được trình bày theo hai ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Việt và Anh ngữ. Phương án xây dựng một trang chủ của Trung tâm giao dịch chứng khoán trên mạng Internet cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán. Điều này sẽ trợ giúp cho các nhà đầu tư không có nhiều thời gian đến các côngty chứng khoán cũng như các nhà đầu tư ở các vùng xa trụ sở của Trung tâm Giao dịch chứng khoán và các công ty chứng khoán.
Phương tiện công bố thông tin.
Thiết lập hệ thống công bố thông tin tự động: Đây là hệ thống công bố thông tin trả lời tự động bằng điện thoại khi người đầu tư có yêu cầu. Với hệ thống này người đầu tư có yêu cầu. Với hệ thống này người đầu tư có thể tiếp cận và cập nhật thông tin 24/24 giờ. Với hệ thống công bố thông tin này, hiệu quả của việc đảm bảo chất lượng nội dung thông tin và thời gian công bố sẽ được nâng cao và đạt hiệu quả tốt.
Xử lý vi phạm:
Xử lý nghiêm các vi phạm về quy định công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Công khai các vi phạm và xử lý vi phạm về công bố thông tin của các tổ chức niêm yết và các đối tượng liên quan trên phương tiện thông tin đại chúng. Cần có văn bản hướng dẫn chi tiết về các vấn đề, các đối tượng và các mức xử phạt trong Nghị định 22/2002/NĐ-CP của Chính phủ về việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
IV-Triển vọng của thị trường chứng khoán Việt Nam dựa trên những nỗ lực từ phía cơ quan quản lý nhà nước.
1. Những nỗ lực từ phía cơ quan quản lý nhà nước
Theo báo Đầu tư chứng khoán số ra mới nhất (số ngày 11/11/2002), UBCKNN đã triển khai một số biện pháp giúp ổn định thị trường, tăng cường tính công khai, công bằng và minh bạch của thị trường chứng khoán Việt nam trong tương lai.
UBCKNN đã hoàn chỉnh dự thảo Nghị định thay thế nghị định 48?NĐ-CP đang gửi Bộ Tư Pháp thẩm định để trình chính phủ xem xét, ban hành đồng thời xây dựng chiến lược và lộ trình phát triển ngành chứng khoán đến năm 2010. Hiện tại UBCKNN đang xin ý kiến của các bộ ban ngành liên quan, dự kiến trình chính phủ chiến lược này trong tháng 12 năm 2002.
UBCK đã báo cáo thủ tướng chính phủ và gửi công văn cho Bộ tài chính về việc miễn giảm thuế cho các công ty niêm yết, công ty chứng khoán và đề nghị miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các nhà đầu tư có tổ chức.
UBCK đã trình thủ tướng xem xét, chỉ đạo các bộ ngành liên quan phối hợp với UBCKNN thực hiện một số biện pháp nhằm khuyến khích công ty ra niêm yết, trong đó chú trọng các công ty có quy mô lớn, các ngân hàng thương mại cổ phần và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
UBCKNN cũng đang phối hợp và làm việc với các bộ ngành liên quan xem xét việc thành lập một số quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, cho phép nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản tại các công ty chứng khoán, cho phép các quỹ bảo hiểm được mua bán chứng khoán.
UBCK đang chỉ đạo Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chuẩn bị các điều kiện về kỹ thuật và pháp lý để có thể thực hiện tăng dần số lần khớp lệnh trong một phiên giao dịch và nới rộng biên độ dao động giá giao dịch lên 5% vào đầu năm 2003. Đồng thời đang nghiên cứu các giải pháp về giảm mức ký quỹ cho các nhà đầu tư, cho phép các công ty chứng khoán tạm ứng vốn cho khách hàng mua chứng khoán.
UBCK đang đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia thị trường, xử phạt nghiêm những trường hợp vi phạm theo nghị định xử phạt hành chính về chứng khoán và thị trường chứng khoán, đặc biệt là trong lĩnh vực công bố thông tin của các công ty niêm yết.
2. Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt nam từ nay đến năm 2002 do UBCKNN đề ra.
Mục tiêu
Giai đoạn 1 (2003-2005)
Giai đoạn 2 (2005-2010)
1. Hiện đại hoá hệ thống và nâng cấp hoạt động của TTGDCK TpHồ Chí Minh
- Đưa hệ thống giao dịch mới và vận hành.
Xây dựng hệ thống dự phòng
- áp dụng hệ thống ngừng giao dịch tự động.
2. Tăng cung hàng hoá
- Cho phép công ty liên doanh chuyển thành công ty cổ phần.
- Ban hành chính sách liên kết cổ phần hoá với Niêm yết
- Chính sách ưu đãi thuế, ưu đãi cho vay thương mại.
- Chính sách bán chứng khoán qua TTGDCK.
- Khuyến khích phát hành chứng quyền.
- Khuyến khích các công ty mạo hiểm niêm yết.
- Khuyến khích phát hành trái phiếu chuyển đổi.
3. Đẩy mạnh cầu chứng khoán.
- Chính sách bán cổ phiếu cho người lao động trong công ty.
- Nới lỏng hạn chế và ưu đãi thuế cho các tổ chức đầu tư.
- Thành lập quỹ đầu tư.
- Nới lỏng hạn chế đối với người đầu tư nước ngoài.
- Nới lỏng hạn chế đối với người đầu tư nước ngoài.
- Thành lập quỹ bình ổn định thị trường.
- Thành lập công ty tư vấn đầu tư.
- Thành lập quỹ đầu tư
- Nới lỏng hạn chế đầu tư của người nước ngoài.
- Nâng cấp quy mô vốn của các công ty chứng khoán.
- Chính sách mở của liên doanh với nước ngoài.
4. Phát triển các công ty chứng khoán
- Mở rộng phạm vi hoạt động của các côngty chứng khoán.
- Tăng cường quy mô vốn
- Khuyến khích mở rộng chi nhánh thông qua liên kết với các ngân hàng thương mại
- Tăng cường các quy định cẩn trọng tài chính.
- Thực hiện chính sách ưu đãi thuế.
- Nâng cấp hệ thống.
- Phát triển hệ thống tác nghiệp tập trung.
5. Đảm bảo thị trưòng hoạt động ổn định
- Tăng cường giám sát hoạt động thị trường
6. Xây dựng và hoàn thiện các tổ chức thị trường.
- Xây dựng trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Xây dựng trung tâm lưu ký độc lập
- Xúc tiến xây dựng Hiệp hội chứng khoán Việt nam
- Xây dựng Sở giao dịch chứng khoán Việt nam.
- Xây dựng thị trường OTC
- Phát triển các tổ chức đăng ký chứng khoán.
- thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm.
7. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý.
-Sửa đổi nghị định 48/NĐ-CP
- Xây dựng pháp lệnh và Luật chứng khoán và thị trường chứng khoán.
(Nguồn: Báo đầu tư chứng khoán số ngày 4/11/2002)
Như vậy những nỗ lực của ủy ban chứng khoán nhà nước cùng với việc xây dựng những chiến lược phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị trường tạo cho chúng ta niềm tin vào triển vọng của thị trường chúng khoán Việt Nam trong tương lai.
Kết luận
Trong quá trình phát triển kinh tế, các quốc gia luôn đứng trước một bài toán nan giải, đó là bài toán tìm nguồn cung về vốn. Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam, vấn đề huy động vốn trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Đại hội Đang toàn quốc lần thứ VIII đà chỉ rõ "Vốn là chìa khoá để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đát nước" đồng thời đặt ra nhiệm vụ " Phát triển thị trường vốn, thu hút các nguồn vốn trung và dài hạn thông qua ngân hàng và các công ty tài chính để đáp ứng nhu cầu vay đâug tư phát triển và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước xây dựng thị trường chứng khoán phù hợp với điều kiện Việt nam và định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước". Văn kiện đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục chỉ rõ nhiệm vụ: " Phát tiển thị trường vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội"
Thực hiện nghị quyết của Đảng, Ngày 20/7/2000 Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức khai trương và đi vào hoạt động. Thế nhưng qua hơn hai năm đi vào hoạt động, tuy có được những thành tựu đấng khích lệ nhưng thị trường chứng khoán Việt nam mới chỉ đạt được mục tiêu đầu tiên là "Khẳng định sự xuất hiện và triển khai hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam" mà chưa trở thành kênh quan trọng cho các doanh nghiệp huy động vốn. Con số 19 công ty niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán là quá nhỏ so với số lượng các doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn và nếu so với tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế thì con số đó lại càng nhỏ bé.
Như vậy như ta đã đề cập trong phần giải pháp, nhiệm vụ đầu tiên và cấp bách nhất trong việc phát triển thị trường chứng khoán Việt nam hiện nay đó là UBCKNN phối hợp cùng các Bộ ngành liên quan cần xây dựng một hành lang pháp lý hoàn thiện và đồng bộ điều chỉnh mọi hoạt động của thị trường chứng khoán. Chỉ khi nào có một môi trường pháp lý ổn định và lành mạnh thì hoạt động phát hành, niêm yết và đầu tư chứng khoán mới sôi động và hiệu quả được.
Thế nhưng để những nỗ lực từ phía cơ quan quản lý nhà nước thực sự phát huy được kết quả mong muốn thì cần có sự đồng tình ủng hộ của tất cả các thành phần đã và sẽ tham gia thị trường đó là : các doanh nghiệp, các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư chứng khoán, các ngân hàng thương mại, các nhà đầu tư...để có thể khai thác được hiệu quả những tiềm năng vốn có của nền kinh tế, giúp thị trường chứng khoán Việt nam thực sự phát huy được vai trò đích thưc: là kênh huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả cho nền kinh tế.
tài liệu tham khảo
I- Các văn bản pháp luật
Luật công ty 1990
Luật doanh nghiệp nhà nước 1990.
Luật doanh nghiệp 1999
Nghị định 72/1994/NĐ-CP ban hành ngày 20/7/1994 về quy chế phát hành trái phiếu chính phủ và được thay thế bằng nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/2/2000 về quy chế phát hành trái phiếu chín phủ.
Nghị định 44/NĐ-CP và Nghị định 64/NĐ-CP về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về Chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Nghị định số 120/1994/NĐ-CP ngày 17/9/1994 của chính phủ ban hành quy chế tạm thời về phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước.
Nghị định 22/2000/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Quyết định 212?QĐ-NH1 ngày 22/9/1994 của thống đốc ngân hàng nhà nước ban hành thể tlệ phát hành trái phiếu ngân hàng thuơng mại, ngân hàng đầu tư và phát triển.
Quyết định 1197-TC-KBNN ngày 5/12/1994 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc ban hành quy chế tạm thời đấu thầu trái phiếu chính phủ.
Thông tư 01/1998TT-UBCK ngày 1/10/1998 hướng dẫn Nghị định 48/NĐ- CP về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng.
II- Sách
PGS.NGƯT Đinh Xuân Trình, PTS Nguyễn Thị Quy, Trường Đại học ngoại thương: "Giáo trình thị trường chứng khoán" Nhà xuất bản Giao dục,1998.
GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền- Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh, giáo trình; " Lý thuyết thị trường chứng khoán ", Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh năm 1996.
Merill Lynch, STC- Sercurities Training Corporation:" Introduction to the sercurities Market", 1994.
Robert D. Auerback: " Money, banking and Financial Market.", University of California,1994.
Trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán: "Luật áp dụng trong ngành chứng khoán”, UBCKNN, 5/1999.
Trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán: "Chứng khoán và thị trường chứng khoán những kiến thức cơ bản", UBCKNN 2002.
UBCKNN: Chứng khoán và thị trường chứng khoán (phần 1), 1999.
UBCKNN: Thị trường chứng khoán và những vấn đề cơ bản trong vận hành thị trường chứng khoán ở Việt Nam , 5/1999.
UBCKNN và ADB :"Dự thảo Lộ trình phát triển thị trường vốn" - tháng 7/2002
III - Tạp chí chuyên ngành
Báo đầu tư chứng khoán số các năm 2000-2001-2002.
Báo Chứng khoán Việt Nam số các năm 2000- 2001-2002.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế
Tạp chí Tài chính.
Thời báo kinh tế Việt Nam.
Bản tin thị trường chứng khoán.
Tạp chí Kinh tế Sài Gòn.
Báo Đầu tư số năm 2001-2002.
Mục Lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KLTNVA1.doc
- biaLV.doc