Khóa luận Tìm hiểu hoạt động xúc tiến thương mại nói chung và đặc biệt xúc tiến xuất khẩu nói riêng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Kinh tế và chính trị có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, kinh tế có thể phát triển nếu chính trị ổn định và ngược lại. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là một phần quan trọng của nền kinh tế đất nước, do vậy nó có mối quan hệ chặt chẽ đến sự ổn định chính trị. Điều này khiến chúng ta trong khi thực hiện các hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu phải luôn chú ý đến việc ổn định tình hình chính trị của đất nước. Trong những năm gần đây, do định hướng sản xuất đúng đắn trong cơ cấu, kinh tế chính trị xã hội ổn định nên xuất khẩu hàng hoá Việt Nam đã tăng liên tục hàng năm ở mức khá. Thời kỳ 2002-2010, chỉ khi đảm bảo ổn định được kinh tế chính trị thì xuất khẩu Việt Nam mới có điều kiện tăng nhanh và ổn định, đạt hiệu quả cao hơn. Nước ta hiện được đánh giá là có môi trường kinh tế chính trị ổn định nhất Đông Nam Á. Tuy nhiên vẫn cần tăng cường sự quản lý lãnh đạo thống nhất của Đảng và Nhà nước đồng thời chú trọng phát triển đồng bộ các thị trường và đẩy mạnh các mối quan hệ kinh tế quốc tế, đa dạng hoá, đa phương hoá bạn hàng, thị trường xuất khẩu.

doc85 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1840 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu hoạt động xúc tiến thương mại nói chung và đặc biệt xúc tiến xuất khẩu nói riêng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĩa những năm qua rất quý báu cũng chưa đủ và còn là điều mới mẻ do mô hình mang tính đặc thù của nước ta. Hội nhập nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế khu vực và thế giới, chúng ta phải chấp nhận “luật chơi” do các tổ chức đặt ra cho tất cả các thành viên, mà bản chất chung là thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại và tự do hoá toàn cầu. Sự yếu kém của nền kinh tế làm cho sức ép cạnh tranh tăng lên đối với các doanh nghiệp trong nước trước các nhà kinh doanh và đầu tư nước ngoài. Bài toán giải quyết mối quan hệ tự do hoá thương mại và bảo hộ nền sản xuất trong nước, giữa việc đưa nền kinh tế hướng về xuất khẩu và phát triển toàn diện kinh tế xã hội cần phải tìm được lời giải đáp thích hợp với một lộ trình hội nhập khoa học. Nếu không, chúng ta không tránh khỏi trở thành một thị trường tiêu thụ sản phẩm chất lượng thấp, máy móc thiết bị với công nghệ lạc hậu của các nước trong khu vực và thế giới. Mục tiêu và phương hướng phát triển ngoại thương nước ta Mục tiêu phát triển xuất nhập khẩu Mục tiêu chung của hoạt động xuất nhập khẩu hiện nay là: Đẩy mạnh xuất khẩu coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Củng cố thị trường đã có và mở rộng thêm thị trường mới, tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường. Giảm tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Tại những thời điểm nhất định, mục tiêu xuất khẩu có khác nhau, nhưng mục tiêu quan trọng là để nhập khẩu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Các chỉ tiêu về xuất khẩu: + Về quy mô và tốc độ tăng trưởng: tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 54,6 tỷ USD vào năm 2010, tốc độ tăng trưởng bình quân 15% năm; trong đó thời kỳ 2001-2005 tăng 16% với tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 28,4 tỷ USD vào năm 2005 và trong giai đoạn 2006-2010 tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 14%. Như vậy, nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP. +Về thị trường xuất khẩu dự kiến: . Khu vực Châu á - Thái Bình Dương chiếm 57,4% so với tổng kim ngạch . Khu vực Âu Mỹ chiếm 37%. . Khu vực Châu Phi - Tây Nam á chiếm 9,6%. Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam năm 2010 như sau: * Châu á: 46 - 50 %. .Nhật bản : 17-18 % .ASEAN :15 - 16 %. .Trung Quốc, Đài Loan :14 - 16 %. . Hồng Kông. *Châu Âu : 27 - 30 %. . EU :25 - 27 % . SNG và Đông Âu : 3 - 5 %. * Bắc Mỹ : 15 - 20 %. * úc và NEWZELAND : 5 - 7 %. * Nơi khác : 2- 3 % Như vậy thị trường Châu á-Thái Bình Dương sẽ vẫn là thị trường trọng điểm song cần nâng tỷ trọng các thị trường khác để vừa đẩy mạnh xuất khẩu, vừa tăng khả năng phòng ngừa chấn động đột ngột. Vị trí của từng thị trường phụ thuộc vào tiềm năng (dân số, sức mua), nhu cầu của họ đối với loại sản phẩm cụ thể và nhu cầu nhập khẩu của ta cũng như mức độ quan hệ chính trị-kinh tế. Theo đó, trong mười năm tới, các nước và khu vực như: Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và Hoa Kỳ, Trung Cận Đông, Châu Phi, úc... sẽ là những thị trường mà chúng ta cần quan tâm đặc biệt. + Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu: Chiến lược trong mười năm tới là “gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô”. Cụ thể, tỷ trọng của nhóm nguyên nhiên liệu (dầu thô, than đá) giảm từ 20% vào năm 2000 xuống 3-3,5% vào năm 2010, nhóm nông sản, hải sản giảm từ 23,3% xuống 17% , nhóm sản phẩm chế biến, chế tạo (dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, hoá phẩm tiêu dùng, sản phẩm cơ khí, điện, sản phẩm nhựa...) tăng từ 31,4% lên 40-45%, nhóm sản phẩm công nghệ cao (hàng điện tử, tin học) tăng từ 5,4% lên 12-14%. Tỷ trọng của các hàng hoá khác nhóm trên sẽ tăng từ 19,8% lên 23-25%. b. Phương hướng phát triển ngoại thương: -Nhà nước thống nhất quản lí ngoại thương, tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, đẩy mạnh giao lưu hàng hoá với nước ngoài trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi. Chủ động hội nhập quan hệ quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế , theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện những cam kết trong các quan hệ song phương, đa phương như ASEAN, APEC, Việt - Mỹ ,Việt -Nhật, Việt -Trung , Việt Nam - EU, tiến tới gia nhập WTO... -Nhà nước khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu và dịch vụ theo quy định của pháp luật, có những hình thức biểu dương công sức của đơn vị, cá nhân sản xuất kinh doanh giỏi. Tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc, xoá bỏ mọi trở lực để phát huy tối đa mọi nguồn lực đẩy mạnh xuất khẩu. Nhà nước khuyến khích xuất khẩu mọi mặt hàng xuất khẩu có lợi thế so sánh và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế thông qua vận hành quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu , xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản, cũng như các biện pháp bảo lãnh tín dụng xuất khẩu , các biện pháp hỗ trợ về thông tin tìm kiếm khách hàng, tham dự triển lãm, hội chợ, vv... Đầu tư đồng bộ từ nghiên cứu, sản xuất , chế biến, vận chuyển tiếp thị... nhằm nâng cao giá trị cạnh tranh, giảm tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu thô và sơ chế, tăng số lượng các mặt hàng và kim ngạch xuất khẩu sản phẩm chế biến sâu và chế tạo có giá trị gia tăng cao. Nâng dần tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm, nâng tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công nghệ cao. Khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hoá sản xuất trong nước. Đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, miễn giảm các chi phí giao dịch phục vụ hoạt động xuất khẩu. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng và thặng dư xuất nhập. Định hướng công tác XTTM và XTXK đến năm 2010 Bước sang thế kỷ XXI với nhiều cơ hội và những thách thức lớn, vai trò cuả xúc tiến thương mại và xúc tiến xuất khẩu càng trở nên quan trọng. Chính vì vậy trong thời gian tới nhà nước sẽ tập trung vào việc “xây dựng và vận hành hệ thống các tổ chức xúc tiến thương mại trên cả nước phục vụ hữu hiệu cho các doanh nghiệp Việt nam nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu, tạo ra thị trường và mặt hàng xuất khẩu mới, góp phần thực hiện các chỉ tiêu đề ra cho xuất khẩu của Việt nam từ nay đến năm 2005. Trên cơ sở tờ trình Thủ tướng Chính phủ số 0687 TM/VP ngày 19.2.1999, Bộ thương mại đề xuất một số chủ trương và biện pháp đẩy mạnh các hoạt động XTTM trong thời gian tới như sau: Xây dựng và nâng cao uy tín của hàng hoá Việt nam trên thị trường trong nước và quốc tế thông qua các biện pháp: -Thực hiện chế độ kiểm tra chất lượng đối với hàng Việt nam lưu thông trên thị trường trong nước và xuất khẩu, trước mắt áp dụng chế độ kiểm tra bắt buộc đối với một số mặt hàng có tiềm năng XK lớn. Bộ Thương mại phối hợp với Bộ KHCN-MT và các Bộ quản lý ngành xác định danh mục mặt hàng, xây dựng và tổ chức thực hiện quy chế kiểm tra chất lượng bắt buộc đối với những mặt hàng đó. -áp dụng các hình thức xử phạt nghiêm khắc những doanh nghiệp đưa ra thị trường hàng hoá không đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng do Nhà nước quy định hoặc xuất khẩu hàng hoá không đúng quy định của hợp đồng kí với nước ngoài, làm ảnh hưởng đến uy tín của hàng hoá Việt nam, đồng thời có biện pháp khen thưởng thích đáng đối với doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng hoá đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn quy định của Nhà nước. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của các hoạt động XTTM và XTXK -Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến như: tổ chức các đoàn doanh nghiệp ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài vào VN nghiên cứu khảo sát thị trường, tìm kiếm bạn hàng và cơ hội kinh doanh; tổ chức hoặc tham gia hội chợ triển lãm thương mại ở trong nước và nước ngoài; quảng cáo hàng hoá, thông tin thương mại và các hoạt động khác về xúc tiến thương mại -Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại do cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước tổ chức để hỗ trợ cho doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng, mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu. Trong những năm trước mắt, hoạt động xúc tiến thương mại của Nhà nước tập trung vào một số lĩnh vực chủ yếu sau: Đàm phán và ký kết các hiệp định, thoả thuận song biên và đa biên với chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế tạo cơ sở pháp lí cho hoạt động xuất khẩu và xúc tiến xuất khẩu hàng Việt nam ra thị trường quốc tế; Xây dựng chính sách và chiến lược hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài; Tổ chức các hội chợ và triển lãm thương mại ở tầm quốc gia, cả trong và ngoài nước; Tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thương mại theo phương châm nhanh chóng, chính xác, quảng đại và có hệ thống. Tổ chức các phái đoàn thương nhân VN ra nước ngoài để tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường và bạn hàng xuất khẩu; Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp. Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ngoài -Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân tổ chức và tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại VN ở nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá VN ra thị trường thế giới. -Khuyến khích việc xuất bản và phát hành các ấn phẩm về xúc tiến thương mại ra nước ngoài và tăng cường thông tin thương mại trên các phương tiện thông tin, tuyên truyền đối ngoại kể cả trên mạng Internet. -Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan đại diện ngoại giao, thương mại của Việt Nam ở nước ngoài đối với các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Bộ Thương mại tăng cường cử cán bộ ra nước ngoài để tổ chức các hoạt động XTTM, trước mắt là ở các thị trường trọng điểm, các trung tâm thương mại lớn trên thế giới. - Khuyến khích các doanh nghiệp đặt cơ sở ở nước ngoài dưới các hình thức thích hợp như đại diện thường như đại diện thường trú, văn phòng liên lạc, đại diện uỷ thác, công ty liên doanh... để phát triển xuất khẩu. Thành lập quỹ hỗ trợ xúc tiến thương mại Thành lập quỹ hỗ trợ xúc tiến thương mại để thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại của nhà nước; hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, bạn hàng XK; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nâng cao năng lực hoạt động XTTM của đất nước. Quỹ hỗ trợ XTTM có thể được huy động từ ngân sách nhà nước cho phép Bộ Thương mại trích lại 15% tổng số lệ phí hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường EU và một tỷ lệ thích đáng từ thuế xuất nhập khẩu để đưa vào quỹ hỗ trợ XTTM giao cho Bộ Thương mại bàn với Bộ Tài chính về chế độ quản lý và sử dụng quỹ này. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho các hoạt động xúc tiến thương mại Thành lập Trung tâm xúc tiến thương mại tại Hà Nội, Đà nẵng và thành phố Hồ Chí Minh để giúp các doanh nghiệp trưng bày, giới thiệu hàng hoá, tổ chức triển lãm, hội chợ thương mại; thu thập xử lý và cung cấp thông tin thương mại cho các doanh nghiệp; tổ chức hội thảo thương mại, các hoạt động đào tạo; cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, ngân hàng, hải quan giao nhận, vận tải hàng hoá giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong kinh doanh. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu và hoạt động xúc tiến thương mại. Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ ngày càng cao về buôn bán quốc tế và về xúc tiến thương mại thông qua các hình thức đào tạo và bồi dưỡng thích hợp với sự nỗ lực của mỗi doanh nghiệp, trợ giúp của Nhà nước và tranh thủ các nguồn tài trợ quốc tế. Tổ chức cung cấp thông tin thị trường phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế Sớm kiện toàn lại hệ thống thu thập và xử lý thông tin, nối mạng đến các Trung tâm xúc tiến thương mại, các Sở Thương mại và các doanh nghiệp để đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời cho các cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mở rộng hợp tác về xúc tiến thương mại Mở rộng quan hệ hợp tác với các hình thức thích hợp nhằm vào các mục tiêu, yêu cầu cụ thể giữa các tổ chức xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp với các tổ chức tương ứng của nước ngoài để đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. Xây dựng mối quan hệ và tổ chức thường xuyên việc đối thoại giữa các cơ quan Chính phủ với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế Cơ quan quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại chủ trì hoặc phối hợp với các hiệp hội ngành hàng, các Trung tâm xúc tiến thương mại, các Phòng thương mại và công nghiệp, các viện nghiên cứu, thường xuyên tổ chức các diễn đàn đối thoại giữa các doanh nghiệp với các cơ quan của Chính phủ nhằm giúp Chính phủ có chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu phù hợp, tạo thuận lợi và thông thoáng cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu. Tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân nước ngoài ra vào Việt Nam Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong khâu quản lý xuất nhập cảnh, có biện pháp ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân gây phiền hà, sách nhiễu đối với khách du lịch, thương nhân nước ngoài nhập cảnh vào Việt nam. Cùng với các Bộ liên quan, kiến nghị Chính phủ xem xét bỏ chế độ xin thị thực nhập cảnh cho công dân của một số nước là thị trường trọng điểm về thương mại, đầu tư và du lịch. Tăng cường quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại -Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách và cơ chế quản lý đối với các hoạt động xúc tiến thương mại. -Ngoài chức năng tiến hành các hoạt động xúc tiến thương mại của Cục xúc tiến thương mại cùng Phòng thương mại và Công nghiệp Việt nam, Bộ thương mại vẫn là cơ quan hỗ trợ các hoạt động liên quan đến xây dựng cơ sở vật chất, nguồn nhân lực cho các hoạt động xúc tiến thương mại. Trên cơ sở các chủ trương đề ra, ngoài việc các tổ chức và các ban ngành có liên quan tiến hành thực hiện vẫn cần phải đạt được một sự nhận thức thống nhất trong toàn xã hội đặc biệt trong các cấp chính quyền và cộng đồng doanh nghiệp về công tác xúc tiến thương mại. Doanh nghiệp chứ không phải chính phủ kinh doanh và xúc tiến thương mại trước hết là để phục vụ cho công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Công tác xúc tiến xuất khẩu là hoạt động phục vụ trực tiếp cho chính các doanh nghiệp vì vậy cộng đồng các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu phải hoạt động một cách nhịp nhàng, thông suốt. Sự phối hợp và tác động lẫn nhau giữa các chủ thể này sẽ quyết định hiệu quả cuối cùng của công tác xúc tiến thương mại nói chung và công tác xúc tiến xuất khẩu nói riêng. II. Giải pháp đẩy mạnh công tác XTTM nói chung và đặc biệt XTXK nói riêng của Việt Nam đến năm 2010. 1. Giải pháp về chính sách của nhà nước: Với vai trò quản lý về XTTM, về phía nhà nước các giải pháp đẩy mạnh hoạt động XTTM và XTXK chủ yếu là các giải pháp đẩy mạnh quản lý nhà nước về các hoạt động này, bao gồm các giải pháp sau: a/ Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp quản lý hoạt động XTTM và XTXK. Việc hoàn thiện môi trường luật pháp cho các hoạt động XTTM và XTXK là công cụ phải được ưu tiên hàng đầu trong quá trình đổi mới. Điều này xuất phát từ những lý do sau: Sự khiếm khuyết của hệ thống luật pháp liên quan đến XTTM hiện nay đã và đang gây khó khăn và trở ngại cho hoạt động XTTM và công tác quản lý nhà nước về XTTM; Hoạt động XTTM nói chung và XTXK nói riêng chỉ có thể phát triển trong môi trường kinh doanh thuận lợi và thông thoáng; Luật pháp càng đầy đủ, rõ ràng và cụ thể thì càng thuận lợi trong việc phát huy các nguồn lực và vai trò của các tổ chức xã hội và doanh nghiệp trong quản lý nhà nước về XTTM. Việc hoàn thiện hệ thống pháp quy quản lý nhà nước về XTTM cần phải được thực hiện trước hết theo hướng tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng và cạnh tranh bình đẳng cho các hoạt động XTTM ở tất cả các cấp. XTTM là hoạt động thường xuyên không thể thiếu của tất cả các doanh nghiệp và do doanh nghiệp tự tiến hành là chủ yếu với sự hỗ trợ của các tổ chức hỗ trợ thương mại trong đó có các tổ chức của nhà nước. Do nguồn lực của nhà nước có hạn và nhà nước không thể làm thay hoạt động XTTM cho các doanh nghiệp, cho nên việc tạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động XTTM là hết sức quan trọng để góp phần phát triển bền vững các hoạt động XTTM ở nước ta. b/ Tăng cường phổ biến pháp luật và giám sát, kiểm tra và thanh tra các hoạt động XTTM. Bộ Thương mại là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực HCTL thương mại, khuyến mại. Bộ Văn hoá -Thông tin là cơ quan quản lý nhà nước về các hoạt động thông tin và quảng cáo thương mại. Do vậy, việc phổ biến pháp luật và tổ chức giám sát, kiểm tra và thanh tra trong lĩnh vực XTTM là trách nhiệm của Bộ này. Việc phổ biến pháp luật có thể tiến hành thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông qua các lớp tập huấn. Các lớp tập huấn này có thể do các bộ liên quan tự tổ chức hoặc phối hợp với các tổ chức hỗ trợ thương mại đồng tổ chức. Nguồn kinh phí cho việc phổ biến luật pháp có thể từ ngân sách nhà nước hoặc từ nguồn của các tổ chức hỗ trợ thương mại do doanh nghiệp đóng góp. c/ Phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và hướng dẫn của các tổ chức XTTM nhà nước trong một mạng lưới XTTM có hiệu quả. XTTM là một lĩnh vực rất rộng và được thực hiện ở nhiều cấp và bởi nhiều tổ chức khác nhau. Để khắc phục tình trạng đông nhưng không mạnh do thiếu phối hợp trong hoạt động giữa các tổ chức XTTM và hỗ trợ thương mại, nhất thiết cần phải hình thành một mạng lưới XTTM hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường hiện nay một cơ chế cứng nhắc phân công rõ ràng bằng biện pháp hành chính chức năng và nhiệm vụ của các tổ chức này như trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung là không phù hợp. Một mạng lưới XTTM phù hợp hiện nay phải là một mạng lưới tự nguyện đối với tất cả các tổ chức tham gia. Mạng lưới này sẽ hoạt động theo cơ chế vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển và do một uỷ ban quốc gia về phát triển thương mại quốc tế lãnh đạo. d/ Đào tạo nâng cao năng lực XTTM và quản lý nhà nước về XTTM Hiện nay, hầu hết các tổ chức XTTM và các doanh nghiệp không có chiến lược hoặc kế hoạch XTTM vì đơn giản là họ không hiểu đầy đủ về XTTM , thiếu hiểu biết về thị trường, thiếu kỹ năng thu thập và phân tích thông tin thị trường, thiếu kỹ năng lập, tổ chức và quản lý thực hiện kế hoạch XTTM v.v. Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng có việc tổ chức nào cũng làm trong khi đó có việc cung không đáp ứng được cầu là do thiếu năng lực tiến hành những việc đòi hỏi nhiều chất xám và trình độ chuyên môn cao. Tình trạng này cũng chính là những nguyên nhân dẫn đến sự thiếu phối hợp và hợp tác giữa các tổ chức hỗ trợ thương mại trong hoạt động XTTM. Chính vì vậy, Cục XTTM với chức năng đào tạo nâng cao năng lực XTTM là đầu mối phối hợp với các tổ chức hỗ trợ thương mại, huy động các nguồn lực trong nước và quốc tế để tổ chức đào tạo về XTTM. Trước hết trong mấy năm tới Cục cần tranh thủ sự hỗ trợ của Dự án VIE/98/021 để một mặt vừa đào tạo trực tiếp cho các doanh nghiệp nhằm đáp ứng những nhu cầu cấp thiết trước mắt, mặt khác đào tạo các chuyên gia để sau này có thể đào tạo những người khác. Về lâu dài, nguồn kinh phí cần thiết phải kết hợp cả nguồn từ ngân sách nhà nước, nguồn hỗ trợ quốc tế và nguồn đóng góp của các doanh nghiệp. e/ Phát huy nguồn lực và vai trò của các tổ chức phi chính phủ và doanh nghiệp trong việc quản lý nhà nước về XTTM Đối với nước ta hiện nay, các hiệp hội kinh doanh có thể góp phần ngày càng lớn trong việc xây dựng, chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn thực hiện các chính sách, luật pháp, quy hoạch, kế hoạch, phát triển kinh tế thương mại, XTTM nói chung và XTXK nói riêng, nhất là trong lĩnh vực chuyên ngành của họ. Các tổ chức này có thể là đầu mối liên kết và phối hợp các hoạt động XTTM. Các hội sản xuất kinh doanh có thể tiến hành các hoạt động đào tạo nâng cao năng lực XTTM cho các doanh nghiệp trong ngành mình, nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ trong các hoạt động XTTM thuộc lĩnh vực của mình. Đồng thời họ cũng có thể hỗ trợ đắc lực cho các cơ quan quản lý nhà nước trong việc ngăn chặn những vi phạm pháp luật, cạnh tranh không lành mạnh hoặc sự lộn xộn trong việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại và tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động XTTM. Thậm chí các tổ chức này có thể là nơi giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thương mại và trong hoạt động XTTM mà không cần đến sự can thiệp của các cơ quan nhà nước. Phát huy vai trò của các tổ chức phi chính phủ trong quản lý xã hội là điều thiết yếu vì các tổ chức này thường mang tính tự nguyện. Những quy định của những tổ chức này thường dựa trên cơ sở thoả thuận tự nguyện nên một khi được thông qua nó có thể được các thành viên chấp nhận một cách thoải mái hơn là bằng những quyết định hành chính của nhà nước. Nếu chúng ta có những biện pháp và chính sách thích hợp để hỗ trợ cho các tổ chức này phát triển thì lâu dài họ có thể trở thành những trợ thủ đắc lực của các cơ quan nhà nước trong quản lý và điều hành xã hội góp phần làm cho công tác quản lý xã hội đạt hiệu quả cao và đỡ gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Những chính sách và biện pháp có thể áp dụng trước hết phải bao gồm các chính sách khuyến khích và đề cao vai trò của các hiệp hội quần chúng trong quản lý nhà nước, biện pháp hỗ trợ tài chính ban đầu và các biện pháp đào tạo nâng cao năng lực. f/ Đổi mới hỗ trợ tài chính cho công tác XTTM và XTXK Việc hỗ trợ kinh phí cho hoạt động XTXK trực tiếp cho các doanh nghiệp từ quỹ hỗ trợ xuất khẩu theo quy định của thông tư 61 Bộ Tài chính ban hành tháng 8 năm 2001 thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với hoạt động XTXK. Điều này đã tạo chủ trương cho các doanh nghiệp trong công tác XTXK. Các doanh nghiệp có thể tự mình tiến hành các hoạt động XTXK hoặc thuê dịch vụ XTXK mà họ cần từ các tổ chức XTTM, góp phần thúc đẩy thị trường dịch vụ XTTM phát triển. Ngoài ra nhà nước cũng cần phải tăng và ổn định nguồn kinh phí XTXK để các tổ chức XTTM (bao gồm các tổ chức XTTM của chính phủ và các tổ chức xã hội nghề nghiệp) tiến hành một số hoạt động XTTM phục vụ cho cả cộng đồng doanh nghiệp và nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có kim ngạch nhưng có tiềm năng xuất khẩu. Việc cấp kinh phí cho các tổ chức XTTM của nhà nước phải dựa trên các chương trình hoạt động cụ thể, trong đó tập trung vào thực hiện các hoạt động XTTM ở tầm quốc gia, phục vụ chung cho cả cộng đồng doanh nghiệp và đặc biệt là các hoạt động XTTM mà bản thân các doanh nghiệp không tự làm được hoặc làm không có hiệu quả bằng nhà nước. Các hoạt động đó có thể là cung cấp thông tin về thị trường quốc tế, nhất là các thông tin nguồn và có tính dự báo, các hoạt động xúc tiến xây dựng hình ảnh quốc gia, mở các trung tâm giới thiệu sản phẩm xuất khẩu của cả nước ở nước ngoài, các hoạt động XTTM phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hoạt động đào tạo nâng cao năng lực XTTM và quản lý nhà nước về XTTM v.v. Các chương trình và dự án XTTM mà Hội đồng phát triển thương mại quốc gia thông qua hàng năm là một căn cứ quan trọng để nhà nước phân bổ nguồn kinh phí hỗ trợ XTTM. g/ ứng dụng khoa học và công nghệ trong quản lý về XTTM Khoa học và công nghệ thông tin có thể góp phần nâng cao hiệu quả XTTM và quản lý nhà nước về XTTM. Nó có thể tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường trao đổi thông tin thương mại và phối hợp các hoạt động XTTM. Công nghệ thông tin cũng có thể được áp dụng trong quản lý nhà nước về XTTM. Việc đăng ký và xét duyệt kế hoạch tổ chức HCTL, đăng ký, xin và cấp giấy phép cho các hoạt động khuyến mại, xin và cấp giấy phép quảng cáo v.v. cũng có thể được thực hiện thông qua mạng thông tin máy tính để tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho cả các cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp. 2. Các giải pháp ở góc độ doanh nghiệp: Để nâng cao sức cạnh tranh, đạt hiệu quả cao hơn trong sản xuất kinh doanh xuất khẩu hàng hoá, các doanh nghiệp nước ta cần rất nhiều việc phải làm, cần có những nỗ lực cố gắng thường xuyên. Tuy nhiên đối với từng ngành hàng doanh nghiệp cần có những chính sách và giải pháp phù hợp. Sau đây là một số khía cạnh cơ bản mà các doanh nghiệp cần phải làm tốt. 2.1. Lập kế hoạch xúc tiến xuất khẩu đối với từng ngành hàng 2.1.1 Tăng cường đầu tư nguồn lực cho việc điều tra, nghiên cứu thị trường xuất khẩu đặc biệt là các thị trường mục tiêu để có kế hoạch tiếp thị xuất khẩu cho ngành hàng: Trước hết, các doanh nghiệp cần tiến hành phân tích kỹ càng môi trường vĩ mô nền kinh tế về các mặt cơ bản: Các chính sách ưu tiên xuất khẩu của chính phủ, các mặt hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu, xuất nhập khẩu có điều kiện, các mặt hàng khuyến khích xuất khẩu, tình trạng phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp với nhau cũng như với các cơ quan chức năng hỗ trợ xuất khẩu, các điều kiện về nguồn lực và công nghệ... Thực hiện phân tích nội lực của doanh nghiệp, phải biết điểm mạnh điểm yếu của mình, vị thế hiện tại, tiềm lực tài chính, nguồn nhân lực, khả năng sản xuất... để có hướng khắc phục hạn chế, phát huy lợi thế hiện tại và tiềm năng. Những nhân tố này có tác động quyết định trong cạnh tranh cũng như trong việc đề ra các chính sách và biện pháp hỗ trợ cho ngành hàng của mình 2.1.2 Tăng cường đầu tư nguồn lực nghiên cứu thị trường quốc tế và tìm hiểu những điều kiện tiếp cận thị trường cho ngành hàng: Đây là hoạt động tiên quyết đầu tiên đối với bất kì doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường quốc tế. Đó là quá trình điều tra, khảo sát để tìm khả năng tiêu thụ đối với một hoặc một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó nhằm thực hiện phương châm “Chỉ bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái sẵn có”. Công tác nghiên cứu tiếp cận thị trường xuất khẩu phải chỉ ra: -Thị trường nào có triển vọng đối với sản phẩm (hiện tại hoặc tương lai) doanh nghiệp -Dung lượng thị trường là bao nhiêu, cơ cấu ra sao. -Những yêu cầu đối với sản phẩm doanh nghiệp về chất lượng giá cả, mẫu mã, độ an toàn..., cần sản xuất hoặc có những thay đổi thích ứng gì đối với đòi hỏi của thị trường -Cần sử dụng phương tiện quảng cáo nào và phương pháp xúc tiến nào? -Chọn phương pháp bán nào là phù hợp . 2.1.3. Cần làm tốt công tác thu mua trong nước tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, từ đó có các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu ngành hàng: Các doanh nghiệp phải có hệ thống chân hàng mạnh, hệ thống đại lí thu mua rộng khắp, hoạt động thường xuyên theo sát thị trường. Trước hết doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kĩ nguồn hàng xuất khẩu và khả năng cung cấp của thị trường thực tế, tiềm năng và giá cả trong nước so với giá cả quốc tế và chính sách quản lí nhà nước về mặt hàng đó. Sau đó doanh nghiệp xây dựng một hệ thống thu mua phải gắn với các phương án vận chuyển hàng hoá và với điều kiện giao thông của các địa phương. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa thu mua và vận chuyển là cơ sở để đảm bảo tiến độ thu mua và chất lượng hàng hóa. Tuỳ theo đặc điểm sinh lí hóa của mặt hàng mà có phương thức vận chuyển hợp lí. Ví dụ đối với các mặt hàng thuỷ sản cần vận chuyển đến ngay kho chế biến hoặc kho bảo ôn. Doanh nghiệp cũng cần phải đặc biệt lưu ý đến việc tổ chức đầu tư và hướng dẫn kĩ thuật thu mua, phân loại bảo quản hàng hóa cho các chân hàng. Đầu tư cho người sản xuất là việc làm chắc chắn, lâu dài để đảm bảo nguồn hàng ổn định trước sự cạnh tranh mua trên thị trường. Hướng dẫn kĩ thuật cho người đại lí mua cho người sản xuất là việc làm mang lại hiệu quả cao. Hướng dẫn kĩ thuật nhằm đảm bảo ra sản phẩm hàng hóa phù hợp về mẫu mã, kiểu cách kích cỡ theo yêu cầu đề ra. Để hạn chế rủi ro trong thu mua hàng hóa xuất khẩu doanh nghiệp nên lựa chọn và sử dụng linh hoạt nhiều kênh thu mua, kết hợp nhiều hình thức thu mua và tiến hành kí kết và thực hiện nhiều hợp đồng thu mua. Bên cạnh đó doanh nghiệp nên tăng cường đầu tư cho công tác bảo quản, sơ chế, phân loại nhằm tạo ra hàng hóa đầy đủ tiêu chuẩn cần thiết cho xuất khẩu và tăng giá trị trong hàng xuất khẩu. 2.2 Các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu Trên cơ sở kế hoạch xúc tiến xuất khẩu đã đề ra, các doanh nghiệp cần tiến hành các dịch vụ hỗ trợ hoạt động xuất khẩu như sau: a) Hoạt động thông tin thương mại, tình báo kinh doanh kết hợp chặt chẽ với hoạt động nghiên cứu thị trường Khi một công ty đã sẵn sàng xuất khẩu thì thông tin thương mại được cung cấp chủ yếu nhằm giúp các công ty có sự đánh giá về quyết định lựa chọn thị trường. Bước đầu tiên trong việc lựa chọn thị trường là nghiên cứu trên cơ sở các dữ liệu đã có ở trong nước. Nghiên cứu về thị trường rất tốn kém, vì vậy dựa trên các dữ liệu đã có sẽ rút ngắn được tiến trình thực hiện. Đối với một công ty quá trình chọn lựa thị trường bao gồm các yếu tố như: -Thông tin chung về các nước -Khảo sát đánh giá nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm của ngành tại các thị trường mục tiêu dự kiến xâm nhập trong đó nhấn mạnh các nội dung như: giá, số lượng, chất lượng, mức độ tăng trưởng, các kênh xúc tiến phân phối sản phẩm, v.v. -Tìm kiếm thông tin phục vụ kinh doanh ví dụ như về những thay đổi nhu cầu sản phẩm, đặc tính cạnh tranh, v.v. -Môi trường pháp luật của thị trường dự định xâm nhập... Tiếp cận Internet và các trang Web trên thế giới cũng giúp cho việc nghiên cứu dựa trên các dữ liệu có sẵn vì trên các trang Web, có thể tìm thấy những thông tin chung về kinh tế cơ bản, nhân khẩu, các điều kiện kinh doanh trên thị trường. Thăm dò qua Yahoo có thể thường xuyên tìm được thông tin có lợi từ các tạp chí xuất bản định kỳ hoặc qua các thư viện mạng. b) Xây dựng chiến lược sản phẩm thích hợp thích nghi với từng ngành hàng nhất định: Trên cơ sở của kết quả hoạt động tình báo kinh doanh và nghiên cứu thị trường lựa chọn mặt hàng phù hợp, doanh nghiệp đưa ra chiến lược phát triển sản phẩm thích hợp. -Về giá cả, không nhất thiết hàng hoá phải bán với giá cao mới nhiều lợi nhuận hay bán hạ giá để cạnh tranh tốt mà phải là giá chấp nhận được. Xuất phát từ mục tiêu của doanh nghiệp, giai đoạn sản phẩm và điều kiện thực tế của thị trường để có chiến lược giá cả phù hợp, gắn với chất lượng sản phẩm và cạnh tranh. Về chất lượng sản phẩm không nhất thiết phải là chất lượng cao mới tốt mà phải là chất lượng tối ưu. Chất lượng sản phẩm không phải đạt được bằng mọi giá mà cần phải thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng về khía cạnh như công dụng chức năng, những yêu cầu về văn hoá, chi phí thời gian... Bên cạnh đó doanh nghiệp có thể thống nhất hoặc đa dạng hoá các cấp chất lượng phù hợp với từng đối tượng khách hàng và từng thị trường khác nhau - Ngoài việc cần phải hoạt động theo nguyên tắc thị trường các doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh rõ ràng đồng thời cần phải nhanh chóng áp dụng mô hình quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế như TQM, ISO 9000, ISO 9002... để tối ưu hoá hoạt động của doanh nghiệp, ứng dụng hệ thống HACCP để nâng cao chất lượng vệ sinh thực phẩm, đặc biệt đối với hàng thực phẩm xuất vào thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản. -Các doanh nghiệp cần quan tâm đầu tư nhiều hơn cho công tác thiết kế sản phẩm theo yêu cầu và đòi hỏi của thị trường. Hiện nay ở nước ta đây là khâu rất yếu, nhiều sản phẩm không phải ta không thiết kế được mà chúng ta thiếu sự quan tâm đúng mức. Cần đầu tư nhiều hơn nữa cho việc đa dạng hoá sản phẩm về mẫu mã, chủng loại, kích thước... tạo ra những sản phẩm có tính năng và tác dụng mới, có ưu thế trong cạnh tranh và có sức hấp dẫn hơn đối với khách hàng -Việc đầu tư đổi mới công nghệ có hiệu quả tránh đầu tư tràn lan, chú trọng chuyển giao công nghệ tiên tiến hiện đại, công nghệ nguồn là yếu tố quan trọng giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh. Các doanh nghiệp có thể đầu tư đổi mới đồng bộ dứt điểm từng dây chuyền công nghệ hoặc những khâu then chốt nhất. Quyết định đầu tư phải có chọn lọc trên cơ sở nghiên cứu cân nhắc kĩ lưỡng điều kiện thực tế trong và ngoài doanh nghiệp đảm bảo tính hiệu quả của đầu tư. Đầu tư công nghệ mới phải đi đôi với quá trình tổ chức lại sản xuất và quản lí; đặc biệt là phải chuẩn bị đội ngũ cán bộ kĩ thuật và đào tạo công nhân lành nghề để vận hành và sử dụng công nghệ có hiệu quả đạt mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. -Nên ứng dụng công nghệ mã số mã vạch vào hoạt động của doanh nghiệp. Từ năm 1990 rất nhiều nước yêu cầu sản phẩm phải có mã số mã vạch mới được nhập khẩu nếu không có không bán được hàng hoặc phải thuê gia công, vừa tốn kém vừa phức tạp dễ dẫn đến mất thị trường. -Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp cần phải phát huy khả năng sáng tạo của tất cả các thành viên thực hiện cải tiến nhỏ theo phương trâm mọi nơi mọi lúc và mọi người -Cuối cùng các doanh nghiệp cần phối hợp chiến lược sản phẩm của mình với các định hướng, chính sách của các cơ quan quản lí nhà nước về khuyến khích xuất khẩu sản phẩm chế biến sâu để đạt chất lượng cao. c) Hoạt động tài chính Xúc tiến đầu tư trong các ngành hàng xuất khẩu kể cả đầu tư trực tiếp nước ngoài hướng về xuất khẩu Cung cấp tài chính cho đầu tư hướng về xuất khẩu Vốn lưu động cho ngành hàng xuất khẩu Các quỹ bảo hiểm tín dụng hàng xuất khẩu Khuyến khích tài chính d) Xúc tiến và phân phối xuất khẩu Tìm kiếm bạn hàng phù hợp thông qua các kênh trong nước và các đại diện thương mại ở nước ngoài mà cụ thể là thông qua các hội chợ thương mại và các phái đoàn thương mại. Việc tổ chức một gian hàng quốc gia hoặc khu vực tại một hội chợ thương mại là cách chi phí có hiệu quả để giới thiệu những sản phẩm mới cũng như mở rộng thị phần cho những mặt hàng sẵn có đã tạo được chỗ đứng trong thị trường. Một phái đoàn thương mại ở nước ngoài còn có ý nghĩa giới thiệu một công ty và các sản phẩm của nó tới một thị trường mới. -Hội chợ thương mại: Việc đặt một gian hàng tại một hội chợ thương mại có uy tín, hướng tới người mua hàng, không phải chung chung mà là một cơ hội tốt để bứt lên mở rộng thị phần của một công ty trong thị trường xuất khẩu. Đây có thể xem là cách tốt nhất để thiết lập các đại lý và các đối tác nhập khẩu. Một hội chợ thương mại có danh tiếng vào bậc nhất sẽ hấp dẫn các hãng nổi tiếng, những đối tác mua hàng tiềm năng. Hơn nữa việc tham dự vào một hội chợ, tìm kiếm những thông tin mới, thiết lập các liên kết kinh doanh mới và củng cố các quan hệ kinh doanh cũ. -Các phái đoàn thương mại: đây là một biện pháp truyền thống đặc biệt đối với việc đưa các hàng xuất khẩu mới ra thị trường mới. Loại tổ chức này phụ thuộc vào quy mô và mức độ để tạo nên một sự tác động. Đặc biệt phái đoàn thương mại do Bộ trưởng thương mại dẫn đầu, thực hiện thu hút và quảng cáo trên thị trường thông qua các hội nghị bộ trưởng và các hội nghị báo chí... Mục đích của nó là tăng lợi nhuận cho quốc gia và sử dụng các biện pháp quảng cáo có thể thu hút các đối tác kinh doanh cho các công ty tham gia vào các phái đoàn. Đây là loại tổ chức phổ biến, thành viên tham gia có thể thuộc các thành phần kinh tế, mục tiêu đặt ra là hướng tới các thị trường mới, nơi cần phải hoàn thành công việc mở đường. Cơ hội kinh doanh thương mại điện tử Một trong những phương thức kinh doanh hiện đại là kinh doanh qua mạng internet. Thương mại điện tử tuy mới nhưng đã có bước phát triển vượt bậc và có tiền năng rất lớn. Lợi ích của nó đối với việc xuất khẩu hàng hóa là hết sức to lớn, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tăng cường tiếp cận một cách hợp lí tạo ra môi trường kinh doanh thực sự từng bước hội nhập với thương mại điện tử thế giới. Tác động của trang Web lên hoạt động thúc đẩy mua bán xuất khẩu vô cùng quan trọng. Nó làm lu mờ sự phân biệt giữa mua bán trong và ngoài nước, giữa sự thúc đẩy buôn bán nội địa và nước ngoài. Mỗi công ty lập cho mình một trang chủ riêng mà bất cứ người nào trên thế giới khi truy cập Internet đều có thể đến thăm trang Web của nó và nếu việc đặt hàng đựơc đăng ký thì các sản phẩm của công ty đó có thể được xuất khẩu tới khách hàng ở bất cứ quốc gia nào. Tuy nhiên trước khi doanh nghiệp chuẩn bị trang Web để tham gia buôn bán trên mạng thì doanh nghiệp phải chuẩn bị kĩ càng mọi điều kiện để tham gia một thị trường lớn như về vấn đề tài chính, ngân sách doanh nghiệp... nhất là phải chuẩn bị làm việc trong môi trường tiếng Anh là chủ yếu, nhanh chóng làm quen với các dịch vụ internet trong hoạt động của mình nhằm khai thác thông tin và đưa thông tin của mình lên mạng và ra thị trường. Ngoài ra doanh nghiệp cần phải quan tâm chú ý nâng cao khả năng giao dịch, đàm phán với doanh nhân nước ngoài, đặc biệt là khả năng ngoại ngữ Anh, Mỹ. Các phương tiện xúc tiến (catalogue, mẫu mã...) -Bao bì của hàng tiêu dùng phải được đặt ra sớm. Bao bì hàng hoá sử dụng ở thị trường nội địa có thể không hoàn toàn được chấp nhận ở một thị trường xuất khẩu nào đó. Xét ở một quy mô lớn tính hấp dẫn của một sản phẩm đối với khách hàng phụ thuộc vào hình thức thu hút của bao bì. Những yếu tố phải xem xét của bao bì gồm có: màu sắc, thiết kế, nhãn hàng, vật liệu bao bì và những yêu cầu về nhãn hiệu đối với sản phẩm ở một thị trường nhất định. Bao bì đẹp: làm cho hàng hoá tiêu thụ nhanh. Theo thống kê của nước ngoài hàng có bao bì đẹp bán chạy hơn hàng ấy có bao bì bình thường là 45%, và khoảng 65% khách hàng thích bao bì đẹp. Việc trưng bày đẹp và hợp lí cũng hấp dẫn đối với khách hàng và hàng bán chạy hơn như sử dụng đèn mầu và gương. Hoạt động quảng cáo, tiếp thị sản phẩm Quảng cáo là một hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng kinh doanh, đặc biệt là xuất khẩu. Một học giả người Mỹ đã từng nói “ kinh doanh mà không quảng cáo giống như nháy mắt với người yêu trong bóng tối”. Do đó, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh công tác quảng cáo sao cho có hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tế của mình, doanh nghiệp nên có bộ phận chuyên trách tổ chức lập và thực hiện kế hoạch quảng cáo. Doanh nghiệp cũng nên phối hợp với các cơ quan hữu trách của chính phủ và hệ thống Việt Kiều ở nước ngoài trong quảng cáo, XTTM. Quảng cáo nhằm tuyên truyền giới thiệu về hàng hoá dịch vụ và nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng tiềm năng, gây sự thích thú đối với hàng hoá của mình và cuối cùng để họ trở thành khách hàng thực tế của mình. Điều này đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp tuỳ theo điều kiện cụ thể mà tiến hành cho hợp lý. Quảng cáo ban đầu nhằm giới thiệu về chất lượng, chức năng, công dụng,... thuyết phục người tiêu dùng về lợi ích và sự cần thiết của sản phẩm. Quảng cáo cạnh tranh để đề cao sản phẩm so với mặt hàng tương tự khác nhằm thuyết phục người tiêu dùng mua sản phẩm. Quảng cáo củng cố để khách hàng tiếp tục mua hàng của doanh nghiệp. Nội dung quảng cáo của doanh nghiệp phải đầy đủ, ngắn gọn, dễ nhớ, hình thức phải sáng tạo, ấn tượng, gây sức hút đối với đối tượng quảng cáo. Để đạt hiệu quả cao các doanh nghiệp có thể sử dụng đa dạng, linh hoạt, kết hợp với các phương tiện và hình thức quảng cáo khác nhau. Hiện nay việc lập các trang Web của từng doanh nghiệp, của từng ngàng hàng xuất khẩu là một phương thức hiệu quả để tiến hành quảng cáo và xúc tiến bán hàng. Đổi mới phương thức xuất khẩu Việc xuất khẩu hàng hoá nên tiến hành nhanh gọn, đúng hợp đồng về thời gian số lượng và chất lượng hàng hoá đảm bảo uy tín trong kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp nên tham khảo các phương pháp bán hàng chính mà nhiều thương gia nước ngoài khác áp dụng: -Tháp tùng khách hàng khi khách hàng bước chân vào cửa hàng là có 1-2 người đón tiếp niềm nở và đi theo khách hàng để hướng dẫn nơi để hàng mà khách hàng yêu cầu, giới thiệu hàng và sau đó giúp khách hàng chọn hàng, làm thủ tục mua bán cho khách hàng, khách hàng sẽ cảm thấy vui vẻ và tiện lợi. -Làm mẫu cách sử dụng: khách hàng luôn thích thú với cách làm mẫu sinh động qua đó họ biết cách sử dụng tiện lợi và hứng thú được tăng lên. -Mua bán với tính chất gia đình: Một số mặt hàng việc sử dụng hoặc dùng thử gây phiền hà, phức tạp, với việc mời khách hàng vào nhà mua bán trong không khí gia đình thân mật khiến khách hàng cảm thấy tự nhiên thoải mái và việc mua bán diễn ra thuận lợi hơn. -Bán hàng trực tiếp đến người tiêu dùng: loại hình này không phải qua một khâu trung gian nào, nhà hàng chuyển hàng đến tận tay người tiêu dùng. Bằng hình thức mua qua thư tín, điện thoại định giờ giao nhận hàng và thanh toán, nhà hàng đảm bảo đến tận nhà cho khách hàng - Bên cạnh đó doanh nghiệp cần đẩy mạnh dịch vụ sau bán hàng như vận chuyển, lắp đặt, bảo dưỡng... điều này cho phép khắc phục đáng kể những khiếm khuyết của sản phẩm. Trên thị trường vẫn tồn tại phân đoạn người tiêu dùng chấp nhận mua sản phẩm với các thông số kĩ thuật thấp hơn hoặc với giá cao hơn nếu họ nhận được dịch vụ hậu mãi hoàn hảo. Hơn nữa đây là một công cụ hiệu quả tăng uy tín và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp e) Tăng cường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp Đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nâng cao kĩ năng tay nghề và những kiến thức về quản lí chất lượng sản phẩm là khâu có ý nghĩa quan trọng quyết định đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là tiền đề cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. Do đó cần có chương trình đào tạo cụ thể, chất lượng, phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực lành nghề. Đào tạo nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho từng cán bộ quản lí đến các công nhân lao động trực tiếp, phổ biến các kiến thức liên quan đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, hệ thống quản lí chất lượng đặc biệt cần phải chú trọng đào tạo, nâng cao kĩ năng nghiệp vụ của đội ngũ nghiên cứu thị trường, bán hàng, quảng cáo, xúc tiến thương mại... từ đó nâng cao chất lượng, tạo ra đội ngũ lao động có khả năng thích ứng với môi trường kinh doanh sôi động và khắc nghiệt. Ngoài ra cần có những hỗ trợ về thể chế cho mạng lưới cán bộ đào tạo để đảm bảo tính bền vững về mặt nhân lực. f) Thường xuyên phân tích hoạt động kinh doanh xuất khẩu để có biện pháp điều chỉnh kịp thời: Phân tích, đánh giá thường xuyên kết quả hoạt động kinh doanh là việc làm quan trọng để nhận biết, thích ứng với các thay đổi trong môi trường kinh doanh. Các doanh nghiệp nên tiến hành phân tích theo một số chỉ tiêu cơ bản sau: + Tình hình xuất nhập khẩu theo tổng lượng danh mục mặt hàng, theo các phương thức xuất nhập khẩu + Tình hình chi phí lưu thông theo tổng chi, các khoản mục chi phí lưu thông trong và ngoài nước, tỉ lệ chi phí, mức lợi nhuận trên chi phí lưu thông + Kế hoạch lợi nhuận về tổng lợi nhuận kế hoạch so với thực hiện, tỷ suất lợi nhuận bình quân + Tình hình tài chính, tình hình dự trữ, các nguồn vốn, tình hình công nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp + Hiệu quả sử dụng vốn, mức doanh thu, lợi nhuận trên một đồng vốn lưu động bình quân, số vòng lưu chuyển vốn lưu động, số vốn lưu động tiết kiệm được.Từ kết quả phân tích trên doanh nghiệp tìm ra những hạn chế, tồn tại, những nguyên nhân để có hướng khắc phục. Bên cạnh đó, nên chú ý tới bảo hiểm hàng hoá, đặc biệt là bảo hiểm rủi ro khi xuất sang thị trường hay kiện cáo như Mỹ. Kiến nghị - Đề xuất Từ việc nghiên cứu các hoạt động XTTM nói chung và XTXK nói riêng ở Việt Nam có thể nhận thấy tầm quan trọng của rất nhiều yếu tố có thể được xem như những điều kiện để thực hiện các giải pháp XTTM và XTXK. Đó là: 1. Điều kiện về ổn định kinh tế và chính trị: Kinh tế và chính trị có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, kinh tế có thể phát triển nếu chính trị ổn định và ngược lại. Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là một phần quan trọng của nền kinh tế đất nước, do vậy nó có mối quan hệ chặt chẽ đến sự ổn định chính trị. Điều này khiến chúng ta trong khi thực hiện các hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu phải luôn chú ý đến việc ổn định tình hình chính trị của đất nước. Trong những năm gần đây, do định hướng sản xuất đúng đắn trong cơ cấu, kinh tế chính trị xã hội ổn định nên xuất khẩu hàng hoá Việt Nam đã tăng liên tục hàng năm ở mức khá. Thời kỳ 2002-2010, chỉ khi đảm bảo ổn định được kinh tế chính trị thì xuất khẩu Việt Nam mới có điều kiện tăng nhanh và ổn định, đạt hiệu quả cao hơn. Nước ta hiện được đánh giá là có môi trường kinh tế chính trị ổn định nhất Đông Nam á. Tuy nhiên vẫn cần tăng cường sự quản lý lãnh đạo thống nhất của Đảng và Nhà nước đồng thời chú trọng phát triển đồng bộ các thị trường và đẩy mạnh các mối quan hệ kinh tế quốc tế, đa dạng hoá, đa phương hoá bạn hàng, thị trường xuất khẩu. 2. Điều kiện về cải cách bộ máy quản lý: Quản lý nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá là một khâu hết sức quan trọng và cần thiết. Nó có tác dụng định hướng, thúc đẩy hay kìm hãm hoạt động xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu. Chính phủ Việt Nam là cơ quan có trách nhiệm và quyền hạn cao nhất trong công tác hành pháp. Bộ thương mại là cơ quan đại diện Chính phủ thực hiện chức năng thống nhất quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại nói chung và xuất khẩu hàng hoá nói riêng. Ngoài ra còn có một số các cơ quan Trung Ương và địa phương liên quan tham gia trực tiếp hay gián tiếp đến xuất khẩu. Do vậy, cải cách hành chính, tổ chức bộ máy và lề lối làm việc của bộ máy hành chính theo hướng tinh gọn, hiệu quả, đơn giản thủ tục hành chính là điều kiện không thể thiếu được trong đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá. 3. Điều kiện về xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp: Quản lý Nhà nước không thể bằng những mệnh lệnh chủ quan duy ý chí mà phải là một hệ thống luật pháp mạnh, đầy đủ hiệu quả và công bằng. Hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng hoá cũng cần được quản lý trong khuôn khổ luật pháp phù hợp. Luật thương mại, luật doanh nghiệp và một số văn bản dưới luật được ban hành trong thời gian qua đã phần nào khắc phục được tình trạng bất ổn trong các chủ trương chính sách liên quan đến xuất khẩu. Trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục tạo môi trường pháp lý có sự ổn dịnh dài hạn bằng hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện có để nâng cao hiệu quả của các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu. 4. Điều kiện về xây dựng và hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng: Mọi hoạt động kinh doanh sản xuất muốn phát triển ổn định đều cần phải có nền tảng cơ sở vững chắc. Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá phát triển có hiệu quả thì tất yếu cần phải có một hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng kinh tế kỹ thuật vững mạnh. Nhà nước cần đầu tư xây dựng và hoàn thiện hệ thống hiện có: Phát triển giao thông vận tải, bưu chính viễn thông... đặc biệt là thương mại điện tử, trước hết quan trọng là những trung tâm và cửa ngõ giao lưu với thế giới. Có như vậy mới mở rộng cơ hội phát triển mạnh mẽ hoạt động ngoại thương xuất nhập khẩu hàng hoá. 5. Điều kiện về đào tạo đội ngũ cán bộ: Bộ thương mại và các Bộ ngành liên quan phải tích cực bồi dưỡng, đào tạo cán bộ trong công tác quản lý điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá. Nâng cao trình độ đàm phán, ký kết thâm nhập thị trường của các nhà kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, đặc biệt là khả năng phân tích và dự báo chính xác thị trường, nhu cầu và giá cả. Mục đích chính là giảm đến mức tối thiểu những thiệt hại do thiếu hiểu biết, kinh nghiệm hay thiếu năng lực về thị trường thế giới. Như vây: Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế gia tăng, cạnh tranh kinh tế quyết liệt, chúng ta không những cần có chiến lược, kế hoạch tổng thể về phát triển xuất khẩu và mở rộng thị trường mà trong từng thời kỳ, trên cơ sở chiến lược và kế hoạch tổng thể đó, chúng ta xây dựng và triển khai các chương trình XTTM trọng điểm, tập trung nguồn lực theo từng thị trường, ngành hàng và hoạt động cụ thể, tránh dàn trải. Bên cạnh đó chính sách khuyến khích xuất khẩu nên hướng vào việc hỗ trợ ngay từ khi doanh nghiệp tìm hiểu, tiếp cận thị trường chứ không tập trung vào việc thưởng sau khi doanh nghiệp đã hoàn thành công việc xuất khẩu. Để có thể nâng cao hiệu quả trong hợp tác quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu chúng ta cần nắm vững các bài học sau: Phải xây dựng và duy trì các mối quan hệ tốt với các tổ chức XTTM nước ngoài để tranh thủ sự giúp đỡ về tài chính, kinh nghiệm, chuyên môn của mình Phải chủ động hợp tác và xây dựng các chương trình phối hợp trên cơ sở các bên cùng có lợi Kiến thức, trình độ và kinh nghiệm của các cán bộ làm công tác XTTM cần được chú trọng nâng cao, bao gồm các kiến thức kinh tế-chính trị-xã hội chung, kiến thức chuyên ngành, kỹ năng giao tiếp, đàm phán, trình độ ngoại ngữ. Đặc biệt, tình hình kinh tế chính trị-xã hội-ngoại giao thế giới biến động rất nhiều, do đó cán bộ của ta phải thường xuyên nắm bắt và cập nhật các thông tin mới nhất để có thể tận dụng tối đa cơ hội và giảm thiểu các nguy cơ và quán triệt đường lối chỉ đạo của Đảng và Chính phủ. Kết luận Trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, những cố gắng của Việt Nam trong con đường hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, đẩy mạnh xuất khẩu luôn là hướng đi đúng đắn nhằm thực hiện thành công tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Chính vì vậy, các hoạt động xúc tiến thương mại nói chung và xúc tiến xuất khẩu nói riêng có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội hiện tại và trong tương lai. Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước ta thời gian qua đã có nhiều chính sách và tiến hành nhiều biện pháp thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu hàng hoá và đã đem lại cho đất nước hàng chục tỷ USD. Tuy nhiên bối cảnh hội nhập với sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường quốc tế cũng đặt ra rất nhiều khó khăn đối với hoạt động xúc tiến thương mại nói chung hay xúc tiến xuất khẩu hàng hoá nói riêng.Xuất phát từ thực tế trên, đề tài này kiến nghị đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả của những hoạt động XTTM và đặc biệt XTXK trong giai đoạn 2002-2010, giai đoạn nước ta hội nhập sâu hơn vào các tổ chức kinh tế thương mại trên bình diện khu vực và quốc tế. Tin tưởng rằng cùng với nỗ lực của toàn Đảng, chính phủ và toàn dân, hoạt động XTTM nói chung và XTXK nói riêng sẽ đưa ngoại thương Việt Nam lên những đỉnh cao mới, một tầm cao mới ổn định hơn trong một vị thế sánh vai các cường quốc năm châu, đóng góp ngày càng lớn cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Do vấn đề thời gian, các số liệu thu thập ít ỏi, kinh nghiệm chưa nhiều, phạm vi đề tài rộng, khó, phức tạp cần sự quan tâm của nhiều người nên những thiếu sót trong khoá luận là không thể trách khỏi. Rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên quan tâm đến vấn đề này. Phụ lục Phụ lục 1: những giải pháp về tài chính bảo đảm việc thực hiện các cơ chế thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu năm 2002 và những năm tới - Bộ tài chính. Phụ lục 2: tham luận của ngân hàng nhà nước về những giải pháp đảm bảo việc thực nghiệm các cơ chế chính sách thúc đẩy xuất khẩu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van.doc
  • docBia va muc luc.doc
  • docTai lieu tham khao.doc
Tài liệu liên quan