Để thực hiện yêu cầu hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại, việc làm trước tiên của NHNo & PTNT Hà Tây nên tiến hành là đào lại đội ngũ cán bộ. Cần phải coi đây là một chiến lược quan trọng bởi con người chính là nhân tố quyết định của mọi thắng lợi. Khi có một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, tiếp thu được những kiến thức mới và những tinh hoa kinh nghiệm từ các ngân hàng hiện đại, ngân hàng sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại của mình.
Sự phát triển của ngành ngân hàng trong những năm tới đòi hỏi người cán bộ làm nghiệp vụ không những phải có trình độ chuyên môn vững vàng mà còn phải luôn luôn được trang bị và bổ sung những kiến thức mới, hiện đại. Nhiệm vụ của NHNo & PTNT Hà Tây là phải tiếp tục và tăng cường đào tạo về nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm kinh doanh đối ngoại của toàn hệ thống ngân hàng trong tỉnh. Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức các khóa tập huấn về nghiệp vụ như nghiệp vụ tín dụng quốc tế, thanh toán quốc tế, ngân hàng đại lý, kinh doanh ngoại tệ để giúp các cán bộ học tập và củng cố vững chắc hơn các nghiệp vụ đã có. Đối với các nghiệp vụ mới như ngoại hối giao sau, thanh toán thẻ điện tử, bao thanh toán tương đối, dịch vụ ngân hàng điện tử, việc áp dụng e-UCP ngân hàng cần mời các chuyên gia trong hoặc ngoài nước để giới thiệu và thuyết trình cặn kẽ quy trình xử lý nghiệp vụ và hiệuquả của các dịch vụ mới để các cán bộ làm nghiệp vụ có thể hiểu thấu được công việc và thực hiện một cách có hiệu quả nhất.
Không chỉ dừng ở việc trang bị kiến thức nghiệp vụ, còn cần phải khuyến khích các cán bộ làm công tác kinh doanh đối ngoại học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với các Ngân hàng khác, như Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam Trong điều kiện cho phép, Ngân hàng cũng nên gửi cán bộ của mình sang các ngân hàng bạn ở nước ngoài để học tập kinh nghiệm, trau dồi kiến thức nghiệp vụ mới, đồng thời tranh thủ thực hành các nghiệp vụ này dưới sự giúp đỡ của các đồng nghiệp nước ngoài để trở nên vững vàng hơn trong quá trình xử lý các công việc phát sinh.
Quá trình tin học hoá ngân hàng sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh doanh, song nếu người cán bộ không có khả năng sử dụng thành tựu của những công nghệ hiện đại thì sẽ không thể tạo điều kiện cho nghiệp vụ này phát triển mạnh mẽ. Vì vậy, để mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày nay, NHNo & PTNT Hà Tây còn phải trang bị cho các cán bộ kinh doanh đối ngoại đầy đủ các kiến thức tin học cần thiết áp dụng vào công việc nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Ngân hàng có thể tổ chức các lớp tập huấn, các buổi hội thảo về tin học ngân hàng để giúp cán bộ lĩnh hội được những ứng dụng tin học mới nhất trong các hoạt động thanh toán, chuyển tiền, thống kê, lưu trữ dữ liệu Việc trang bị các kiến thức tin học hiện đại sẽ giúp cho các cán bộ thực hiện nghiệp vụ trên máy tính được nhanh chóng, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh đối ngoại phát triển.
95 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1655 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu một số vấn đề về hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hà Tây góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hác theo thông lệ thương trường áp dụng, trong đó có cả các quyết sách kinh doanh chuyển đối tác, chuyển đổi thị trường và cũng có thể kết hợp cả việc chuyển đổi ngoại tệ theo các loại hình kinh doanh phù hợp. Tất cả đều nhằm vào mục đích bảo đảm an toàn vốn và sinh lợi cao hơn.
4.3 Một số hạn chế trong công tác quan hệ đại lý ngân hàng ở NHNo & PTNT Hà tây:
Thứ nhất, việc thiết lập quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài là yêu cầu không thể thiếu đối với bất cứ NHTM nào khi được phép thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế và các hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ quốc tế. Nhưng hiện nay, cũng như các ngân hàng khác trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam, diễn ra tình trạng đặt quan hệ đại lý dàn đều, số lượng quá yêu cầu cần thiết; thiếu sự chỉ đạo chung của NHNN về chính sách quan hệ ngân hàng đại lý; và giữa các ngân hàng trong hệ thống thiếu hẳn sự liên kết phối hợp với nhau để trao đổi thông tin kịp thời trong đánh giá tín nhiệm ngân hàng đại lý, nhằm ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra. Nhất là trong điều kiện hầu hết các NHTM Việt Nam đều chỉ có quan hệ đại lý tài khoản loại NOSTRO (tức là phía ta gửi vốn ngoại tệ ở nước ngoài), chứ hầu như chưa có việc ngân hàng đại lý nước ngoài thiết lập quan hệ tài khoản đại lý loại LORO.
Thứ hai, vấn đề quan hệ đại lý ngân hàng nước ngoài chưa được đặt ra một cách hợp lý giữa hội sở chính và các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố và khu vực. Với nguyên tắc chủ thể NHTM chỉ có một tài khoản ở một đại lý, các chi nhánh được quyền làm công tác thanh toán quốc tế được phép quan hệ thẳng với ngân hàng đại lý có Bicode riêng. Mặt khác, quan hệ kinh tế của từng địa phương với nước ngoài, các chi nhánh có thể thiết lập đại lý với các ngân hàng nước ngoài không mở tài khoản để rút ngắn thời gian thanh toán mà không phải đi đường vòng, song hiện nay điều này vẫn chưa được thực hiện trên thực tế.
Có thể nói, trong xu thế toàn cầu hoá, các nền kinh tế sẽ trở nên phụ thuộc vào nhau nhiều hơn, do vậy cần phải có sự liên kết, hợp tác giữa các nước. Mở rộng quan hệ đại lý ngân hàng không chỉ nhằm cải thiện những hoạt động gắn liền với quan hệ kinh tế đối ngoại của NHNo Hà tây, mà còn đóng góp rất nhiều vào quá trình hội nhập của Việt Nam với nền kinh tế thế giới.
5. Hoạt động khác
So với hệ thống các ngân hàng khác, như Ngân hàng Ngoại thương hay ngân hàng Công thương, các dịch vụ ngân hàng đối ngoại của hệ thống ngân hàng No và PTNT Việt Nam nói chung và chi nhánh tỉnh Hà Tây nói riêng còn khá nghèo nàn. Tuy nhiên, để có thể tồn tại và cạnh tranh được với các ngân hàng khác, ngân hàng đang nghiên cứu để sắp tới sẽ triển khai thêm dịch vụ thanh toán thẻ điện tử MasterCard. Dịch vụ thanh toán điện tử MasterCard là một loại dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Khi làm dịch vụ thanh toán này, NHNo&PTNT Hà Tây với tư cách là một hội viên của MasterCard, sẽ trở thành đại lý chấp nhận thẻ. Ngân hàng sẽ đặt các máy thanh toán thẻ (terminal) tại các khách sạn, nhà hàng hoặc những nơi có nhiều người, nhất là khách nước ngoài. Bằng cách này, NHNo & PTNT Hà Tây sẽ góp phần mở rộng và thúc đẩy nhanh quá trình sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam để dần dần hạn chế lượng tiền mặt trong lưu thông và tạo nhiều thuận lợi cho người sử dụng.
Ngoài ra, thông qua NHNo & PTNT Việt Nam, chi nhánh ngân hàng tỉnh Hà Tây sẽ hợp tác với một số ngân hàng của Mỹ để tiến hành làm dịch vụ thanh toán séc du lịch AMEX, Citi Corp và Thomas Cook, phục vụ nhu cầu thanh toán rút tiền mặt của khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam, tăng thu nhập cho Ngân hàng từ nguồn phí dịch vụ.
Để tăng cường hoạt động trợ giúp cho các nhà nhập khẩu Việt Nam, ngân hàng đang tiến hành nghiên cứu nghiệp vụ bao thu thanh toán tương đối (Factoring) và dự tính sẽ triển khai dịch vụ này trong thời gian tới đây. Bao thanh toán tương đối là một nghiệp vụ tín dụng quốc tế ngắn hạn. Theo đó, người xuất khẩu sau khi giao hàng cho người nhập khẩu sẽ mở cho người nhập khẩu một tài khoản mở (Open account) rồi chuyển tiền vào đó. Sau đó, người xuất khẩu sẽ phát hành một hối phiếu và người nhập khẩu sẽ chấp nhận hối phiếu đó. Khi thực hiện nghiệp vụ factoring, ngân hàng sẽ mua lại hối phiếu bằng cách chiết khấu hối phiếu và trả tiền cho người xuất khẩu hay nói cách khác, ngân hàng sẽ mua lại các khoản nợ thương mại từ người bán. Bằng nghiệp vụ này, ngân hàng có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt nam nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu trong việc thanh toán một cách nhanh chóng với các nhà xuất khẩu nước ngoài, đồng thời còn có thể trợ giúp về vốn cho các nhà xuất khẩu Việt Nam.
Trong tương lai, việc áp dụng những dịch vụ mới này không chỉ đem lại nguồn thu nhập lớn cho ngân hàng mà còn nhằm nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của NHNo & PTNT Hà Tây trong hệ thống các NHTM của đất nước. Hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới đã và đang được mở rộng, góp phần vào việc mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại nói riêng và toàn bộ hoạt động kinh doanh nói chung của NHNo & PTNT Việt Nam.
II. Một số vấn đề rút ra từ nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại của NHNo& PTNT Hà Tây
Lý do dẫn đến những thành công
Qua những phần nghiên cứu trên cho thấy, nhìn chung NHNo&PTNT Hà Tây đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực kinh doanh gắn liền với những hoạt động kinh tế đối ngoại. Tốc độ tăng trưởng ổn định cả về số tương đối và tuyệt đối thời gian qua đã nói lên điều đó. Là một ngân hàng vừa kinh doanh, vừa mang dáng dấp của ngân hàng chính sách nên trong hoạt động có nhiều khó khăn song vẫn phải đạt được cả hai mục đích đó. Trong những năm qua, NHNo và PTNT Hà tây đã kiên trì thực hiện yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh và đã đạt được mục tiêu lớn là:
Có nguồn vốn lớn
Có mạng lưới sâu rộng, chất lượng
Có nhiều dịch vụ phong phú, đa dạng
Có đội ngũ cán bộ tốt
Có công nghệ và công cụ điều hành hiện đại
Có nguồn tài chính thường xuyên có lãi
Để đạt được những thành công trên đây, NHNo & PTNT Hà tây đã áp dụng rất nhiều biện pháp, chính sách. Có thể tổng kết lại những bài học thành công như sau:
- Triển khai kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, định hướng kinh doanh của ngành. Kiên trì và kiên quyết chuyển hướng hoạt động kinh doanh theo kinh tế thị trường, quá trình quản lý luôn kết hợp chặt chẽ giữa biện pháp hành chính và kinh tế, lấy hiệu quả kinh doanh làm thước đo chính. Việc hoạch định mục tiêu, xác định chiến lược và mô hình kinh doanh trong những năm qua là bài bản và chuẩn xác, những giải pháp đề ra đúng và đồng bộ, phù hợp với thực tiễn.
- Quá trình chỉ đạo luôn hướng đến từng cơ sở, thực hiện phân công nhiệm vụ từng đồng chí trong ban giám đốc và trưởng các phòng ban nhằm nắm bắt và tháo gỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc từ cơ sở, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để mở rộng kinh doanh đạt chất lượng và hiệu quả.
- Thực hiện tốt 5 công cụ điều hành, đó là: kế hoạch, lãi suất, tài chính, kiểm tra kiểm soát và thi đua. Định kỳ, tổ chức làm tốt công tác sơ tổng kết thực tiễn đánh giá kết quả, rút ra những điểm yếu, tồn tại trong công tác kinh doanh đối ngoại để kịp thời chỉnh sửa.
- Tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, xây dựng và bảo vệ với Trung ương hoa học ứng dụng công nghệ thông tin năm 2001-2003, cải tạo hệ thống mạng LAN để nâng cao năng suất lao động và khả năng cạnh tranh.
- Tích cực cải tiến tình trạng nhân viên, đổi mới phong cách giao tiếp, giáo dục cán bộ ngân hàng với phương châm: phải tận tâm, tận lực và trung thành với sự nghiệp phát triển của NHNo và sự thành đạt của khách hàng. Quan tâm chăm lo bồi dưỡng nghiệp vụ, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ công nhân viên, nâng cao nhận thức và phong cách kinh doanh mới đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Vì vậy trong thời gian qua không có vụ việc tiêu cực phát sinh phải xử lý.
- Kiên trì xây dựng văn hoá trong kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, coi đây là giải pháp hàng đầu để thu hút khách hàng. Thực hiện đặt hòm thư góp ý tại tất cả các điểm giao dịch để kịp thời nắm bắt những khúc mắc của khách hàng. Bên cạnh đó, mạnh dạn áp dụng quy chế thưởng vật chất khi có đóng góp vận động được khách hàng mới đến quan hệ thanh toán quốc tế, tiền gửi, tiền vay bằng ngoại tệ với NHNo&PTNT Hà Tây.
Nguyên nhân gây ra những tồn tại
Về khách quan
Ngân hàng gặp khó khăn từ môi trường pháp lý của Việt Nam. Môi trường pháp lý của nước ta còn chưa đủ mạnh, chưa đồng bộ dẫn đến những lúng tong trong quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh. Biểu hiện bằng mâu thuẫn giữa Luật và Lệnh, giữa sự khống chế đã trở nên chật hẹp của pháp lệnh hiện hành với nhu cầu bức xúc phải mở rộng của thực tiễn
Hiện nay các điều luật quy định còn chưa đầy đủ, chưa bảo đảm an toàn có một hành lang pháp luật hợp lý áp dụng cho mọi hoạt động kinh tế. Có những luật thì đã được ban hành, song các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành thì lại chưa ra đời. Thêm vào dó, các điều luật lại liên tục bị sửa đổi, bổ sung để phù hợp với hoàn cảnh hiện tại dẫn đến trường hợp nhiều văn bản luật mâu thuẫn hoặc chồng chéo nhau, gây khó khăn cho những hoạt động kinh tế trên thị trường.
Các chế độ, quy định của Ngân hàng Nhà nước áp dụng cho các ngân hàng trong kinh doanh là khá chặt chẽ, và đôi khi còn hạn chế sự phát triển của các NHTM. Ví dụ như quy định một khách hàng chỉ được mở 1 tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng, nếu muốn mở thêm tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng khác thì phải được phép của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy, nhiều khách hàng đã chuyển hoạt động thanh toán quốc tế về các NHTM quốc doanh lớn dồi dào về ngoại tệ như Vietcombank, Incombank….
Các ngân hàng trong nước ở vào thế cạnh tranh bất lợi so với ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng này được coi là hợp lệ khi cho vay ngoại tệ để thu mua xuất nhập khẩu, lại là những ngân hàng có vốn điều lệ lớn nên được phép cho vay những dự án lớn. Hơn thế nữa, các ngân hàng nước ngoài có thiết bị máy móc công nghệ hiện đại, cơ chế về tín dụng thoáng, thủ tục đơn giản, nhanh chóng. Đồng thời họ có kinh nghiệm trong chính sách khách hàng, có cả 2 đầu khách hàng xuất nhập do vậy các ngân hàng nước ngoài đã thu hút được khá nhiều khách hàng về họ.
Các tiện ích cũng như lòng tin của dân chúng khi gửi tiền vào ngân hàng chưa cao. Do vậy còn một lượng vốn lớn nằm trong dân chúng dưới hình thức vàng, ngoại tệ hay bất động sản không sinh lời.
Về chủ quan
Là một ngân hàng thương mại quốc doanh nên còn chịu nhiều ảnh hưởng của cơ chế quản lý hành chính, chưa hoạt động theo nguyên tắc của thị trường, vẫn còn tồn tại độc quyền trong kinh doanh, quyết định cho vay vẫn còn chịu ảnh hưởng lớn của các quyết định hành chính, chưa thay đổi phương thức kinh doanh, chưa chủ động mở rộng thị trường, tìm kiếm khách hàng và dự án để cấp vốn, chưa tạo dựng được một hệ thống thông tin có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả cho việc phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, lãi suất, tín dụng, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp theo tín hiệu thị trường.
Hoạt động kinh doanh đối ngoại chưa đa năng hoá theo cơ chế thị trường, điều đó thể hiện cả ở nghiệp vụ huy động và sử dụng vốn ngoại tệ. Các hình thức huy động còn đơn điệu, chưa có hình thức huy động dài hạn, việc thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cá nhân người nước ngoài hay ngân hàng nước ngoài mở tài khoản ngoại tệ còn rất hạn chế. Việc huy động và sử dụng vốn ngoại tệ đôi khi còn bị động và cứng nhắc. Điều này thể hiện rất rõ trong năm 1997 khi bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nên từ quý III / 1997, người dân có khuynh hướng chuyển dịch tiền gửi từ VND sang ngoại tệ USD. Hậu quả là ở NHNo & PTNT Hà Tây, số dư tiền gửi ngoại tệ tăng nhanh, ngân hàng không sử dụng hết số vốn khả dụng bằng USD phải đem gửi lại ở các ngân hàng nước ngoài.
Vốn và quy mô hoạt động của NHNo & PTNT Hà Tây còn nhỏ bé, đây là điểm bất lợi lớn khi tham gia cạnh tranh trên thị trường tài chính trong nước cũng như ở khu vực.
Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại của NHNo & PTNT Hà Tây còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế thị trường, chưa được đào tạo một cách chính quy. Cán bộ am hiểu nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại, song trình độ ngoại ngữ, tin học còn yếu hoặc ngược lại. Hơn nữa, nhận thức của cán bộ NHNo & PTNT Hà Tây về quan hệ kinh doanh giữa ngân hàng với khách hàng vẫn có những vấn đề chưa thực sự làm hài lòng khách hàng.
Công nghệ ngân hàng tuy được đổi mới cơ bản, song vẫn còn một khoảng cách khá xa so với hệ thống ngân hàng của các nước trong khu vực, việc áp dụng hệ thống ngân hàng điện tử (E-banking) còn rất hạn chế. Các dịch vụ thanh toán và chuyển tiền hiện đại, việc gửi và rút tiền trên tài khoản tiền gửi cũng như tài khoản thanh toán còn chưa thuận lợi, làm mất nhiều thời gian của khách hàng.
Chương III:
Một số Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của NHNo&PTNT Hà Tây trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ở nước ta
I. Định hướng phát triển của nền kinh tế và của ngành ngân hàng trong giai đoạn 2001-2010
Đặc điểm tình hình kinh tế đất nước hiện nay và định hướng phát triển giai đoạn 2001-2010.
Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Xu thế này vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hoá, bảo vệ môi trường …Các công ty xuyên quốc gia tiếp tục cấu trúc lại, hình thành những tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế.
Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của những nước đang phát triển như Việt Nam để bảo vệ lợi ích của mình. Đối với nước ta, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới được nâng lên một bước mới gắn với việc thực hiện các cam kết quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.
Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đưa đất nước tiến nhanh và vững chắc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Không làm được như vậy sẽ tụt hậu xa hơn về trình độ phát triển kinh tế so với các nước xung quanh, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân.
Bước sang thập niên đầu của thế kỷ 21, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn diễn ra trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh, nước ta đang hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới với đặc trưng là sức ép ngày càng gay gắt. Đứng trước thực tế đó, Đảng và Nhà Nước đã đề ra những mục tiêu tổng quát của Chiến lược 10 năm 2001-2010 là:
“Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao” (Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010 - ĐH Đảng toàn quốc lần thứ IX)
Kế hoạch phát triển 2001-2005 được coi là bước mở đầu quan trọng để thực hiện chiến lược phát triển đến năm 2020. Cụ thể những nhiệm vụ của đất nước ta trong giai đoạn từ nay đến 2005 là:
Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại, tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói, giảm hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một bước quan trọng thế chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về kinh tế, mục tiêu của đất nước ta là đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000; nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế; đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, một phần đáng kể nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu; ổn định kinh tế vĩ mô; cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh và tăng dự trữ ngoại tệ; tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP, nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên 2 lần nhịp độ tăng GDP. Cơ cấu kinh tế đến năm 2010 sẽ là: Nông nghiệp 16-17%, công nghiệp 40-41%, dịch vụ 42-43%.
Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Mục tiêu của chúng ta là tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt khoảng 114 tỷ USD, tăng 16%/năm. Tạo thị trường ổn định cho một số loại mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh cao, tìm kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới. Nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu, tăng thêm thị phần ở các thị trường truyền thống, tiếp cận và mở mạnh các thị trường mới, giảm sự tập trung quá mức vào một vài thị trường. Tiếp tục đầu tư, nâng cao chất lượng để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như dầu thô, gạo, dệt may, da giày.. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
Về nhập khẩu, ưu tiên nhập khẩu những máy móc thiết bị hiện đại và nguyên vật liệu đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bước thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả. Tổng kim ngạch nhập khẩu 5 năm khoảng 118 tỷ USD, tăng bình quân 15%.
Về thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài:
Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, và các ngành Việt Nam có lợi thế, gắn với công nghiệp hiện đại và tạo việc làm.
Tranh thủ thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Định hướng trong 5 năm tới dành khoảng 15% vốn ODA vào các ngành nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản , kết hợp mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn, xoá đói, giảm nghèo.
Ngoài ra cần tăng cường đầu tư ra nước ngoài, phát triển các dịch vụ thu ngoại tệ như du lịch, vận tải, bảo hiểm…
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc, bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác đấu tranh, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ. Nâng cao hiệu quả hợp tác với bên ngoài, tăng cường vai trò và ảnh hưởng của nước ta đối với kinh tế khu vực và thế giới.
Những đặc điểm mới của tình hình kinh tế đất nước trong giai đoạn phát triển sắp tới sẽ dẫn tới những thay đổi trong hoạt động của các ngành, các lĩnh vực, trong đó có ngân hàng. Sự phát triển của nền kinh tế sẽ tạo ra cho ngành ngân hàng những cơ hội mới, đồng thời cũng đặt ra những nhiệmvụ mới không kém phần khó khăn mà ngành cần phải cố gắng hoàn thành để đáp ứng được nhu cầu phát triển.
Đặc điểm tình hình, định hướng phát triển giai đoạn 2001-2010 của ngành Ngân hàng và NHNo & PTNT Hà Tây.
Xuất phát từ điều kiện thực tại, việc mở rộng các hoạt động của ngân hàng có vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2001 -2010.
2.1 Đặc điểm của ngành ngân hàng hiện nay và định hướng phát triển giai đoạn 2001-2010
Ngân hàng là ngành đi trước tạo điều kiện cho kinh tế thị trường phát triển. Sau những năm đổi mới thành công, ngành ngân hàng đã thoát ra khỏi khó khăn và khủng hoảng, đạt được nhiều thành tựu bước đầu. Cùng với sự thay đổi của tình tình kinh tế đất nước, ngành ngân hàng không thể bằng lòng với những mục tiêu tầm ngắn, phương thức hoạt động giản đơn dựa trên kỹ thuật thủ công, nghiệp vụ truyền thống và giải pháp tình thế của bước quá độ. Bản thân ngân hàng trước hết phải thích nghi với điều kiện của kinh tế đất nước trên mọi phương diện. Tới lượt mình, ngânhàng phục vụ và thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển hơn nữa bằng cách cung cấp vốn để tạo lập doanh nghiệp và mua sắm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu… thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ để ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Nhằm thực hiện tốt vai trò trung gian tài chính và tạo lực đẩy mạnh mẽ cho quá trình CNH-HĐH, ngân hàng cần phải giữ vị trí chủ đạo trong việc tạo vốn cho nền kinh tế, nhất là vốn trung và dài hạn. Các nguồn vốn có thể khai thác được bao gồm nguồn trong nước và nguồn từ bên ngoài. Do yêu cầu tạo dựng vốn phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước, tất yếu sẽ hình thành một thị trường vốn mà một trong những thành phần nòng cốt của nó là các ngân hàng. Vì vậy, một hệ thống ngân hàng với các thành viên ngày một lớn mạnh, tuân thủ đúng những nguyên tắc của cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế sẽ là lực lượng chủ yếu trong việc thu hút nguồn vốn phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong thời gian tới, định hướng cho ngành ngân hàng Việt Nam sẽ là: Phát triển thị trường vốn và tiền tệ với các hình thức đa dạng thích hợp, bao gồm hệ thống ngân hàng, thể chế tài chính phi ngân hàng, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư và bảo lãnh đầu tư… nhằm thu hút các nguồn vốn trong xã hội, mở rộng nguồn vốn trung và dài hạn. Giảm mạnh các hình thức bao cấp về vốn, tín dụng . Cải cách hệ thống ngân hàng thương mại, tách chức năng tín dụng, chính sách ra khỏi chức năng kinh doanh của các ngân hàng thương mại quốc doanh, đặt các NHTM quốc doanh hoạt động trong môi trường cạnh tranh; lành mạnh hoá toàn bộ hệ thống NHTMCP và NHTMQD. Hiện đại hoá và đổi mới công nghệ của hệ thống ngân hàng, đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin, phấn đấu để hệ thống tài chính – ngân hàng đạt trình độ trung bình của khu vực.
Thực hiện đề án cơ cấu lại giai đoạn 2001-2010 trong kế hoạch tổng thể tái cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam, trên cơ sở những thành tựu đạt được qua hơn 10 năm đổi mới và nhất là từ những vấn đề tồn tại, yếu kém, NHNo &PTNT Việt Nam đã tập trung xây dựng đề án cơ cấu lại giai đoạn 2001-2010. Định hướng chiến lược của các ngân hàng nông nghiệp trong giai đoạn này là: “Phải tập trung sức triển khai tốt Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX của Ban cán sự Đảng NHNN, đặc biệt phải thực hiện đúng nội dung và lộ trình của đề án cơ cấu lại NHNo & PTNT Việt Nam 2001-2010 đã được Chính phủ phê duyệt; tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao nguồn vốn và sử dụng vốn, đảm bảo an toàn vốn và khả năng sinh lời nhằm tăng năng lực cạnh tranh, đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất, sắp xếp đổi mới doanh nghiệp; mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng; thích ứng nhanh chóng với môi trường kinh doanh mới; tiếp tục đổi mới công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với tiến trình hiện đại hoá hệ thống ngân hàng và theo kịp tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế trong tương lai gần.”
Mục tiêu tổng quát của Đề án là trong vòng 10 năm tới, xây dựng NHNo & PTNT Việt Nam tiếp tục là NHTM hàng đầu ở Việt Nam, trở thành NHTM tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên trường quốc tế; mở rộng hoạt động kinh doanh vững chắc, an toàn, có quy mô vốn tự có ngang tầm các ngân hàng trong khu vực, áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, cung cấp các dịch vụ tiẹn lợi, duy trì và nâng cao khả năng sinh lời, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực.
2.1 Định hướng phát triển của NHNo & PTNT Hà Tây thời gian tới
Nắm vững các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà Nước về phát triển kinh tế đồng thời bám sát mục tiêu và các giải pháp của Đề án chiến lược kinh doanh 2001-2005 cùng các định hướng của NHNo Việt Nam, NHNo & PTNT Hà Tây đã đề ra một số chỉ tiêu cơ bản cho năm 2002 như sau:
So với năm 2001, phấn đấu đưa tổng nguồn vốn tăng từ 22 đến 25% tức là đạt mức 2.400 tỉ đồng, tổng dư nợ tăng từ 20 đến 22 % để đạt mức 1.950 tỉ đồng, tỉ lệ cho vay trung, dài hạn không quá 45% tổng dư nợ, nợ quá hạn dưới 1% nợ hữu hiệu, dành một tỉ lệ nguồn vốn để tham gia thị trường tiền tệ liên ngân hàng và mở rộng các hoạt động kinh doanh nghiệp vụ khác.
Bảo đảm lợi nhuận tăng từ 3 đến 5%, hoàn thành các nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước theo quy định, trích lập các quỹ đáp ứng đủ chi phí, bao gồm cả trích lập các quỹ dự phòng rủi ro, phấn đấu đạt mức tiền lương trên nền lương cơ bản, bảo đảm có tiền ăn ca theo quy định của Nhà nước.
Về nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại, chủ trương của NHNo & PTNT Hà tây là:tiếp tục thực hiện những dịch vụ đã có với phương châm " phát triển - an toàn - hiệu quả", thận trọng nhưng không để lỡ cơ hội kinh doanh của khách hàng và cả ngân hàng đồng thời dần dần từng bước triển khai những dịch vụ mới như: Chiết khấu hối phiếu, cho thuê tài chính, thanh toán thẻ … Song song với việc đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, phải chiếm lĩnh thị trường, mở rộng địa bàn hoạt động bằng cách phát triển thêm các chi nhánh thực hiện nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại, nhất là những thị xã trung tâm và một số vùng lân cận Hà Nội.
II. Một số giải pháp chủ yếu
Căn cứ định hướng và các chỉ tiêu cơ bản nói trên, trong giai đoạn 2001-2005 NHNo & PTNT Hà Tây tập trung triển khai các giải pháp chính sau đây.
1. Tiếp tục đổi mới, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng
Kỹ nghệ ngân hàng hiện đại là một trong những tiêu chuẩn để hệ thống ngân hàng hội nhập được với cộng đồng tài chính quốc tế. Trong điều kiện trước mắt, do nguồn vốn của NHNo & PTNT Hà Tây có hạn, ngân hàng cần tập trung vào 4 chương trình thanh toán hiện đại đã được NHNN soạn thảo trong dự án hiện đại hoá ngân hàng: Xây dựng hệ thống thanh toán nội bộ trong ngân hàng; xây dựng hệ thống thanh toán liên ngân hàng; nối mạng thanh toán quốc tế (SWIFT); xây dựng hệ thống xử lý tài khoản khách hàng.
Cho đến nay, NHNo & PTNT Hà Tây đã thực hiện được cả 4 chương trình trên, tuy nhiên vẫn phải liên tục đổi mới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng để hoàn thiện hơn các chương trình này. Cần phải thấy rằng đẩy mạnh tiến độ ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động thanh toán là điểm đột phá để sắp xếp lại cơ cấu lao động, tăng hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Chỉ có trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại mới có thể triển khai các dịch vụ mới phục vụ nhu cầu của khách hàng.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, ngày càng có nhiều ngân hàng và các tổ chức tín dụng nước ngoài vào Việt nam để kinh doanh. Bên cạnh những cơ hội hợp tác thì cạnh tranh giữa những ngân hàng này và các ngân hàng Việt nam sẽ rất gay gắt. Với những kinh nghiệm sẵn có và kỹ thuật công nghệ hiện đại, các ngân hàng nước ngoài rất dễ dàng trong việc tổ chức thanh toán cũng như phát triển các dịch vụ mới tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng. Đặc biệt dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt sẽ được mở rộng. Để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài và thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến giao dịch, NHNo & PTNT Việt nam cần cải tạo toàn bộ hệ thống mạng LAN (hệ thống thanh toán nội bộ), tăng cường đổi mới hệ thống máy vi tính mới có cấu hình cao đáp ứng yêu cầu các chương trình mới chuyển tiền điện tử, giao dịch trực tiếp, thông tin quảng cáo, thanh toán SWIFT trực tiếp với nước ngoài, từ đó nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và khả năng cạnh tranh. Bên cạnh đó, ngân hàng phải không ngừng tìm tòi và phát triển các kỹ thuật mới trong thanh toán như chương trình thanh toán thẻ điện tử, máy rút tiền tự động, cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho khách hàng khi giao dịch với ngân hàng.
Sự mở rộng và phát triển của các nghiệp vụ thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại hối đòi hỏi phải có những chương trình thanh toán ngày càng thuận tiện và hiện đại theo các tiêu chuẩn công nghệ quốc tế như chương trình sử dụng công nghệ Reuter trong kinh doanh ngoại hối. Vì vậy, song song với việc tự nghiên cứu và phát triển các sản phẩm tin học ngân hàng mới, NHNo & PTNT Hà Tây phải tăng cường hợp tác khoa học kỹ thuật với các công ty tin học cũng như các ngân hàng bạn ở trong và ngoài nước để học hỏi, tranh thủ sự giúp đỡ và khai thác những ứng dụng tin học mới nhất, kịp thời phục vụ và tạo điều kiện phát triển cho toàn bộ hoạt động kinh doanh nói chung và nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại nói riêng của NHNo & PTNT Hà Tây
Trong thời gian tới, NHNo & PTNT Hà Tây cần tiếp tục triển khai dự án về hiện đại hoá ngân hàng do WB tài trợ. Đó là đưa vào ứng dụng hệ thống chuyển tiền điện tử được kết nối từ NHNo & PTNT Trung ương tới tất cả các chi nhánh, thay thế hệ thống ứng dụng hiện tại bằng hệ thống ngân hàng bán lẻ với nhiều chức năng tạo khả năng giao diện với khách hàng, từng bước nghiên cứu những ứng dụng trên công nghệ hiện đại dựa trên nền tảng hệ thống WB như E-banking, Home Banking… Đồng thời, sử dụng nguồn tài trợ này để củng cố cơ sở hạ tầng cũng như các chương trình phần mềm ứng dụng tin học trong việc quản lý, thống kê và lưu trữ để phân tích và đánh giá các hoạt động của ngân hàng.
Tuy nhiên, để thực hiện được những nhiệm vụ trên, Ngân hàng còn phải tăng cường củng cố và phát triển một đội ngũ cán bộ kỹ thuật công nghệ tin học có đủ trình độ và khả năng tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới cũng như triển khai các ứng dụng mới rong các nghiệp vụ kinh doanh. Bằng cách đó, NHNo&PTNT Hà Tây sẽ thực hiện một cách hiệu quả hơn công cuộc hiện đại hoá và ứng dụng các công nghệ mới vào nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại, giúp cho hoạt động này ngày một phát triển lên tầm quốc tế.
2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền tiếp thị
Một trong những biện pháp hữu hiệu thúc đẩy sự phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại của NHNo & PTNT Hà Tây là phải tăng cường công tác tuyên truyền tiếp thị, quảng cáo, giới thiệu về ngân hàng và đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ đối ngoại.
Hiện nay, một trong những nguyên nhân hạn chế sự phát triển của hoạt động kinh doanh đối ngoại tại NHNo & PTNT Hà Tây là do Ngân hàng vẫn chưa có được một vị trí xứng đáng trong nhận thức của khách hàng và các ngân hàng đối tác. Tuy nằm trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam, được coi là NHTM hàng đầu ở nước ta, song nhiều ngân hàng nước ngoài đến nay dường như vẫn chưa biết đến tên tuổi cũng như uy tín của các ngân hàng thuộc hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam, trong đó có ngân hàng chi nhánh tỉnh Hà Tây. Điều này đã gây không ít khó khăn cho NHNo Hà Tây trong việc thiết lập quan hệ hợp tác kinh doanh với các ngân hàng ở các nước khác khi khách hàng có nhu cầu giao dịch.
Mặt khác, mặc dù hoạt động đối ngoại và thanh toán quốc tế của NHNo & PTNT Hà Tây được thực hiện từ năm 1994, song nhiều khách hàng cả ở trong và ngoài nước vẫn chưa biết hoặc chưa thực sự tin tưởng vào các dịch vụ ngân hàng đối ngoại của NHNo & PTNT Hà Tây. Rất nhiều khách hàng trên địa bàn địa phương khi có giao dịch xuất nhập khẩu vẫn chưa quen giao dịch với ngân hàng, một số khách hàng nước ngoài khi nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam cũng không chỉ định NHNo & PTNT Hà Tây làm ngân hàng thông báo mặc dù ngân hàng của họ có quan hệ đại lý với NHNo & PTNT Hà Tây. Đây chính là những chướng ngại vật cần phải được tháo gỡ để cho hoạt động kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng phát triển. Để làm được việc này, trước hết, cần phải đẩy mạnh công tác tiếp thị bằng cách mở rộng các hoạt động thông tin tuyên truyền quảng cáo dưới nhiều hình thức phong phú hấp dẫn như quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên báo chí trong và ngoài nước, phân phát các tờ rơi giới thiệu về Ngân hàng cho các khách hàng tới giao dịch…. Thông qua các hoạt động này, NHNo & PTNT Hà Tây có thể giới thiệu về chức năng, nhiệm vụ, quy mô, các loại dịch vụ cũng như chất lượng dịch vụ của Ngân hàng. Từ đó khách hàng sẽ nhận biết được một cách đầy đủ hơn về NHNo & PTNT Hà Tây và có thể lựa chọn ngân hàng phục vụ cho mình trong giao dịch. Đồng thời, bằng cách đó, NHNo & PTNT Hà Tây cũng có thể tự giới thiệu mình trước cộng đồng ngân hàng và tài chính quốc tế để họ thấy được vị trí cũng như uy tín của Ngân hàng ở thị trường trong nước. Khi đã hiểu được điều này, họ sẽ không phải do dự khi thiết lập quan hệ cũng như thực hiện các giao dịch kinh doanh với NHNo & PTNT Hà Tây. Và như vậy, NHNo & PTNT Hà Tây sẽ có thêm cơ hội để mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh đối ngoại.
3. Đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đối ngoại.
Song song với việc tích cực tuyên truyền tiếp thị và quảng cáo, muốn phát triển và hoàn thiện hoạt động kinh doanh đối ngoại hơn nữa, NHNo & PTNT Hà Tây phải không ngừng đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng và luôn luôn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ đối ngoại hoàn hảo. Hiện nay, các sản phẩm dịch vụ tại đây còn chưa phong phú, đa dạng, nhiều nhu cầu của khách hàng Ngân hàng chưa đáp ứng được. Để NHNo & PTNT Hà Tây nhanh chóng thoát ra khỏi sự giản đơn về nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại, phục vụ sự phát triển đa dạng của đời sống kinh tế xã hội, các nghiệp vụ sau cần được tiến hành áp dụng rộng rãi: Tín dụng ngoại tệ, bảo lãnh thanh toán, chiết khấu hối phiếu, tín dụng thuê mua (leasing), kinh doanh hối đoái, đại lý, uỷ thác, đồng tài trợ dự án, các dịch vụ khách hàng khác như dịch vụ thanh toán thẻ, tư vấn…
Muốn triển khai được các dịch vụ trên trong thời gian tới, Ngân hàng cần phải chuẩn bị một sơ sở hạ tầng hiện đại với những máy móc và công nghệ mới phù hợp như máy rút tiền tự động, máy thanh toán thẻ điện tử… để tạo điều kiện thuận lợi về vật chất cho việc triển khai từng loại dịch vụ. Đồng thời, ngân hàng còn cần đào tạo một đội ngũ cán bộ làm dịch vụ nắm vững từng nghiệp vụ chuyên môn mới và có đủ khả năng thực hiện thành thạo, chính xác các quy trình xử lý nghiệp vụ và thanh toán, bảo đảm phục vụ nhu cầu của khách một cách tốt nhất.
Bằng việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ đa dạng và hoàn thiện như vậy, NHNo & PTNT Hà Tây sẽ thu hút ngày càng đông đảo khách hàng không chỉ trên địa bàn tỉnh, mà còn cả ở những vùng lân cận. Đồng thời, uy tín của Ngân hàng sẽ ngày càng được nâng cao trên thị trường trong nước và quốc tế. Đây chính là cơ sở cho việc NHNo & PTNT Hà Tây mở rộng các nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại của mình.
4. Cải cách thủ tục hành chính để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng
Như trong chương trước đã nghiên cứu, một trong những nguyên nhân cản trở việc thực nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại chính là thủ tục hành chính còn nặng nề, rườm rà, gây phiền hà, tốn thời gian cho khách hàng. Để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác, NHNo & PTNT cần phải chú ý hơn đến công tác chăm sóc khách hàng và nâng cao chất lượng dịch vụ của mình.
Trước hết, phải thay đổi cách thức làm việc cũng như thời gian phục vụ khách hàng. Không nên bắt khách hàng đi lại nhiều lần như hiện nay, gây tốn thời gian và có thể làm lỡ cơ hội kinh doanh của họ. Để làm được điều này thì cán bộ làm công tác kinh doanh đối ngoại cần phải kiểm tra kỹ chứng từ ngay khi xuất trình, nếu có sai sót nhỏ thì sửa chữa hộ khách hàng hoặc tạo điều kiện thuận lợi nhất để họ sửa chữa trong thời gian sớm nhất. Làm như vậy sẽ giúp khách hàng tiết kiệm rất nhiều thời gian, đồng thời củng cố tốt hơn mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
Thứ hai, Ngân hàng nên cố gắng tạo điều kiện để khách hàng chỉ phải giao dịch tại một cửa, thậm chí chỉ với một cán bộ. Việc phân công nhân viên phụ trách theo đơn vị giúp cho ngân hàng và khách hàng hiểu, thông cảm công việc của nhau hơn. Từ đó, ngân hàng cũng có điều kiện theo dõi chặt chẽ hoạt động của khách hàng, tránh được nhiều rủi ro.
Hiện nay, so với các ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh và ngân hàng TMCP thì thời gian phục vụ khách hàng của các NHTM quốc doanh, trong đó có NHNo & PTNT Hà Tây, ít hơn khá nhiều. Các ngân hàng quốc doanh chủ yếu làm việc theo giờ hành chính và nghỉ làm việc 2 ngày trong tuần (Thứ Bảy và Chủ Nhật). Trong khi đó, một số ngân hàng nước ngoài và cổ phần lại quy định làm việc cho đến khi hết khách và vẫn hoạt động cả buổi sáng thứ Bảy. Để có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và nâng cao sức cạnh tranh của mình, NHNo&PTNT Hà Tây cũng nên xem xét và thay đổi thời gian phục vụ khách hàng sao cho phù hợp.
Để cải thiện chất lượng phục vụ khách hàng, ngân hàng nên duy trì và tăng cường mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng bằng cách chủ động tìm hiểu để có thông tin kịp thời, chính xác về khách hàng. Theo một số tiêu thức, NHNo & PTNT Hà Tây cũng nên đánh giá và phân loại khách hàng để có chính sách thích hợp khuyến khích khách hàng đến giao dịch. Ví dụ với những khách hàng đặc biệt nào thì không phải ký quỹ, với những khách hàng đạt được tiêu chuẩn gì thì sẽ được hưởng lãi suất cho vay ngoại tệ thấp hơn mức trung bình…
5. Công tác đào tạo nguồn nhân lực
Để thực hiện yêu cầu hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại, việc làm trước tiên của NHNo & PTNT Hà Tây nên tiến hành là đào lại đội ngũ cán bộ. Cần phải coi đây là một chiến lược quan trọng bởi con người chính là nhân tố quyết định của mọi thắng lợi. Khi có một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, tiếp thu được những kiến thức mới và những tinh hoa kinh nghiệm từ các ngân hàng hiện đại, ngân hàng sẽ dễ dàng hơn trong việc phát triển hoạt động kinh doanh đối ngoại của mình.
Sự phát triển của ngành ngân hàng trong những năm tới đòi hỏi người cán bộ làm nghiệp vụ không những phải có trình độ chuyên môn vững vàng mà còn phải luôn luôn được trang bị và bổ sung những kiến thức mới, hiện đại. Nhiệm vụ của NHNo & PTNT Hà Tây là phải tiếp tục và tăng cường đào tạo về nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm kinh doanh đối ngoại của toàn hệ thống ngân hàng trong tỉnh. Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức các khóa tập huấn về nghiệp vụ như nghiệp vụ tín dụng quốc tế, thanh toán quốc tế, ngân hàng đại lý, kinh doanh ngoại tệ… để giúp các cán bộ học tập và củng cố vững chắc hơn các nghiệp vụ đã có. Đối với các nghiệp vụ mới như ngoại hối giao sau, thanh toán thẻ điện tử, bao thanh toán tương đối, dịch vụ ngân hàng điện tử, việc áp dụng e-UCP… ngân hàng cần mời các chuyên gia trong hoặc ngoài nước để giới thiệu và thuyết trình cặn kẽ quy trình xử lý nghiệp vụ và hiệuquả của các dịch vụ mới để các cán bộ làm nghiệp vụ có thể hiểu thấu được công việc và thực hiện một cách có hiệu quả nhất.
Không chỉ dừng ở việc trang bị kiến thức nghiệp vụ, còn cần phải khuyến khích các cán bộ làm công tác kinh doanh đối ngoại học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với các Ngân hàng khác, như Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam… Trong điều kiện cho phép, Ngân hàng cũng nên gửi cán bộ của mình sang các ngân hàng bạn ở nước ngoài để học tập kinh nghiệm, trau dồi kiến thức nghiệp vụ mới, đồng thời tranh thủ thực hành các nghiệp vụ này dưới sự giúp đỡ của các đồng nghiệp nước ngoài để trở nên vững vàng hơn trong quá trình xử lý các công việc phát sinh.
Quá trình tin học hoá ngân hàng sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của hoạt động kinh doanh, song nếu người cán bộ không có khả năng sử dụng thành tựu của những công nghệ hiện đại thì sẽ không thể tạo điều kiện cho nghiệp vụ này phát triển mạnh mẽ. Vì vậy, để mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày nay, NHNo & PTNT Hà Tây còn phải trang bị cho các cán bộ kinh doanh đối ngoại đầy đủ các kiến thức tin học cần thiết áp dụng vào công việc nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Ngân hàng có thể tổ chức các lớp tập huấn, các buổi hội thảo về tin học ngân hàng để giúp cán bộ lĩnh hội được những ứng dụng tin học mới nhất trong các hoạt động thanh toán, chuyển tiền, thống kê, lưu trữ dữ liệu… Việc trang bị các kiến thức tin học hiện đại sẽ giúp cho các cán bộ thực hiện nghiệp vụ trên máy tính được nhanh chóng, chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh đối ngoại phát triển.
Bên cạnh việc trang bị các kiến thức về nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại và tin học, NHNo & PTNT Hà Tây còn phải nâng cao trình độ ngoại ngữ cho các cán bộ làm công tác đối ngoại. Ngoại ngữ được coi là một phương tiện vô cùng cần thiết trong hoạt động kinh doanh đối ngoại, đặc biệt trong hoàn cảnh kinh tế mở cửa của nước ta hiện nay. Một khi người cán bộ thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại thành thạo ngoại ngữ, họ sẽ dễ dàng nắm bắt được các thông tin trên thị trường quốc tế, từ đó đưa ra được những biện pháp giải quyết hợp lý và nhanh chóng nhất. Đồng thời dự tính được kế hoạch kinh doanh phù hợp với tình hình thị trường trong nước và quốc tế, giúp cho hoạt động kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng phát triển.
Chính vì ngoại ngữ có một vai trò quan trọng như vậy trong hoạt động kinh doanh đối ngoại, NHNo & PTNT Hà Tây ngoài việc khuyến khích các cán bộ tự trau dồi kiến thức, cần tiếp tục tổ chức các lớp ngoại ngữ nghiệp vụ cả dài hạn và ngắn hạn để bổ túc và nâng cao trình độ ngoại ngữ của cán bộ sao cho có thể đáp ứng tốt nhất yêu cầu công việc trong những năm sắp tới.
kiến nghị - Đề xuất
Thứ nhất, phải nhanh chóng hoàn thiện các văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động kinh doanh đối ngoại, tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ và thông thoáng, thuận tiện cho việc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại
Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng được ban hành từ năm 1998, đến nay đã xuất hiện thấy nhiều điểm bất cập, không còn phù hợp với bối cảnh của nền kinh tế hiện tại. Sự xuất hiện của các văn bản dưới luật đôi khi chồng chéo, mâu thuẫn nhau, gây khó khăn cho những người thi hành. Vì vậy, chúng ta mong đợi việc sửa đổi luật này vào năm tới sẽ tạo ra một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, mang lại sự ổn định và phát triển vững chắc cho hoạt động của các ngân hàng Việt Nam, trong đó có NHNo & PTNT Hà Tây.
Trong hoàn cảnh đó, để hỗ trợ cho sự phát triển của các hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh đối ngoại nói riêng, NHNo & PTNT Việt Nam cần phải xây dựng và hoàn thiện một hệ thống văn bản pháp quy điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, đặc biệt là nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại sao cho phù hợp với các quy định của Nhà Nước và luật Ngân hàng, tạo cho hoạt động này một cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ và thông thoáng để phát triển.
Do hoạt động kinh doanh đối ngoại còn là một hoạt động mới đối với NHNo & PTNT Hà Tây nên không tránh khỏi những thiếu sót trong các văn bản đã được ban hành liên quan đến nghiệp vụ này. Hiện nay, một số văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ của phòng Thanh toán quốc tế và Kinh doanh ngoại tệ còn nhiều điểm chưa rõ ràng, cụ thể. Vì thế, Ngân hàng cần phải sửa chữa và bổ sung những văn bản này cho hoàn chỉnh, để xác định rõ vai trò, nhiệm vụ cũng như phạm vi trách nhiệm của bộ phận này. Từ đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh đối ngoại tại các chi nhánh trong tỉnh và ở Hội sở tỉnh phát triển mạnh mẽ, tích cực hơn. Đồng thời, Ngân hàng cũng cần phải rà soát lạ các văn bản chỉ đạo và hướng dẫn tổ chức thanh toán quốc tế như Quyết định 447/QĐ - NHNo quy định về quy trình và kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam, quy định 186/QĐ- NHNo về mức phí thống nhất trong toàn hệ thống cũng như các văn bản quy định về phạm vi quyền hạn kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng cấp tỉnh để kịp thời kiến nghị chấn chỉnh những thiếu sót và vướng mắc, hướng đến việc hình thành một hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động kinh doanh đối ngoại của ngân hàng.
Để khắc phục những tồn tại trước mắt trong khi chưa Luật Ngân hàng chưa được sửa đổi, căn cứ vào những quy định chung của NHNo & PTNT Việt Nam, Ngân hàng chi nhánh tỉnh Hà Tây cần phải đưa ra những quy định cụ thể liên quan đến nghiệp vụ thanh toán hàng xuất nhập khẩu như các quy định về tỉ lệ, phạm vi và quyền hạn chiết khấu chứng từ… tạo cơ sở thuận lợi cho việc xử lý các nghiệp vụ phát sinh.
Những việc làm nêu trên là cần thiết trong hoàn cảnh hiện tại để nâng cao chất lượng và hiệu quả của nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại ở NHNo Chi nhánh tỉnh Hà Tây. Hoàn thiện các văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động kinh doanh đối ngoại của ngân hàng là tạo ra cơ sở pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của nghiệp vụ này trong những năm tiếp theo.
Thứ hai, thực hiện phương châm: Phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài, NHNo & PTNT Hà Tây quyết tâm triển khai thực hiện tốt các dự án được các tổ chức quốc tế uỷ thác, trên cơ sở đó tăng cường phát huy mối quan hệ với các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế để khai thác, ký kết, đón nhận các dự án đầu tư, dự án tài trợ nước ngoài nhằm huy động mạnh mẽ nguồn vốn dài hạn, công nghệ quản lý tiên tiến để đáp ứng các nhu cầu đầu tư phát triển trong nước.
Thứ ba, NHNo&PTNT Hà Tây cần phải phát triển hơn nữa dịch vụ tư vấn cho khách hàng của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Giảm thiểu rủi ro cho khách hàng cũng chính là để bảo vệ quyền lợi của chính ngân hàng mình.
Trên đây là những giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện hơn nữa và mở rộng những hoạt động có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh đối ngoại của NHNo&PTNT Hà Tây. Trong thời gian tới, nếu thực hiện được đồng bộ những giải pháp này, NHNo Hà Tây có thể khắc phục những tồn tại hiện có, phát triển được hơn nữa những lĩnh vực kinh doanh đối ngoại của mình. Và khi đó, NHNo Hà Tây sẽ không chỉ mạnh trong lĩnh vực kinh doanh đối nội mà còn mạnh trong các nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại, nâng cao uy tín trong cộng đồng ngân hàng trong và ngoài nước.
Kết luận
Trước xu thế toàn cầu hoá hiện nay, việc mở rộng những hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại được coi là chìa khoá then chốt giúp chúng ta hội nhập nhanh hơn vào nền kinh tế thế giới. Phát triển những nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại trong các NHTM ở Việt Nam những năm gần đây đang từng bước đưa các ngân hàng của nước ta hội nhập hơn nữa với cộng đồng tài chính tiền tệ quốc tế.
Trong dòng chảy hội nhập đó, NHNo&PTNT Hà Tây cũng đang phấn đấu, nỗ lực không ngừng mở rộng những hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh đối ngoại nhằm góp phần đổi mới hệ thống ngân hàng Việt Nam, thúc đẩy quá trình hội nhập tiến nhanh hơn, vững chãi hơn.
Xuất phát từ mong muốn đóng góp công sức và sự hiểu biết nhỏ bé của mình vào sự phát triển của những nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại của NHNo&PTNT Hà Tây, qua đó góp phần vào công cuộc đổi mới và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong xu thế hội nhập, khóa luận tốt nghiệp đã hoàn thành được những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, xuất phát từ bộ máy tổ chức, đặc điểm hoạt động của NHNo & PTNT Hà Tây, khoá luận đã phân tích và đánh giá những khó khăn cũng như thuận lợi trong việc mở rộng những hoạt động liên quan tới lĩnh vực kinh doanh đối ngoại của ngân hàng.
Thứ hai, khoá luận đã thông qua việc tìm hiểu lý thuyết và tình hình thực tiễn của nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại diễn ra ở NHNo & PTNT Hà Tây những năm gần đây để phân tích, chứng minh một cách cụ thể, từ đó làm sáng tỏ những thành quả đạt được cũng như những mặt tồn tại yếu kém, những nguyên nhân dẫn đến tồn tại ảnh hưởng đến nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại (kinh doanh ngoại tệ, tín dụng quốc tế, thanh toán quốc tế….)
Cuối cùng, khoá luận đã đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện và mở rộng nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại của NHNo & PTNT Hà Tây thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả của nghiệp vụ này. Đồng thời, khoá luận cũng đề cập đến các điều kiện cần thiết cho việc thực thi những giải pháp đã đề xuất.
Những kết quả nghiên cứu và đề xuất trên đây là những vấn đề cần thiết và mới mẻ nhằm đáp ứng đòi hỏi cấp bách về phát triển những hoạt động liên quan tới lĩnh vực kinh doanh đối ngoại của ngân hàng. Do thời gian nghiên cứu có hạn, tài liệu tham khảo còn hạn hẹp cùng với sự thiếu hụt kinh nghiệm thực tế nên những thiếu sót, sơ suất trong khóa luận là không tránh khỏi. Vì vậy, tác giả tha thiết mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy cô và các bạn quan tâm đến đề tài này để khoá luận được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Cẩm nang thị trường ngoại hối và các giao dịch kinh doanh ngoại hối
TS. Nguyễn Văn Tiến - Nhà XB thống kê - 1999
2. Cẩm nang thanh toán quốc tế
Nhà xuất bản Khoa học và xã hội nhân văn - 1995
3. Giáo trình Thanh toán quốc tế - Nhà xuất bản giáo dục -1999
PGS. NGƯT. Đinh Xuân Trình
TS. Nguyễn Thị Quy
4. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng NNo và PTNT Hà Tây từ năm 1998 đến 2001
5. Kinh nghiệm và giải pháp mở rộng tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng No và PTNT Hà Tây - Nguyễn Tiến Đông - Tạp chí Ngân hàng số tháng 7/2002
6.Hoạt động kinh doanh đối ngoại của các NHTM Việt Nam- Lê Duy Nguyễn- Tạp chí Ngân hàng số 1+2 năm 2002
7.Tạp chí Tin học ngân hàng số 3, tháng 5/2002
8. Thời báo Ngân hàng các số: 34+35+36, 39, 51
9. Một số suy nghĩ về hội nhập quốc tế của hệ thống ngân hàng Việt Nam- Vương Đức Anh- Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ tháng 1/2001
10. Tín dụng trợ xuất nhập khẩu- thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ.
GS. TS. Lê Văn Tư - Chuyên viên kinh tế Lê Tùng Vân
NXB Thống kê - 2000
11.Thanh toán và tín dụng quốc tế
THS. Nguyễn Thị Phương Liên
Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội - 2000
12. Xây dựng NHNo và PTNT Việt Nam vững mạnh, góp phần thực hiện hiệu quả chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - Lê Văn Sở - Tạp chí Ngân hàng số đặc biệt năm 2001
13. NHTM Việt nam trên bước đường mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại - Phạm Thị Tuyết Mai- Tạp chí Ngân hàng số 15 năm 1999.
14. Đẩy mạnh khai thác vốn quốc tế và trong nước đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH- HĐH - Lê Văn Sở - Tạp chí Ngân hàng số 1 năm 2001.
15. Những vấn đề cần quan tâm trong thực hiện nghiệp vụ thanh toán TDCT - Bùi thị Vinh Quang - tạp chí Ngân hàng số 1+2 năm 2001
16. Luật Ngân hàng Nhà nước và các Tổ chức tín dụng - năm 1998
17. Nghị định của Chính Phủ số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại
18. Thị trường ngoại hối Việt nam sau hơn 10 năm đổi mới - Nguyễn Văn Tiến - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 291, tháng 8/2002.
19. Đề án chiến lược thị trường, thị phần của NHNo và PTNT Hà Tây năm 2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KLTN.doc
- Muc luc.doc