Cũng giống như các thể loại trữ tình của văn học dân gian, thời gian trong
đồng dao gắn liền với thời gian diễn xướng tác phẩm. Thời gian ấy được khảo sát
trong tính nguyên hợp của nó với môi trường diễn xướng.
Nhưng so với các thể loại văn vần của văn học dân gian (như : ca dao, dân ca,
vè, câu đố, ), thời gian nghệ thuật trong đồng dao, vì gắn với nhu cầu nhận thức thế
giới khách quan của trẻ, nên thường thể hiện tiến trình vận động của thời gian tự
nhiên (như : năm, tháng, mùa, thời, ). Về mặt này, đồng dao tỏ ra gần gũi với tục
ngữ, bởi ở đó, chúng ta có thể nhận thấy nhận thức, trí tuệ, kinh nghiệm, của dân
gian về những khái niệm thời gian
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
80 trang | 
Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êu (Cạc cạc cạc), mô phỏng tiếng máy xay lúa (Ù ì cút kít), mô phỏng tiếng ve kêu 
(Ve ve ve), mô phỏng tiếng trống đánh (Tùng, tùng, tùng), mô phỏng tiếng gà gáy 
(Cục tác cục te), 
 Tất cả những sự mô phỏng này đều mang lại tác dụng rất lớn, nó tạo ra sức 
vang thanh âm cho các bài đồng dao, giúp cho việc kết hợp các bài đồng dao với nhạc 
điệu, động tác diễn ra dễ dàng. Đồng thời, nó còn có tác dụng tái hiện tiếng kêu của 
các loài vật, các vật dụng, giúp cho trẻ nhận thức rõ ràng về tiếng kêu của từng loài, 
từng món đồ vật. Mặt khác, sự mô phỏng này còn giúp cho các bài đồng dao trở nên 
sinh động, giúp cho trẻ dễ nhớ, dễ thuộc, 
 Bên cạnh sử dụng các từ mô phỏng đồng dao còn sử dụng rất nhiều từ láy 
mang giá trị gợi hình ảnh, gợi âm thanh rất đậm nét : 
 - Đó có thể là cách láy toàn thể : 
 “Thả đỉa ba ba 
 Chớ bắt đàn bà” 
 - “Sắc sắc nhụt nhụt 
 Ta ở nước lụt” 
 - “ Se sẻ nó đẻ mái tranh 
 Tao lấy mảnh sành” 
 - “Sên sến sền sên 
 Mày lên công chúa” 
 Láy lại tên gọi của sự vật : “Ba ba”, “Se sẻ”, “Sên sến sền sên”; của một cấu 
trúc âm thanh : “Sắc sắc”, “nhụt nhụt”,để tạo nên phần nhạc điệu cho bài đồng dao, 
tạo nên sức ngân âm điệu cho bài ca. 
 - Đó có thể là cách láy bộ phận : láy ở phần vần, hoặc phần phụ âm đầu : 
 “Bà già dung dẻ đi chơi 
 Trẻ em lọm khọm lo người đấm lưng” 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 50 
 Hai từ “lọm khọm” được láy lại với nhau ở phần vần “om”, có tác dụng gợi 
lên hình ảnh của một cụ già, lưng đã còng, đi đứng rất khó khăn,Giúp cho người 
đọc dễ dàng mường tượng đến hình ảnh của những cụ già, chân yếu, tay run, sức đã 
cạn dần, 
 Chỉ với hai từ láy được sử dụng khéo léo đã mang đến cho bài đồng dao giá 
trị gợi hình rất cao. Nó giúp người đọc hình dung ra hình ảnh của đối tượng được nói 
đến một cách dễ dàng, cụ thể. Đồng thời, nó còn tạo ra được sự gắn kết cho ngôn từ 
đồng dao trong bài. 
 Hai từ “dung dẻ”, cũng được láy lại như thế nhưng tuân theo một phương 
thức khác, đó là : Láy lại ở phần phụ âm đầu : “d”, nó mô tả được sự tinh nghịch, lém 
lỉnh và năng động của trẻ nhỏ. Các trẻ thường dung dẻ chơi đùa suốt ngày. Chỉ với 
hai từ “dung dẻ” ngắn ngủi, tác giả dân gian đã giúp cho người đọc hình dung ra tác 
phong đi đứng, chạy nhảy chơi đùa của trẻ rất cụ thể. 
 Các bài đồng dao đều khá ngắn ngủi, nhưng việc sử dụng từ láy khéo và tinh 
trong những câu ca ngắn ngủi ấy đã đem lại giá trị gợi hình ảnh, gợi âm thanh rất to 
lớn cho toàn bài. Tác giả dân gian đã rất khéo léo trong việc tận dụng ưu thế của từ 
láy trong khi sử dụng để tạo ra những bài đồng dao vừa sâu sắc, vừa giàu âm thanh và 
nhạc điệu. 
 Nói tóm lại, ngôn ngữ đồng dao rất giản dị và gần gũi, nó rất gần với ngôn 
ngữ sinh hoạt, chính sự giản dị ấy đã tạo nên tính chất sinh động cho ngôn ngữ đồng 
dao. Qua việc chuyển tải nội dung với lời thơ cô đúc, ngôn ngữ ấy đã đáp ứng được 
nhu cầu sử dụng của trẻ, phù hợp với tư duy non nớt của các em. Đồng thời, với tính 
chất sinh động ngôn ngữ đồng dao giúp trẻ dễ lĩnh hội, dễ nhớ, dễ thuộc. Và chính 
nhờ thế mà những bài đồng dao dù ra đời khá lâu nhưng đến nay vẫn được lưu truyền 
và trong tương lai ắt hẳn sẽ được lưu truyền mãi. Do đó, tuy đồng dao sáng tác để 
dành cho trẻ nhỏ là chủ yếu nhưng người lớn cũng rất thích nghe đồng dao những lúc 
rảnh rỗi để tìm lại sự thanh thản, ngây ngô của tuổi ấu thơ đã đi qua. 
 Với ngôn ngữ giản dị, cô đúc, đồng dao đã chuyển tải được những nội dung 
hết sức phong phú. Trong đồng dao hiện lên cả một thế giới vui tươi, sống động và 
gần gũi. Đến với đồng dao, chúng ta có cảm giác như mọi sự vật từ cỏ cây, chim 
chóc, thú rừng, cả đến những vì tinh tú, những đấng siêu nhiên đều là bạn bè, người 
thân của nhau. Tất cả đều rất gần gũi và thân quen không có sự ngăn cách. Với ngôn 
ngữ tươi vui, trong sáng, đồng dao đã tạo nên những nét rất riêng mà thể loại khác 
không thể có được. 
 Bên cạnh những giá trị ấy, ngôn ngữ đồng dao còn có giá trị góp phần thúc 
đẩy sự phát triển vốn từ, nâng cao năng lực phát âm tròn vành, rõ chữ của trẻ nhỏ, 
làm cho ngôn ngữ của các em ngày càng phong phú đa dạng, phát âm ngày càng 
chuẩn xác (Cùm nụm cùm nịu; chi chi chành chành; nu na nu nống; sắc sắc soi soi, 
con mẻo con meo,). Trẻ dần phức tạp hoá ngôn ngữ bản thân để đáp ứng được 
những nhu cầu giao tiếp cao hơn về sau. Ngôn ngữ phát triển kéo theo tư duy phát 
triển. Ở mỗi lứa tuổi tư duy của trẻ sẽ có những sự khác biệt lớn lao. Dần dần, tư duy 
non nớt ấy sẽ phải nhường chỗ cho sự quan sát sắc sảo và tư duy trừu tượng. Có như 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 51 
thế mới đáp ứng được sự phát triển không ngừng của thế giới và trẻ sẽ đủ bản lĩnh để 
bước vào đời. Tuy nhiên, dù tư duy, ngôn ngữ của trẻ có phát triển đến đâu thì thế 
giới đồng dao cũng sẽ vĩnh viễn không bao giờ mất đi bởi những giá trị mà nó đem 
lại cho con người. 
III. VÀI NÉT VỀ THỂ THƠ : 
 1. THỂ THƠ LỤC BÁT : 
 - Cặp 6 tiếng + cặp 8 tiếng là đơn vị tế bào, một chỉnh thể tối thiểu của thể 
thơ lục bát [Nguyễn Xuân Kính, 1992 : 116]. 
 Đối với các bài đồng dao của trẻ nhỏ ta thấy thể thơ lục bát là khá phù hợp 
với nhu cầu trình bày những nội dung hết sức đa dạng, phong phú ứng với những hiểu 
biết rất ngây thơ, ngộ nghĩnh của các em. Trẻ thơ nhìn thế giới phức tạp với cặp mắt 
rất ngây thơ. Trẻ nhỏ dùng trí tưởng tượng phong phú, ngô nghê để nhìn mọi vật / 
việc. Tất cả những sự nhìn nhận, lí giải ngây thơ của các em về thế giới xung quanh 
đã được tác giả đồng dao chọn thể thơ lục bát dễ nhớ, dễ thuộc để gởi gắm. 
 Không những thế, đồng dao còn đáp ứng những nhu cầu của người lớn. Trong 
kho tàng đồng dao có không ít những bài hát ru. Đó là những hồi ức của các chị. Nó 
là một phần tiểu sử của thế hệ đã qua đang sống những phút giây kì diệu một đi 
không trở lại của mỗi con người. Và theo chúng tôi khảo sát gần 300 bài đồng dao thì 
thể thơ lục bát chiếm khá nhiều. Lục bát trong đồng dao đa số được thể hiện ở những 
bài hát ru. 
 Cụ thể là, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 279 bài đồng dao tiêu biểu và 
đi đến kết quả là thể thơ lục bát chiếm 98/279 bài, chiếm tỷ lệ 35,13%. Trong khi đó 
thì lục bát trong hát ru đã chiếm 38/98 bài, chiếm tỷ lệ 39,8%. 
 Thể thơ lục bát được sử dụng trong đồng dao vô cùng đa dạng. Cách gieo vần 
rất linh hoạt, khi thì gieo vần ở tiếng thứ 6 (tiếng thứ 6 của câu lục với tiếng thứ 6 của 
câu bát) : 
 - “Ngồi buồn đếm vẩy tê tê 
 Ba nghìn cái vảy không mê vẩy nào 
 Vua trên cho lính xông vào 
 Ba nghìn cái vẩy lính cào cho vua”. 
 - “Bao giờ cho đến tháng ba 
 Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng”. 
- “Nắm xôi nuốt trẻ lên mười 
Chân giò, chai rượu nuốt người lao 
đao”. 
- “Lúa mạ nhảy lên ăn bò 
Cỏ năn, cỏ lác rình mò bắt trâu 
Gà con đuổi bắt diều hâu 
Chim ri đánh đuổi vỡ đầu bồ nông”. 
 Nhịp điệu đều đặn, nhịp nhàng của cách gieo vần này làm cho bài đồng dao 
có giai điệu như một bài hát, rất dễ đi vào lòng người, khiến cho trẻ thơ và cả người 
lớn dễ đọc, dễ nhớ. Mặt khác, giai điệu này còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đọc / 
hát các bài đồng dao ở mọi nơi khi người diễn xướng muốn trò chuyện, trao đổi tình 
cảm với một đối tượng nào đó, hoặc để phục vụ cho việc chơi đùa tinh nghịch của trẻ 
nhỏ. 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 52 
 Bên cạnh đó là cách gieo vần ở tiếng thứ 6 câu lục với tiếng thứ 4 của câu 
bát. Cách gieo vần này cũng tương đối phổ biến. 
 Ví dụ như : 
 “Tuổi tí là con chuột nhà 
 Bắt đặng con gà chui tuốt vào hang”. 
 Tuổi mèo là con mèo ngao 
 Hay quẫy hay cào ăn vụng thành tinh”. 
 Với cách ngắt nhịp 2/2/2, thể thơ lục bát đã tạo ra được những tác dụng rất 
lớn trong việc thể hiện nội dung đồng dao : Nó tạo cho bài ca đồng dao nhịp điệu 
khỏe khoắn, dứt khoát, giúp cho trẻ nhỏ dễ nhớ, dễ thuộc. Mặt khác, nhịp thơ này còn 
giúp cho các bài đồng dao dễ dàng kết hợp với các động tác trong rất nhiều trò chơi 
của trẻ nhỏ : 
 “Con lợn / thì kêu / meo meo 
 Con mèo / ủn ỉn / mà theo / vô chuồng.” 
 (2/2/2 
 2/2/2/2) 
 “Cái bống / còn ở / trong hang 
 Cái rau tập tàng / còn ở nương dâu.” 
 (2/2/2 
 4/4) 
 Mặt khác, nó còn đóng vai trò chuyển tải những sắc thái tình cảm đa dạng, dịu 
dàng trong những lời hát ru. Nó là cơ sở để những người chị bộc lộ những tình cảm 
tha thiết với đứa em nhỏ của mình : 
 “Ru em em hãy nín đi 
 Kẻo mà mẹ đánh nữa thì em đau 
 Em đau chị cũng buồn rầu 
 Bé mồm bé miệng kêu đâu bây giờ.” 
 Nhìn chung, thể thơ lục bát với nhịp điệu nhẹ nhàng, sự cân đối trong cấu 
trúc, cách ngắt nhịp dứt khoát, giọng điệu lục bát uyển chuyển, nhịp nhàng đã góp 
phần tích cực vào việc chuyển tải những nội dung cực kì phong phú, ngộ nghĩnh của 
trẻ nhỏ. 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 53 
 2. THỂ VÃN : 
 - Thể vãn : “là thể thơ ngắn, mỗi câu dưới 5 chữ. Loại thơ này tương đối đơn 
giản về tiết tấu, nhịp điệu, thường dùng trong đồng dao, ca dao nghi lễ.” [Trần 
Hoàng, 1995 : 6]. 
 Như chúng ta đã biết, mục tiêu hướng tới của đồng dao là trẻ em với tất cả sự 
năng động, hồn nhiên, chất phác. Do đó, đại bộ phận các bài đồng dao đều được viết 
theo những thể thơ ngắn, dễ nhớ, dễ thuộc xưa quen gọi là thể vãn, gồm vãn 2, 3, 4, 5 
và phổ biến nhất là vãn 4. 
 Theo thống kê của chúng tôi trên 279 bài đồng dao đã có đến 101 bài viết 
theo thể vãn, chiếm tỷ lệ 36,2%. Trong đó, 94 bài viết theo thể vãn 4, chiếm tỷ lệ 
33,69%; vãn 3 : 8 bài, tỷ lệ : 2,87%; vãn 2 : 1 bài, tỷ lệ : 0,36%; vãn 5 : 1 bài, tỷ lệ : 
0,36%. 
 2.1/ Các thể vãn 2, vãn 3, vãn 5 : Tần số xuất hiện của các thể vãn này 
không nhiều lắm : Trong 279 bài đồng dao mà chúng tôi khảo sát, thể vãn 2 chỉ có 
một bài, chiếm tỷ lệ : 0,36%, thể vãn 3 có tám bài, chiếm tỷ lệ : 2,87%, thể vãn 5 
cũng chỉ có một bài, chiếm tỷ lệ : 0,36%. 
 2.1.1/ Thể vãn 2 : 
 “Rảigianh 
 Trồng chanh 
 Vun chanh 
 Xới chanh 
 Bẻ cành ...” 
 Về vần : Chủ yếu là cách gieo vần chân, chẳng hạn trong bài đồng dao trên : 
vần “anh”. 
 Về kết cấu : kết cấu theo chuỗi sự vật, sự việc, có hoặc không có liên kết chủ 
đề (phần nhiều là có liên kết chủ đề); chẳng hạn, bài “Trồng chanh” liên kết theo chủ 
đề : Đây là những công việc của quá trình trồng chanh. 
 Về nhịp : Bài đồng dao được viết theo thể vãn 2, hai từ trong một câu. Cách 
ngắt nhịp, ngừng nghỉ của thể vãn này cũng tuân theo số từ dùng đó : Nhịp trong vãn 
2 chủ yếu là nhịp 2, nhịp ngắt vào vị trí của vần : Rải gianh / trồng chanh / vun chanh 
/ xới chanh / bẻ cành / hái ngọn / chọn đôi. Một dạng nhịp điệu rất dứt khoát, gãy 
gọn. Rất có thể khi diễn xướng, ngắt nhịp không phải lúc nào cũng ngắt dòng. Như 
vậy, vãn 2 gắn với cách ngắt nhịp 2/2,Và cách ngắt nhịp này phải chăng có xu 
hướng vận động theo hướng đưa câu đồng dao vào hệ thống của những dòng thơ có 
số từ ngữ là số chẵn (vừa với sự phân bổ nhịp 2). Và xu hướng đó, không ngoại trừ 
mục đích phục vụ cho trò chơi kèm theo. Đồng dao đã có hiện tượng đưa vãn 2 thành 
vãn 4 : 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 54 
 “Rải gianh, trồng chanh 
 Vun chanh, bẻ cành 
 Hái ngọn, chọn đôi.” 
 Bên cạnh đó, theo thống kê của chúng tôi thì thể vãn 2, thường chỉ “phù hợp 
với những trẻ nhỏ từ 3 đến 4 tuổi – lứa tuổi này chưa phù hợp lắm với những hình 
thức trò chơi vận động (với những động tác, luật chơi theo qui định). Các em chủ yếu 
là chơi một cách tự phát, tự do theo bản năng - còn đối với các trẻ lớn hơn thì thường 
không thích những bài đồng dao nhịp ngắn như thế”. Theo chúng tôi, đó là lí đo đồng 
dao lại ít sử dụng thể vãn 2. 
 2.1.2/ Thể vãn 3 : 
 “Nhắc lò cò 
 Lên trên o 
 Xin miếng nác 
 Về dưới bác 
 Xin miếng xôi 
 Lên trên trời 
 Rụng cái độp.” 
 Về vần : Chủ yếu là cách gieo vần chân, chẳng hạn trong bài trên : vần “o”, 
vần “ác”, vần “ôi – ơi”. 
 Về kết cấu : Kết cấu theo chuỗi sự vật, sự việc, thường có liên kết chủ đề; 
chẳng hạn như trong bài đồng dao trên : Tập trung nói về cuộc dạo chơi của một đứa 
trẻ. 
 Về nhịp : Bài đồng dao được viết theo thể vãn 3 (3 tiếng trong một câu). Khi 
diễn xướng, dù là nhịp 1/2 hay 2/1, thì trẻ đều có xu hướng nhấn nhịp theo lối 1/1/1 
để phục vụ cho việc kết hợp giữa lời ca và động tác trong các bài đồng dao. Đồng 
thời, nó còn tạo ra sự nhịp nhàng, uyển chuyển cho lời hát đồng dao. 
 2.1.3/ Thể vãn 5 : 
 “Khi khóc dai ngồi dỗ 
 Khi ngứa ngáy ngồi xoa 
 Trông tháng trọn ngày qua 
 Trông từng li từng tí 
 Khi bữa ăn đương dở 
 Con tiểu giải lên mình 
 Ai nấy cũng đều kinh 
 Cha mẹ ngồi chịu vậy” 
 Về vần : Chủ yếu là cách gieo vần chân, theo từng cặp dòng : vần “oa – a”, 
vần “inh”. 
 Về kết cấu : Kết cấu theo chuỗi sự vật, việc thường có chủ đề; chẳng hạn như 
trong bài đồng dao trên, xoay quanh chủ đề : Nỗi cơ cực của những bậc làm cha mẹ. 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 55 
 Về nhịp : Bài đồng dao được viết theo thể vãn 5, với nhịp điệu gần như thống 
nhất trong toàn bài là nhịp 3/2 : Khi khóc dai / ngồi dỗ, Khi ngứa ngáy / ngồi xoa, 
Trông tháng trọn / ngày qua,Vãn 5 thật ra rất phổ biến trong ca dao dân ca (đặc 
biệt gần gũi với hát ví, hát dặm vùng Nghệ Tĩnh). Cách ngắt nhịp 3/2 rồi 2/3 vừa linh 
hoạt - nhịp nhàng, vừa uyển chuyển phù hợp với những cung bậc cảm xúc của nhân 
vật trữ tình. Chất trữ tình đậm đà của cách ngắt nhịp này dường như không mấy phù 
hợp với đối tượng trẻ em khi cùng nhau diễn xướng một trò chơi nào đó. Phải chăng 
vì thế mà vãn 5 xuất hiện khá ít ở đồng dao. 
 2.2. Thể vãn 4 : Đây là thể thơ thông dụng nhất trong các bài đồng 
dao : Trong 279 bài đồng dao chúng tôi chọn khảo sát đã có đến 94 bài viết theo thể 
vãn 4, chiếm tỷ lệ : 33,69 %. 
 Sở dĩ trong đồng dao thể vãn 4 phổ biến là do : 
 Thứ nhất, liên kết cấu trúc văn bản đồng dao theo kiểu xâu chuỗi. Sự nối kết 
liên hoàn bởi lối gieo vần, hiệp vần chặt chẽ của thể vãn 4 có thể kéo dài dung lượng 
bài đồng dao mà trẻ con vẫn nhớ, vẫn thuộc. 
 Thứ hai, nó phù hợp với cách ngắt nhịp chẵn 2/2. Bài đồng dao sẽ dễ thích 
ứng với những động tác, trò chơi đơn giản. Luật chơi nhờ vậy sẽ dễ nhớ, dễ phổ biến 
cho những trẻ mới tham gia cùng chơi. 
 Thứ ba, nó phù hợp với giai điệu nhịp nhàng của bài đồng dao. Trong khi 
chơi nhiều em có thể hòa giọng hát chung cùng một lúc mà vẫn đảm bảo sự đều đặn 
của giai điệu. 
 Theo chúng tôi, đó là ba lí do để vãn 4 phổ biến nhiều nhất trong đồng dao. 
 Về vần : Gồm vần chân kết hợp với vần lưng, nếu chọn một dòng bất kì để xét 
thì tiếng thứ hai của dòng này vần với tiếng cuối của dòng liền trước, tiếng cuối của 
dòng này vần với tiếng thứ hai của dòng liền sau nó. Vần thường được gieo theo 
cách đổi bằng trắc một cách đều đặn và liên tục như vậy cho đến hết bài. Nó có mô 
hình như sau : 
Sên sến sền 
 Mày tao xem. 
 Bên cạnh đó, thể vãn 4 còn có một cách gieo vần khác, đó là : gieo vần chân, 
không gieo vần lưng. Nó có mô hình sau : 
 Sắc sắc nhụt 
sên
MÀY CÔNG LÊN CHÚA
múa
nhụt
TA Ở NƯỚC LỤT
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 56 
 Về nhịp : thường được ngắt vào nhịp của vần, khiến cho dòng thơ có nhịp đôi. 
Kết hợp vần và nhịp khi hát sẽ tạo thành các nhịp đôi đều đặn cho toàn bài. 
 Về kết cấu : kết cấu chuỗi sự vật, sự việc, có hoặc không có liên kết chủ đề 
(thường có liên kết chủ đề nhiều hơn); chẳng hạn : bài “Ông tiển ông tiên”, “Nghé 
ạnghé ơ”, “Con chim hay hát”, 
 Khảo sát một số bài cụ thể : (Các vần bằng in nghiêng - tô đậm, các vần trắc 
in nghiêng - gạch chân - tô đậm, nhịp ngắt dùng dấu suyệt : /). 
 Cách gieo vần chân kết hợp với vần lưng : có 54/94 bài, tỷ lệ: 57,45 %. 
 “Con mẻo / con meo / 
 Con mèo / đuổi chuột / 
 Cầm đuốc / soi đường / 
 Cầm gương / soi mặt / 
 Mèo bắt / cái đuôi / 
 Chuột chui / hang tối / 
 Mèo đói / kêu la / 
 Meo meo / meo meo/ ” 
 Cách gieo vần chân : có 29/94 bài, tỷ lệ :30,85 %. 
 “Sắc sắc / soi soi / 
 Đầu đội / mâm xôi / 
 Tay cầm / chén mắm / 
 Vừa đi / vừa nhắm / 
 Hết cả / mâm xôi /” 
 Có những bài có cả hai cách gieo vần trên : có 11/94 bài, tỷ lệ : 11,7 %. 
 “Ông tiển / ông tiên / 
 Ông có / đồng tiền / 
 Ông giắt / mái tai / 
 Ông cài / lưng khố / 
 Ông ra ngoài phố / 
 Ông mua / miếng trầu” 
 3. THỂ HỖN HỢP : 
 Trong tổng số 279 bài mà chúng tôi chọn khảo sát, thì thể hỗn hợp chiếm số 
lượng khá lớn : 66 bài, chiếm tỷ lệ : 23,65 %. 
 Sở dĩ trong đồng dao thể hỗn hợp xuất hiện nhiều là do : 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 57 
 Thứ nhất, nó tổng hợp và thâu tóm được những ưu điểm của các thể thơ khác. 
 Thứ hai, trải qua quá trình diễn xướng chính đối tượng trẻ nhỏ - thông qua 
nhận thức, trò chơi,sẽ chắt lọc những gì ưu việt nhất, phù hợp nhất của các thể vãn 
nhằm lưu truyền và đồng sáng tạo làm phong phú thêm cho thể hỗn hợp. 
 Thứ ba, thể hỗn hợp tạo nên sự đa dạng, phong phú về vần, về nhịp,tỏ rõ sự 
thích hợp với những trò chơi sinh động của trẻ. 
 Theo chúng tôi, đó là những lí do để thể hỗn hợp có được sự phổ biến trong 
đồng dao. 
 Các bài đồng dao được viết theo thể hỗn hợp, những câu vãn 4 chiếm một số 
lượng rất lớn : 53 trên tổng số 66 bài, tỷ lệ : 80,3 %. 
 Do sự phổ biến của thể vãn 4 như thế nên chúng tôi xin chọn nó làm ranh giới 
để phân chia thể hỗn hợp trong đồng dao : 
 1/ Hỗn hợp có chứa vãn 4 : 53 bài. 
 2/ Hỗn hợp không chứa vãn 4 : 13 bài. 
 3.1/ Hỗn hợp có chứa vãn 4 : Chúng tôi lại chia hỗn hợp này ra 3 dạng 
nhỏ để thuận lợi cho việc khảo sát : 
* Vãn 4 với những câu thơ dưới 4 chữ. 
* Vãn 4 với những câu thơ trên 4 chữ. 
* Vãn 4 với những câu thơ trên và dưới 4 chữ. 
 Dạng 1: Vãn 4 với những câu thơ dưới 4 chữ : chiếm 13 trên tổng số 53 bài, 
chiếm tỷ lệ : 24,53 %. 
 Dạng hỗn hợp này khá phong phú : 
Vãn 4, 2 : 
 “Ve ve 
 Ve ở trên cây 
 Ve trầy hai cánh 
 Đùng đùng sóng dậy 
 Ve chạy lên cây.” 
 Vãn 4, 3 : 
 “Con chim hay hát 
 Nó hát cành đa 
 Chị mua gì ? 
 Con diệc trời. 
 Vừa mua vừa dạo 
 Đầy thúng mang về 
 Ăn một bữa no nê 
 Đi đồng đội nắng.” 
 Thể hỗn hợp vốn dĩ nhịp điệu của nó đã rất phong phú, đa dạng, lên xuống 
uyển chuyển. Ở thể hỗn hợp vãn 4 với những câu thơ dưới 4 chữ thì sự đa dạng ấy lại 
càng được bộc lộ rõ nét. Đó là sự kết hợp giữa : vãn 4 với vãn 2, vãn 4 với vãn 3. 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 58 
Trong từng sự kết hợp, ta thấy chúng đều tạo ra được những hiệu quả rất cao. Ở sự 
kết hợp giữa vãn 2 với vãn 4, sự gãy gọn, dứt khoát của vãn 2 như một lời chào mời, 
giới thiệu thu hút người đọc hướng vào theo dõi phần nội dung sẽ được trình bày bên 
trong. Thể vãn 4 với sự nhịp nhàng, uyển chuyển, lên xuống, trầm bổng rất phù hợp 
để bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của người viết, đồng thời giúp cho người nghe dễ 
lĩnh hội. Ở sự kết hợp giữa vãn 4 - vãn 3 với nhịp 1/1/1 đã tạo cho lời thơ một nhịp 
điệu rất rõ ràng, ngắt nghỉ dứt khoát, lời ca cất lên như một mệnh lệnh, rành rọt, tạo 
sức thuyết phục cao. Với nhịp 2/2, có thể ngắt nghỉ giữa dòng của thể vãn 4, các em 
có thể ngân dài hoặc đọc nhanh tùy vào ngữ cảnh. 
 Mặt khác, thể hỗn hợp vãn 4 với những câu thơ dưới 4 chữ không chỉ tạo ra 
sự phong phú cho lời ca về mặt hình thức, mà còn tạo ra được sự da dạng về mặt nội 
dung, với cách ngắt nghỉ, lên xuống hợp lí, nhịp nhàng của hình thức sẽ tạo ra những 
giá trị độc đáo cho nội dung. 
 Dạng 2: Vãn 4 với những câu thơ trên 4 chữ : chiếm 35 trên tổng số 53 bài 
đồng dao viết theo thể hỗn hợp, tỷ lệ : 66,03%. 
 Dạng hỗn hợp này rất đa dạng : 
 3.1.1/ Hỗn hợp vãn 4 với những câu thơ 5 chữ (vãn 5) : có 6 bài 
trên tổng số 35 bài, chiếm tỷ lệ : 17,14 %. 
 “Mồng một lưỡi trai 
 Mồng hai lá lúa 
 Mồng ba câu liêm 
 Mồng bốn lưỡi liềm 
 Mười bảy sảy giường chiếu 
 Mười tám giám trấu” 
 Hỗn hợp này còn tồn tại dưới rất nhiều dạng khác, chẳng hạn như : Câu vãn 5 
nằm ở đầu, nằm ở cuối hoặc ở lưng chừng bài thơ,Tất cả đã tạo cho các bài đồng 
dao những nhịp điệu rất độc đáo, ngắt nghỉ đột ngột, gián đoạn bất ngờ, tạo cho đồng 
dao những giọng điệu nhịp nhàng, uyển chuyển, mang lại cho người đọc những suy 
ngẫm nằm bên ngoài câu chữ. 
 3.1.2/ Hỗn hợp vãn 4 với những câu thơ 6 chữ : có 12 bài trong 
tổng số 35 bài, chiếm tỷ lệ : 34,3 %. 
 “Rạng ngày mới sáng 
 Lên quán mua đồ 
 Tàu ô cá chép 
 Biết mình là con gái khôn.” 
 Sự kết hợp giữa vãn 4 và vãn 6 luôn tạo ra cho bài đồng dao sự hòa nhịp, 
đồng điệu bởi cả hai đều có nhịp 2 (Vẻ vè / vè ve, Con chim / mần tổ / dưới 
nước,), nhưng không gây sự nhàm chán và đơn điệu chính là nhờ ở sự linh hoạt 
của nhịp điệu trong từng thể thơ ấy. 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 59 
 3.1.3/ Hỗn hợp vãn 4 với những câu thơ 5 chữ và 6 chữ : có 2 
bài trên tổng số 35 bài, chiếm tỷ lệ : 5,7 %. 
 Ví dụ : 
 “Xu xoa / xu xuýt 
 Con nít / ở mô / thì ra 
 Con cha / ở mô / thì về 
 Đốt lửa / ba bề / bốn bên 
 Ai leo núi / thì lên 
 Ai đi thuyền / thì xuống 
 . 
 Ai hay nằm / thì nhịn đói.”
 Chính những thay đổi linh hoạt ở nhịp thơ (vãn 2 : nhịp 2/2, vãn 5 : nhịp 3/2, 
vãn 6 : nhịp 2/2/2, 3/3) đã tạo cho bài đồng dao những nhịp điệu thật tinh tế, uyển 
chuyển, tạo cho lời ca sự bay bổng, hòa điệu cùng động tác trong các trò chơi. 
 3.1.4/ Hỗn hợp vãn 4 với những câu thơ lục bát : có 2 bài trên 
tổng số 35 bài, chiếm tỷ lệ : 5,7 %. 
 Ví dụ :
 “Nghe vè nói ngược 
 Ngựa đua xuống nước 
 Tàu chạy trên bờ 
 Ngó lên đám bí ngô tàn 
Trâu bàng, ngựa giẫm mời làng đến xem 
 Mặt em tròn tựa chữ điền 
 Mê nơi sang cả, vàng đem đổi chì.” 
 Nhịp điệu dứt khoát của thể vãn 4, kết hợp với nhịp uyển chuyển của những 
câu lục bát đã tạo cho lời đồng dao có sức ngân thanh âm, bay bổng như những lời ca 
ngọt ngào, vút lên ước mơ đẹp đẽ của trẻ. 
 Dạng 3 : Vãn 4 với những câu thơ trên và dưới 4 chữ : có 5 trên tổng số 53 
bài, chiếm tỷ lệ : 9,43 %. Bao gồm nhiều dạng khác nhau : 
 - Vãn 4,3,5 : 
 Ví dụ : 
 “Đầu trọc lông lốc 
 Là cái bình vôi 
 Cái miệng loe môi 
 Chị mua gì? 
 Tôi mua cái bình vôi 
 Chị mua gì? 
 Cái thìa ốc loe môi.” 
 - Vãn 4,2,7,8,9 : 
 Ví dụ : 
 “Nghé ơnghé à 
 Mày đi theo ta 
 Đừng theo kẻ trộm 
 Nó cắt mất rốn 
Biết lấy cái chi mà đuổi ruồi 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 60 
Biết lấy cái chi mà đập bọ 
Gà mất mẹ thì biết khi nào cho khôn 
Rổ mất trôn biết khi nào mà đựng 
 Nghé ơ” 
 3.2/ Hỗn hợp không chứa vãn 4 : Có 13 bài trên tổng số 66 bài viết 
theo thể hỗn hợp, chiếm tỷ lệ : 24,24 %. Gồm nhiều dạng rất phong phú : 
 - Bài đồng dao với những câu thơ 6,7,8 chữ : 
 Ví dụ : 
 “Nắng lên đi hỡi nắng vàng 
 Nắng cho dân bản phơi thóc nỏ 
 Nắng cho dân bản uống rượu la đà” 
 - Bài đồng dao với những câu thơ 3,6,8 chữ : 
 Ví dụ : 
 “Nhẩy, nhẩy, nhẩy 
 Lên, lên, lên 
 Ai giấu ống chỉ bắt đền cây đa 
 Ai giấu thì phải đưa ra 
 Ở dưới gốc rạ hay là bờ ao 
 Trao tráo đứng đó mà rao” 
 Nhìn chung, những bài đồng dao được viết theo thể hỗn hợp không có vãn 4 
thường là những bài thơ ngắn, dao động từ 6 đến 8 câu. Tuy nhiên, nhịp điệu của 
những bài đồng dao này lại vô cùng linh hoạt tạo nên nét độc đáo, sáng tạo và đầy 
thú vị. 
 Ngoài ra, trong đồng dao còn có rất nhiều thể thơ khác như : thể thơ 6 chữ, 
chiếm 2,15 %; thể thơ 8 chữ, chiếm 0,72 %; thể thơ 7 chữ, chiếm 1,07 %, 
 Nói tóm lại, các thể thơ trong đồng dao cực kì phong phú và đa dạng : Lục 
bát, thể vãn, thể hỗn hợp, các thể thơ 6,7,8 chữ,Không những thế, mà trong mỗi 
thể loại lớn ta lại thấy bên trong nó có những biến đổi cực kì phức tạp : Từ nhịp điệu, 
cách gieo vần, đến kết cấu,Sự phong phú ấy đã tạo cho đồng dao những giá trị hết 
sức to lớn. Nó góp phần thể hiện nội dung, chuyển tải tình cảm cực kì hiệu quả. 
IV. THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT : 
 “Thời gian và không gian là những mặt của hiện thực khách quan, được phản 
ánh vào trong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm.” [Nguyễn Xuân 
Kính, 1992 : 163]. 
 Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật một mặt thuộc phương diện đề 
tài, mặt khác thể hiện nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức tác phẩm của từng tác giả, 
từng thể loại, từng hệ thống nghệ thuật. Mối quan hệ giữa thời gian, không gian và 
việc tổ chức thời gian, không gian trong tác phẩm là nội dung của vấn đề thời gian, 
không gian nghệ thuật [Nguyễn Xuân Kính, 1992 : 163]. 
 Khác với thời gian của hiện thực khách quan, có khi thời gian nghệ thuật 
mang tính chủ quan của con người “Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê” [Nguyễn 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 61 
Xuân Kính, 1992 : 163]. Thời gian có thể thong thả mà cũng có thể trôi nhanh như 
bóng con ngựa phi qua cửa. Một khoảnh khắc có thể dừng lại, nhưng một thời đại có 
thể vụt qua. Tuy nhiên, tác phẩm văn học cũng sử dụng cả thời gian khách quan, có 
khi tuân thủ triệt để nguyên tắc thống nhất giữa thời gian được phản ánh và thời gian 
của con người xem như : kịch cổ điển Pháp [Nguyễn Xuân Kính, 1992 : 163-164]. 
1. Thời gian nghệ thuật : Thời gian nghệ thuật trong đồng dao là thời gian 
hiện tại, thời gian diễn xướng. 
 Cũng giống như các thể loại trữ tình của văn học dân gian, thời gian trong 
đồng dao gắn liền với thời gian diễn xướng tác phẩm. Thời gian ấy được khảo sát 
trong tính nguyên hợp của nó với môi trường diễn xướng. 
 Nhưng so với các thể loại văn vần của văn học dân gian (như : ca dao, dân ca, 
vè, câu đố,), thời gian nghệ thuật trong đồng dao, vì gắn với nhu cầu nhận thức thế 
giới khách quan của trẻ, nên thường thể hiện tiến trình vận động của thời gian tự 
nhiên (như : năm, tháng, mùa, thời,). Về mặt này, đồng dao tỏ ra gần gũi với tục 
ngữ, bởi ở đó, chúng ta có thể nhận thấy nhận thức, trí tuệ, kinh nghiệm,của dân 
gian về những khái niệm thời gian. 
 Thật vậy, nếu như trong cổ tích, trong thần thoại hay truyền thuyết, thời gian 
thường là thời gian quá khứ, thường kể về những việc đã qua có thực hoặc không có 
thực, thì thời gian trong đồng dao chính là thời gian hiện tại gắn chặt vời từng thời 
điểm diễn xướng cụ thể. Ngay cả trong những bài đồng dao có xuất hiện những từ 
ngữ chỉ thời gian cụ thể thì tính chất này cũng không thay đổi : 
 “Tháng giêng là tháng mưa xuân 
 Tháng hai mưa bụi dần dần mưa ra 
 Tháng ba mưa nụ mưa hoa 
 Tháng tư hư đất biết là đâu hơn” 
 Hay : 
 “Sớm mai tôi lên núi 
 Bắt được con công 
 Đem về cho ông” 
 1.1. Trong đồng dao hầu hết các bài đều không có từ chỉ thời gian : có 
172/279 bài, chiếm tỷ lệ : 61,65 %. 
 Trong những trường hợp này, trẻ hát đồng dao vào lúc nào (buổi sáng, trưa, 
chiều, tối,), thì đó chính là thời gian của bài (lời) đồng dao ấy : 
 Chẳng hạn : 
 “Con cò đi đâu mắc giò mà chết 
 Con quạ ở nhà mua nếp làm chay” 
 Hay : 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 62 
 “Con gà cục tác cục te 
 Hay đỗ đầu hè, hay chạy rông rông” 
 Hoặc : 
 “Cắc cắc, tùng tùng 
 Tùng tùng, cắc cắc 
 Kẻ gian làng bắt 
 Kẻ ngay làng tha” 
 Và : 
 “Ếch ở dưới ao 
 Vừa ngớt mưa rào 
 Nhảy ra bì bõm” 
 Chúng tôi nhận thấy ở tất cả các bài đồng dao nói trên đều không xuất hiện 
các từ chỉ thời gian cụ thể. Thời gian của những bài đồng dao ấy chính là thời gian 
hiện tại, thời gian mà trẻ hát hay đọc những bài đồng dao ấy, không bị gò bó bởi thời 
gian cố định nào cả. Hay nói cách khác, thời gian trong đồng dao là thời gian diễn 
xướng, khoảng thời gian trực tiếp diễn ra các cuộc hát hò, cuộc vui đùa của trẻ nhỏ. 
 Thời gian đó phần nhiều là vào ban ngày, vào những lúc trẻ đi chăn trâu, cắt 
cỏ. Và chính những lúc ngồi trên lưng trâu, cầm liềm cắt cỏ trẻ đã hát những bài 
đồng dao này. Hoặc những khi trẻ cùng tụm nhau lại tổ chức một trò chơi, để cùng 
vui chơi, cùng ca hát thì những bài đồng dao trong trẻo cũng được cất lên một cách 
rất tự nhiên. Và những khoảng thời gian diễn xướng này, cũng chính là thời gian của 
các bài đồng dao nói trên. 
 1.2. Những bài đồng dao có từ chỉ thời gian cụ thể : có 34/279 bài, 
chiếm tỷ lệ : 12,19 %. 
 “Ban đêm oi bức mặt trời 
 Ban ngày mát mẻ trăng cười trên cao 
 Ban đêm nắng đỏ hồng hào 
 Ban ngày nhấp nháy ông sao trên trời.” 
 Trong bài đồng dao này, các từ chỉ thời gian “Ban đêm”, “Ban ngày” được 
xuất hiện rất cụ thể. Những khoảng thời gian ấy thường gắn liền với những hiện 
tượng kèm theo một cách thật rõ ràng, nhưng lại có phần nghịch lí do bị hoán đổi trật 
tự, không tuân theo quy luật tự nhiên : Ban đêm oi bức mặt trời, nắng đỏ hồng 
hào,Ban ngày mát mẻ vì có trăng, có sao nhấp nháy,Thực ra khi sắp xếp các 
khái niệm thời gian này bên cạnh nhau rõ ràng tác giả dân gian đã có dụng ý nghệ 
thuật khá rõ nét. Đó là sự hoán chuyển các thuật ngữ chỉ thời gian kèm theo những 
đặc trưng biểu hiện phù hợp với khoảng thời gian đó cũng được hoán đổi. 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 63 
 Hay : 
 “Chiều chiều con quạ lợp nhà 
 Con cu chẻ lạt con gà đưa tranh.” 
 Hoặc : 
 “Chiều chiều quạ nói với diều 
 Vườn cau kia rậm thiệt nhiều gà con.” 
 Và : 
 “Chiều chiều ông Lữ đi câu 
 Bà Lữ đi xúc, con dâu đi mò” 
 Thời điểm buổi chiều thường xuất hiện khá nhiều trong đồng dao : “Chiều 
chiều”. Công thức thời gian này cũng xuất hiện không ít trong ca dao. Đây là một 
công thức truyền thống của ca dao trữ tình. Nhưng nếu trong ca dao “chiều chiều” 
gắn liền với sự thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình, thì trong đồng dao thời gian 
ấy gắn với các hoạt động đa dạng của cả con người và các loài vật : Chiều chiều – 
quạ lợp nhà – quạ nói với diều – ông Lữ đi câu, 
 1.3. Thời gian gắn với những hiện tượng tự nhiên : có 73/279 bài, 
chiếm tỷ lệ : 26,17 %. 
 Điểm khác biệt lớn nhất và đáng lưu ý nhất về thời gian trong đồng dao so với 
các thể loại văn học dân gian khác chính là : Thời gian trong đồng dao thường là 
thời gian hiện thực gắn chặt với những hiện tượng tự nhiên trong từng thời điểm ấy. 
Đó chính là kết quả của cả một quá trình lao động, đúc kết kinh nghiệm quý báu của 
người xưa. 
 Nếu trong ca dao dân ca có thời gian tâm lí thì trong đồng dao có “thời gian 
kinh nghiệm” và có xu hướng gần với những phạm trù chỉ thời gian được nêu trong 
tục ngữ. Đó chính là những sản phẩm kinh nghiệm có được từ sự quan sát, đúc kết và 
kiểm nghiệm từ hiện thực khách quan. Nó là một trong những giá trị tinh thần quý 
báu mà ông cha đã để lại cho chúng ta. 
 “Tháng giêng là gió hây hây 
 Tháng hai gió mát trăng bay vào đền 
 Tháng ba gió đưa nước lên 
 Tháng tư gió đánh cho mềm ngọn cây” 
 “Tháng giêng là nắng hơi hơi 
 Tháng hai là nắng giữa trời nắng ra 
 Thứ nhất là nắng tháng ba 
 Tháng tư có nắng nhưng mà nắng non” 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 64 
 Và : 
 “Tháng bảy ông thị đỏ da 
 Ông mít chớm chớm, ông đa rụng rời” 
 Như chúng ta đã thấy, ở mỗi bài đồng dao hướng đến những khái niệm thời 
gian cụ thể nêu trên đều cung cấp cho trẻ nhỏ những kiến thức cần thiết và bổ ích về 
các hiện tượng tự nhiên trong từng thời điểm cụ thể. Nó sẽ là vốn kinh nghiệm quý 
báu làm hành trang cho các em mai sau. 
 Nhìn chung, về thời gian trong đồng dao, nét đặc trưng cơ bản nhất chính là 
“thời gian kinh nghiệm”. Chính dạng thời gian này đã tạo ra được đặc trưng riêng 
cho thời gian đồng dao. Và đây chính là đặc sắc nghệ thuật của đồng dao. 
 2. Không gian nghệ thuật : 
 Khác với ca dao dân ca trữ tình không gian nghệ thuật thường là nơi nhân vật 
trữ tình đang đứng hoặc hình dung, suy tưởng; không gian nghệ thuật trong đồng dao 
thường mang tính chất tượng trưng, phiếm chỉ. 
 2.1/ Không gian siêu nhiên : 
 Nếu trong ca dao dân ca có không gian tâm lí : là nơi để nhân vật trữ tình bộc 
lộ những suy nghĩ, tình cảm của mình, là nơi chứng nhân cho những mối tình đẹp 
nhất thế gian, thì trong đồng dao có không gian siêu nhiên, không gian của đất trời, 
vũ trụ, có 11/279 bài, chiếm tỷ lệ : 3,94 %. 
 “Tôi ở trên trời 
 Tôi rơi xuống đất 
 Tưởng rằng tôi mất 
 Chẳng hóa tôi không” 
 Hay : 
 “Trên trời có chín ông vua 
 Ông nhất cầm cờ 
 Là ông méo miệng 
 Ông hai cầm liễn 
 Là ông gẫy tay” 
 Và : 
 “Trên trời có Đông có Tây 
 Có Nam có Bắc, có cây ngô đồng 
 Trên trời có cả cầu vồng” 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 65 
 Không gian “trên trời” thường được xuất hiện trong đồng dao. Dưới lăng kính 
trẻ thơ, trời là một nơi rất gần gũi và thân quen, nhưng cũng cao vời đầy bí ẩn khơi 
gợi sự khát khao khám phá, nắm bắt của trẻ. 
 Công thức : 
 Công thức không gian này thường xuất hiện trong đồng dao. Đi kèm theo 
công thức đó là sự trình bày những “hiểu biết” của trẻ về cõi không gian xa xăm, khó 
nắm bắt “trên trời”. Một mặt, nó thể hiện sự phong phú trong tâm hồn trẻ, mặt khác 
nó cho ta thấy trí tưởng tượng phong phú của các em. Đó không chỉ là ước mơ mà 
còn là cả một khát vọng lớn lao của trẻ ngay từ khi còn nhỏ. Nó là đôi cánh chắp 
thêm cho các em trên con đường bay đến ước mơ mai sau. 
 2.2/ Không gian phiếm chỉ : 
 Cũng giống như thời gian, không gian trong đồng dao cũng chính là không 
gian hiện thực – không gian diễn xướng. Đó là những không gian gắn liền với hoạt 
động vui chơi của trẻ, là nơi hàng ngày các em vui chơi, lao động : ngoài cánh đồng, 
trong vườn nhà, .Đó là tất cả những nơi các em có thể tổ chức trò chơi để cùng 
nhau ca hát, cùng nhau nhảy múa. 
 Những không gian này thường không cụ thể, có 268/279, chiếm tỷ lệ : 
96,06%. 
 “Vào vườn xem vượn hái hoa 
 Xem voi đi guốc, xem gà nhuộm răng 
 Xuống sông xem cá đấu roi 
 Xem tôi quần thảo, xem trai trở mình” 
 Hay : 
 “Lên rừng đánh mẻ cá trôi 
 Xuống sông đốn gỗ mà lôi về nhà” 
 Hoặc : 
 “Con cò đọc sách trên cây 
 Thấy đèn kếu kéo cả bầy sang thăm” 
 Và : 
 “Ếch ở dưới ao 
 Vừa ngớt mưa rào 
 Nhảy ra bì bõm” 
Trên trời có + sự vật , hiện tượng 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 66 
 Hay : 
 “Con gà cục tác cục te 
 Hay đỗ đầu hè 
 Hay chạy rông rông” 
 Nhìn chung : 
 - Không gian trong đồng dao thường là không gian phiếm chỉ, mang tính chất 
tượng trưng, không cụ thể là nơi nào cả, nhưng đa phần gắn với không gian sống của 
trẻ. 
 - Không gian trong đồng dao chính là không gian hiện tại – không gian diễn 
xướng. 
 - Đặc biệt không gian trong đồng dao còn là không gian siêu nhiên, thể hiện 
ước mơ lớn lao của trẻ trong việc khám phá vũ trụ bao la. 
V. MỘT SỐ BIỂU TƯỢNG TRONG ĐỒNG DAO : 
 Biểu tượng là những hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, thể hiện 
quan niệm thẩm mĩ, tư tưởng của từng nhóm tác giả (có khi của từng tác giả), từng 
thời đại, từng dân tộc và từng khu vực cư trú [Nguyễn Xuân Kính, 1992 : 185]. 
 Hệ thống các hình ảnh biểu tượng trong đồng dao khá phong phú. Các tác giả 
đồng dao đã gởi gắm rất nhiều tình cảm của mình vào những hình ảnh quen thuộc, 
thân thiết với đời sống con người Việt Nam : con bống, con trâu – con nghé, trăng 
sao,Những biểu tượng này không chỉ là sự gởi gắm, kí thác hình ảnh của người 
nông dân lao động vào đó. Mà còn là sự thể hiện cả một ước mơ, một hoài bão, một 
khát vọng của con người lúc bấy giờ. 
 Đồng dao sử dụng khá nhiều những công thức biểu tượng. Ở đây, chúng tôi 
xin phép mượn một số biểu tượng quen thuộc của ca dao để khảo sát tần số xuất hiện 
tương đối cao của chúng trong đồng dao. Trong dung lượng giới hạn của một luận 
văn tốt nghiệp, chúng tôi xin phép chỉ điểm qua một vài biểu tượng nổi bật mà thôi. 
1. Biểu tượng con bống : có 24/279 bài, chiếm tỷ lệ : 8,6 %. 
 Đối với người nông dân Việt Nam con bống có vẻ hiền lành, xinh xắn, cho 
nên mỗi khi nói đến nó họ thường gọi với giọng rất nâng niu, trân trọng, họ gọi nó là 
“cái” : “Cái bống đi chợ cầu canh, mua giấy mua bút cho anh vào trường”, 
 Trong ca dao xưa hình ảnh cái bống đã xuất hiện không phải ít. Nó thường là 
hình ảnh của những người phụ nữ, những cô gái đẹp,Và đến với đồng dao, hình 
ảnh ấy vẫn xinh đẹp, đáng yêu như thế. Bống trong đồng dao thường là hình ảnh của 
những đứa bé gái hiền lành, chăm chỉ và ngoan ngoãn : 
 “Cái bống là cái bống bang 
 Khéo sảy, khéo sàng giúp mẹ nấu cơm 
 Mẹ bống đi chợ đường trơn 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 67 
 Bống ra giúp mẹ chạy cơn mưa dầm.” 
 - “Cái bống đi chợ đường xa 
 Bống gặp bà già gánh nặng còng lưng 
 Bà già ngồi khóc rưng rưng 
 Bống xin gánh hộ đỡ lưng bà còng.” 
 - “Cái bống là cái bống bang.” 
 Hình ảnh con bống trong đồng dao thật đẹp đẽ. Nó không chỉ là những đứa bé 
gái hiền lành, chăm chỉ, mà đó còn là những đứa trẻ giàu lòng nhân ái, biết thương 
yêu, kính trọng, giúp đỡ người già : “Bống gặp bà già gánh nặng còng lưng”, “Bống 
xin gánh hộ đỡ lưng bà còng”. Còn là những đứa trẻ luôn biết yêu lao động và ý thức 
được trách nhiệm của mình đối với gia đình : “Khéo sảy khéo sàng giúp mẹ nấu 
cơm”, “Bống đi giúp mẹ chạy cơn mưa dầm”. 
 Hình ảnh con bống không chỉ “xinh xẻo” trong ca dao, mà đến với đồng dao 
hình ảnh ấy cũng vô cùng đẹp đẽ. Con bống luôn xuất hiện trong đồng dao với vẻ 
trong sáng, ngây thơ của những đứa bé gái hiền lành, siêng năng, giàu lòng nhân ái, 
sớm ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với gia đình. Và cao hơn hết, những 
đứa trẻ ấy còn sớm có được tình yêu lao động. Đây là một phẩm chất đẹp đẽ và cần 
thiết đối với mỗi con người chúng ta. 
 Có thể thấy rằng, trong đồng dao các tác giả dân gian đã mượn đời sống của 
con bống để nói lên đời sống của mình. Đặc biệt, đó thường là đời sống tình cảm tốt 
đẹp của những đứa trẻ nói chung, của những đứa bé gái nói riêng. 
2. Biểu tượng con nghé, con trâu : có 18/279 bài, chiếm tỷ lệ : 6,45%. 
 Khác với trẻ em thành thị, trẻ em nông thôn ngay từ nhỏ đã sớm làm quen với 
công việc, đặc biệt là những công việc đồng áng như : chăn trâu, cắt cỏ, mò cua, bắt 
ốc, xay lúa, giã gạo,Và chính từ những công việc hàng ngày diễn ra trên những 
cánh đồng xanh bát ngát ấy đã khiến cho hình ảnh con trâu, chú nghé đi vào đồng 
dao một cách thật tự nhiên và đẹp đẽ. Chúng đã trở thành những biểu tượng quen 
thuộc trong đồng dao. 
 - “Con nghé nhà ta 
 Chúa mới thả ra 
 Ăn đâu ăn đấy” 
 - “Nghé ơi ta bảo nghé này 
 Nghé ăn cho béo, nghé cày cho sâu 
 Ở đời khôn khéo chi đâu 
 Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ 
cần” 
 - “Nghé ọ nghé ơi 
 Nghé ăn rơm tươi 
 Nghé ăn cỏ tốt” 
 - “Nghé ơ. 
 Nghé bầu nghé bạn 
 Nghé cày ruộng cạn 
 Mẹ cày ruộng sâu” 
 - “Nghé ơi nghé à 
 Mày đi theo ta” 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 68 
 Hay những bài về con trâu : 
- “Ở với nhà giàu 
Cực đà hết sức 
 Hai mươi nó gặt”
- “Hư hư chựng chựng 
Chựng vững cho lâu 
 Một con trâu nằm 
Một trăm bánh giầy” 
 Hình ảnh con trâu, chú nghé hiện lên thật tự nhiên. Đó chính là hình ảnh được 
các tác giả đồng dao mượn để gởi gắm những suy nghĩ của mình về thân phận, về 
cuộc đời của họ. Nó nói lên nỗi cơ cực của những người nông dân thấp cổ bé họng. 
 Đó không chỉ là những con trâu, chú nghé thông thường mà đó chính là hình 
ảnh người nông dân hiền lành, chất phác, chăm chỉ lao động, vất vả một nắng hai 
sương ngoài ruộng đồng. 
 Cách vay mượn gởi gắm này rất tự nhiên, không gượng gạo. Trên cánh đồng 
làng bát ngát, người và trâu đã cùng nhau lao động biết bao ngày. Hai đối tượng này 
gắn bó với nhau, làm bạn đồng hành cùng nhau để cùng cày cấy, cùng làm lụng. Và 
do đó, tác giả đồng dao đã mượn hình ảnh của chú trâu cần cù ấy để gởi gắm những 
tâm sự, những chiêm nghiệm về thân phận, về cuộc đời của họ, dùng hình ảnh ấy để 
nói đến chính họ. 
 Trong đồng dao hình ảnh con trâu, chú nghé hiện lên rất đường hoàng, nó có 
mặt trong rất nhiều bài đồng dao. Nó là hình ảnh quen thuộc với trẻ nhỏ vùng nông 
thôn; bên cạnh đó nó còn là người bạn trung thành của nhà nông. Và họ đã mượn 
hình ảnh con trâu, chú nghé để cất lên tiếng nói tận đáy lòng mình một cách rất tự 
nhiên. 
 3. Biểu tượng trăng, sao : có 27/279 bài, chiếm tỷ lệ : 9,68 %. Đây là biểu 
tượng xuất hiện nhiều nhất trong ba loại biểu tượng mà chúng tôi khảo sát được. 
 Trăng, sao là những hình ảnh của thế giới siêu nhiên, mỗi ngày ta đều có thể 
nhìn thấy chúng trên bầu trời, nhưng lại khó có thể nắm bắt chúng. Đặc biệt, là ở 
những thời điểm mà đồng dao ra đời, khoa học kĩ thuật chưa phát triển thì khoảng 
cách ấy lại càng xa hơn. 
 Nhưng trong đồng dao, hình ảnh ấy lại rất quen thuộc, gần gũi. Các vì tinh tú 
như những người bạn, người thân trong gia đình của trẻ nhỏ. 
 Trăng sao đã trở thành những biểu tượng nghệ thuật trong đồng dao. Các tác 
giả đồng dao đã mượn những hình ảnh ấy để gởi gắm những ước mơ, khát vọng to 
lớn của con người lúc bấy giờ. Không chỉ có thế, đó còn là sự thể hiện ước mơ về 
một cuộc sống tốt đẹp, đại đồng, “vạn vật cùng giao hòa” trên trái đất này. 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 69 
 “Ông sảo ông sao 
 Ông vào cửa sổ” 
 - “Ông sảo ông sao 
 Xuống chơi với tôi 
 Có bầu có bạn” 
 - “Ông trăng ông xuống 
 Chơi với cậu tôi” 
 - “Ông trẳng ông trăng 
 Xuống chơi ông đất 
 Ông đất cho mõ” 
 Nhìn chung, thế giới biểu tượng trong đồng dao khá đa dạng : Đó là những 
hình ảnh rất quen thuộc, gắn bó với cuộc sống mỗi chúng ta. Nhưng khi vào đồng 
dao qua lăng kính và trí tưởng tượng phong phú của trẻ thơ những cái quen thuộc ấy 
đã trở nên đẹp đẽ vô cùng. Nó tạo cho ta cảm giác vừa quen và vừa lạ. Nó không chỉ 
khoác trên mình tấm áo mộc mạc hàng ngày, mà như có thêm một lớp áo mới tươi 
tắn hơn, rực rỡ hơn. 
 Tựu trung lại, thế giới biểu tượng trong đồng dao thường là những hình ảnh 
của đồng nội thân quen, đó là những con bống trong ao nhà, là những con trâu, con 
nghé ngoài đồng ruộng thân thương. Đặc biệt, trong thế giới biểu tượng ấy còn có cả 
những vì tinh tú nữa. Đi vào đồng dao, chúng là hình ảnh của những đứa trẻ ngoan 
ngoãn, chăm chỉ, sớm biết yêu lao động; là hình ảnh của những người nông dân thấp 
cổ bé họng, cần cù, chăm chỉ, một nắng hai sương với ruộng đồng. Đó còn là hình 
ảnh của những ước mơ, những khát vọng lớn lao, đẹp đẽ,Thế giới biểu tượng ấy sẽ 
góp phần làm phong phú thêm cho đồng dao Việt Nam, và làm cho kho tàng đồng 
dao ngày càng đẹp đẽ, trong sáng và phổ biến hơn. 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 70 
C. PHẦN KẾT LUẬN : 
 Sức cuốn hút mạnh mẽ của những lời ca trong sáng, mộc mạc, giản dị, cùng 
với sự say mê và khát vọng khám phá thế giới đồng dao tràn đầy vẻ ngây thơ, hồn 
nhiên và trong trẻo đã thôi thúc chúng tôi đến với đề tài : “Tìm hiểu nội dung và nghệ 
thuật của đồng dao Việt Nam”. Đến với đề tài nghiên cứu còn khá mới mẻ, chúng tôi 
cũng có được những thuận lợi và khó khăn nhất định. Thuận lợi là có được những 
công trình sưu tầm đồng dao khá công phu của các học giả đi trước như : Nguyễn 
Nghĩa Dân, Trần Gia Linh, là nguồn tư liệu vô cùng quý báu để chúng tôi tiến 
hành khảo sát, phân loại, tìm hiểu đặc sắc nội dung và nghệ thuật đồng dao. Khó 
khăn, đồng dao là một thể loại văn học dân gian ra đời từ rất sớm, nhưng cho đến 
nay, chúng tôi chưa được tiếp cận với một công trình nào nghiên cứu đồng dao một 
cách chuyên sâu và hoàn chỉnh. Do đó, chúng tôi chưa có được những định hướng 
bước đầu cần thiết cho quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, đào sâu thế giới đồng dao, mà 
phải tự mò mẫm để tìm được con đường ngắn nhất có thể khám phá một cách hiệu 
quả nhất những đặc sắc nội dung và nghệ thuật đồng dao. Bắt tay vào quá trình 
nghiên cứu một công trình khoa học, với trình độ và năng lực hạn hẹp; kiến thức và 
sự am tường lịch sử, xã hội khiêm tốn, chúng tôi không dám khẳng định mình sẽ 
cống hiến một công trình nghiên cứu hoàn hảo. Song, bằng nhiệt huyết và sự cần cù 
ham học hỏi, ham khám phá, từ những tiền đề nhất định, chúng tôi xin đem đến một 
vài đóng góp khiêm tốn trong hành trình khám phá vẻ đẹp ngọt ngào, giản dị mang 
tính chất truyền thống của đồng dao Việt Nam. 
 Qua quá trình khảo sát, khóa luận đã góp phần khẳng định giá trị không thể 
phủ nhận về nội dung và hình thức nghệ thuật của đồng dao Việt Nam, khẳng định 
vai trò to lớn của đồng dao trong đời sống văn hóa tinh thần con người Việt Nam. 
 Với khả năng hạn chế, qua khóa luận chúng tôi cố gắng thực hiện được những 
nhiệm vụ sau : 
 Thứ nhất, tiếp tục làm sáng tỏ khái niệm đồng dao (đến nay còn chưa thống 
nhất). Đây là cơ sở lí luận và là nền tảng quan trọng để chúng tôi tiến hành chọn lọc, 
phân loại, đánh giá đối tượng một cách chính xác và khoa học. Mặt khác, việc xác 
định được khái niệm đồng dao là tiêu chí quan trọng để chúng tôi so sánh đối chiếu 
đồng dao với các thể loại văn học dân gian khác, từ đó tìm ra điểm tương đồng và dị 
biệt giữa chúng. Từ cơ sở này, chúng tôi khẳng định vai trò to lớn và vị trí đáng kể 
của đồng dao trong dòng văn học dân gian nước nhà. 
 Thứ hai, từ những sản phẩm mà quá trình chọn lọc, phân loại thu nhận được, 
chúng tôi tiến hành thống kê, khảo sát tần số xuất hiện, mức độ biểu hiện của những 
bài đồng dao ấy trong thế giới đồng dao. 
 Thứ ba, bên cạnh sự thống kê, khảo sát thế giới đồng dao theo từng tiểu loại 
của sự phân loại bước đầu, chúng tôi mạnh dạn đi sâu vào giải mã chúng để thấy 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 71 
được một số nét đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam. Qua 
đó, giúp cho người đọc có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc về đối tượng. 
 Thứ tư, từ những đặc sắc nội dung nghệ thuật của đồng dao Việt Nam thu 
nhận được, chúng tôi tiếp tục khẳng định những giá trị độc đáo và vai trò to lớn của 
tiểu loại này trong hệ thống thể loại của nền văn học dân gian nước nhà. 
 Qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy thế giới đồng dao Việt 
Nam nổi bật lên những điểm đáng chú ý sau : 
 Về khái niệm : 
 Người viết đưa ra một khái niệm mới mà chúng tôi cho rằng có thể phần nào 
khái quát những đặc trưng cơ bản của đồng dao : Đồng dao là những sáng tác dân 
gian dành cho trẻ em, được các em diễn xướng và lưu truyền, đối tượng hướng tới là 
trẻ em. Đồng dao là một khái niệm tập hợp, bao gồm những tác phẩm thuộc các thể 
loại khác nhau như : hát ru, vè, câu đốnhưng được sáng tác dành cho trẻ em, phục 
vụ cho nhu cầu vui chơi, giải trí và ca hát của trẻ, thì đều được gọi là đồng dao. Cả 
lời và nhạc, nội dung và hình thức của đồng dao đều mang tính chất hồn nhiên, chất 
phác phù hợp với tâm sinh lý tuổi nhỏ. 
 Về nội dung : 
 Đồng dao là một thế giới muôn màu sắc, muôn thanh âm. Những bài đồng dao 
đã “ngân lên” trong lòng mỗi con người Việt Nam thật nhiều giai điệu dịu dàng, êm 
ái từ thuở ấu thơ, và cho đến khi trưởng thành ta vẫn tìm về nó như tìm lại lời ru ngọt 
ngào của mẹ từ thuở còn nằm nôi. Chính vì lẽ đó mà thế giới nội dung trong đồng 
dao vô cùng phong phú và đa dạng. Đó là một cây đàn ngân lên muôn điệu yêu 
thương. Nó phản ánh hiện thực đời sống một cách chân thực và sinh động qua lăng 
kính trẻ thơ. Đồng thời, nó còn chứa đựng trong đó những ước mơ, khát vọng, hoài 
bão lớn lao của ông cha ta từ ngàn xưa. Thông qua những nội dung biểu hiện ấy, 
chúng ta phần nào nhận ra được những quan điểm thẩm mĩ, nhân sinh và thế giới 
quan của người bình dân lúc bấy giờ. 
 Về hình thức nghệ thuật : 
 Thế giới nghệ thuật trong đồng dao vô cùng phong phú và đặc sắc. Mặc dù 
mục tiêu hướng tới của đồng dao là trẻ nhỏ, nhưng không phải vì lẽ đó mà nghệ thuật 
đồng dao kém phần hấp dẫn; ngược lại, nó vô cùng đa dạng, sống động và đặc sắc. 
Đó không chỉ là kết cấu lặp lại hết sức phức tạp và lí thú, mà đó còn là thế giới ngôn 
ngữ hàm súc, sống động, gợi hình gợi cảm, sử dụng nhiều phép so sánh, nhân hóa; là 
những thể vãn ngắn gọn, nhịp nhàng; là những không - thời gian tràn đầy hoa thơm 
cỏ lạ của đất trời Việt Nam; là thế giới biểu tượng vừa quen vừa lạ, vừa giản dị vừa 
bay bổng đã vẽ lại chân dung và chuyển tải ước mơ của con người bấy giờ. Thế giới 
ấy đã góp phần tạo nên những giá trị đặc sắc cho đồng dao, tạo cho đồng dao một 
“phong vị” rất riêng. Đồng thời, nó còn thể hiện tài năng nghệ thuật, quan niệm thẩm 
mĩ của các tác giả dân gian. 
 Bên cạnh những nhận định và đóng góp bước đầu khi nghiên cứu thế giới nội 
dung, nghệ thuật trong đồng dao, chúng tôi còn nhận thấy nhiều vấn đề lí thú có liên 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí Trang 72 
quan đến đề tài. Điển hình như sự tương đồng về hình thức biểu đạt giữa đồng dao 
và sách “Tam thiên tự”, sự gần gũi giữa đồng dao và thơ thiếu nhi, 
 Chúng tôi rất mong muốn có thể trở lại đề tài này trong những công trình 
nghiên cứu chuyên sâu hơn dưới sự định hướng, hỗ trợ của các học giả đi trước và sự 
dẫn dắt nhiệt tình của quý thầy cô. Dẫu rằng trong những bước chân chập chững đầu 
tiên này không thể tránh khỏi sự vấp váp, vụng về. Nhưng chúng tôi tin rằng, dù 
thiếu sót hay hoàn chỉnh thì những kiến giải của công trình nghiên cứu này cũng trở 
thành kinh nghiệm quý báu trong hành trình tìm vẻ đẹp của thơ ca dân gian. Chúng 
tôi gởi sự tri ân sâu sắc đến tình đất, tình người hồn hậu đã cho chúng tôi kho tài 
nguyên tinh thần vô giá, vĩnh hằng. Với niềm trân trọng, tin yêu xin được góp một 
phần công sức nhỏ bé của mình vào quá trình tìm kiếm, gìn giữ và mài sáng những 
hạt ngọc óng ánh trong kho tàng văn học dân gian nước nhà. 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí 
 PHẦN PHỤ LỤC : 
“HÌNH ẢNH NHỮNG TRÒ CHƠI ĐỒNG DAO” 
Trò chơi đồng dao : “Đánh khăng, đánh đáo”. 
 Trò “Chuyền thẻ”. 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí 
Trò “Rồng rắn lên mây”. 
 Trò “Đánh đu”. 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí 
Trò “Bập bênh”. 
Trò “Kéo co”. 
Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam 
 Trần Thị Quí 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
XT1275.pdf