Thứ hai là kiểu diễn đạt trong những câu thơ của Nguyễn Trãi rất giống kiểu
diễn đạt ở các câu tục ngữ, ca dao: Tục ngữ, ca dao sử dụng hình thức đối giữa hai vế:
Khó khăn – đỗ trạng, nghèo hèn – giàu sang, khi vui – hoạn nạn, giàu sang – khó khăn,
giàu – khó, gắn liền với các vế đối trên là sự xuất hiện của các động từ: nhìn, chơi, hỏi
thăm, vỗ tay, đón chào, hỏi han, tìm đến.
Thơ Nguyễn Trãi cũng có hai vế đối: Đắc thời – thất sở, khống khảy – khó khăn,
của nhiều – khó, phú quý – gian nan, đi liền với các vế đối là các động từ: đến, đi, thốt,
roi, han, ân cần, họa.
Qua đây, có thể thấy, nếu những câu tục ngữ, ca dao, trật tự các vế đối không ổn
định, vế đầu có thể là giàu sang hoặc nghèo hèn thì trong các câu thơ của Nguyễn Trãi
trật tự của các vế đối khá ổn định. Vế đầu bao giờ cũng là chỉ sự giàu sang, phú quý. Vế
thứ hai là khó khăn nghèo hèn. Đặc biệt là ông có sự sáng tạo hơn ở vế thứ hai, vế nói
về sự khó khăn Vế này xuất hiện với tần số cao hơn so với về đầu. Cụ thể như trong
bài Bảo kính cảnh giới, số 12. Vế đầu nói về sự giàu sang phú quý có một câu đối với
vế hai nói về sự gian nan, khó khăn thì có tới những ba câu.
69 trang |
Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 1754 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i ông
sử dụng các cặp từ đối lặp như : khổ nhục – phong lưu
Thoát khỏi cuộc sống nơi triều quan, Nguyễn Trãi lui về với cuộc sống “an bần
lạc đạo”. Ông hoà mình vào với cảnh vật, với con người và với con người của cuộc
sống thôn quê.
Khi thì ông vui với thiên nhiên:
Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng.
( bài 16 )
Có khi ông lại đóng vai một nông dân cần cù chăm chỉ:
Ao cạn vớt bèo cấy muống
Trì thanh phát cỏ ương sen.
( bài 69 )
Ao quan thả gửi hai bè muống
Đất bụt ương nhờ một lãnh mùng.
( bài 68 )
Câu thơ gợi cho ta liên tưởng đến câu ca dao:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương.
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 37
Đúng vậy! Bữa ăn ở thôn quê dù rất đạm bạc chỉ với bát canh rau muống và món
dưa cà dầm tương nhưng nó đã khiến cho những ai xa quê lòng luôn hướng về quê
hương với nỗi nhớ da diết, khôn nguôi.
Nguyễn Trãi đã thấy được hết giá trị của quê hương, thấu hiểu được hết ý nghĩa
từ những câu ca dao dân gian. Lúc này đây, ông đang được sống trên mảnh đất của quê
hương. Ông đang được trải lòng mình để hoà vào cuộc sống của thôn quê. Chính vì vậy
mà ông đang cố gắng phát huy hết tất cả những giá trị tinh thần và vật chất của quê
hương. Từ cách ăn uống rất đạm bạc chỉ có dưa muối đến những y phục tầm thường đơn
giản như những người nông dân thực thụ:
Bữa ăn dù có dưa muối
Áo mặc nài chi gấm là.
( bài 4 )
Cơm ăn chẳng quản dưa muối
Áo mặc nài chi gấm thêu.
( bài 22 )
Hoà mình với cuộc sống ở thôn quê, Nguyễn Trãi đã cảm nhận được cuộc sống
ở nơi đây thật bình thản và hạnh phúc:
Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong nội, cá trong ao.
( bài 35 )
Có thể nói thái độ sống của Nguyễn Trãi chính là thái độ sống của một nho sĩ
chân chính. Ông đã “sống trọn vẹn ý nghĩa của một con người” (Nguyễn Hữu Sơn,
2003: 499).
Ở trên, chúng ta đã biết do bất mãn với cuộc sống chốn triều quan nên Nguyễn
Trãi mới lui về ở ẩn, hưởng một cuộc sống thanh nhàn bên con lều bé bé, bên án sách
cây đèn, bên luống rau muống, lãnh mùng tơi. Nhưng đối với một người như Nguyễn
Trãi thì chỉ có thân nhàn chứ tâm không thể nhàn được. Bởi dù Nguyễn Trãi có làm
quan hay lui về ở ẩn thì trong sâu thẳm tâm hồn của ông vẫn luôn chồng chất những tâm
sự:
Bui một niềm trung hiếu cũ
Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh.
( bài 158 )
Theo quan niệm của dân gian, chữ hiếu được hiểu theo nghĩa là thờ cha kính mẹ
như câu tục ngữ từng nói:
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Câu tục ngữ chia làm hai vế: Vế đầu nói về công cha, vế sau nói về nghĩa mẹ.
Cũng chịu ảnh hưởng bởi đạo hiếu của dân gian, nhưng Nguyễn Trãi còn là một nho sĩ
chân chính chịu ảnh hưởng nhiều bởi tư tưởng của đạo nho nên quan niệm của ông có
sự nâng cao hơn so với dân gian. Với ông, hiếu ở đây chính là “đại hiếu”, bao gồm cả
tình nhà và nợ nước, điều làm ông đã day dứt khôn nguôi suốt cả cuộc đời. Tâm nguyện
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 38
lớn nhất của Nguyễn Trãi đó là đem hết sức mình để giúp vua, giúp nước, thực hiện
được hoài bão an dân. Ông muốn nhân dân có cuộc sống an lành, hạnh phúc, sao cho
khắp hang cùng xóm vắng không còn một tiếng hờn giận oán sầu. Bởi vậy, suốt cuộc
đời Nguyễn Trãi luôn canh cánh không yên vì những tâm sự chồng chất với nước, với
dân, với vua, với cha mẹ. Có lúc, tâm sự ấy dồn nén và được ông thể hiện trong một câu
thơ thất ngôn hoặc lục ngôn:
Bui có một niềm chăng nỡ trễ
Đạo làm con liễn đạo làm tôi.
( bài 2 )
Cốt lánh hồn thanh chăng khứng hoá
Âu còn nợ chúa cùng cha.
( bài 54 )
Có khi, tâm sự ấy được tách làm hai vế trong hai câu thơ thất ngôn. Một vế nói
về nỗi lòng nợ nước, một vế nói về nỗi lòng nợ cha:
Cơm áo khôn đền Nghiêu Thuấn trị
Tóc tơ chưa báo mẹ cha sinh.
( bài 65 )
Quân thân chưa báo lòng canh cánh
Tình phụ cơm trời áo cha.
( bài 8 )
Khỏi triều quan mới hay ơn chúa
Sinh được con thì cảm đức cha.
( bài 39 )
Khi thì ông lại dồn những tâm sự đó vào trong một câu thơ thất ngôn nhưng tách
làm ba vế rõ ràng cụ thể. Qua đó cho ta thấy được sự day dứt khôn nguôi của Nguyễn
Trãi
Ơn thầy / ơn chúa / liễn ơn cha.
( bài 39 )
Như vậy là từ câu tục ngữ nói về đạo hiếu theo quan niệm của dân gian, Nguyễn
Trãi đã phát triển và nâng lên thành quan niệm riêng của ông về đạo hiếu. Sự sáng tạo
của Nguyễn Trãi còn thể hiện trong cách dùng từ ngữ. Ông dùng từ rất đa dạng và
phong phú chẳng hạn như từ điển tích: Nghiêu Thuấn, từ cổ: liễn, các tính từ: canh
cánh, điệp từ: ơn, cơm, áo, các đại từ: chúa, cha, thầy, quân thân, con,
Với sự sáng tạo trên, Nguyễn Trãi đã làm cho những câu nói về đạo hiếu không
còn mang tính triết lý khô khan mà lại thể hiện được những tâm sự thầm kín, sâu sắc
của nhà thơ.
Nguyễn Trãi rất mực đề cao tư tưởng đạo đức của quần chúng, đồng thời ông
cũng uốn nắn những quan niệm chưa đúng trong dân gian. Chẳng hạn như từ câu ca
dao:
Anh em như thể tay chân
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 39
Vợ chồng áo mặc đổi thay tức thì.
Nguyễn Trãi đã viết thành hai câu thơ thất ngôn:
Chân tay dù đứt bề khôn nối
Xống áo chẳng còn mô dễ xin.
( bài 172 )
Chúng ta thấy rõ ràng câu ca dao trên ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, chỉ
coi trọng quan hệ huyết thống: Anh em như tay với chân không thể tách rời nhau được,
mà lại xem nhẹ tình cảm vợ chồng như: áo mặc có thể thay đổi dễ dàng, nhanh chóng.
Đó là một quan niệm chưa đúng, Nguyễn Trãi đã uốn nắn bằng cách đưa ra một quan
niệm riêng của mình. Theo ông, nếu quan hệ anh em như tay với chân, đứt rồi không thể
nối lại được thì quan hệ vợ chồng như xống áo, nhưng nếu đã mất rồi thì cũng rất khó
bề tìm lại được.
Như vậy, việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào trong sáng tác của
Nguyễn Trãi không chỉ là sự tiếp nhận một chiều. Sự “phản biện” ý nghĩa ở trường hợp
nêu trên dù chưa phải là phổ biến nhưng nó chứng tỏ rằng trước một trường hợp vận
dụng nào trong việc đưa thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào sáng tác của mình, Nguyễn Trãi
đều cân nhắc, phân tích, tìm tòi, đào sâu ý nghĩa. Ông không chỉ sử dụng mà là vận
dụng, không chỉ tái tạo mà còn là sự sáng tạo không ngừng. Thành ngữ, tục ngữ, ca dao
có thơ Nguyễn Trãi làm phong phú thêm, trí tuệ và “bác học” hơn; Thơ Nguyễn Trãi lại
có thành ngữ, tục ngữ, ca dao làm điểm tựa để trở nên gần gũi hơn, bình dân hơn và đại
chúng hơn.
Qua hình thức sử dụng sáng tạo ra ý mới và thay đổi hình thức ngôn ngữ từ
thành ngữ, tục ngữ, ca dao, ta thấy:
Nguyễn Trãi có xu hướng sáng tạo ý mới từ thành ngữ nhiều hơn so với tục ngữ
và ca dao. Lý do, có lẽ vì thành ngữ chỉ mới là một phán đoán chưa có giá trị thông báo,
chỉ mới là một từ, ngữ trong quan hệ ngữ pháp – thậm chí là một hiện tượng diễn đạt -
nói có vần có điệu. Vì vậy, để thành ngữ đi vào đời sống một cách cô đúc hơn, sâu sắc
hơn, Nguyễn Trãi đã sáng tạo ra ý mới. Kết quả của những sáng tạo này là hình ảnh câu
thành ngữ mờ đi và câu thơ của Nguyễn Trãi lại sắc sảo, thâm thúy hơn rất nhiều.
Tương tự, hình thức ngôn ngữ cũng vậy. Ta hầu như không còn nhìn thấy
nguyên vẹn cách diễn đạt của dân gian trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao như đã có mà ý
từ thành ngữ, tục ngữ, ca dao đã chuyển hóa vào câu thơ Nguyễn Trãi, như thể chính
Nguyễn Trãi mới là người sáng tạo ra thành ngữ, tục ngữ, ca dao.
Sự sáng tạo này, một lần nữa khẳng định sự thâm nhập sâu sắc của con người
Nguyễn Trãi – tâm hồn tư tưởng - tình cảm của Nguyễn Trãi vào trong kho tàng phong
phú của thành ngữ, tục ngữ, ca dao.
2.2.3. Rút gọn tục ngữ, ca dao
Sau khi tiến hành khảo sát tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, chúng tôi
đã thống kê được 8/1908 câu thơ, chiếm 0,4% được Nguyễn Trãi lấy ý chính trong một
câu tục ngữ, ca dao dài bằng cách rút gọn khuôn vào những câu thơ cách luật. Để hiểu
rõ hơn về hình thức sử dụng này, dưới đây, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu một số câu thơ
cụ thể:
Câu tục ngữ khá dài: “khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương, dở dở
ương ương chỉ tổ cho người ta ghét” đã được Nguyễn Trãi rút gọn và cắt ra làm hai câu
đưa vào phần đề trong bài Bảo kính cảnh giới, số 30:
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 40
Chẳng khôn chẳng dại luống ương ương
Chẳng dại người hoà lại chẳng thương.
( bài 157 )
Ở đây, Nguyễn Trãi đã lấy được trọn vẹn ý nghĩa của câu tục ngữ và sử dụng
được hai vần ương, thương rút ra từ bản thân câu tục ngữ.
Từ câu tục ngữ và câu ca dao:
- Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
- Giàu thì trữ của trữ tiền
Nghèo thì tích đức để hiền cho con.
Nguyễn Trãi đã lấy ý chính và rút gọn khuôn vào trong câu đầu của cặp thực bài
Tự thán, số 41:
Tích đức cho con hơn tích của.
( bài 111 )
Hoặc là trong câu cuối cặp luận bài Bảo kính cảnh giới, số 22:
Hãy năng tích đức để hiền cho con.
( bài 149 )
Về mặt ý nghĩa, câu thơ vẫn bám được ý nghĩa của câu tục ngữ, ca dao qua các
từ: đức, con, của, tích, cho.
Về mặt hình thức, Nguyễn Trãi đã rút ý từ câu tục ngữ, ca dao dạng lục bát (14
từ) thành câu thơ thất ngôn (7 từ).
Hay là từ câu ca dao:
Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời cho con.
Nguyễn Trãi đã rút gọn và khuôn vào trong câu cuối cặp luận bài Mạn thuật, số
5:
Trồng cây đức để con ăn.
( bài 27 )
Cũng tương tự với trường hợp của hai câu thơ trên:
Về mặt ý nghĩa, câu thơ này đã bám được ý nghĩa của câu ca dao qua các từ như
cây, đức, con, trồng, để.
Về hình thức, tác giả đã rút gọn ý của câu ca dao dạng lục bát thành câu thơ lục
ngôn với cách ngắt nhịp 2/2/2, rất giống với cách ngắt nhịp trong ca dao. Mặt khác, ta
thấy câu ca dao trên được xây dựng theo lối kết cấu đối đáp của ca dao. Nhân vật trữ
tình trong bài ca dao như đang trả lời cho một đối tượng nhất định: người – ta. Ngược
lại câu thơ của Nguyễn Trãi không được xây dựng theo theo kết cấu trên, nhưng nó lại
mang tính triết lý rõ rệt.
Có khi là từ câu ca dao:
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 41
Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.
Nguyễn Trãi đã khéo léo rút các từ ngữ trong hai vế của câu ca dao: mòn, bia
miệng; thêm vào một số từ ngữ và sắp xếp sao cho thành một câu thơ thất ngôn vừa
hoàn chỉnh về kết cấu, vừa hàm súc về ý nghĩa để đưa vào câu phá đề bài Bảo kính cảnh
giới, số 55:
Để truyền bia miệng kiếp nào mòn.
( bài 182 )
Câu tục ngữ nói về đức cần:
Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dễ đem phần đến cho.
được Nguyễn Trãi rút gọn và khuôn vào câu cuối cặp thực bài Bảo kính cảnh
giới, số 46:
No ăn no mặc bởi hay làm.
( bài 173 )
Câu thơ này vẫn bám được ý nghĩa của câu tục ngữ qua các từ: ăn, làm. Nhưng
sự sáng tạo của Nguyễn Trãi ở đây chính là ông đã đảo vị trí các từ để tạo thành câu thơ
thất ngôn có kết cấu hai vế rõ ràng: Vế đầu chỉ kết quả (no ăn no mặc), và vế sau là nói
về nguyên nhân (bởi hay làm)
Nói về nhân tình thế thái, ca dao có câu:
Lúc khó thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em.
Ý của câu ca dao trên được Nguyễn Trãi rút gọn và đưa vào làm câu phá đề bài
Bảo kính cảnh giới, số 13:
Phú quý thì nhiều kẻ đến chen
( bài 140 )
Ta thấy câu ca dao dân gian đã được chia làm hai vế đối lập để nói về nhân tình
thế thái: lúc khó – đỗ trạng. Nguyễn Trãi đã lược bỏ đi một vế đầu của câu ca dao
nhưng ý nghĩa của câu thơ không vì thế mà thay đổi hay giảm bớt. Ngược lại, nó càng
làm cho ý nghĩa của câu thơ hàm súc hơn nhờ việc kết hợp khéo léo giữa các tính từ,
đại từ, động từ: phú quý, nhiều, kẻ, chen; vừa tạo cho câu thơ mang màu sắc biểu cảm,
vừa thể hiện rõ hơn ý nghĩa của câu thơ. Đặc biệt là qua đại từ phiếm chỉ: kẻ đã phần
nào bộc lộ thái độ đau đớn xót xa của nhà thơ trước nhân tình thế thái.
Câu ca dao đề cao công ơn cha mẹ:
Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.
đã được Nguyễn Trãi lấy ý chính và rút gọn vào trong câu đầu cặp luận bài Bảo
kính cảnh giới, số 37:
Có con mới biết ơn cha nặng.
( bài 104 )
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 42
Tất cả những câu tục ngữ, ca dao mà chúng tôi đã trích ở trên đa số là đều được
làm bằng thể thơ truyền thống. Nguyễn Trãi đã lấy ý và rút gọn khuôn vào trong câu thơ
thất ngôn, có khi là câu thơ lục ngôn. Qua đó, chúng ta có thể thấy được tài năng trong
việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.
Từ hiện tượng lấy ý và rút gọn thành ngữ, tục ngữ, ca dao, chúng tôi có một số
nhận xét sau:
- Nguyễn Trãi có xu hướng sử dụng lấy ý và rút gọn ca dao hoặc tục ngữ có hình
thức ca dao nhiều hơn. Đó là những câu lục bát 14 từ và được rút gọn thành câu lục
ngôn hoặc thất ngôn (6 và 7 từ).
- Khi rút gọn, Nguyễn Trãi vẫn trung thành với ý tưởng, nội dung của câu thành
ngữ, tục ngữ, ca dao. Ông có xu hướng lược bớt những hư từ, phụ từ. Những đại từ chỉ
người cũng được hiểu ngầm trong ngữ cảnh của câu thơ và rút gọn đi. Đa số các câu thơ
rút gọn đều giữ lại các danh từ, động từchứa hàm lượng nghĩa cao và phong phú.
2.2.4. Ghép thành ngữ, tục ngữ, ca dao
Bên cạnh việc rút gọn thành ngữ, tục ngữ, ca dao thì Nguyễn Trãi còn sử dụng
hình thức lấy ý từ những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao ghép lại thành hai câu thơ cách
luật trong phần thực hoặc phần luận, hoặc phần kết. Chúng tôi đã thống kê được 13 trên
tổng số 1908 câu thơ trong Quốc âm thi tập, chiếm 0,7% được Nguyễn Trãi ghép ý
giữa các câu thành ngữ với thành ngữ, thành ngữ với tục ngữ, thành ngữ với ca dao, tục
ngữ với tục ngữ, tục ngữ với ca dao và ca dao với ca dao. Qua đó, chúng ta thấy được
giá trị nghệ thuật cũng như ý đồ sáng tạo của tác giả.
Trong thơ Nôm Đường luật thế kỷ XV – nửa đầu thế kỷ XVIII có một chủ đề rất
nổi bật, đó là chủ đề triết lý giáo huấn. Những tri thức về tự nhiên xã hội, những phương
châm ứng xử giữa người với người, những kinh nghiệm sống, đạo lý dân tộcđược đúc
rút trong thành ngữ, tục ngữ là nguồn thi liệu phong phú để thể hiện chủ đề nói trên. Nội
dung Đường luật Nôm đã tìm thấy một hình thức biểu đạt thích hợp của thành ngữ, tục
ngữ, ca dao. Hơn nữa, thành ngữ, tục ngữ, ca dao với đặc điểm ngắn gọn, cân đối về
hình thức, hàm súc về nội dung nên rất phù hợp với thơ Nôm Đường luật.
Sau đây, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu cụ thể từng mặt nội dung và hình thức, từ
đó rút ra được vai trò của Nguyễn Trãi trong bước đầu vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca
dao vào trong thơ Nôm Đường luật.
Từ câu thành ngữ “cái sảy nảy cái ung” và câu tục ngữ “con sâu làm rầu nồi
canh”, Nguyễn Trãi đã lấy ý và ghép thành một cặp câu luận bằng lục ngôn trong bài
Bảo kính cảnh giới, số 9:
Chẳng ngừa nhỏ âu nên lớn
Nếu có sâu thì bỏ canh.
( bài 136 )
Với việc giữ lại các từ ngữ: nhỏ, lớn, sâu, canh, Nguyễn Trãi không chỉ giữ
được giá trị nội dung của câu thành ngữ, tục ngữ mà ông còn làm cho ý nghĩa của nó
được khái quát hơn, sâu sắc hơn và đặc biệt là mềm mại hơn trong cách thể hiện tâm
trạng của Nguyễn Trãi - một mối tiên ưu dành cho dân cho nước.
Thật vậy! Cái “nhỏ” mà không ngừa thì sẽ thành cái “lớn” cũng giống như
“canh” dù rất ngon ngọt những nếu có “sâu” thì dứt khoát phải bỏ. Đó là một quy luật
tất yếu trong cuộc sống mà ở đây Nguyễn Trãi đã chiêm nghiệm cho đời, cho quốc gia,
cho dân tộc và cho cả bản thân mình.
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 43
Trong một cặp câu luận bài Bảo kính cảnh giới, số 46, Nguyễn Trãi viết:
Một cơm hai việc nhiều người muốn
Hai thớ ba dòng hoạ kẻ tham.
( bài 173 )
Hai câu thơ này Nguyễn Trãi đã lấy trọn vẹn cả hai câu thành ngữ mang ý nghĩa
trái ngược nhau: Một câu mang hàm ý ca ngợi: một cơm hai việc và một câu mang hàm
ý phê phán những kẻ đứng núi này trông núi nọ không chuyên tâm vào một công việc:
hai thớ ba dòng để ghép thành một cặp câu thơ thất ngôn. Câu thơ cho ta thấy Nguyễn
Trãi luôn chiêm nghiệm lật trở vấn đề từ nhiều góc độ. Ý nghĩa của chúng bổ sung cho
nhau từ những câu có ý nghĩa tương đồng nhưng đồng thời từ những câu có ý nghĩa trái
ngược nhau cũng bổ sung ý cho nhau làm cho người đọc có một sự suy ngẫm, một cái
nhìn, một cách đánh giá vấn đề một cách toàn diện hơn.
Tiếp theo, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu cách ghép giữa tục ngữ với ca dao để thấy
được sự uyển chuyển trong cách vận dụng tục ngữ, ca dao của Nguyễn Trãi hoàn toàn
thoát thai hẳn dạng kết cấu một vế trong tục ngữ cũng như dạng lục bát ở ca dao:
Chúa đàn nẻo khỏi tan con nghé
Hòn đất bầu làm mất cái chim.
( bài 150 )
Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn
Lòng người quanh nữa nước non quanh.
( bài 136 )
Theo chúng tôi hai cặp câu thơ này được lấy từ các câu tục ngữ, ca dao sau:
- Xảy đàn tan nghé
- Đất bụt mà ném chim trời
Chim thì bay mất đất rơi xuống chùa.
- Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo
- Mai mưa trưa tạnh chiều nồm
Trời còn luân chuyển huống mồm thế gian.
- Sông sâu còn có kẻ dò
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.
Hai cặp câu thơ vô cùng ngắn gọn của Nguyễn Trãi thật sự là sự tinh lọc, cô đặc
đến điển hình cái túi khôn của dân gian. Những câu thơ trên được làm theo thể thất
ngôn bát cú Đường luật – một dạng thơ quy định chặt chẽ về cấu tứ nhưng lại được
Nguyễn Trãi vận dụng mềm mại bằng những ngôn từ của dân gian, các hình ảnh đa
dạng trong tục ngữ được vận dụng vào thơ như chèn khít với nhau, số lượng chữ được
nén lại làm cho câu thơ của Nguyễn Trãi vừa gọn, vừa bao quát và vừa ẩn hiện trong đó
cái chất dân gian quen thuộc dung dị, dễ dàng đi vào lòng người đọc nhưng cũng không
mất đi cái hình thức trang nhã vốn có của thơ Đường luật.
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 44
Cuối cùng, chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu cách ghép ý giữa các câu ca dao với nhau
trong thơ Nguyễn Trãi. Tuy nó chiếm số lượng không nhiều trong tập thơ Quốc âm thi
tập, nhưng qua đó ta cũng thấy được cái tài tình, sự khéo léo của Nguyễn Trãi trong
việc lồng ghép ý nghĩa giữa chúng lại với nhau. Đồng thời, sự chuyển đổi từ thể lục bát
sang thể thất ngôn đã làm cho ý nghĩa cũng như cái hay của ngôn từ thêm đặc sắc.
Nhân dân ta luôn đề cao tình nghĩa, đặt tình nghĩa lên trên bất cứ thứ ngọc vàng
châu báu nào biểu hiện qua một số câu ca dao:
- Tham vàng bỏ nghĩa ai ôi
Vàng ăn hay hết nghĩa tôi đang còn.
- Tham vàng bỏ đống gạch đầy
Vàng thì ăn hết gạch xây nên thành.
Và không thể thiếu câu ca dao sau trong những tiếng khen chê của người đời:
Trăm năm bia đá thì mòn
Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.
Nguyễn Trãi đã khéo léo kết hợp ý chính trong mấy câu ca dao nói trên khuôn
vào trong cặp câu luận bằng thất ngôn trong bài Tự thán, số 17:
Chĩnh vàng chẳng tiếc danh thì tiếc
Bia đá hay mòn nghĩa chẳng mòn.
( bài 87 )
Câu thơ cho ta thấy sự chuyển đổi hình thức không hề mất đi ý nghĩa và vẻ đẹp
ngôn từ của câu thơ. Nguyễn Trãi không chỉ làm nên phong vị thơ Nôm, khẳng định
tinh thần dân tộc, mà ở thơ của Nguyễn Trãi ta còn thấy được cái chất đậm đà nhưng rất
đỗi bình dị nhờ sự xuất hiện của ngôn từ dân gian. Nguyễn Trãi là người mở đường cho
thành ngữ, tục ngữ, ca dao như là một phương tiện để thể hiện tình cảm, biểu đạt tâm
trạng.
Như vậy, ngôn ngữ thành ngữ, tục ngữ, ca dao đã đem đến cho thơ Quốc âm thi
tập của Nguyễn Trãi một phong vị đậm đà, một tính chất bình dị dân dã mà những thể
loại văn vần chữ Hán không thể nào có được. Đồng thời khi bước vào thơ Quốc âm thi
tập của Nguyễn Trãi, ngôn ngữ văn học dân gian cũng trở nên hàm súc, cô động hơn tuy
nhiên nó vẫn chịu sự quy định của phong cách thể loại.
Có thể nói, Nguyễn Trãi đã kết hợp một cách khéo léo, nhuần nhuyễn, ý nghĩa từ
những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao khác nhau để đưa vào trong một cặp câu thơ thất
ngôn. Những câu thơ được Nguyễn Trãi sử dụng với hình thức ghép ý như trên tuy thoát
hẳn về mặt hình thức, về số lượng câu chữ, câu thơ đã ngắn gọn và bao quát hơn so với
thành ngữ, tục ngữ, ca dao nhưng ý nghĩa của nó thì vẫn bám sát với thành ngữ, tục ngữ,
ca dao, gợi cho ta nhiều ý nghĩa sâu sắc về những bài học kinh nghiệm trong cuộc sống.
Đọc câu thơ của Nguyễn Trãi ta thấy vừa quen vừa lạ bởi sự xuất hiện của hình bóng
thành ngữ, tục ngữ, ca dao và hình thức đối của thơ cổ điển Đường luật. Qua đó, chúng
ta càng thấy rõ hơn được tài năng và sự sáng tạo của Nguyễn Trãi trong việc vận dụng
thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong Quốc âm thi tập.
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 45
2.2.5. Tự sáng tạo ra tục ngữ
Một số nhà nghiên cứu cho rằng trong Quốc âm thi tập bên cạnh việc vận dụng
sáng tạo thành ngữ, tục ngữ, ca dao thì Nguyễn Trãi còn tự sáng tạo ra tục ngữ. Cụ thể
có các ý kiến của một số nhà nghiên cứu sau:
Trong bài viết “Âm vang tục ngữ, ca dao trong thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi”
(Nguyễn Hữu Sơn, 2003: 806-809), tác giả Bùi Văn Nguyên đã đề cập đến thuyết
“Quan vật” của Thiệu Ung. Đại ý là Thiệu Ung quan sát quy luật biến chuyển của sự
vật rồi suy diễn ra sự biến chuyển của xã hội để hành đạo. Tác giả cũng nêu lên một số
câu tục ngữ trong dân gian được đúc rút từ phương pháp “Quan vật” như: Chân đi đá
mòn, muốn ăn quả phải trồng câyĐồng thời Bùi Văn Nguyên cũng cho rằng Nguyễn
Trãi đã quan sát những hiện tượng tự nhiên rồi rút ra quy luật của tạo vật để đối chiếu
với quy luật của xã hội nhằm tự đề xuất ra một phép xử thế sao cho đạo người hợp với
đạo trời. Việc quan trọng nhất của con người là sống, chết hoặc được, thua cũng là điều
tự nhiên của tạo hoá, như con chim thì bay, con cá thì nhảy:
Bành được thương thua con tạo hoá
Diều bay cá nhảy đạo tự nhiên.
( bài 103 )
Quả là:
Tự nhiên đắp đổi đạo trời
Tiêu, trưởng, doanh, hư, một phút dời.
( bài 104 )
Hay là từ những hiện tượng như: chim ngủ, thuyền đỗ, trăng lên, nước dâng
Hàng chim ngủ khi thuyền đỗ
Vừng nguyệt lên thuở nước cường.
( bài 42 )
Cho đến những việc như nước tuôn ra bể cả, đất chồng cho núi cao:
Nước càng tuôn đến bể càng cả
Đất một chồng thêm núi một cao.
( bài 122 )
Tất cả đều do quy luật tự nhiên của tạo hoá, và quy luật tự nhiên đó có ảnh
hưởng đến cuộc sống của con người.
Như vậy qua bài viết này, tác giả Bùi Văn Nguyên đã chứng minh: Nguyễn Trãi
đã dựa vào thuyết “Quan vật” để tự sáng tạo ra tục ngữ.
Xuận Diệu trong bài viết “Đọc Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi”(Xuân Diệu,
2000: 65-67) cũng cho rằng Nguyễn Trãi đã dựa theo phương thức sáng tác của tục ngữ
để bản thân ông cũng tạo ra tục ngữ. Để chứng minh cho nhận định của mình, Xuân
Diệu đi vào phân tích một số câu thơ mà theo ông đó là những câu tục ngữ Nguyễn Trãi
đã tự tạo ra trong Quốc âm thi tập:
Thế sự người no ổi tiết bảy
Nhân tình ai ủ cúc mồng mười.
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 46
( bài 22 )
Tiết tháng bảy là mùa ổi chín, lúc ấy rất dễ mua, ăn cho đến no.Ý nói khi gặp
thời thì dễ; hoa cúc được quý là vào tiết Trùng Dương mồng 9 tháng 9, qua ngày đó
sang tới ngày mồng 10 là cúc đã lỡ rồi.
Gạch quảng nào bày mấy ngọc
Sừng hằng những mọc qua tai.
( bài 99 )
Hòn gạch vỡ đã quẳng đi lại còn đem bày với ngọc được sao? Cái sừng tuy mọc
sau lại lên dài quá cái tai. Người sinh sau rất có thể vượt người sinh trước.
Đến hai câu thơ này:
Thế sự trai yêu thiếp mọn
Nhân tình gái nhớ chồng xưa.
( bài 179 )
Ta thấy nó mang một ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Người ta thường không bằng
lòng với cái hiện có và hay mơ màng cái chưa có hoặc nuối tiếc cái đã mất.
Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn có những câu thơ nói về thói đời:
Nào ai dễ có lòng chân thật
Ở thế tin gì miệng đãi bôi.
( bài 106 )
Có của cho người nên rộng miệng
Chẳng tham ở thế kẻo chau mày.
( bài 171 )
Tóm lại, cả hai nhà nghiên cứu trên đều cho rằng Nguyễn Trãi đã dựa vào lối
sáng tác tục ngữ trong dân gian để tự mình cũng tạo ra tục ngữ.
Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm của hai nhà nghiên cứu trên. Bên
cạnh đó cũng xin đưa ra ý kiến riêng như sau:
Chúng ta biết tục ngữ có dung lượng ngắn gọn, nội dung hàm súc mà ở đó thể
hiện trí tuệ sâu sắc và thâm thuý về những kinh nghiệm, triết lý về tất cả mọi lĩnh vực
trong đời sống. Có thể coi tục ngữ là “túi khôn của dân gian”.
Theo chúng tôi, những đặc điểm thi pháp của tục ngữ đã được thể hiện rõ qua
nhiều câu thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Chẳng hạn như để đúc kết cho
mình và cho người khác những kinh nghiệm xử thế trong cuộc đời, Nguyễn Trãi viết:
Của thết người / là của còn
Khó khăn phải đạo cháo càng ngon.
( bài 149 )
Hai câu thơ này mang một số đặc điểm thi pháp của tục ngữ từ cách ngắt nhịp
3/3 đến cách sử dụng vần liền và cấu trúc phán đoán A là B trong tục ngữ.
Hay là những câu thơ nói về phương châm, nghệ thuật sống:
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 47
Tuy rằng bốn bể cũng anh tam
Có kẻ hiền lành có kẻ phàm.
( bài 174 )
Hai câu thơ này tương tự như câu tục ngữ có hai vế đối nhau theo quan hệ tương
phản. Có khi Nguyễn Trãi quan sát, nhận xét về sự tồn tại quá đỗi bất thường của cái
“ác”, cái “bất nhân” trong tự nhiên và xã hội, ông nêu lên cả một vấn đề gay cấn:
Phượng những tiếc cao diều hãy liệng
Hoa thường hay héo cỏ thường tươi.
( bài 120 )
Tính hàm súc, giàu hình tượng của tục ngữ thể hiện rất rõ trong hai câu thơ trên,
thông qua việc tác giả sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ tạo nên hai lớp nghĩa: nghĩa đen và
nghĩa bóng làm cho câu thơ giàu hình ảnh và hình tượng. Đây cũng chính là một trong
những đặc điểm thi pháp quan trọng của tục ngữ.
Từ hiện tượng trong tự nhiên: chim phượng bay, chim diều liệng, hoa héo, cỏ
tươi, tác giả muốn nói về sự tồn tại bất thường của cái “ác”, cái “bất nhân” trong xã hội.
Qua đó, chúng ta thấy được thái độ mỉa mai nhưng cũng vô cùng đau xót của Nguyễn
Trãi trước hiện thực đang diễn ra trong cuộc sống.
Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn có nhiều câu thơ tương tự nói về nhiều vấn đề khác
nhau của đời sống cũng rất thâm thuý và sâu sắc, thể hiện những triết lý, những kinh
nghiệm của ông về cuộc sống:
Chớ cậy sang / mà ép nề
Lời chẳng phải / vưỡn không nghe.
( bài 44 )
Cho hay bỉ thái là lề cũ
Nếu có nghèo / thời có an.
( bài 144 )
Co que thay / bầy ruột ốc
Khúc khuỷu làm chi / trái hoè.
( bài 44 )
Hoa càng khoe tốt tốt thì rữa
Nước chớ cho đầy đầy ắt vơi.
( bài 85 )
Theo chúng tôi, đây sẽ là những câu châm ngôn, câu tục ngữ quý cho các thế hệ
sau. Bởi nó được sáng tạo theo những quy luật của lối sáng tạo tục ngữ như: cách ngắt
nhịp 3/3 rất hài hòa, cân đối, sử dụng cấu trúc suy luận logic dưa trên mối quan hệ nhân
– quả, kết hợp với các kết từ: ắt, thì, thời (thì), cấu trúc có quan hệ phán đoán A là B
trong tục ngữ
Như vậy là trong quá trình vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao, Nguyễn Trãi
không chỉ am hiểu những lối cảm lối nghĩ của dân gian mà ông còn nắm rất vững những
quy luật sáng tạo của thành ngữ, tục ngữ, ca dao, đặc biệt là tục ngữ. Điều này cho
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 48
chúng ta thấy, Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà thơ mà còn là một nhà hiền triết lỗi lạc
của dân tộc. Bằng tài năng và sự sáng tạo của mình, ông đã góp phần làm cho kho tàng
văn học dân tộc nói chung và văn hóa dân gian nói riêng ngày càng trở nên phong phú
và đa dạng.
3. So sánh thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong Quốc âm thi tập và thơ Nôm
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những nhà văn hóa lớn, có nhiều đóng góp có
cho sự phát triển của nền văn học dân tộc. Chúng ta biết Nguyễn Trãi được coi là người
mở đầu của nền thơ cổ điển Việt Nam. Song, tuy mở đầu nhưng Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi đã được coi là một đỉnh cao. Bởi nguyên nhân cơ bản là do Nguyễn Trãi
đã biết tiếp thu và vận dụng sáng tạo, linh hoạt những thành tựu của thơ ca dân gian, đặc
biệt là thành ngữ, tục ngữ, ca dao.
Sinh sau Nguyễn Trãi hơn một thế kỷ, chắc chắn Nguyễn Bỉnh Khiêm thấy rõ
những chỗ thành công và chưa thành công của các tác giả đi trước để sàng lọc và đưa
vào tác phẩm của mình. Một lần nữa, ông lại đưa thơ Nôm trở về với đời sống dân dã
thông qua cách vận dụng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong Thơ Nôm.
Trong thơ Thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi đã thống kê được 40
bài trên tổng số 141 bài chiếm 28,3% có sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao. Như vậy,
nếu xét về số lượng bài thơ có sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao thì thơ Nôm Nguyễn
Bỉnh Khiêm ít hơn so với tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là 20 bài nhưng nếu
xét về tỉ lệ các câu thơ có sử dụng thì thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm lại chiếm tỉ lệ cao
hơn (1,2%). Điều này cho thấy tần số xuất hiện thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong thơ
Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm là dày hơn, đều hơn, còn trong Quốc âm thi tập thành ngữ,
tục ngữ, ca dao chủ yếu xuất hiện ở mục vô đề (gồm 129 bài), đặc biệt là ở tiểu mục
Bảo kính cảnh giới (61 bài).
Cũng giống như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng thành ngữ, tục ngữ,
ca dao và trong tác phẩm của mình một cách sáng tạo, linh hoạt. Có chỗ ông lấy cả ý lẫn
từ, có chỗ ông chỉ lấy ý mà không lấy từ.
Chẳng hạn, lấy trọn vẹn cả từ lẫn ý hai câu thành ngữ: “vuốt mặt còn nể mũi” và
“rút dây động rừng”, tác giả tách thành từng bộ phận và xen vào một số từ ngữ phụ
nhằm nhấn mạnh ý nghĩa của câu thành ngữ hơn, làm cho nó phù hợp với vần điệu của
hai câu thơ thất ngôn.
Vuốt mặt còn chừa qua mũi nọ
Rút dây lại né động rừng chăng?
(Thơ Nôm, bài 89)
Câu tục ngữ: “có nuôi con mới biết lòng cha mẹ” được Nguyễn Trãi trích
nguyên vẹn chỉ bỏ bớt đi từ “có” đứng đầu để đưa vào câu cặp luận bài Bảo kính cảnh
giới, số 8:
Nuôi con mới biết lòng cha mẹ.
( bài 135 )
Câu tục ngữ này cũng được Nguyễn Bỉnh Khiêm trích nguyên vẹn để đưa vào
câu đầu cặp luận bài thơ Nôm, số 58:
Nuôi con mới biết lòng cha mẹ.
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 49
Hay là câu tục ngữ “cờ đến tay ai, người ấy phất” được Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy
trọn vẹn cả từ lẫn ý ở vế đầu chỉ điều chỉnh vài từ ở vế sau cho phù hợp với câu thơ thất
ngôn:
Cờ đến tay ai, ai mới phất
( Thơ Nôm, bài 69 )
Tuy nhiên, thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu là sử dụng hình thức rút ý
từ thành ngữ, tục ngữ, ca dao.
Câu tục ngữ ngụ ý nói về ảnh hưởng tật xấu ở đời: “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”
và “gần mực thì đen gần đèn thì sáng” được Nguyễn Trãi lấy ý đưa vào câu đầu và câu
cuối bài thơ Bảo kính cảnh giới, số 21:
ở bầu thì dáng ắt nên tròn
...Đen gần mực, đỏ gần son.
( bài 148 )
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng rút ý từ hai câu tục ngữ trên nhưng lại đảo ngược giữa
các vế của câu tục ngữ để đưa vào hai bài thơ:
Đỏ thời son đỏ, mực thời đen.
( Thơ Nôm, bài 13 )
Gần son thì đỏ, mực thì đen.
( Thơ Nôm, bài 70 )
Hai câu thơ này ảnh hưởng rõ nét trong cách sáng tạo tục ngữ. Từ kết cấu hai vế
đến kiểu suy luận logic dựa trên mối quan hệ điều kiện – kết quả : A thì B trong tục
ngữ.
Hay là câu tục ngữ nói về thói đời tráo trở: “thớt tanh ruồi đậu”, “mật ngọt chết
ruồi” được Nguyễn Bỉnh Khiêm khéo léo sử dụng và đưa vào bảy bài thơ khác nhau:
Thớt quyến ruồi ấy bởi tanh.
(Thơ Nôm, bài 26 )
Ang thịt mỡ bùi, ruồi đến đỗ,
Bát bồ hòn đắng, kiến đâu bò.
(Thơ Nôm, bài 43 )
Thớt có tanh tao ruồi đậu đến
Ang không mật mỡ kiến đến bò chi.
(Thơ Nôm, bài 53 )
Kiến thác, bởi ang bùi ngọt.
Ruồi qua vì bát đắng cay.
(Thơ Nôm, bài 57 )
Mật ngọt ruồi vào, ruồi đắm đuối
Mồi thơm cá đến, cá phàn nàn.
(Thơ Nôm, bài 62 )
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 50
Thớt có tanh tao ruồi dạm miệng
(Thơ Nôm, bài 65 )
Nhị hết hoa thơm, ong đến đỗ,
Mỡ bùi, mật ngọt, kiến nào đi.
(Thơ Nôm, bài 82 )
Từ hai câu tục ngữ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vận dụng rất linh hoạt và đưa vào
trong bảy bài thơ khác nhau mà không hề gây cảm giác nhàm chán cho người đọc. Tuy
vậy, ở cả bảy bài thơ trên, ta thấy đều có điểm chung đó là nó vẫn bám được ý nghĩa của
hai câu tục ngữ qua một số từ: thớt, tanh, ruồi, đậu, mật, ngọt. Hơn nữa, những câu
thơ trong bảy bài này hầu như đều được Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng tác dựa trên kiểu
quan hệ nhân quả trong tục ngữ. Có lúc, ông sử dụng các kết từ: bởi, vì. Có lúc, các kết
từ lại bị ẩn đi nhưng người đọc vẫn có thể hiểu ngầm được. Đây cũng chính là một
trong những đặc điểm thi pháp của tục ngữ. Qua đó, ta thấy thơ Nôm Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã kế thừa sâu sắc hình thức sử dụng mà Nguyễn Trãi đã thực hiện với thành
ngữ, tục ngữ, ca dao.
Tục ngữ, ca dao có câu:
- Dò sông dò biển, ai dò được lòng người.
- Sông sâu còn có kẻ dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.
Dựa vào ý đó, Nguyễn Trãi đã sáng tác nhiều câu thơ nói về lòng người đen bạc
mà chúng tôi đã có dịp trình bày trong phần 2.2.1 của khóa luận:
Lòng thế tin chi mặt nước bằng.
( bài 23 )
Người hiểm lòng thay, hãy sá ngờ.
( bài 179 )
Lòng thế bạc đen, dầu nó biến.
( bài 139 )
Sự thế phòng khi được mất
Lòng người tua đoán thuở mừng thương.
( bài 129 )
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết
Bui một lòng người cực hiểm thay.
( bài 26 )
Mựa trách thế gian lòng đạm bạc
Thế gian đạm bạc ấy lòng thường.
( bài 125 )
Dễ hay ruột bể sâu cạn
Khôn biết lòng người ngắn dài.
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 51
( bài 6 )
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng dựa vào ý của những câu tục ngữ, ca dao trên để
sáng tạo ra những câu thơ nói về lòng người đen bạc, hiểm hóc:
Đường thế nhiều nơi hiểm hóc thay
(Thơ Nôm, bài 70 )
Lành dữ lòng người khôn được biết
Lòng đen bạc / chớ thờ ơ.
(Thơ Nôm, bài 24 )
Lưỡi thế gẫm xem mềm tựa lạt
Miệng người toán lại sắc như chông.
(Thơ Nôm, bài 127 )
Miệng nói sau lưng như dao nứa
Lưỡi đưa trước mặt giống kim chì.
(Thơ Nôm, bài 102 )
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nói về lòng người, nhưng rõ ràng là mức độ và giá trị
biểu cảm trữ tình không bằng Nguyễn Trãi. Phải chăng đó là do sự tác động của hoàn
cảnh sống đối với mỗi người ở một mức độ khác nhau. Đặc biệt, cách sử dụng từ ngữ,
những hình ảnh so sánh trong thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm rất gần gũi với đời
sống hàng ngày của quần chúng nhân dân như hình ảnh so sánh: dao nứa, kim chì, lạt,
chông; các quan hệ từ so sánh: như, giống, tựa. Đây cũng chính là những đặc điểm của
những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân gian.
Dân gian cũng có nhiều câu tục ngữ, ca dao như:
- Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ trạng chín nghìn nhân duyên.
- Giàu sang lắm kẻ đón chào
Khó khăn dẫu có kêu gào ai thương.
Lấy ý từ những câu tục ngữ, ca dao này, Nguyễn Trãi đã đưa vào nhiều bài thơ:
Đắc thời thân thích chen chân đến
Thất sở láng giềng ngỏanh mặt đi.
( bài 57 )
Khống khảy kẻ cười cùng kẻ thốt
Khó khăn người rẻ liễn người roi.
( bài 106 )
Của nhiều sơn dã, đem nhau đến
Khó ở kinh thành, thiếu kẻ han.
( bài 133 )
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 52
Những kẻ ân cần khi phú quý
Hoạ ai bao bọc thuở gian nan.
Lều không con cái hằng tình phụ
Bếp lạnh anh tam biếng hỏi han.
( bài 139 )
Tương tự Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã rút ý từ những câu tục ngữ,
ca dao dạng lục bát này để đưa vào một số câu thơ thất ngôn hoặc lục ngôn, không phải
chỉ một lần mà nhiều lần:
Đắc thời thân thích chen chân đến
Thất thế hương lư ngoảnh mặt đi.
(Thơ Nôm, bài 53)
Giàu sang người đến đăm chiêu
Bần tiện, / ai kẻ / trọng yêu?
(Thơ Nôm, bài 58)
Giàu người hợp, / khó người tan
Thói ấy hằng lề sự thế gian.
(Thơ Nôm, bài 486)
Giàu sang:/ Người trọng / khó:/ Ai nhìn,
Thuở khó,/ dẫu chào, / chào / cũng lặng,
Khi giàu, / chẳng hỏi, / hỏi / thì quen.
(Thơ Nôm, bài 5)
Phận khó khăn xưa ắt đã quen
Cửa mận, người yêu, nhiều khách trọng.
(Thơ Nôm, bài 22)
Đối chiếu những câu thơ của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta
thấy, mặc dù cả hai ông đều lấy ý từ những câu tục ngữ, ca dao giống nhau nhưng mỗi
người lại có một sự sáng tạo riêng.
Nếu cách ngắt nhịp trong những câu thơ trên của Nguyễn Trãi vẫn còn chịu ảnh
hưởng nhiều từ cách ngắt nhịp của thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật (4/3) thì các ngắt
nhịp trong một số câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm chịu ảnh hưởng bởi cách ngắt nhịp
đa dạng trong tục ngữ (2/2, 3/3, 2/2/1/2)
Một số thành ngữ, tục ngữ, ca dao sau:
- Khổ tận cam lai.
- Có co thì có duỗi.
- Có nhọn thì có tùi.
- Có co ắt phải duỗi ra
Lẽ thường trời đất hẳn là chẳng sai.
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 53
được Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa vào thơ một cách nhuần nhị:
Đã khuất bao nhiêu thì có duỗi.
(Thơ Nôm, bài 2 )
Có nhọn bao nhiêu lại có tùi.
(Thơ Nôm, bài 10 )
Rõ ràng, hai câu thơ trên được Nguyễn Bỉnh Khiêm viết theo lối tư duy của dân
gian, dựa trên mối quan hệ nhân - quả, thường trong tục ngữ, giữa các vế câu có sử
dụng các kết từ: thì, lại.
Tương tự, các câu thơ như:
Ngựa mạnh đường dài, tua biết sức.
(Thơ Nôm, bài 103)
Vàng bền há lại lửa còn sợ?
Cỏ cứng chi cho gió được hay.
(Thơ Nôm, bài 146)
Khó khăn mới biết người quân tử,
Nguy hiểm thời hay tiết trượng phu.
(Thơ Nôm, bài 27)
Theo chúng tôi, đều được Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy ý từ những câu tục ngữ, ca
dao sau:
- Lửa thử vàng, gian nan thử sức.
- Cỏ cứng mới đứng đầu gió.
- Đường dài hay sức ngựa.
- Nước loạn mới biết tôi lành.
- Thi ra mới biết cây béo gầy
Đến khi cả gió mới biết cây cứng mềm.
- Có gió lung mới biết tùng bách cứng
Có ngọn lửa hồng mới biết thức vàng cao.
Nguyễn Trãi cũng đã lấy ý của những câu tục ngữ, ca dao trên để đưa vào một
số câu thơ trong Quốc âm thi tập:
Vàng thật âu chi lửa thiêu.
( bài 116 )
Khi bão mới hay là cỏ cứng.
( bài 131 )
Cây cứng cây mềm gió hay.
( bài 26 )
Trên đây là một số so sánh đối chiếu bước đầu về cách thức vận dụng thành ngữ,
tục ngữ ca dao trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 54
Khiêm. Qua đó, ta thấy giữa Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm có nhiều điểm tương
đồng trong cách vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào trong sáng tác. Không chỉ một
lần mà rất nhiều lần chúng ta bắt gặp cả hai tác giả cùng lấy cả từ lẫn ý hoặc lấy ý từ
những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao giống nhau để đưa vào trong tác phẩm của mình.
Tuy nhiên, ta vẫn thấy những điểm riêng khó lẫn trong cách thức vận dụng thành ngữ,
tục ngữ ca dao giữa hai tác giả trên. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kế thừa những cách thức
vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong thơ của Nguyễn Trãi nhưng lại có sự sáng tạo
riêng.
Nếu như trong các câu thơ của Nguyễn Trãi còn sử dụng nhiều từ Hán Việt, các
từ cổ thì trong các câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm những từ Hán Việt, từ cổ đã giảm đi
đáng kể mà thay vào đó là những từ thuần Việt thường xuyên được sử dụng trong cuộc
sống hàng ngày. Ngoài ra, thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm từ cách dùng từ, đến cấu trúc
câu và các quan hệ ngữ nghĩa, vần nhịp trong các câu thơ rất gần gũi và mang đậm
màu sắc, đặc điểm của những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân gian.
Có thể nói “Nguyễn Bỉnh Khiêm đã củng cố và hoàn chỉnh các thành tựu mà
Nguyễn Trãi đã có công khai phá. Với sự mở đầu của Nguyễn Trãi, sự kết thúc của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ tiếng Việt đã đi được một chặng đường, tạo được những nét
đặc sắc, phong cách riêng, là một giai đoạn quan trọng trong quá trình phát triển của nền
thơ dân tộc” (Trần Ngọc Vương, 1997: 569).
Do khóa luận chỉ tập trung đi sâu “Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca
dao trong Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi”, nên chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu
tìm hiểu thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Người
viết nhận thấy đây cũng là một vấn đề khá thú vị. Hy vọng trong tương lai, nếu có điều
kiện, bản thân sẽ quay trở lại tiếp tục tìm hiểu vấn đề này sâu hơn nữa.
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 55
KẾT LUẬN
Ngay từ khi bắt tay vào thực hiện đề tài “Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục
ngữ, ca dao trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi”, chúng tôi đã ý thức được đây là
một đề tài khá mới mẻ và lý thú. Bởi lẽ thông qua việc tìm hiểu thành ngữ, tục ngữ, ca
dao trong Quốc âm thi tập sẽ mở ra cánh cửa giúp chúng ta đi vào khám phá giá trị nội
dung và nghệ thuật của Quốc âm thi tập được thuận lợi hơn. Đồng thời cũng qua đó
giúp chúng ta nhận ra tài năng của Nguyễn Trãi trong việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ,
ca dao vào trong tác phẩm Quốc âm thi tập.
Tuy nhiên, đây là một đề tài mới, chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu.
Hơn nữa, việc xác định ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ, tục ngữ và ca dao mặc dù
đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm song vẫn đang còn gặp phải một số khó khăn
nhất định.
Lần đầu tiên bắt tay vào tham gia nghiên cứu khoa học, cộng với trình độ và
năng lực của bản thân còn hạn hẹp nên chúng tôi không có tham vọng sẽ đóng góp được
một công trình khoa học thật sự chuyên sâu về vấn đề “Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ,
tục ngữ, ca dao trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi”.
Tuy nhiên trong khóa luận này, chúng tôi cũng cố gắng thực hiện được một số
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, chúng tôi có cơ hội hệ thống lại các khái niệm, đặc điểm thi pháp của
thành ngữ, tục ngữ, ca dao. Dựa vào ý kiến của một số nhà nghiên cứu, chúng tôi cũng
đưa ra một số tiêu chí để xác định ranh giới phân biệt giữa thành ngữ với tục ngữ, tục
ngữ với ca dao. Đây chính là cơ sở và là nền tảng quan trọng giúp chúng tôi trong việc
khảo sát, thống kê tần số xuất hiện của thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong Quốc âm thi
tập.
Thứ hai, khóa luận tiếp tục khái quát và khẳng định giá trị nội dung, nghệ thuật
của tập thơ Quốc âm thi tập, giúp cho người đọc tiếp cận vừa bao quát vừa cụ thể Quốc
âm thi tập.
Thứ ba, sau khi tiến hành khảo sát, thống kê tỷ lệ thành ngữ, tục ngữ, ca dao
trong 254 bài thơ Quốc âm thi tập, Chúng tôi đi vào chứng minh tài năng của Nguyễn
Trãi trong việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ ca dao thông qua những cách thức sử dụng.
Cụ thể là sử dụng nguyên vẹn thành ngữ, tục ngữ; lấy ý từ thành ngữ, tục ngữ, ca dao;
sáng tạo thêm ý mới; rút gọn thành ngữ, tục ngữ, ca dao; ghép thành ngữ, tục ngữ, ca
dao; tự sáng tạo ra tục ngữ.
Thứ tư, để giúp người đọc thấy rõ được vai trò của Nguyễn Trãi đối với sự phát
triển của nền văn học dân tộc, chúng tôi đã bước đầu tiến hành khảo sát và tìm hiểu sơ
bộ về thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Qua đó, có
thể thấy được sự kế thừa, tiếp thu một cách sáng tạo của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với
Nguyễn Trãi trong việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào thơ Nôm của mình.
Qua quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi nhận thấy việc vận dụng thành ngữ, tục
ngữ, ca dao trong thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi nổi lên một số điểm đáng chú ý
như sau:
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 56
Về số lượng:
Trong 254 bài thơ Quốc âm thi tập, chúng tôi nhận thấy có 60 bài sử dụng thành
ngữ, tục ngữ, ca dao,chiếm 23,6%. Điều này cho thấy thành ngữ, tục ngữ, ca dao ảnh
hưởng rất sâu sắc trong thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi; thể hiện rõ qua những
hình thức sử dụng như lấy nguyên vẹn thành ngữ, tục ngữ, ca dao có 10/1908 câu,
chiếm 0, 5%; lấy ý và thay đổi hình thức ngôn ngữ có 37/1908 câu, chiếm 1,9%; sáng
tạo ra ý mới và thay đổi hình thức ngôn ngữ là 22/1908 câu, chiếm 1,2%; rút gọn thành
ngữ, tục ngữ, ca dao là 8/1908 câu, chiếm 0,4%; ghép thành ngữ, tục ngữ, ca dao là
13/1908 câu, chiếm 0,7%; Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn tự tạo ra một số câu tục ngữ
(khoảng trên 30 câu).
Tỷ lệ này cho thấy sự phong phú và đa dạng về số lượng cũng như cách thức vận
dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Từ đó, ta
có thể thấy được tài năng của Nguyễn Trãi trong cách vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca
dao.
Về hình thức sử dụng:
Mỗi hình thức sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong thơ Quốc âm thi tập
của Nguyễn Trãi đều thể hiện những sáng tạo nhất định. Chẳng hạn như ngay trong hình
thức sử dụng nguyên vẹn. Mặc dù chúng tôi gọi là nguyên vẹn, nhưng ta phải hiểu đó là
cách sử dụng nguyên vẹn có sáng tạo.
Đáng nói hơn cả đó là cách lấy ý tài tình từ thành ngữ, tục ngữ, ca dao của
Nguyễn Trãi. Ông đã khéo léo rút ý một cách tài tình từ những câu thành ngữ, tục ngữ,
ca dao cộng với việc thay đổi hình thức ngôn ngữ cho phù hợp với nội dung và hình
thức của bài thơ khiến cho chúng ta khi đọc thơ Quốc âm thi tập có cảm giác vừa quen
vừa lạ bởi nó vừa mang bóng dáng của thành ngữ, tục ngữ, ca dao, vừa mang dáng dấp
của thể thơ cổ điển Đường luật, vừa chứa đựng những nét riêng khó lẫn của Nguyễn
Trãi.
Ngoài ra, những hình thức sáng tạo ra ý mới, rút gọn hay là ghép thành ngữ, tục
ngữ, ca dao đều thể hiện rõ sự sáng tạo tài tình của Nguyễn Trãi, người được coi là mở
đầu thành công cho nền thơ ca quốc âm.
Tóm lại, khóa luận đã vạch ra một cái nhìn khá hoàn chỉnh về việc “Tìm hiểu sự
vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi”. Thiết
nghĩ, đây là một đề tài rất có ý nghĩa, đặc biệt là đối với người giáo viên dạy Ngữ Văn.
Việc hiểu và vận dụng những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao là một điều rất cần thiết,
góp phần làm cho những bài giảng về văn học cổ đạt hiệu quả cao. Đồng thời, đề tài này
sẽ góp phần khám phá một cách sâu sắc hơn những giá trị về mặt nội dung cũng như
nghệ thuật của tác phẩm Quốc âm thi tập cũng như nhận thấy được công lao của
Nguyễn Trãi trong quá trình vận dụng nguồn thi liệu quý báu của văn học dân gian vào
văn học viết.
Cuối cùng, trong quá trình thực hiện, khóa luận không tránh khỏi những thiếu
sót, sơ suất, những kiến giải chủ quan của người viết. Vì vậy, chúng tôi rất mong nhận
được sự chỉ giáo, góp ý chân thành của quý thầy cô và bạn đọc để luận văn được bổ
sung và hoàn chỉnh hơn.
Chúng tôi hy vọng sẽ được trở lại đề tài này trong những công trình nghiên cứu
chuyên sâu hơn, nhằm khám phá một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa vấn đề “Tìm
hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi”.
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Duy Tân. 1996. Giáo trình văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ
XVIII. ĐH Huế.
2. Bùi Mạnh Nhị. 1997. Văn học dân gian – những công trình nghiên cứu. NXB
GD.
3. Bùi Văn Nguyên. 2003. Thơ Quốc âm Nguyễn Trãi. NXB GD.
4. Cù Đình Tú. 2001. Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt. NXB GD.
5. Đái Xuân Ninh. 1978. Hoạt động của từ tiếng Việt. NXB KHXH.
6. Đinh Gia Khánh. 1983. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hà Nội. NXB văn học
Hà Nội.
7. Đỗ Bình Trị. 2001. Thi pháp thể loại. Tài liệu giảng dạy học viên Cao học –
lưu hành nội bộ.
8. Đỗ Bình Trị. 1995. Phân tích tác phẩm văn học dân gian. NXB GD.
9. Đoàn Thị Thu Vân. 2001. Tiếp cận thơ văn Nguyễn Trãi. NXB Trẻ.
10. Hoàng Tiến Tựu. 1998. Văn học dân gian Việt Nam. NXB GD.
11. Hoàng Văn Hành. 1994. Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ. NXB KHXH.
12. Lê Bảo. 1997. Nguyễn Trãi nhà văn và tác phẩm trong nhà trường phổ
thông. NXB GD.
13. Lã Nhâm Thìn. 1997. Thơ Nôm Đường luật. NXB GD.
14. Lê Trường Phát. 2000. Thi pháp văn học dân gian. NXB GD.
15. Nguyễn Hữu Sơn. 2003. Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm. NXB GD.
16. Nguyễn Lực – Lương Văn Đang. 1978. Thành ngữ tiếng Việt. NXB KHXH.
17. Nguyễn Nhã Bản. 2005. Đặc trưng cấu trúc ngữ nghĩa của thành ngữ, tục
ngữ trong ca dao.
18. Nguyễn Thái Hòa. 1997. Tục ngữ Việt Nam cấu trúc và thi pháp. NXB
KHXH.
19. Nguyễn Thị Ngọc Điệp. 2004. Ca dao dân ca đẹp và hay. NXB Trẻ.
20. Nguyễn Thiện Giáp. 1999. Từ vựng học tiếng Việt. NXB GD.
21. Nguyễn Xuân Lạc. 1998. Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường.
NXB GD.
Tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ Mai Thị Vân
Khóa luận tốt nghiệp ĐHSP ngành Ngữ Văn Trang 58
22. Nguyễn Xuân Kính. 1992. Thi pháp ca dao. Hà Nội. NXB KHXH.
23. Nhiều tác giả. 2001. Văn học dân gian Việt Nam. NXB GD.
24. Nhiều tác giả. 1994. Từ điển thành ngữ Việt Nam. NXB Văn hóa thông tin.
25. Nhiều tác giả. 1997. Cơ sở ngôn ngữ học tiếng Việt. NXB GD.
26. Nhiều tác giả. 2004. Từ điển văn học. NXB Thế giới.
27. Nhiều tác giả. 2005. Văn học trung đại Việt Nam, tập 1. NXB ĐH Sư Phạm.
28. Nhiều tác giả. 2000.Văn học Việt Nam thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII.
NXB GD.
29. Phạm Thu Yến. 1998. Những thế giới nghệ thuật ca dao. NXB GD.
30. Phan Thị Đào. 1999. Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam. NXB Thuận Hóa.
31. Trần Ngọc Vương. 1997. Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung.
NXB GD.
32. Trần Tùng Chinh. 2004. Tài liệu giảng dạy văn học Trung đại Việt Nam.
Trường ĐH An Giang.
33. Trần Tùng Chinh. 2001. Tài liệu giảng dạy văn học dân gian Việt Nam.
trường ĐH An Giang.
34. Trần Ngọc Hưởng. 2003. Luận đề về Nguyễn Trãi. NXB Thanh Niên.
35. Trần Thị Băng Thanh – Vũ Thanh. 2001. Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và
tác phẩm. NXB GD.
36. Vũ Ngọc Phan. 1998. Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam. NXB KHXH.
37. Xuân Diệu. 2000. Ba thi hào dân tộc. NXB Thanh Niên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XT1276.pdf