Cùng với quá trình quốc tế hoá và tự do hoá thương mại đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới, không một quốc gia nào không nhận thức được tầm quan trọng của ngoại thương trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Ở Việt Nam, từ năm 1986 chúng ta thu được những thành tựu hết sức to lớn về ngoại thương so với những giai đoạn trước đó. Cùng với sự phát triển của ngoại thương là sự tiến bộ trông thấy về sự phát triển của nền kinh tế nước ta, một nước đang phát triển và đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những tiến bộ đó được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, mức sống ngày càng được cải thiện của người dân, ở cơ cấu kinh tế đang ngày càng phù hợp với yêu cầu CNH - HĐH, vốn đầu tư nước ngoài cũng như vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên cả về quy mô và chất lượng, các nguồn lực trong nước đang được khai thác một cách có hiệu quả cả về nguồn nhân lực lẫn tài nguyên thiên nhiên, Đây chính là những hệ quả mà sự phát triển của ngoại thương đã đem lại cho nền kinh tế nước ta từ sau đổi mới đến nay. Do vậy, chúng ta cần có những biện pháp hữu hiệu phát triển ngoại thương nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước và phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2020.
Tác động của ngoại thương đến những tiến bộ trong quá trình phát triển kinh tế đã phần nào được chứng minh qua khoá luận tốt nghiệp này. Tuy nhiên, tìm hiểu về tác động của ngoại thương đến sự phát triển kinh tế là một vấn đề có nội dung vô cùng rộng lớn và cũng khá phức tạp mà không chỉ mình tác giả quan tâm. Cho đến nay, đã có nhiều tác giả lấy sự phát triển của ngoại thương trong những năm sau đổi mới đặc biệt là trong thập kỷ 90 làm đối tượng nghiên cứu; cũng có không ít những công trình khoa học nghiên cứu về tác động của ngoại thương đến tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Nói chung, đây là một vấn đề thu hút được sự chú ý và quan tâm của nhiều người và nhiều cơ quan chức năng.
Do hạn chế về thời gian, nguồn thông tin tư liệu cũng như kinh nghiệm thực tiễn của tác giả về vấn đề được nghiên cứu, những nội dung được đề cập trong khoá luận tốt nghiệp này chắc chắn không troánh khổi những thiêú sót, còn nhiều vấn đề phải tiếp tục hoàn chỉnh và bổ sung thêm. Do vậy, tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và những người quan tâm để đề tài này được hoàn thiện hơn và có thể được nghiên cứu tiếp sau này./
107 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1702 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu tác động của ngoại thương đến phát triển kinh tế Việt Nam từ năm 1986 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình hội nhập sao cho có thể khai thác tốt nhất lợi thế so sánh của nước ta nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Điều đó cũng có nghĩa là cần có hệ thống chính sách, luật pháp để vốn, hàng hoá và lao động có được những điều kiện thuận lợi trong việc di chuyển từ trong nước ra nước ngoài và ngược lại.
Muốn hội nhập, mở cửa kinh tế ra bên ngoài còn cần khai thông thị trường trong nước. Kiên quyết xoá bỏ tình trạng chia cắt thị trường theo lãnh thổ, địa phương và theo thành phần kinh tế. Thực hiện thương mại hoá tất cả các yếu tố tham gia quá trình sản xuất, kinh doanh hàng hoá. Các hàng hoá đó phải được mua bán theo qui luật của thị trường.
Hội nhập nền kinh tế thế giới được thực hiện qua nhiều ''kênh'' với những hình thức nhất định.
Việc đa dạng và đa phương quan hệ thương mại và quan hệ kinh tế đối ngoại khác cho phép chúng ta phát huy được nhiều lợi thế của đất nước trong phân công lao động quốc tế, thúc đẩy sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời khai thác được nhiều nguồn lực từ nhiều nhà cung cấp nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đa phương quan hệ thương mại có nghĩa là mở rộng quan hệ buôn bán và quan hệ kinh tế khác với tất cả các nước, với các khu vực và các bạn hàng không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ thương mại sẽ giúp chúng ta không bị lệ thuộc hoàn toàn vào một vài quốc gia, một vài công ty nước ngoài. Điều này sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta phát triển ổn định.
Mặc dù ngoại thương là một kênh quan trọng để thực hiện hội nhập. Nhưng ngoại thương chỉ có thể phát triển trên cơ sở mở rộng và gắn kết với các hình thức quan hệ kinh tế- thương mại khác như đầu tư, tài chính tín dụng, ngân hàng, giao thông vận tải, bảo hiểm, giáo dục, văn hóa v. v...
Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ thương mại và quan hệ kinh tế khác không có nghĩa là chúng ta phát triển tất cả các hình thức quan hệ kinh tế- thương mại với tất cả các nước. Trong từng giai đoạn cụ thể, với từng quốc gia và bạn hàng cụ thể vẫn cần có định hướng ưu tiên bạn hàng chủ yếu.
c. Mở rộng sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vào hoạt động ngoại thương dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước.
Đảng và nhà nước ta xác định rất rõ, nền kinh tế nước ta không đi theo cơ chế thị trường tự do, mà theo cơ chế thị trường do Nhà nước thống nhất quản lý, theo định hướng XHCN.
Chủ thể trực tiếp tham gia sản xuất và trao đổi sản phẩm, hàng hoá trên thị trường trong và ngoài nước là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, chế độ sở hữu tư liệu sản xuất bao gồm hai loại hình cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tư nhân. Từ các loại sở hữu đó, hình thành nhiều hình thức tổ chức kinh tế đa dạng trong đó ngày càng phát triển các tổ chức kinh doanh dựa trên sự hỗn hợp nhiều loại sở hữu. Quan điểm mới nhằm phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác bổ xung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất. Đồng thời, hình thành về cơ bản thị trường dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
Đảm bảo sự quản lý thống nhất của Nhà nước trong hoạt động ngoại thương đòi hỏi các doanh nghiệp, các chủ thể khi tham gia hoạt động này phải đi đúng đường lối, quan điểm của Đảng. Đó là tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước; hợp tác và phát triển nhiều mặt với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Có đứng vững trên quan điểm đó, các doanh nghiệp tham gia hoạt động ngoại thương và các quan hệ kinh tế đối ngoại khác mới hướng hoạt động của mình đi đúng hướng, tiến bước vững chắc trong tác động hàng ngày, hàng giờ của nhiều nhân tố phức tạp, kể cả sự tiến công bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và thâm độc của các thế lực thù địch.
Đảm bảo sự quản lý thống nhất của Nhà nước, trước hết phải làm cho hệ thống pháp luật trong lĩnh vực ngoại thương và quan hệ kinh tế đối ngoại khác của nước ta được đổi mới thực sự, trên cơ sở cụ thể hoá đường lối và chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của nước ta, thích ứng với thông lệ và hợp tác quốc tế. Đó là một hành lang pháp lý vô cùng quan trọng trong việc tạo lập một môi trường an toàn, an ninh về kinh tế nhằm tăng cường cạnh tranh để phát triển. Song quản lý một nền kinh tế và ngoại thương phát triển theo cơ chế thị trường điều quan trọng là phải làm cho công cụ luật pháp đi vào cuộc sống, đồng thời phải thực hiện đầy đủ chức năng kiểm soát để quá trình phát triển ngoại thương không bị rối loạn.
d. Coi trọng hiệu quả kinh tế - xã hội trong hoạt động ngoại thương
Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của kinh tế học. Hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của kinh tế học. Hiệu quả kinh tế là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động ngoại thương.
Kinh tế và xã hội là hai vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu mở rộng buôn bán với nước ngoài mà làm cho đất nước nghèo đi, thất nghiệp gia tăng, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng lớn và công bằng xã hội không được thực hiện, thì việc mở rộng buôn bán đó cũng không hề có ý nghĩa gì. Vì vậy, hiệu quả kinh tế trong hoạt động ngoại thương không chỉ có nghĩa là lợi nhuận bằng tiền tăng lên. Tuy rằng kinh doanh có lợi nhuận là lý do tồn tại của bất kỳ doanh nghiệp nào.
Hiệu quả kinh tế cùng với hiệu quả xã hội của hoạt động ngoại thương phải thể hiện ở mức độ đóng góp vào việc thực hiện những mục tiêu của đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong từng thời kỳ. Ví dụ như: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, phân phối hợp lý thu nhập quốc dân, tạo nên nhiều việc làm mới, sử dụng tốt mọi tiềm năng sản xuất trong nước, bảo vệ và cải thiện môi trường, nâng cao vị thế kinh tế, chính trị của nước ta trên thị trường...
2.2 Chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam thời kỳ 2001-2010.
Căn cứ vào đường lối kinh tế, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2001- 2010, xu hướng phát triển nền kinh tế và thị trường thế giới thập niên đầu thế kỷ XXI, cũng như từ thực tiễn của các nước và của bản thân, Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra những định hướng lớn cho hoạt động ngoại thương cho thời kỳ năm 2001-2010 như sau:
- Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, tiến tới ra nhập WTO.
- Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế; giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến và tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm; nâng cao dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng trí tuệ, hàm lượng công nghệ cao. Xây dựng các quỹ hỗ trợ xuất khẩu, nhất là đối với hàng nông sản. Khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hoá sản xuất trong nước. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu tiến tới cân bằng xuất nhập. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn, có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước.
- Đẩy mạnh các lĩnh vực dịch vụ thu ngoại tệ: du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, bưu chính - viễn thông, tài chính - tiền tệ, dịch vụ kỹ thuật, tư vấn, thu hút kiều hối.
- Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới.
- Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, xúc tiến thương mại, thông tin thị trường bằng nhiều phương tiện và tổ chức thích hợp, kể cả các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia các hoạt động môi giới, khai thác thị trường quốc tế.
Điểm đáng lưu ý nhất trong chiến lược phát triển ngoại thương của ta là:
- Coi xuất nhập khẩu cùng các quan hệ kinh tế đối ngoại khác không chỉ là nhân tố hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế quốc dân mà còn được xem là động lực phát triển kinh tế của đất nước. Phát triển ngoại thương là để tăng cường khả năng tự phát triển không ngừng của nền kinh tế quốc dân chứ không chỉ là tăng thu nhập thuần tuý mặc dù không coi nhẹ việc tăng thu nhập.
- Đối với nước ta, một nước trình độ phát triển còn thấp, thiếu vốn và kỹ thuật, nhưng lại có "lợi thế' về tài nguyên thiên nhiên và lao động, việc thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn đối với sản phẩm sản xuất trong nước.
- Coi trọng việc xuất khẩu có hàm lượng chế biến, sản phẩm có hàm lượng trí tuệ và công nghệ cao, chú trọng xuất khẩu dịch vụ. Chủ trương này tạo đà cho xuất khẩu tăng tốc và đạt hiệu quả.
Thực hiện chiến lược này là giải pháp "mở cửa" nền kinh tế để thu hút các nguồn lực bên ngoài và khai thác tiềm năng lao động và tài nguyên đất nước.
2.3 Mục tiêu cụ thể của chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2001- 2010.
Quy mô và tốc độ tăng trưởng:
- GDP năm 2010 tăng gấp 2 lần so với năm 2000, bình quân tăng khoảng 7,2%/năm.
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu gấp 2 lần tốc độ tăng trưởng GDP, tức là khoảng 14%/năm.
Về xuất khẩu:
- Xuất khẩu hàng hoá: Tốc độ tăng bình quân 2001- 2010: 15%/ năm.
Giá trị năm 2010 đạt 54,6 tỷ USD tức gấp 4 lần năm 2000.
Tỷ trọng xuất khẩu so với GDP: 71.1% cho toàn thời kỳ 2001- 2010.
- Xuất khẩu dịch vụ:
Tốc độ tăng trưởng bình quân năm 2001- 2010: 15%/năm.
Giá trị năm 2010 đạt 8,1 tỷ USD, tức tăng gấp 4 lần năm 2000.
Tỷ trọng so với GDP tính chung cho cả thời kỳ 2001- 2010 là 10,3%.
- Tổng kim xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ:
Giá trị đạt 62,68 tỷ USD vào năm 2010 (tăng gấp 4 lần so với năm 2000).
Tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ so với GDP tính chung cho cả thời kỳ 2001- 2010 khoảng 80%.
Về nhập khẩu:
- Nhập khẩu hàng hoá
Tốc độ tăng trưởng bình quân (2001- 2010): 14%/năm.
Giá trị nhập khẩu năm 2010: 53,7 tỷ USD
- Nhập khẩu dịch vụ
Tốc độ tăng bình quân (2001- 2010): 11%/ năm.
Giá trị nhập khẩu năm 2010: 3,4 tỷ USD.
- Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ vào năm 2010 là 57,1 tỷ USD.
- Cán cân xuất nhập khẩu:
2001-2005: nhập siêu về hàng hoá giảm dần, mỗi năm bình quân nhập siêu 900 triệu USD, cả thời kỳ là 4,73 tỷ USD.
2006-2010: nhập siêu tiếp tục giảm, đến năm 2008 cân bằng xuất – nhập hàng hoá và bắt đầu xuất siêu, và sẽ xuất siêu khoảng 1 tỷ USD vào năm 2010.
Nếu tính cả xuất khẩu dịch vụ thì tới năm 2002 đã cân bằng xuất – nhập và bắt đầu xuất siêu, năm 2010 xuất siêu 5,5 tỷ USD.
II. Một số giải pháp và kiến nghị đối với ngoại thương Việt Nam.
1. Giải pháp.
1.1 Hoàn thiện môi trường pháp lý, đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu.
Trước hết, cần phải đổi mới quan điểm, luận cứ khi xây dựng cơ chế điều hành xuất nhập khẩu: Thống nhất nội dung quản lý Nhà nước bằng cách chuẩn hoá các nội dung về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá theo quy định quốc tế; thống nhất quản lý hoạt động xuất nhập khẩu bằng pháp luật; hoàn thiện luận cứ khoa học của việc đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu hàng hoá; đổi mới sự phân công và phối hợp giữa cơ quan liên quan đến nghiên cứu, xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (Chính phủ - Bộ thương mại và các bộ ngành liên quan).
Để thúc đẩy ngoại thương Việt Nam, Nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, cơ chế điều hành xuất nhập khẩu. Đó là xây dựng chính sách về xuất nhập khẩu ổn định cho nhiều năm, từ đó cụ thể hoá cho điều hành từng thời kỳ, đảm bảo sự thống nhất theo các chương trình mục tiêu dài hạn đã định của Nhà nước; cần nhanh chóng tự do hoá xuất khẩu tất cả những mặt hàng không phải là quốc cầm; chỉ tự do hoá nhập khẩu đối với những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được, hoặc sản xuất được nhưng hiệu quả kinh tế thấp; ưu tiên nhập những loại hàng có tác dụng đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xây dựng cơ cấu mặt hàng xuất-nhập khẩu chuyển dịch theo hướng gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo, nhất là sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí tuệ cao, giảm dần xuất khẩu hàng thô, nâng cao tỷ trọng dịch vụ;; không nên quản lý giá với hàng xuất khẩu; xây dựng cơ cấu thị trường phát triển theo mục tiêu đa phương hoá, đa dạng hoá trên cơ sở cân bằng lợi ích giữa các đối tác.
Hoàn thiện môi trường pháp lý là một giải pháp quan trọng tạo tiền đề cho ngoại thương phát triển. Để làm được điều này Nhà nước cần phải:
Rà soát lại hệ thống Luật thương mại, Luật đầu tư nước ngoài và Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Nếu cần có lộ trình thống nhất 2 luật đầu tư này thành một bộ luật chung về khuyến khích đầu tư.
Ban hành các văn bản mới phù hợp với tình hình như: Luật về Tối huệ quốc (MFN) và Đối xử quốc gia (NGOạI THươNG); Luật Cạnh tranh và chống độc quyền; Luật chống bán phá giá và chống trợ cấp, Luật Phòng vệ khẩn cấp; Luật chống chuyển giá - một chính sách rất quan trọng đối với việc thu hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia.
Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hoá - dịch vụ xuất khẩu phù hợp với đòi hỏi của thị trường, nâng dần sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Đây là một đòi hỏi cấp thiết nhằm khắc phục hạn chế của hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam về chất lượng.
Tiếp tục cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng xoá bỏ các thủ tục phiền hà, ổn định môi trường pháp lý.
Nghiên cứu đưa ra các chính sách thuế xuất nhập khẩu có tính nhất quán ổn định giúp các doanh nghiệp yên tâm kinh doanh. Điều hành lãi suất, tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt để vừa đảm bảo sự ổn định kinh tế - xã hội trong nước, vừa có lợi cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tiến tới biến đồng tiền Việt Nam thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi.
1.2. Tiếp tục đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đa phương hoá thị trường và năng động tìm kiếm bạn hàng.
Trước hết cần phải chú ý tới các thị trường trọng điểm, bạn hàng lớn, đặc biệt là thị trường, bạn hàng các nước khu vực Châu á - Thái Bình Dương, trong đó với thị trường ASEAN đang nổi lên vấn đề tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với việc từng bước và tiến tới sẽ thực hiện hoàn toàn Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Xúc tiến nhanh quá trình tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC), và các tổ chức kinh tế, tài chính, ngân hàng thương mại quốc tế khác, vì đó là một điều kiện cần thiết để phát triển mạnh nền kinh tế mở cửa, nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Đương nhiên, muốn hoà nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế và các khu vực trên đây, Việt Nam phải đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật ngoại thương cho phù hợp, xây dựng một lộ trình hợp lý, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và với cam kết quốc tế về giảm thuế quan, thuế hoá đi đôi với việc xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia, lịch trình bảo hộ, công bố công khai để các ngành có hướng sắp xếp sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh. Chủ động thay đổi về căn bản phương thức quản lý nhập khẩu. Tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế “hợp lệ” như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường, hạn ngạch thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống phá giá, chống trợ cấp.
1.3.Các biện pháp chính sách tài chính - tín dụng.
Tạo vốn: Vốn luôn là vấn đề cần thiết để tăng năng lực sản xuất, kinh doanh đổi mới công nghệ và cải tiến công tác quản lý. Do vậy cần phải huy động cả nguồn vốn trong nước bằng nguồn vốn tự có, góp vốn, vay và hỗ trợ của ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. Mặt khác, các doanh nghiệp chủ dộng tìm nguồn vốn từ bên ngoài để đầu tư cho sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu.
Chính sách lãi suất ưu đãi: Để khuyến khích xuất khẩu đồng thời hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất được, lãi suất đối với vốn vay để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu nên chỉ bằng 50% mức lãi suất cho vay nhập khẩu. Mặt khác, lãi suất cũng cần có nhiều mức khác nhau để áp dụng cho từng ngành hàng, mặt hàng theo mức độ ưu đãi riêng.
Lập “Quỹ thưởng xuất khẩu”: Để khuyến khích sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu cần trích một phần ngân sách từ các khoản thuế để bình ổn giá cả và thưởng cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu tốt như: xuất khẩu được sản phẩm mới, mở được thị trường mới đối với sản phẩm xuất khẩu quan trọng; xuất khẩu được nhiều sản phẩm khó xuất; sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao, hiệu quả lớn. Hình thức thưởng có nhiều loại, có thể trực tiếp, có thể gián tiếp.
Xây dựng và sử dụng: “Quỹ bảo hiểm xuất khẩu”: Hoạt động này đối với các nước trong khu vực đã được áp dụng từ lâu. Song Việt Nam năm 1997 bắt đầu xây dựng “quỹ bảo hiểm”. Đây là một hoạt động rất có ý nghĩa đối với xuất khẩu, đặc biệt đối với mặt hàng nông sản xuất khẩu vì đây là những sản phẩm chịu ảnh hưởng nhiều các yếu tố khách quan. Hoạt động này tạo điều kiện giữ vững và ổn định sản xuất, chế biến xuất khẩu.
Lập công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: Công ty dạng này nên là công ty Nhà nước hay nói một cách khác là Nhà nước thông qua công ty đứng ra đảm bảo quyền lợi cho các nhà xuất khẩu theo hình thức tín dụng thương mại như: bán chịu, trả chậm do yêu cầu của khách hàng mà ta tranh thủ được giá cao, xâm nhập được thị trường mới, khuyến khích xuất được các sản phẩm khó bán. Mặc khác cần bảo lãnh cả nhập khẩu khi ta ít vốn phải trả chậm đối với các loại vật tư, thiết bị đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Sử dụng, điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý: Trong mấy năm gần đây, đồng tiền Việt Nam thực tế mất giá trung bình trên dưới 10%/năm nhưng tỷ giá giữa VND/USD hầu như không thay đổi, làm cho giá xuất khẩu tăng, giá nhập khẩu giảm mạnh, khiến cho các doanh nghiệp coi nhẹ xuất khẩu mà chỉ chú tâm đến nhập khẩu kiếm lời. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân nhập siêu tăng trong những năm qua. Do vậy đề nghị Nhà nước không những cần điều chỉnh tỷ giá một cách hợp lý, có lợi cho xuất khẩu, mà còn áp dụng cả chính sách tỷ giá có thưởng đối với xuất khẩu (có phần trăm thưởng cộng với tỷ giá cho các doanh nghiệp xuất khẩu có hiệu quả, xuất khẩu sang thị trường mới.)
1.4 Cải cách hệ thống thuế
Trong những năm đổi mới, chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc cải cách chính sách thuế nội địa và thuế quan. Chính sách thuế đã góp phần rất quan trọng trong việc phát triển sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu và bảo hộ sản xuất nội địa. Tuy nhiên hệ thống chính sách thuế hiện hành còn tồn tại một số nhược điểm. Thứ nhất là phạm vi điều tiết vĩ mô của thuế còn hẹp, chưa bao quát hết các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế quốc dân đã và đang phát sinh, phát triển đa dạng trong nền kinh tế thị trường. Thứ hai, sử dụng loại thuế này thay cho loại thuế khác, làm hạn chế tác dụng điều tiết vĩ mô của cả hệ thống thuế. Thứ ba, dàn đều cho các sắc thuế cùng thực hiện mục tiêu giống nhau là hướng dẫn sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng nên mỗi sắc thuế đều có nhiều thuế suất, dẫn đến không thực tế, khó thực hiện. Thứ tư, chính sách thuế còn có sự phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, việc quy định và tổ chức thực hiện các loại thuế chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa tương đồng với hệ thống thuế các nước. Hệ thống chính sách thuế thiếu rõ ràng, thiếu công bằng, hay thay đổi gây bất lợi cho nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước.
Để khắc phục những nhược điểm trên nhằm làm cho hệ thống chính sách thuế Việt Nam góp phần thúc đẩy ngoại thương phát triển, đồng thời thúc đẩy tự do hoá và hội nhập, cải cách hệ thống chính sách thuế hiện hành cần thực hiện theo hướng: giảm bớt số mức thuế suất trong từng sắc thuế; hạ thấp mức thuế suất đi đôi với mở rộng diện chịu thuế nhằm đảm bảo vừa tăng thu cho ngân sách vừa khuyến khích sản xuất phát triển, đơn giản háo biểu thuế và giảm sự chênh lệch giữa các mức thuế. Cụ thể là:
- Giảm mức thuế xuất khẩu từ 12 mức xuống còn 3 mực (0%, 10%, và 20%). Mức 0% áp dụng đối với hàng hoá đã qua chế biến, mức 10% đối với hàng xuất khẩu chưa qua chế biến và mức 20% đối với hàng không khuyến khích xuất khẩu.
- Đối với hàng nhập khẩu, vừa giảm mức thuế vừa giảm dần thuế suất. Về mức thuế, chỉ nên áp dụng 5 - 6 mức: 0%, 5%, 10%, 20% và 30%. Thuế suất cao nhất đánh vào hàng nhập khẩu chỉ nên là 50%.
Ngoài ra, đối với thuế nhập khẩu cần hoàn thiện việc xây dựng biểu thuế theo hệ thống HS, gồm 3 loại thuế suất: thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi (MFN) và thuế suất ưu đãi đặc biệt. Đồng thời ban hành luật thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp và chống phân biệt đối xử.
- áp dụng giá tính thuế hải quan căn cứ vào giá nhập khẩu của hàng hoá.
- Chấm dứt sự phân biệt đối xử về thuế giữa hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu với hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước.
Việc giảm và miễn thuế xuất khẩu nên áp dụng rộng rãi hơn cho các loại hàng xuất khẩu của ta. Kinh nghiệm một số nước đang phát triển cho thấy, nhìn chung số miễn giảm thường chiếm khoảng gần 20% tổng giá trị thuế của một nước. Ngoài ra một hình thức khác cũng được áp dụng là loại bỏ nhà xuất khẩu khỏi phạm vi đánh thuế bằng cách hoàn lại thuế, cho phép nhà xuất khẩu hoàn lại thuế bao gồm cả thuế gián tiếp và trực tiếp đã nộp, miễn giảm thuế, không áp dụng hàng rào phi thuế đối với hàng xuất khẩu, xây dựng các nhà máy trong đó không đánh thuế nguyên vật liệu, thành phẩm, xây dựng khu chế xuất và trên thực tế là xây dựng một ốc đảo dành riêng cho việc chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu.
Đối với thuế nhập khẩu, chúng ta sẽ theo thông lệ quốc tế, giảm thuế suất thuế nhập khẩu xuống mức cao nhất, thu hẹp diện chịu thuế suất 0% (chỉ áp dụng cho thiết bị toàn bộ, nguyên vật liệu thiết yếu phục vụ cho sản xuất nông nghiệp), mở rộng diện hàng chịu thuế tối thiểu là 3%, sau đó nâng dần lên 5%, áp dụng cho cả hàng hoá nhập khẩu và cả hàng hoá sản xuất trong nước với thuế suất trong khoảng 5 - 15%. Mở rộng diện thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hoá nhập khẩu với khung thuế suất khoảng từ 20% đến 140% trên giá nhập khẩu CIF.
1.5. Chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu.
Việt nam phải khuyến khích nhập khẩu theo hướng đổi mới, hiện đại hoá thiết bị và công nghệ, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, bằng cách chuyển nhanh sang nhập khẩu thiết bị kỹ thuật hiện đại từ các nước phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Tây Âu. Bảo đảm vật tư hàng hoá thiết yếu cho xây dựng, sản xuất và đời sống mà nền kinh tế quốc dân chưa có điều kiện đáp ứng; góp phần ổn định thị trường, ổn định nền kinh tế và đời sống xã hội. Bảo hộ một cách hợp lý nền sản xuất trong nước. Kiên quyết không bảo hộ những mặt hàng và những cơ sở không chịu đổi mới công nghệ và cung cách quản lý để vươn lên, trong chờ vào bao cấp bù lỗ.
Chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh. Để thực hiện chính sách chuyển dịch cơ cấu theo hướng trên cần có chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, chính sách ưu tiên, ưu đãi cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu theo hướng đó. Mặt khác, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, bao gồm cả đầu tư trực tiếp và vay nợ, viện trợ đều ưu tiên cho đầu tư phục vụ cho xuất khẩu. Trị giá gia tăng xuất khẩu và lợi nhuận thu được từ xuất khẩu coi là một chỉ tiêu quan trọng (có thể là quan trọng nhất) cho các khoản đầu tư vào các công trình sản xuất. Bên cạnh đó cũng cần tập trung sự cố gắng vào xuất khẩu một số sản phẩm thô và sơ chế dựa trên lợi thế so sánh sẵn có do điều kiện tự nhiên mang lại.
Đối với hoạt động nhập khẩu, cần phải nhằm vào thực hiện các yêu cầu và mục tiêu cơ bản: trang bị cho nền kinh tế quốc dân các thiết bị, máy móc và công nghệ sản xuất hiện đại; bổ sung các yếu tố sản xuất và hàng hoá mà nền kinh tế quốc dân thiếu hoặc chưa đáp ứng được nhu cầu (của sản xuất và tiêu dùng); nhập khẩu phải bảo hộ hợp lý sản xuất nội địa để giúp các ngành có tiềm năng phát triển cạnh tranh được trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế; nhập khẩu phục vụ cho sản xuất.
Thực hiện yêu cầu mục tiêu trên, biện pháp quản lý nhập khẩu cần hoàn thiện theo hướng:
Khuyến khích nhập khẩu thiết bị máy móc và công nghệ tiên tiến của thế giới, kiên quyết không nhập thiết bị cũ, lạc hậu đi đôi với việc tạo điều kiện thuận lợi nhất về vốn, về con người sử dụng và quản lý, điều hành sản xuất các thiệt bị, máy móc, công nghệ này.
Đối với việc nhập khẩu các yếu tố bổ sung cho sản xuất và hàng tiêu dùng cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu các yếu tố sản xuất là đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu và gây cản trở nhất định cho việc nhập khẩu các đầu vào mà trong nước có khả năng sản xuất.
1.6. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư.
Giải pháp huy động các nguồn vốn đầu tư để phát triển mạnh nền ngoại thương mở cửa ở Việt Nam là tạo ra môi trường chính trị - kinh tế vĩ mô ổn định; đổi mới, hoàn thiện cơ sở pháp lý, biện pháp, chính sách kinh tế theo hướng ưu tiên, khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế trong nước, các chủ đầu tư nước ngoài yên tâm, mạnh dạn bỏ vốn đầu tư dưới mọi hình thức để thành lập các khu công nghiệp liên doanh, liên kết hướng về xuất khẩu, các khu công nghiệp chế xuất, các công ty cổ phần chuyên sản xuất - kinh doanh xuất nhập khẩu phù hợp với thông lệ quốc tế và pháp luật Nhà nước Việt Nam.
Nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, cần phải cải thiện môi trường đầu tư, xác lập tiền để để thu hút vốn đầu tư gián tiếp, thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ.
a. Cải thiện môi trường đầu tư.
Để đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, tạo ra các sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới thì việc cải thiện môi trường đầu tư là một khâu có ý nghĩa quyết định, nhất là trong thời kỳ trung và dài hạn.
Môi trường đầu tư là tổng hoà tất cả các yếu tố ảnh hưởng tới quy mô, chất lượng và hiệu quả của đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học kỹ thuật, pháp lý, cơ sở hạ tầng... Trong số các yếu tố trên, đáng quan tâm nhất là môi trường pháp lý và cơ sở hạ tầng.
Về môi trường pháp lý, với việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, về cơ bản đã xây dựng được khung pháp lý điều chỉnh và xác lập các chính sách khuyến khích đối với các hoạt động đầu tư. Những chính sách này đã tạo ra tiền đề thu hút một lượng đáng kể vốn đầu tư nước ngoài và vốn đầu tư trong nước, góp phần không nhỏ đối với tăng trưởng kinh tế nói chung và tăng trưởng ngoại thương nói riêng. Tuy nhiên, theo các quy định hiện hành, vẫn tồn tại một số bất bình đẳng giữa hai khối trong nước và khối FDI. Chẳng hạn, tuy vị trí của đầu tư trong nước đã được nâng cao nhưng vẫn còn một số lĩnh vực mà doanh nghiệp trong nước chưa được đối xử bằng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Để khắc phục tình trạng này, cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách đầu tư theo hướng tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Tích cực, chủ động điều chỉnh Luật Đầu tư nước ngoài theo quy định của WTO về TRIMS, giảm dần, tiến tới xoá bỏ sự phân biệt về chính sách giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Duy trì môi trường đầu tư ổn định để tạo tâm lý tin tưởng cho các nhà đầu tư.
Việc phát triển cơ sở hạ tầng (đường xá, cảng, kho tàng...) có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động đầu tư. Thực tế cho thấy tính hấp dẫn và hiệu quả của nhiều dự án đầu tư vẫn còn bị hạn chế do cơ sở hạ tầng của ta chưa được đầu tư đồng bộ. Các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung được xây dựng với hạ tầng đầy đủ sẽ là tác nhân kích thích các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất (thực tế các khu Tân Thuận, Linh Trung và các khu công nghiệp khác đã chứng minh). Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa sự hấp dẫn của các khu này, cần nghiêm túc triển khai cơ chế "thủ tục và dịch vụ một cửa" cho một số khu chế xuất và khu công nghiệp như Chính phủ đã quy định.
b. Xác lập tiền đề thu hút vốn đầu tư gián tiếp :
Bên cạnh nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, cần tiến tới thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư gián tiếp để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngày 20/07/2000, trải qua gần 10 năm tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu kinh nghiệm vận hành thị trường chứng khoán (TTCK) trên thế giới, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức đi vào hoạt động. Đây là một sự kiện đáng ghi nhận trong tiến trình phát triển các thể chế kinh tế thị trường ở nước ta, là tiền đề cần thiết để tiến tới thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư gián tiếp trong và ngoài nước.
Bên cạnh những nỗ lực ban đầu đó, hoạt động thực tế của thị trường cho đến nay vẫn chưa đạt được kết quả mong đợi trong đó một số vấn đề nổi cộm là: tính đồng bộ của hệ thống pháp lý điều chỉnh (chưa có Luật chứng khoán; sự đồng bộ giữa các loại văn bản pháp luật về CK, TTCK với các văn bản pháp luật khác có liên quan); sự kết hợp giữa mô hình tập trung và phi tập trung; về sự đa dạng hoá các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán; việc tạo nguồn hàng hoá cho TTCK; cơ chế tham gia TTCK Việt Nam của các tổ chức cá nhân nước ngoài,.... Tất cả những vấn đề này cần phải được xử lý đồng bộ, theo một tiến trình phù hợp với tình hình và điều kiện thực tiễn để thị trường chứng khoán sớm trở thành một động lực đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
c. Thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ.
Thực trạng công nghệ yếu kém và lạc hậu đã được nêu tại nhiều diễn đàn. Tình hình chậm được cải thiện nên đã ảnh hưởng rất mạnh đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt nam trên thị trường thế giới.
Trước hết, việc đầu tư, nhất là của các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ, phải được đặt trong chiến lược kinh doanh tổng thể, đảm bảo cân đối hài hoà giữa đồng vốn, trình độ công nghệ, khả năng kết hợp với các yếu tố đầu vào khác (như sử dụng lao động), khả năng tiêu thụ sản phẩm, thu hồi vốn. Nói cách khác, đầu tư phải đi đôi với hiệu quả kinh doanh. Do vậy, không nhất thiết phải nhập khẩu thiết bị tiên tiến và hiện đại nhất cho mọi ngành sản xuất, bất kể hiệu quả, bất kể khả năng quản lý và vận hành của cơ sở. Trong chừng mực nhất định, việc đầu tư vượt quá yêu cầu cần thiết cũng có tác hại tương tự như việc đầu tư công nghệ thiết bị lạc hậu.
Tuy nhiên, trong một số ngành then chốt như năng lượng, tin học, điện tử, viễn thông, công nghệ sinh học và vật liệu mới thì nhất thiết phải chú trọng nhập khẩu thiết bị tiên tiến nhằm kiến tạo cơ sở hạ tầng vững chắc và góp phần đẩy nhanh quá trình tạo ra các mặt hàng mới cho xuất khẩu.
Một phần vốn đầu tư cho khoa học công nghệ nên được dành để thành lập Ngân hàng Dữ liệu nhằm cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cập nhật nhất về lĩnh vực công nghệ mà họ quan tâm. Việc này đã được làm nhưng quy mô còn nhỏ, lại thiếu quảng cáo nên rất ít doanh nghiệp biết về sự tồn tại của một trung tâm như vậy. Tới đây nên tiến hành đầu tư một cách bài bản hơn cho lĩnh vực này, đồng thời tăng cường phổ biến đến các doanh nhân để họ biết và có điều kiện tham khảo dữ liệu trước khi ra quyết định đầu tư.
Nhà nước cần tạo lập thị trường công nghệ để các sản phẩm khoa học công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông bình thường như một dạng hàng hoá đặc biệt. Đây là biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy các nghiên cứu khoa học gắn bó hơn với tiến trình phát triển, đồng thời rút ngắn được khoảng thời gian giữa nghiên cứu và ứng dụng. Để tạo lập thị trường công nghệ, nên khuyến khích việc ký hợp đồng giữa các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học bằng cách thiết lập Quỹ Hỗ trợ Đầu tư Phát triển Công nghệ Quốc gia. Cụ thể, thay vì cung cấp vốn ngân sách cho nghiên cứu khoa học theo kiểu bao cấp, nên thành lập một Quỹ riêng cho các doanh nghiệp vay trong trường hợp họ có nhu cầu đặt hàng với các Viện nghiên cứu. Làm như vậy vừa gắn được nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn của sản xuất, vừa tạo điều kiện cho các nhà khoa học giỏi phát huy tài năng, vừa không phí phạm nguồn vốn ít ỏi của ngân sách.
1.7. Đổi mới công tác giáo dục, đào tạo, đào tạo lại cán bộ kinh tế đối ngoại và phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn mới.
Phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn mới đòi hỏi phải phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế về trình độ kỹ thuật, ngoại ngữ, chuyên môn nghiệp vụ ngoại thương và các lĩnh vực khác của kinh tế đối ngoại, trong đó có ngoại giao kinh tế là một hoạt động rất quan trọng mà Việt Nam cần quan tâm.
Giải pháp này thể hiện vấn đề chiến lược con người trong chương trình phát triển kinh tế đối ngoại mà trọng tâm là hướng vào sự tăng trưởng ngoại thương, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu. Do vậy Chính phủ phải có quy hoạch về đạo tạo và đào tạo lại cán bộ theo hướng:
- Có chủ trương và tổ chức việc đào tạo chính quy, kể cả ở nước ngoài nhìn vào đối tượng trẻ là chính. Nguồn vốn đầu tư của việc này cần được huy động từ mọi nguồn (ngân sách, tài trợ quốc tế).
- Khuyến khích mọi hình thức đào tạo và tự đào tạo, mạnh dạn cho phép học sinh, sinh viên tự lo kinh phí đi du học và tu nghiệp ở nước ngoài.
- Mở rộng giao lưu văn hoá và kiến thức giữa trong nước và nước ngoài để có thể tiếp thu được các kinh nghiệm phát triển của các nước tiên tiến.
2. Một số kiến nghị.
2.1. Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại.
* ở tầm vĩ mô:
Công tác xúc tiến thương mại là một trong những giải pháp có hiệu quả thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển. Trong thời gian tới, Nhà nước cần tăng cường mạnh mẽ công tác thu thập và phổ biến thông tin về thị trường ngoài, từ tình hình chung cho tới các cơ chế chính sách của các nước, dự báo các chiều hướng cung-cầu hàng hóa và dịch vụ ... Để thông tin có thể đến với mọi doanh nghiệp quan tâm theo con đường ngắn nhất, tiết kiệm nhất, Bộ Thương mại cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và trang chủ (trang Web) của Bộ, tăng cường phát hành các tài liệu theo chuyên đề, phát huy tối đa vai trò của các tham tán thương mại. Tại thị trường ngoài, các tham tán phải là tác nhân gắn kết doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp trên thị trường mà tham tán hoạt động. Các tham tán thương mại, các phái đoàn ngoại giao, các văn phòng đại diện và hiệp hội kinh doanh ở nước ngoài sẽ thu thập và cung cấp thông tin cho các nhà nghiên cứu, các doanh nghiệp nào quan tâm đến luật pháp quốc tế, đặc điểm riêng của từng thị trường thành viên.
Tháng 6 - 2000, Chính phủ đã cho phép thành lập Cục Xúc tiến Thương mại tại Bộ Thương mại với nhiệm vụ chính là phổ biến thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại. Trên cơ sở chiến lược thâm nhập thị trường đã được hoạch định, Cục Xúc tiến có nhiệm vụ xây dựng lộ trình hành động cụ thể để đưa được hàng hoá Việt Nam ra thị trường ngoài. Cục sẽ quản lý cơ sở dữ liệu của Bộ Thương mại và các vấn đề kỹ thuật như tạo dựng cơ sở dữ liệu, tạo dựng trang Web ... . Để thực hiện tốt chức năng của mình, Cục Xúc tiến Thương mại cần được trang bị đầy đủ hơn nữa về cơ sở vật chất và đội ngũ. Ngoài ra, Nhà nước cần chú trọng đến hoạt động marketing, nghiên cứu ứng dụng các nghiệp vụ marketing để phát hiện những mặt hàng có khả năng tiêu thụ trên thị trường thế giới. Hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước sản xuất các mặt hàng đó và thực hiện những hoạt động khuyếch trương cần thiết giúp mặt hàng mới tìm được và duy trì chỗ đứng trên thị trường này. Ngoài ra cần tiến hành các hoạt động cụ thể như thiết lập các văn phòng đại diện của Việt Nam tại các nước; tổ chức các hội chợ triển lãm nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam trong công tác tuyên truyền quản cáo, khuyếch trương hoạt động kinh doanh thương mại, tiếp xúc với bạn hàng, trao đổi học tập kinh nghiệm kinh doanh trên thương trường quốc tế; tổ chức các đoàn doanh nghiệp Việt Nam đi nghiên cứu thăm dò chào hàng ở thị trường ngoài nước, đồng thời mời các doanh nghiệp nước ngoài vào làm việc, tìm hiểu các cơ hội kinh doanh và đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ở Việt Nam...
Nhà nước cần phải xây dựng hệ thống chính sách và biện pháp để đẩy mạnh công tác thị trường ngoài nước bao gồm: Khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài đại lý, phân phối hàng hoá, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm, áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như giao hàng thanh toán chậm, đổi hàng, lập công ty pháp nhân nước sở tại để nhập hàng từ Việt Nam; khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam để phát triển quan hệ buôn bán với nước sở tại; hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo, giới thiệu hàng hoá thông qua báo chí, truyền hình và xuất bản ấn phẩm, có biện pháp và phương thức hoạt động thích hợp nhằm tạo mối quan hệ gắn bó giữa các tham tán thương mại với các hiệp hội ngành hàng, các tổng công ty trong nước, trước hết là đối với hoạt động XTTM; nghiên cứu hình thức và cơ chế hoạt động của đại diện uỷ thác cho các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài;
* ở tầm vi mô:
Bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước trong hoạt động xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú trọng hơn trong hoạt động này.
Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tăng cường tiếp cận, phân tích thông tin: Việc thu thập và xử lý thông tin có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp của ta rơi vào tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu thông tin. Có hai mảng thông tin mà các doanh nghiệp của ta còn lúng túng : thứ nhất là khó nắm bắt kịp những thay đổi trong chính sách của Nhà nước, nhất là các chính sách về thuế; thứ hai là thiếu những thông tin chiều sâu về thị trường ngoài nước (hàng rào phi thuế, tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm dịch ....). Ngược lại, một số doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với nhiều nguồn tin khác nhau, kể cả các mạng tin của nước ngoài thì lại gặp phải vấn đề trong xử lý và nhận định thông tin. Để thâm nhập thành công vào thị trường các nước, doanh nghiệp Việt Nam cần phải luôn luôn cập nhật các thông tin về sự biến động của từng nước thành viên, các thông tin này có thể lấy trên các trang web, tìm hiểu các thông tin qua các lãnh sự quán, hiệp hội doanh nhân, Cục xúc tiến thương mại của Bộ thương mại hay Phòng thương mại và Công nghiệp các nước ở Việt Nam như Phòng thương mại và Công nghiệp Đức, Phòng thương mại và Công nghiệp Pháp...
Thứ hai, để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU các doanh nghiệp cần tăng cường tiếp xúc với thị trường ngoài: Có nhiều cách để tiếp xúc với thị trường ngoài như tổ chức đi nghiên cứu thị trường, tham gia triển lãm trong và ngoài nước, tham dự các hội thảo, chương trình đào tạo ở nước ngoài, qua đó tìm kiếm các cơ hội hợp tác và đầu tư, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Để những hoạt động này đem lại hiệu quả cao nhất thì doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị hết sức chu đáo, kỹ lưỡng đối với từng hoạt động, tránh biểu hiện tham gia một cách hời hợt. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là các chi phí cho các hoạt động trên là rất lớn trong khi đa số các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam có quy mô nhỏ, hạn chế về tài chính. Để khắc phục thực trạng trên, doanh nghiệp nên tận dụng các cơ hội như tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế trong nước, các hội chợ triển lãm ở nước ngoài với sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước, tranh thủ những ưu đãi của bạn hàng trong việc mở các chương trình đào tạo, các hội thảo, hội nghị khách hàng giúp đỡ doanh nghiệp Việt Nam...
Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú trọng đến công tác thị trường, xây dựng chiến lược marketing phù hợp để thâm nhập vào thị trường thế giới. Để làm được điều này các doanh nghiệp cần phải đào tạo một đội ngũ cán bộ nghiên cứu thị trường có trình độ, kiến thức, có phương pháp tư duy tốt để tổng hợp, phân tích, đánh giá các thông tin thu thập được và đưa ra các dự báo về thị trường sao cho sát sao với thực tế. Đồng thời nếu có thể doanh nghiệp cần lập ra các phòng marketing chuyên trách việc nghiên cứu thị trường để đề ra các phương án quảng cáo, khuyếch trương sản phẩm. Doanh nghiệp cần đầu tư chính đáng cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu, cần xây dựng các kế hoạch cụ thể cho công tác xúc tiến xuất khẩu, tiến hành tuyên truyền, quảng cáo hàng bằng nhiều hình thức, thiết lập trang web trên mạng cũng là hình thức xúc tiến hữu hiệu mà nhiều công ty gần đây thực hiên, tổ chức những trung tâm thương mại lâu dài ở nước ngoài, xây dựng các phòng trưng bày sản phẩm, chuyên về một ngành hàng cụ thể. Nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ làm công tác xúc tiến xuất khẩu vì đây là một lĩnh vực mới nên công tác chuyên môn còn hạn chế, trình độ ngoại ngữ yếu kém, gặp khó khăn trong giao tiếp nước ngoài, với các chuyên gia giỏi và hạn chế về việc đọc tài liệu, các sách báo nói về kinh nghiệm xúc tiến xuất khẩu ở các nước tiên tiến.
2.2. Nâng cao chất lượng hàng hoá và phát triển hình ảnh hàng hoá Việt Nam.
Để hàng hoá Việt Nam có chỗ đứng vững trên thị trường thế giới các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú trọng hơn nữa đến chiến lược hàng hoá. Trước hết, cần phải đầu tư thiết bị máy móc, công nghệ tiên tiến hiện đại đồng bộ, áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, để đầu tư được các thiết bị máy móc hiện đại thì doanh nghiệp cần phải có vốn lớn, nhưng thực tế hiện nay hầu hết các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng hoá các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy các doanh nghiệp nên tự mình có những kế hoạch thay thế và đầu tư đổi mới thiết bị phù hợp với yêu cầu sản xuất và khả năng tài chính của mình. Song song với việc cải tiến và đầu tư mới máy móc thì doanh nghiệp cần phải đào tạo một đội ngũ công nhân có tay nghề kỹ thuật cao, đủ trình độ tiếp thu công nghệ mới để sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao.
Chú ý chặt chẽ khẩu kiểm tra chất lượng, không chỉ ở khâu cuối mà ngay ở khâu đầu, kiểm tra nghiêm ngặt thành phẩm trước khi đóng gói và xuất khẩu trên cơ sở tài liệu kỹ thuật và mẫu hàng. Đồng thời nghiên cứu áp dụng các tiêu chuẩn HACCP, ISO14000, và ISO 9000. Các tiêu chuẩn này được coi như yếu tố quyết định xác định chữ tín giữa doanh nghiệp và khách hàng, giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp, là con đường hội nhập khi các nhà sản xuất thâm nhập vào các khu vực mậu dịch cũng như sự khẳng ddịnh cam kết cung ứng sản phẩm có chất lượng tin cậy.
2.3. Về phía các Hiệp hội ngành hàng.
Các Hiệp hội ngành hàng là các tổ chức phi chính phủ, tập hợp và đại diện cho các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh doanh trong từng ngành hàng, được thành lập trên cơ sở tự nguyện nhằm phối hợp có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên thị trường trong và ngoài nước. Thực tiễn cho thấy trong xu thế hội nhập hiện nay, khi Nhà nước hầu như không can thiệp vào hoạt động kinh doanh thì vai trò của Hiệp hội là rất quan trọng và cần thiết trong việc định hướng cho các doanh nghiệp.
Thời gian qua, các Hiệp hội ngành hàng đã phát triển khá nhanh về số lượng, hoạt động đang dần đi vào chiều sâu. Từ chỗ chỉ có 10 Hiệp hội ngành hàng trước năm 1998, tới nay cả nước đã có hơn 30 Hiệp hội ngành hàng trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Một số Hiệp hội đã thực hiện khá tốt các chức năng cơ bản của mình trong việc tập hợp và đại diện cho các hội viên trong các quan hệ đối nội và đối ngoại, là cầu nối giữa các doanh nghiệp và Nhà nước. Tuy nhiên, cũng có không ít Hiệp hội chỉ tồn tại về hình thức. Các biệt có nơi còn nặng tư duy “quốc doanh hoá” và “nhà nước hoá” Hiệp hội khiến hiệu quả hoạt động còn hạn chế.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục nâng cao hơn nữa vai trò của các Hiệp hội trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, thống nhất hành động trong các doanh nghiệp hội viên nhằm tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm một cách có hiệu quả nhất, bảo đảm lợi ích của toàn ngành. Để làm được điều đó, bên cạnh nỗ lực tự thân của Hiệp hội, trước hết Nhà nước cần sớm ban hành hệ thống văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động và quy định chức rõ chức năng, quyền hạn của các Hiệp hội, khắc phục đồng thời cả hai biểu hiện “quốc doanh hóa’ và “Nhà nước hóa” Hiệp hội.
Đối với các ngành hàng nông sản, cần sớm thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng và giao cho các Hiệp hội quản lý theo tinh thần Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP ngày 15/06/2000 của Chính phủ.
2.4. Về sự phối hợp giữa Nhà nước, Hiệp hội, doanh nghiệp trong việc tiếp cận và mở rộng thị trường.
Bên cạnh việc phân định rõ trách nhiệm của Nhà nước, Hiệp hội và doanh nghiệp, cần chú trọng xây dựng cơ chế phối hợp giữa các nhóm chủ thể trên để đảm bảo hiệu quả của công tác tiếp cận và mở rộng thị trường. Như đã phân tích, vai trò chủ yếu của Nhà nước sẽ là tạo hành lang pháp lý và môi truờng kinh doanh thuận lợi để các doanh nghiệp chủ động tiếp cận và thâm nhập thị trường. Trong mối liên hệ đó, chức năng của Hiệp hội trong việc làm cầu nối giữa Nhà nước và doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Thông qua Hiệp hội, các kiến nghị, khó khăn của doanh nghiệp sẽ được phản ảnh chính xác và nhanh chóng tới các cơ quan quản lý Nhà nước, đồng thời Hiệp hội cũng có thể đề xuất, tham mưu cho Nhà nước trong việc ban hành các chính sách, quy định phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành.
Kết luận
Cùng với quá trình quốc tế hoá và tự do hoá thương mại đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới, không một quốc gia nào không nhận thức được tầm quan trọng của ngoại thương trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. ở Việt Nam, từ năm 1986 chúng ta thu được những thành tựu hết sức to lớn về ngoại thương so với những giai đoạn trước đó. Cùng với sự phát triển của ngoại thương là sự tiến bộ trông thấy về sự phát triển của nền kinh tế nước ta, một nước đang phát triển và đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những tiến bộ đó được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, mức sống ngày càng được cải thiện của người dân, ở cơ cấu kinh tế đang ngày càng phù hợp với yêu cầu CNH - HĐH, vốn đầu tư nước ngoài cũng như vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên cả về quy mô và chất lượng, các nguồn lực trong nước đang được khai thác một cách có hiệu quả cả về nguồn nhân lực lẫn tài nguyên thiên nhiên,… Đây chính là những hệ quả mà sự phát triển của ngoại thương đã đem lại cho nền kinh tế nước ta từ sau đổi mới đến nay. Do vậy, chúng ta cần có những biện pháp hữu hiệu phát triển ngoại thương nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước và phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2020.
Tác động của ngoại thương đến những tiến bộ trong quá trình phát triển kinh tế đã phần nào được chứng minh qua khoá luận tốt nghiệp này. tuy nhiên, tìm hiểu về tác động của ngoại thương đến sự phát triển kinh tế là một vấn đề có nội dung vô cùng rộng lớn và cũng khá phức tạp mà không chỉ mình tác giả quan tâm. cho đến nay, đã có nhiều tác giả lấy sự phát triển của ngoại thương trong những năm sau đổi mới đặc biệt là trong thập kỷ 90 làm đối tượng nghiên cứu; cũng có không ít những công trình khoa học nghiên cứu về tác động của ngoại thương đến tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Nói chung, đây là một vấn đề thu hút được sự chú ý và quan tâm của nhiều người và nhiều cơ quan chức năng.
Do hạn chế về thời gian, nguồn thông tin tư liệu cũng như kinh nghiệm thực tiễn của tác giả về vấn đề được nghiên cứu, những nội dung được đề cập trong khoá luận tốt nghiệp này chắc chắn không troánh khổi những thiêú sót, còn nhiều vấn đề phải tiếp tục hoàn chỉnh và bổ sung thêm. do vậy, tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và những người quan tâm để đề tài này được hoàn thiện hơn và có thể được nghiên cứu tiếp sau này./
Tài liệu tham khảo.
Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI, VIII, IX.
Niên giám thống kê, Tổng cục Thống kê, NXB Thống kê từ năm 1995 - 2000
“Chính sách ngoại thương Nhật Bản thời kỳ tăng trưởng cao và toàn cầu hoá kinh tế” - GS.TS Bùi Xuân Lưu, NXB Giáo dục
“Những xu hướng phát triển của thế giới và sự lựa chọn mô hình công hoá của nước ta” - TS Võ Đại Lược, NXB Khoa học Xã hội.
“Đánh thức con rồng ngủ quên - kinh tế Việt Nam đi vào thế kỷ 21” - Tập thể tác giả, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
“Những con rồng lâm bệnh: Khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam á” - Vũ Anh Tuấn (Chủ biên), NXB Khoa học Xã hội.
“Công nghiệp hoá và chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu “ NXB Chính trị Quốc gia.
“Công nghiệp hoá Việt Nam trong thời đại Châu á - Thái Bình Dương” - Trần Văn Thọ, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
“Quan hệ giữa ngoại thương với tăng trưởng và phát triển nền kinh tế mở” - Trần Anh Phương, NXB Khoa học Xã hội.
Giáo trình “Kinh tế ngoại thương“ - Trường Đại học Ngoại Thương.
Giáo trình “Quan hệ kinh tế quốc tế” - Trường Đại học Ngoại Thương.
Kỷ yếu Hội nghị khoa học Trường Đại học Ngoại Thương 1998 - 1999
Kỷ yếu Hội nghị khoa học chào mừng Trường Đại học Ngoại Thương
Một số sản phẩm khoa học năm 2000 - Trung tâm Nghiên cứu kinh tế thế giới.
Báo cáo tổng hợp “Bối cảnh quốc tế và sự lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2010” - TS Võ Đại Lược
“Tăng trưởng với các nước đang phát triển: Vấn đề và giải pháp” - Viện Thông tin Khoa học Xã hội
Báo cáo kinh tế Việt Nam năm 2000 - Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung Ương.
Tạp chí Ngoại thương : số 11, 12, 15, 19, 22, 23, 26 năm 2001
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế:
số 244 - tháng 9/1998
Số 266 - tháng 7/2000
Số 270 - tháng 11/2000
Số 271 - tháng 12/2000
Số 285 - tháng 2/2000
Số 287 - tháng 4/2000
Số 289 - tháng 6/2000
Số 290 - tháng 7/2000
Số 291 - tháng 8/2000
Tạp chí Kinh tế và Phát triển: số 5/2002
Tạp chí Kinh tế và Dự báo: số 4/2002, số 6/2002,
Tạp chí Châu Mỹ ngày nay: số 6/2002
Tạp chí Châu á - Thái bình Dương:số 1(22) năm 2000
Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới:
số 6 (44) năm 1996
số 6 (74) năm 2001
số 2 (76) năm 2002
số 3 (77) năm 2002
Thời báo kinh tế Việt Nam:
Kinh tế Việt Nam 1999 - 2000
Kinh tế Việt Nam 2000 - 2001
Kinh tế Việt Nam 2001- 2002
Thời báo kinh tế Sài Gòn: số 15, 16, 18, 19, 20 năm 2001
Tạp chí Chứng khoán Việt Nam: số 11 tháng 11/2002
Vietnam’s Socio - economic development: No 31 Autumn 2002
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19316.doc