MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1. Thị hiếu
1.2. Thị hiếu điện ảnh
Chương 2: THỰC TRẠNG THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI
2.1. Khái quát về đời sống vật chất, đời sống tinh thần của sinh viên một số trường đại học và cơ sở điện ảnh tại Hà Nội
2.2. Thực trạng thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội
2.3. Nguyên nhân tác động đến thị hiếu điện ảnh của sinh viên
các trường đại học tại Hà Nội
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI
3.1. Thị hiếu điện ảnh của sinh viên qua dư luận
3.2. Một số kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội
KẾT LUẬN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Điện ảnh là môn nghệ thuật tổng hợp có sức thu hút kì lạ đối với công chúng. Và lực lượng khán giả đông đảo của điện ảnh là sinh viên. Họ có những thị hiếu điện ảnh khác nhau, có người thích xem bộ phim này, nhưng có người lại thích xem bộ phim khác. Thị hiếu điện ảnh của họ góp phần làm phong phú, đa dạng thêm thị hiếu điện ảnh của công chúng. Bởi vậy, khi nắm bắt được thị hiếu điện ảnh của sinh viên sẽ giúp cho các nhà điện ảnh hiểu rõ hơn về một bộ phận đông đảo của khán giả để đáp ứng kịp thời.
Sinh viên là những ngườì đang chuẩn bị kiến thức và kinh nghiệm để bước vào lao động nghề nghiệp. Họ có mong muốn làm giàu vốn sống, vốn văn hoá, nghệ thuật và tự hoàn thiện mình. Họ đã tìm ra phương thức hữu hiệu để thoả mãn là điện ảnh. Môn nghệ thuật thứ bảy này từ lâu đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được của họ. Điện ảnh đem lại cho sinh viên những giây phút thoải mái, lý thú, thoải mái sau những giờ học căng thẳng. Điện ảnh còn giúp cho sinh viên nhận biết và hiểu cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Không những thế, điện ảnh đã khơi dậy những gì tốt đẹp trong tâm hồn họ, hướng tới chân thiện mỹ, đến một cái đẹp hoàn thiện. Nghiên cứu thị hiếu điện ảnh của sinh viên nhằm thoả mãn nhu cầu của họ.
Trong thời kì đổi mới, chăm lo đào tạo những trí thức tương lai cho xã hội đã được Đảng và nhà nước quan tâm vì họ là những chủ nhân tương lai của đất nước. Trong văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh vấn đề giáo dục thẩm mỹ, giáo dục văn hoá, nghệ thuật: “Các ngành văn hoá giáo dục Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các ngành có liên quan cần phối hợp chặt chẽ đẩy mạnh vấn đề giáo dục thẩm mỹ, giáo dục văn hoá, nghệ thuật trong các trường học”. Bên cạnh những thị hiếu lành mạnh, trong sinh viên cũng tồn tại những thị hiếu không lành mạnh. Tìm hiểu thị hiếu điện ảnh của sinh viên giúp cho các nhà quản lý văn hoá, nhà trường và các ngành liên quan có giải pháp định hướng giáo dục nhằm nâng cao thị hiếu của họ.
Thị hiếu điện ảnh của công chúng nói chung và của sinh viên nói riêng luôn thay đổi nhất là dưới tác động của hội nhập. Nếu không nhận thức được sự thay đổi nhanh chóng đó sẽ không đáp ứng được nhu cầu của họ.
Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Tìm hiểu thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội” làm khoá luận tốt nghiệp cử nhân Quản lý văn hoá.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về thị hiếu điện ảnh thì đã có rất nhiều công trình, nhiều bài báo như: luận án phó TS của Nguyễn Văn Thủ với đề tài “Nhu cầu điện ảnh của công chúng Việt Nam hiện nay”, “Khán giả điện ảnh Việt Nam, nhu cầu và thị hiếu” của Phòng nghiên cứu khán giả điện ảnh – Fafilm Việt Nam, “Về nhu cầu và thị hiếu điện ảnh của công chúng” ở An Giang của Hoàng Trần Doãn, “Nhu cầu và thị hiếu khán giả điện ảnh” - Đặng Minh Liên Nhìn chung các công trình này đều đi vào khảo sát trên diện rộng. Còn nghiên cứu thị hiếu điện ảnh của sinh viên lại rất ít, chủ yếu chỉ dưới dạng các bài báo.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi vào tìm hiểu, phân tích, đánh giá thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội để rút ra những biện pháp nhằm nâng cao thị hiếu cho sinh viên.
Đối tượng nghiên cứu là nghiên cứu về thị hiếu điện ảnh của sinh viên.
Với dự hạn hẹp của thời gian nghiên cứu, người viết chỉ xin nghiên cứu đề tài ở 4 trường đại học tại Hà Nội (2 trường thuộc khối xã hội và hai trường thuộc khối tự nhiên) là: Đại học Văn hoá Hà Nội, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Bách khoa Hà Nội.
4. Nhiệm vụ của khoá luận
- Tìm hiểu thực trạng thị hiếu điện ảnh của sinh viên các trường đại học tại Hà Nội.
- Nêu nguyên nhân thị hiếu điện ảnh của sinh viên
- Đóng góp một số giải pháp nhằm nâng cao thị hiếu điện ảnh của sinh viên
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu
- Điều tra bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp xử lý số liệu
6. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài mở đầu, kết thúc, khoá luận gồm các chương:
Chương 1: Một số khái niệm cơ bản
Chương 2: Thực trạng thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội
Chương 3: Một số kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội.
64 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2366 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu thị hiếu điện ảnh của sinh viên một số trường đại học tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i mắc “tật” ôm đồm quá nhiều vấn đề, quá nhiều tư tưởng để rồi cuối cùng không chuyện nào được khai thác triệt để. Thí dụ có đạo diễn khai thác về đề tài làng quê thì ông đem tất cả những chuyện gì có ở làng quê mà ông biết vào phim. Điều đó làm cho phim có nội dung nhạt nhẽo, chỉ là sự lắp ghép của các sự kiện vào mà thôi. Nguyễn Thị Thanh Trà, sinh viên Đại học Kinh tế quốc dẫn đã phản đối gay gắt phim Việt: “Phim Việt Nam quá tẻ nhạt, đơn điệu khiến tớ không thể xem được”.
Tình huống và chi tiết làm nên sức sống của một bộ phim, nếu khai thác hiệu quả thì sẽ làm tăng sức hấp dẫn cho phim. Về điều này thì các bạn sinh viên cho rằng phim Việt chưa làm được. Phim nước ngoài lại làm tốt vấn đề này. Xem phim hành động hay hình sự Mỹ sẽ thấy tình huống nhanh, hồi hộp ly kỳ, những pha gay cấn đến nghẹt thở. Phim khiến người xem không rời mắt ra khỏi màn hình một phút. Thường không có tình huống ly kỳ như phim Mỹ nhưng phim Hàn Quốc có điểm mạnh là giải quyết tình huống rất hợp lý. Nhiều tình huống chuyện tưởng như vô lý nhưng với cách lý giải lại chuyển thành hợp lý. Đây lại là điểm yếu của phim Việt Nam. Bạn Đào Thị Ngọc Hà, Đại học Văn hoá Hà Nội nói rằng: “Tình huống trong phim Việt xây dựng quá dở, nhiều tình huống vô lý đến tức cười”.
Một điểm yêu thích nữa của sinh viên khi xemphim nước ngoài là được đến với dàn diễn viên đẹp và diễn xuất tốt. Nhu cầu của khán giả ngày càng cao, đối với diễn viên họ không chỉ yêu cầu diễn viên đẹp hay diễn xuất tốt mà phải có cả hai yếu tố. Theo điều tra của Tiến sĩ Tâm lý học Hoàng Trần Doãn thì có tới 71,9% sinh viên đồng ý với ý kiến này. Con số này nói lên rằng thị hiếu của sinh viên không phải là thấp. Nhìn vào phim nước ngoài thì ai phải khẳng định rằng họ có một dàn diễn viên đẹp và giỏi. Nói tới các diễn viên như Tom Cruie, Jenifer Aniston, Brad Pitt, Angenlia Jolie…thì sinh viên nào cũng biết. Họ trở thành thần tượng, nhận được sự yêu quý và cả kinh trọng của không ít sinh viên. Nhiều bạn còn coi họ là thần tượng, lập các fan hâm mộ. Theo các bạn diễn viên của ta trong những phim gần đây đẹp thì có đẹp, toàn các “sao” trên sàn diễn nhưng diễn khiên cưỡng, không hoá thân được vào nhân vật.
Xem phim nước ngoài không chỉ là xem kĩ xảo, diễn viên mà còn xem cảnh. Người xem được đến với những lãng mạn trong phim Hàn như cảnh những đôi yêu nhau tay nắm tay trên con đường đầy lá vàng rơi hay rừng tuyết trắng lung linh, cảnh hoa anh đào nở rộ ở xứ sở Phù Tang trong phim Nhật, những toà nhà cao chọc trời trong phim Mỹ. Sinh viên nói rằng xem phim với họ là hình thức du lịch trên màn ảnh nhất là với những người không có điều kiện đi du lịch như họ. Sinh viên có thể thoái mái mơ ước về một xã hội hiện đại, ở đó có những cảnh đẹp, có những con người chỉ đến với nhau bằng tình yêu. Phim nước ngoài chiếm được cảm tình của khán giả sinh viên một phần vì nó phù hợp với tâm lý lãng mạn của họ.
Thị hiếu xem phim nước ngoài là một thị hiếu tốt của sinh viên. Bởi thông qua phim, họ có thể tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau. Xem phim Trung Quốc, họ được đến với một đất nước có lịch sử hoành tráng, với cuộc sống cung đình cùng những câu chuyện về mưu cao mẹo thâm, bày phương tính kế. Đến với phim Hàn Quốc, người ta đến với xứ sở của những cảnh đẹp, lãng mạn, với món kim chi nổi tiếng. Nếu muốn tìm hiểu sâu hơn về những người phụ nữ Nhật, về bộ kimono truyền thống, môn võ sumo nổi tiếng thì khán giả sẽ đến với phim Nhật. Hay như xem phim người ta có thể hiểu được tính cách của con người mỗi đất nước. Xem phim Nga, người ta thấy được đậm nét nhân văn trong con người Nga. Phim Mỹ cho ta biết đến những con người thực dựng với lối sống gấp. Phim Pháp với những con nguời thẳng thắn và rành rẽ.
Tuy nhiên thị hiếu thích xem phim nước ngoài mà học theo cách sống thực dụng, lối sống nhanh gấp gáp, không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc thì thật là không nên. .
Đối với phim Việt Nam, sinh viên thích xem phim thương mại hơn phim nghệ thuật
Từ khi đất nước bước vào đổi mới, điện ảnh nước ta bước vào kinh tế thị trường nên việc xuất hiện những phim giải trí thương mại là một điều tất nhiên. Dòng phim giải trí - thương mại mới chỉ hình thành từ cuối những năm 80 đầu những năm 1990 với một loạt các bộ phim như Vị đắng tình yêu, Lệnh truy nã, Thăng Long đệ nhất kiếm...Tên tuổi của các diễn viên được nhiều người biết đến như Lý Hùng, Diễm Hương, Việt Trinh, Lê Tuấn Anh, Lê Công Tuấn Anh…Sau những bước đi dò dẫm tự phá, thiếu kinh nghiệm dòng phim này tạm ngừng vào giữa những năm 90. Khoảng 10 năm sau, tưởng đã đi vào lãng quên, nó được hồi sinh từ năm 2002 đến nay. Mở đầu là những phim như: Gái nhảy, Lọ lem hè phố, Những cô gái chân dài, Công nghệ lăng xê…Đó như những phát súng ngoạn ngục của các hãng phim Giải phóng, Thiên Ngân. Tiếp đó là một loạt các bộ phim như: Khi đàn ông có bầu, Nữ tướng cướp, Lấy vợ Sài Gòn, Hồn Trương Ba ra hàng thịt, Đẻ mướn… Những bộ phim này đã đem lại một một khoản lợi nhuận khổng lồ cho các nhà sản xuất. Tổng doanh thu là gần 30 tỷ trong khi đó tổng giá thành đầu tư mới chỉ hơn 10 tỷ.
Bên cạnh dòng phim thương mại luôn có một dòng phim song song tồn tại đó là phim nghệ thuật. Phim nghệ thuật đòi hỏi các đạo diễn phải có các vận dụng tìm tòi phương tiện biểu hiện đạt tới giá trị nghệ thuật và tư tưởng đáng kể nào đó. Những năm gần đây nước ta có rất nhiều phim nghệ thuật đạt giải cao, được bạn bè quốc tế công nhận như: Thời xa vắng, Đời cát, Mê thảo thời vang bóng, Sống trong sợ hãi, Chuyện của Pao…
Phim nghệ thuật thường “kén” khán giả và sinh viên thì “chạy” theo thị hiếu nhiều hơn nên đã chọn phim thuơng mại. Khi người viết hỏi lý do tại sao sinh viên lại thích xem phim thương mại hơn thì nhận được nhiều câu trả lời khác nhau. Bạn Vũ Kim Dung, sinh viên đại học Kinh tế quốc dân đã cho biết: “Tớ thích xem phim thương mại hơn vì phim khai thác những vấn đề nóng, những câu chuyện mới mẻ của đề tài xã hội. Còn phim nghệ thuật lúc nào cũng đề cập tới chiến tranh, đến những người lính chiến đấu và hi sinh hay những phụ nữ chịu thương, chịu khó”. Hầu hết những phim thương mại gần đây đều đi vào khai thác những câu chuyện mới lạ của xã hội đương đại hay quá khứ với màu sắc khác nhau như tình cảm, tâm lý, hài hước, hình sự điều tra. Với “Gái nhảy”, “Lọ lem hè phố”, lần đầu tiên trên màn ảnh phim Việt Nam khán giả mới có dịp đến với những cảnh vũ trường sôi động, các ổ gái điếm, các băng du đãng, ăn chơi xa đoạ… Hay nguời xem sẽ được thấy một số phong cách sống lệch lạc thời thị trường qua các tình huống hài hước trong “Khi người đàn ông có bầu” và “Lấy vợ Sài Gòn”.
Phim thương mại đã hấp dẫn người xem ngay từ cái tên như: Gái nhảy, Nữ tướng cướp, Những cô gái chân dài, 39 độ yêu… Đó là một trong chiến dịch “câu khách” của các nhà làm phim. Việc ra đời tên phim cũng là cả một hành trình, thí dụ như phim “Gái nhảy” lúc đầu có tên là “Chuyện của Hạnh” sau đổi thành “Cave”. Vẫn chưa hợp lý vì cái tên “Tây” quá nên đạo diễn đổi thành tên Việt Nam khá ấn tượng là “Gái nhảy”. Những bộ phim này thu hút được sự chú ý của công chúng điện ảnh nước nhà khi đánh đúng vào tâm lý tò mò của họ. Khán giả đến rạp rất đông trong đó không ít là sinh viên. Nếu không có điều kiện đến rạp thì các bạn thuê đĩa về xem. Như phần trên đã đề cập, sinh viên là những người trẻ tuổi đồng nghĩa với việc là những người nắm bắt rất nhanh cái mới, hay “chạy” theo cái mới. Một lẽ tất nhiên sinh viên sẽ đến với những bộ phim giải trí, thương mại .
Lý do thứ hai mà người viết thu thập được đó là chất liệu và cách thể hiện của phim thương mại cũng mới mẻ hơn hẳn phim nghệ thuật. Xem phim “Khi người đàn ông có bầu” nguời xem sẽ được những trận cười thoải mái với những màn xích lô bay, với cảnh các bà vợ dữ như bà chằn, bắt nạt tới số những ông chồng tội nghiệp đang mang bầu. Xem phim “Chiến dịch trái tim bên phải” người xem được thưởng thức những cảnh lãng mạn giống phim Hàn Quốc chứ không phải là những cảnh cũ kĩ, nhàm chán và thô cứng như trong phim nghệ thuật. Như thế, phim thương mại chắc chắn sẽ có các fan sinh viên.
Một lý do nữa khiến cho sinh viên thích xem phim thương mại là vì các bộ phim này tập hợp được nhiều các “sao”. Phim sử dụng các “sao” của sàn diễn thời trang để thu hút khán giả như: Tống Bạch Thuỷ, Xuân Lan, Ngô Thanh Vân, Bằng Lăng, Anh Thư, Dương Yến Ngọc…So với phim truyện nghệ thuật, phim thương mại hơn hẳn về dàn diễn viên trẻ, đẹp. Sinh viên nói rằng nhiều khi họ xem phim cũng chỉ để xem “sao”. Bên cạnh những diễn viên - người mẫu, phim còn là “dải ngân hà” tập hợp các sao ca nhạc, các danh hài. Các ca sĩ Phương Thanh, Nguyễn Phi Hùng, Quang Dũng, Lam Trường, Duy Mạnh… đều có một nghề tay trái là diễn viên. Phương Thanh từ một ca sĩ bỗng trở thành bà mẹ của sáu đứa con trong “Khi người đàn ông có bầu”. Lam Trường trở thành anh chàng thư sinh bị hại trong “Nữ tướng cướp”. Quang Dũng vào vai anh chàng ca sĩ hào hoa trong “Lọ lem hè phố”. Rồi một loạt các danh hài như Bảo Phúc, Hồng Vân, Thành Lộc…cũng tham gia đóng phim. Nhiều khi họ chỉ xuất hiện trong vai phụ, có mặt rất ít trong phim song lại luôn được khán giả chú ý. Về mặt này thì phim nghệ thuật kém hơn hẳn. Kinh phí làm phim phần nhiều dành cho việc sáng tạo các yếu tố nghệ thuật, nên không thể đầu tư một dàn diễn viên toàn là “sao”.
Công tác tiếp thị của phim thương mại cũng là một trong các lý do thu hút được các khán giả sinh viên. Mỗi bộ phim thương mại ra mắt là có mặt trên hàng loạt các bài báo như điện ảnh - kịch trường, điện ảnh ngày nay, màn ảnh sân khấu, thế giới điện ảnh…Các catolo phim được dán ở khắp các nơi, tờ rơi giới thiệu phim được phát ở nhiều trường đại học. Các nhà sản xuất phim rất nhanh nhạy trong vấn đề này. Họ đã bỏ ra một khoản kinh phí khá lớn để đầu tư cho công tác quảng cáo phim. “Gái nhảy” bỏ ra 100 triệu cho quảng cáo. Với “Khi người đàn ông có bầu” chiếm tới một phần ba kinh phí làm phim. Hãng phim Phước Sang có các tiếp thị độc đáo là cho thuê những chiếc xe xích lô chở các diễn viên đóng người đàn ông có bầu đi khắp các đường phố lớn của Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Công nghệ lăng xê đã đưa phim thương mại nhanh chóng đến với khán giả. Nhiều khi cũng chỉ vì chí tò mò mà khán giả đến với phim. Người viết đã lấy hai bộ phim tiêu biểu của dòng phim thương mại và phim nghệ thuật là “Gái nhảy” và “Mê thảo thời vang bóng” để hỏi một số sinh viên đã xem chưa. Hầu hết sinh viên đều trả lời đã xem phim “Gái nhảy” rồi còn phim “Mê thảo thời vang bóng” chỉ biết tới tên chứ chưa xem. Nhiều bộ phim nghệ thuật được giải Cánh diều vàng và được mang sang nước ngoài để dự thi trong các liên hoan phim lớn nhưng khán giả trong nước lại chưa hề biết tới nó. Có một vài rạp chỉ dám chiếu vài buổi trong tuần vì khán giả đến quá ít. Điều đó là do công tác tiếp thị của phim nghệ thuật còn kém không thu hút được công chúng yêu điện ảnh, trong đó có sinh viên.
Được gọi là phim nghệ thuật và phim thương mại thì tất nhiên phải có sự khác nhau. “Phim thương mại là phim được làm ra với mục đích lôi kéo khán giả, thậm chí đáp ứng cả thị hiếu tầm thường nhất để đạt được lợi nhuận cao nhất. Còn phim nghệ thuật thì không hấp dẫn khán giả bằng bất cứ giá nào và bằng phương pháp nào. Loại hình này không xa vào chiều chuộng khán giả một cách vô độ mà ít nhất là dựa trên tiêu chí phục vụ người xem theo lập trường tác giả” [19, tr.92]. Tất cả các sáng tác phim nghệ thuật đều có sự vận dụng, tìm tòi các phương tiện biểu hiện nghệ thuật đạt tới giá trị nghệ thuật và tư tưởng nào đó. Phim thương mại và phim nghệ thuật Việt Nam cũng mang trong mình những đặc điểm đó. Sự hồi sinh của dòng phim thương mại này đã thu hút được sự quan tâm của khán giả đối với phim Việt. Lâu nay phim Việt đã bị lãng quên, công chúng chỉ đến với phim nước ngoài. Sau sự thành công của phim “Gái nhảy” với tổng doanh thu lớn, hàng loạt các bộ phim tương tự như thế ra đời.
Trên thị trường điện ảnh Việt Nam nổi lên cuộc đua giữa các hãng phim tư nhân trong đó hai hãng phim lớn nhất là Thiên Ngân Galaxy và Phước Sang. Họ liên tục cho ra những bộ phim mới với chiến dịch quảng cáo rầm rộ. Nhiều nhà sản xuất phim thương mại có cách suy nghĩ rất đơn giản: muốn “câu khách” thì cứ tìm diễn viên đẹp, mời ca sĩ người mẫu càng tốt, cho tắm khoả thân, yêu đồng tính là có khách. Phim “39 độ yêu” là một điển hình, có ca sĩ, có người mẫu, có mafia, có đánh đấm, tình yêu tay ba tay tư nhưng với môtip cũ mèm. Khán giả xem những bộ phim này xong, bước ra rạp mà không để lại cảm xúc gì. Có những phim thì chiến dịch quảng cáo khá hấp dẫn nhưng khi xem xong cũng chỉ ấn tượng với cảnh phòng the của hai vợ chồng lâu năm không có con. Những cảnh này đôi khi rất thô tục thể hiện sự hời hợt của tác giả về cuộc sống. Đáng ra phải mô tả những ức chế về tâm lý của đôi vợ chồng này thì phim lại đi sâu vào những cảnh tình dục, làm trò “múa” trên giường. Ngay cả phim hài cũng chỉ cũng chỉ đem lại tiếng cười hời hợt, xem xong không để lại ấn tượng gì. Vậy mà sinh viên vẫn thích xem để thoả mãn chí tò mò, sự hiếu kì của mình. Trong khi đó, họ lại không lựa chọn những phim nghệ thuật với nội dung sâu sắc khi đặt ra một cách nghiêm túc những vấn đề nhân sinh, xã hội gợi mở nhiều nhận thức về sự thật và chân lý. Có lẽ là do những bộ phim này đòi hỏi phải có ngẫm nghĩ và những hiểu biết sâu về điện ảnh thì mới có thể hiểu hết được ý nghĩa của phim. Sinh viên luôn đặt mục đích giải trí lên hàng đầu nên không đến với phim nghệ thuật. Một câu hỏi được đặt ra ở đây là sinh viên xem phim chỉ để thoả mãn chí tò mò của mình thôi chứ họ không nghĩ đến mình học học được gì sau bộ phim. Phim thương mại không phải là những bộ “phim đen” nên việc xem phim không phải là thị hiếu không lành mạnh. Tuy nhiên, xem phim chỉ để đáp ứng sở thích giải trí đơn thuần là thị hiếu thấp.
Sinh viên thích xem phim của điện ảnh Cách mạng Việt Nam hơn phim Việt Nam hiện đại
Khi người viết hỏi một sinh viên trường Đại học Văn hoá rằng: “Bạn thích xem phim Việt Nam hay phim nước ngoài” thì sinh viên đó trả lời ngay rằng: “Thích xem phim nước ngoài”. Câu trả lời đã “thêm” đó đã cho người viết một gợi ý khảo sát sở thích xem phim Cách mạng Việt Nam.
Quả thực những phim của điện ảnh Việt Nam đã ra đời từ rất lâu (phim truyện đầu tiên là “Chung một dòng sông” của đạo diễn Phạm Hồng Nghi và đạo diễn Phạm Kỳ Nam sản xuất từ năm 1959) nhưng vẫn có sức thu hút kỳ lạ, làm say mê bao thế hệ trẻ như sinh viên. Thái độ của sinh viên phản đối gay gắt với phim Việt Nam đương đại nhưng họ vẫn tôn vinh phim cách mạng. Người viết cho rằng không phải sinh viên là giới trẻ, chỉ thích “chạy” theo cái mới mà quên đi quá khứ, chỉ có điều là phải chăng phim Việt hiện nay không đáp ứng được nhu cầu của họ.
Lý do tại sao sinh viên lại thích xem phim của điện ảnh cách mạng Việt Nam hơn phim Việt Nam đương đại. Người viết đã thu thập được các ý kiến sau đây:
Bạn Lê Tuyết Linh, sinh viên đại học Văn hoá Hà Nội đã nói lên quan điểm của mình: “Xem những bộ phim của điện ảnh Cách mạng cho tớ hiểu về hơn về hai cuộc chiến tranh thần thánh mà dân tộc ta đã trải qua”. Sinh viên hầu hết là những người sinh ra trong thời bình, họ chưa phải trải qua cuộc chiến tranh nào. Họ luôn có mong muốn tìm hiểu về chiến tranh. Không phải đâu xa, sinh viên đã tìm thấy một khối lượng kiến thức khá lớn trong phim cách mạng. Các bộ phim này đã phản ánh chân thực cuộc chiến đấu ác liệt của dân tộc ta thông qua rất nhiều mảnh đời, những số phận. Đó là cuộc chiến tranh ác liệt ở vùng Đồng Tháp thể hiện qua cuộc chiến đấu giữa một bên là anh du kích Ba Đô làm giao liên cho cách mạng ở vùng đầm lầy, còn bên kia là chiếc trực thăng Mỹ (phim “Cánh đồng hoang”). Đó là cảnh cây cầu bắc qua sông Bến Hải bị gãy chia cắt hai miền Tổ quốc (phim “Vĩ tuyến 17 ngày và đêm”). Đó là cảnh máy bay B52 dội trên những mái nhà, những trường học, nhà trẻ trong “Em bé Hà Nội”.
Bạn Trần Thuý Hằng, sinh viên Đại học Văn hoá Hà Nội cho biết: “Phim có đề tài chiến tranh hồi trước có cảnh thực hơn nhiều so với phim chiến tranh bây giờ. Xem phim bây giờ cảnh giả, tình huống giả. Một cảnh sơ tán thời chống Mỹ ở Hà Nội mà đường phố sạch như lau, người đi trật tự như xếp hàng và nét mặt chẳng thấy lấy một nét ưu tư, một nỗi lo âu của nạn chạy giặc”. Phim điện ảnh Cách mạng làm trong giai đoạn chiến tranh nên có lẽ bối cảnh bối cảnh thật hơn. Phim hiện nay có đề tài chiến tranh lại không dựng lại được bối cảnh, nhiều phim có sử dụng kĩ sảo nhưng không hiệu quả.
Khán giả sinh viên nói rằng họ thích xem phim của điện ảnh cách mạng Việt Nam vì phim đã xây dựng được những hình tượng nhân vật để lại dấu ấn. Khi xem phim khán giả không thể quên được một bé Nga hồn nhiên trong trẻo mà anh hùng trong phim phim “Con chim vành khuyên”. Nhất là trong đoạn cuối phim khi em hi sinh, em nằm trên mặt nước tay em tháo kim băng ra ở miệng túi để con chim vành khuyên bé nhỏ bay ra và vỗ cánh bay đi. Người xem cũng không thể quên một chị Tư Hậu dũng cảm kiên cường và đầy lòng nhân ái, bị giặc tra tấn dã man mà vẫn lo cho đứa con bé bỏng của mình. Công chúng điện ảnh ngày nay vẫn còn nhắc tới hình tượng Kim Đồng của đạo diễn Nông Ích Đạt (phim “Kim Đồng”), Mỵ và A phủ của đạo diễn Mai Lộc (phim “Vợ chồng A Phủ”), Chị Vân, trung uý Phương của đạo diễn Huy Thành (phim “Nổi gió”), cô Duyên (phim “Bao giờ cho tới tháng mười”). Điều đó nói lên sức sống, sức hấp dẫn của các hình tượng là chính là lý do quan trọng để sinh viên yêu thích xem phim xưa.
Không thể nói diễn viên bây giờ diễn xuất kém hơn phim ngày nay vì hầu như họ đã qua đào tạo cơ bản. Nhưng người viết cũng đồng ý với một số sinh viên rằng diễn viên xưa của ta đóng “thật” hơn. Diễn viên của phim đương đại rất nhiều người không thuộc lời thoại. Vì thế họ vừa phải nghe, vừa diễn vừa nói lại. Một nhà đạo diễn luôn tâm huyết với nghề đã tâm sự rằng: “Người Việt Nam trong phim bây giờ có vẻ nghễnh ngãng (vì phải hóng tai lên để nghe) và nói chậm, nói nhát gừng (vì nghe đến đâu nhắc lại đến đấy)”. “Xem phim xưa tôi cảm thấy sự hết mình với vai diễn của các diễn viên. Mặc dù họ không qua trường lớp nhưng tình yêu nghề đã giúp họ thành công” - đó là lời của một bạn sinh viên nhận xét về diễn viên trong các bộ phim của điện ảnh cách mạng Việt Nam.
2.2.3. Thị hiếu của sinh viên trong lĩnh vực sáng tạo điện ảnh
2.2.3.1. Sinh viên yêu thích tham gia vào sáng tạo điện ảnh
Sức cuốn hút của điện đã mở ra con đường nghệ thuật đối với một số sinh viên: tham gia đóng phim. Rất nhiều diễn viên trẻ của ta đang còn là sinh viên. Nhất là trong các bộ phim nói về cuộc sống sinh viên thì hầu hết diễn viên là sinh viên. Phim “Phía trước là bầu trời” với Văn Anh, Thành Nam, Kiều Anh, Thanh Thảo, Thu Nga...Mới đây, bộ phim “Nhật kí Vàng Anh - một bộ phim teen thu hút được sự chú ý của các khán giả trẻ cũng có các diễn viên – sinh viên như Minh Hương, Việt Quang, Thanh Vân…Vì bận tham gia đóng phim nên nhiều khi họ phải hi sinh những giờ học trên giảng đường. Bạn Thanh Vân (đóng vai Minh trong “Nhật kí Vàng Anh”) đã tâm sự: “Phải tham gia đóng phim nên không có thời gian học ôn thi mình phải học tủ may mà qua”.
Đam mê với nghề diễn nhiều sinh viên đã chuyển sang nghề diễn bỏ ngành mà mình đã cất công đèn sách suốt bao nhiêu năm. Và nhiều người trong số họ đã rất thành công trên con đường nghệ thuật.
Những sinh viên không có tài năng diễn xuất nhưng vì yêu nghề diễn nên họ sẵn sàng làm diễn viên quần chúng khi có cơ hội. Bạn Cao Văn Hoàn, một người rất hay tham gia các vai quần chúng trong phim đã rất hào hứng kể: “Với tớ được làm diễn viên quần chúng cũng được gọi là diễn viên rồi. Mặc dù tiền thù lao không nhiều nhưng mình làm là vì yêu thích”.
Không thể đến được với nghề diễn, với tình yêu điện ảnh đã đưa một số sinh viên đến với con đường sáng tác kịch bản và phê bình điện ảnh. Lòng đam mê với điện ảnh luôn làm nảy sinh những ý tưởng tốt đẹp để làm cho điện ảnh ngày càng hay, càng hấp dẫn.
2.2.3.2. Hoạt động sáng tạo điện ảnh của sinh viên chưa nhiều
Sinh viên còn thiếu kỹ năng về diễn xuất nên khó có thể tham gia đóng phim. Hơn nữa, họ lại không có nhiều cơ hội đến với phim như phải dành nhiều thời gian vào việc học tập ở trường, phải tham gia các hoạt động xã hội, có rất ít các đợt tuyển diễn viên, không tìm được các vai diễn phù hợp với mình…
Sinh viên ít tham gia vào phê bình phim và viết kịch bản vì còn thiếu kiến thức chuyên môn. Cũng có nhiều bài báo của sinh viên về điện ảnh nhưng chủ yếu là đứng dưới góc độ của người xem. Rất hiếm những kịch bản của sinh viên được chuyển thành phim, có chăng là của sinh viên chuyên ngành điện ảnh.
2.3. Nguyên nhân tác động đến thị hiếu điện ảnh của sinh viên các trường đại học tại Hà Nội
2.3.1. Nguyên nhân chủ quan
2.3.1.1. Tâm lý lứa tuổi
Tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất về tình cảm cao cấp như tình cảm trí tuệ , tình cảm thẩm mỹ, tình cảm đạo đức…Những tình cảm này biểu hiện rất phong phú trong hoạt động và trong đời sống của sinh viên. Tình bạn cùng giới và đặc biệt là tình bạn khác giới ở lứa tuổi sinh viên biểu hiện rất rõ so với các lứa tuổi khác. Họ không chỉ gắn kết với nhau trong học tập, trải nghiệm với biết bao vui buồn, thành công, thất bại trong cuộc sống. Bên cạnh tình bạn, ở lứa tuổi này phát triển rất mạnh mẽ tình yêu nam nữ. Tình cảm này giúp cho sinh viên có tâm hồn lãng mạn và đầy nhạy cảm, dễ nhận thấy ý nghĩa tích cực của cuộc sống. Vì thế người ta thường có tên gọi là “tình yêu sinh viên”. Sự sôi nổi trong tình bạn, sự nhạy cảm trong tình yêu khiến cho sinh viên khi đến với điện ảnh họ thường chọn những bộ phim tâm lý xã hội, những bộ phim có chủ đề về tình bạn, tình yêu.
Mặt khác, sinh viên là những người trẻ tuổi, những người nắm bắt rất nhanh với cái mới. Bản tính của họ là năng động, sáng tạo, thích tìm sự thay đổi và không ngừng thay đổi. Trong quá trình đó sinh viên đã tiếp thu những cái mới nhưng nhiều khi không có sự chọn lọc. Đối với điện ảnh cũng vậy, họ thích “chạy” theo cái mới mặc dù chưa hẳn là tốt khi xem những bộ phim thương mại mà bỏ quên phim nghệ thuật, thích xem phim nước ngoài và quay lưng với phim Việt Nam.
2.3.1.2. Hoàn cảnh kinh tế
Sinh viên đều nói rất thích đến xem rạp nhưng lại ít đến rạp. Họ đưa ra rất nhiều lý do như bận học, bận đi làm thêm, không có người rủ đi nhưng chủ yếu là không có tiền mua vé. Sinh viên là những người mới rời ghế trường phổ thông để bước chân vào trường đại học. Đây là giai đoạn họ trau dồi tri thức và kĩ năng nghề nghiệp nên chưa có khả năng kiếm tiền, phải dựa dẫm vào bố mẹ nhiều. Khả năng tài chính của học có hạn nên việc họ ít đến rạp là điều hoàn toàn có lý.
2.3.1.3. Lối sống của sinh viên
Một bộ phận trong sinh viên có lối sống buông thả, xa rời truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Sự suy giảm về đạo đức, lệch lạc về mặt lối sống của họ biểu hiện ngày càng rõ trong hành vi ứng xử, coi nhẹ đạo đức truyền thống, lối sống được mệnh danh là “hiện đại”, theo kiểu “văn minh tiêu thụ”.
Khảo sát về tình trạng suy giảm đạo đức trong sinh viên tại Hà Nội của Viện Tâm lý học cho thấy đứng đầu là xu hướng chạy theo lối sống thực dụng với 69,7%; xu hướng vị kỷ cá nhân chiếm 22,1% không có khát vọng lập thân lập nghiệp chiếm 31,2%. Một số sinh viên do chạy theo sự hưởng thụ đã vi phạm pháp luật nhằm thoả mãn vật chất cá nhân của mình. Đã có nhiều sinh viên phạm tội giết người, cướp giật, lừa đảo bị truy tố trước pháp luật. Bên cạnh đó là xu hướng giải quyết các mâu thuẫn trong quan hệ xã hội bằng bạo lực, bất chấp pháp luật và đạo đức.
Hiện tượng “góp gạo thổi cơm chung” người ta gọi là “sống thử” đã trở nên phổ biến trong giới sinh viên. Quan niệm về tình yêu của một bộ phận sinh viên đi liền với tình dục. Do vậy, xem phim sex là một trong các nhu cầu của họ.
Với lối sống không lành mạnh như vậy đã hình thành trong sinh viên sở thích xem những phim cấm.
2.3.1.4. Trình độ kiến thức
Nhiều sinh viên có khả năng nhận thức tốt phân biệt đúng đắn cái tốt và cái xấu, kiên định lập trường. Bên cạnh đó có không ít sinh viên chưa phân định được những cái xấu và cái tốt nhất là cái xấu tinh vi, núp bóng, mệnh danh là “sành điệu”. Thị hiếu điện ảnh của sinh viên cũng vậy, có những thị hiếu lành mạnh, có những thị hiếu không lành mạnh. Nhiều sinh viên bắt chước, học đòi cái có trong phim ảnh mà tưởng nhầm rằng thế mới là hay, là “mốt”. Họ thích xem phim sex, phim bạo lực mà không ý thức được hậu quả của nó đối với bản thân mình và đối với xã hội. Nhiều khi họ không xem một mình còn lôi kéo cả bạn bè mà không biết đã làm hại bạn.
Kiến thức về điện ảnh của sinh viên còn thiếu nên họ chưa hiểu hết được giá trị của phim nghệ thuật. Ngay cả sinh viên được đào tạo về chuyên ngành điện ảnh cũng có kiến thức chưa sâu. Trong điều tra về kiến thức điện ảnh của sinh viên Hà Nội trên một trang web điện ảnh thì người ta nhận thấy rằng sinh viên còn hổng khá nhiều. Hỏi tên bộ phim đầu tiên của điện ảnh Cách mạng Việt Nam thì không biết nhưng hỏi về một bộ phim nổi tiếng của Trung Quốc thì sinh viên nào cũng trả lời được. Sinh viên hiểu về điện ảnh nước ngoài hơn là điện ảnh nước mình.
2.3.2. Nguyên nhân khách quan
2.3.2.1. Tác động của hội nhập
Cuối năm 2006, Việt Nam chính thức ra nhập tổ chức thương mại quốc tế (viết tắt là WTO). Sự gia nhập này càng thúc đẩy quá trình hội nhập của nước ta. Quá trình hội nhập diễn ra trên tất cả các lĩnh vực nghệ thuật nói chung và điện ảnh nói riêng cũng nằm trong xu thế. Sự giao lưu giữa các nền văn hoá khiến các hoạt động xuất nhập khẩu phim ngày càng được đẩy mạnh. Phim nước ngoài được đưa vào với nhiều thể loại phong phú để sinh viên thoải mái lựa chọn theo sở thích của mình. Điều đó càng bồi đắp thêm tình yêu điện ảnh của sinh viên. Tuy nhiên, cái gì trong phim nước ngoài cũng hay, cũng tốt. Không ít băng đĩa đen của nước ngoài đang “trôi nổi” trên thị trường của ta. Và không ít sinh viên đã “sưu tầm” nó để xem. Hội nhập luôn có hai mặt, một mặt giúp cho sinh viên tiếp thu những tinh hoa của các nền văn hoá, mặt khác lại làm gia tăng những thị hiếu không lành mạnh của họ khi họ không vượt qua được cám dỗ.
2.3.2.2. Hoạt động của ngành điện ảnh
Sở dĩ khán giả sinh viên không thích xem phim Việt Nam vì nhiều lý do:
Phim Việt Nam có đề tài quen thuộc, nội dung nghèo nàn, nhiều tình huống vô lý, không hấp dẫn người xem, diễn viên đóng dở…(Phần này đã được đề cập rất nhiều trong khi nói tới thị hiếu của sinh viên)
Một yếu tố nữa cũng ảnh hưởng tới thị hiếu của sinh viên đó là việc nhiều phim nước ngoài được chiếu trên mạng lưới chiếu bóng và truyền hình cả nước. Trong tình hình hội nhập và mở cửa văn hoá thì việc các tác phẩm văn học nghệ thuật, điện ảnh nước ngoài có mặt ngày càng nhiều ở Việt Nam là một tất yếu. Cũng có thể thấy điều này khi quan sát các rạp chiếu phim. Số lượng phim Mỹ và phim Hàn Quốc chiếm phần lớn trong các phim chiếu ở rạp. Phim Việt Nam chỉ thấy phim thương mại và hiếm thấy phim nghệ thuật (chỉ chiếu trong những dịp lễ tết). Như vậy vấn đề tồn tại trong ngành điện ảnh nước nhà là việc nhập quá nhiều phim nước ngoài vô tình đã định hướng thị hiếu khán giả (có sở thích xem phim nước ngoài).
Sinh viên ít xem phim Việt vì không tìm thấy bộ phim thích hợp cho mình. Họ rất thích xem những phim có đề tài về cuộc sống sinh viên tuy thế lại có rất ít. Các nhà làm phim chưa nắm bắt được thị hiếu của sinh viên để kịp thời đáp ứng.
2.3.2.3. Từ các cơ quan văn hoá
Các văn bản luật về điện ảnh chưa được phổ biến rộng rãi tới công chúng điện ảnh trong đó có sinh viên. Luật Điện ảnh được ban hành từ 01/7/2006 nhưng nhiều sinh viên còn chưa biết tới. Thậm chí nhiều bạn còn không biết là có luật Điện ảnh. Không nắm được luật nên nhiều khi sinh viên vi phạm mà không hề biết.
Công tác thanh tra các dịch vụ văn hoá như Internet, băng đĩa hình vẫn chưa được tiến hành thường xuyên. Tình trạng băng đĩa phim đen, những trang Web xấu tràn lan là điều kiện để phát triển thị hiếu không lành mạnh của sinh viên.
2.3.2.4. Từ phía nhà trường
Việc tổ chức các hoạt động văn hoá chăm lo đời sống tinh thần cho sinh viên trong các trường đại học là nhân tố khách quan có ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị hiếu nghệ thuật nói chung và thị hiếu điện ảnh của sinh viên nói riêng.
Việc quan tâm đến đời sống tinh thần của sinh viên ở các trường đại học còn nhiều hạn chế. Khi hỏi trực tiếp các bạn sinh viên thì họ đều nói rằng trường chẳng bao giờ tổ chức cho sinh viên xem phim. Phòng xem ti vi chung của ký túc xá luôn trong tình trạng đóng cửa. Vì thế phòng nào không có ti vi thì sinh viên lâm vào trong tình trạng mù thông tin. Tin tức thời sự còn chẳng được xem thì đâu đến lượt điện ảnh.
Các hoạt động tìm hiểu về điện ảnh của nhà trường như các câu lạc bộ điện ảnh, các cuộc thi tìm hiểu về điện ảnh không được tổ chức. Nếu có thành lập là do sinh viên tổ chức nên, kinh phí tự bỏ ra.
Nhà trường cũng chưa tiến hành thường xuyên công tác tuyên truyền những thị hiếu lành mạnh trong sinh viên, trong đó có thị hiếu điện ảnh. Công tác kiểm tra những lối sống không lành mạnh của sinh viên xem những phim đen trong kí túc xá còn hời hợt. Do thế tỷ lệ sinh viên mắc vào các tệ nạn xã hội ngày càng tăng.
Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI
3.1. THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN QUA DƯ LUẬN
Thị hiếu điện ảnh của sinh viên luôn được dư luận quan tâm. Sở dĩ như vậy không chỉ bởi sinh viên là đội ngũ tri thức tương lai cần được chăm lo đầy đủ cả về mặt vật chất lẫn tinh thần mà còn bởi thị hiếu của sinh viên có ảnh hưởng đến thị hiếu của công chúng. Những điều mới trong điện ảnh nhiều khi được cập nhật từ sinh viên. Với khả năng nhanh nhạy trong việc nắm bắt cái mới, sinh viên đã đem đến những thông tin mới về điện ảnh cho những người thân, bạn bè mình, người xung quanh mình. Đó chính là hình thức phổ biến điện ảnh tới công chúng.
Nhưng không phải thị hiếu nào của sinh viên cũng là thị hiếu tốt. Nhiều thị hiếu xấu của sinh viên đã ảnh hưởng xấu đến thị hiếu của khán giả nói chung. Vì thế, dư luận rất quan tâm đến thị hiếu của sinh viên. Có người khen thị hiếu của sinh viên là mới, là tốt nên đi theo. Nhưng cũng không ít người cho rằng một số thị hiếu của sinh viên không đi hợp với truyền thống đạo đức, phá vỡ thị hiếu tốt đẹp trước đây của công chúng. Với những lý do trên, tôi xin đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao thị hiếu điện ảnh của sinh viên.
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO THỊ HIẾU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HÀ NỘI
3.2.1. Đối với ngành điện ảnh
3.2.1.1. Đối với các cơ sở điện ảnh
Các cơ sở điện ảnh hiểu rõ nhu cầu, thị hiếu điện ảnh của sinh viên để có chủ trương biện pháp tích cực nhằm thoả mãn nhu cầu. Họ nên lên những trang web bàn luận của sinh viên về điện ảnh như www.điện ảnh.net, yxine.com để tìm hiểu sở thích cũng như tâm tư nguyện vọng của sinh viên về điện ảnh. Toàn cầu hoá văn hoá kéo sự bùng nổ về truyền thông, thể hiện mạng lưới Internet kết nối toàn cầu. Sinh viên có thể tìm kiếm bất cứ thông tin gì về điện ảnh trên các trang web. Và cũng có thể chia sẻ những sở thích của mình trên đó. Các nhà làm phim có thể có thể đưa các phiếu điều tra tới các trường đại học hay phỏng vấn trực tiếp các khán giả điện ảnh. Công việc điều tra thị hiếu điện ảnh cũng đã được các cơ sở điện ảnh quan tâm trong những năm đổi mới. Tuy nhiên, điều tra thị hiếu trong với đối tượng cụ thể là sinh viên thì chưa nhiều. Với một số cách được đưa ra trên đây, các nhà sản xuất, phát hành cũng như phổ biến phim có thể nắm được thị hiếu của sinh để đưa ra những sản phẩm phù hợp. Chẳng hạn như hiểu được thị hiếu thích xem những phim về cuộc sống sinh viên, họ sẽ cho ra nhiều hơn những tác phẩm có đề tài này và chắc chắn sẽ thu hút được sự yêu thích của sinh viên.
Các cơ sở phổ biến phim cụ thể là các rạp chiếu phim nên tổ chức các buổi chiếu phim miễn phí hay giảm giá vé cho sinh viên. Theo điều tra thì các bạn sinh viên đêu thích xem phim ở rạp vì họ đều thấy rằng rạp là nơi họ có thể thưởng thức điện ảnh với chất lượng cao nhất. Nhưng số lần đến rạp của sinh viên lại rất ít. Lý do phần lớn là họ không có tiền mua vé. Nếu có điều kiện thì họ sẽ đến xem rạp. Thực tế cho thấy những tuần chiếu phim miễn phí sinh sinh viên đều đến rạp rất đông. Mỗi buổi phát vé miễn phí nhiều bạn còn xếp hàng từ sớm, có khi ngày mai phim mới chiếu nhưng lấy vé từ hôm nay. Tình yêu với môn nghệ thuật thứ bảy này sẽ càng sâu sắc nếu như họ được tạo điều kiện.
Các đài truyền hình Trung ương và địa phương nên tăng thời lượng chiếu phim Việt Nam, cân đối giữa phim Việt Nam và phim nước ngoài. Có một thực trạng là nhiều phim Việt Nam được giải của liên hoan phim trong nước thậm chí cả quốc tế nhưng khán giả lại không hề biết tới. Do vậy cần đưa những bộ phim có gái trị nghệ htuật này lên màn ảnh để công chúng có điều kiện thưởng thức.
Các nhà sản xuất phim nên phối hợp với các trường đại học để tổ chức các buổi toạ đàm để nói chuyện chuyên đề về điện ảnh như viết kịch bản, quay phim, cách làm kĩ sảo phim…Sinh viên hiểu sâu hơn về các kiến thức điện ảnh thì họ sẽ đến với điện ảnh nhiều hơn. Có bạn sau khi nghe chuyên đề về kịch bản phim có sở thích viết kịch bản. Có bạn nghe về cách quay phim thấy hay nên tham gia vào khoá học quay phim. Nhờ những buổi trao đổi kiến thức chuyên môn nay, sinh viên có nhiều hiểu biết về điện ảnh. Từ đó các bạn có thể đến với những bộ phim nghệ thuật mà không gặp trở ngại là thiếu kiến thức.
Các nhà làm phim nên có những buổi giới thiệu phim xuống tới các trường thông qua các buổi giao lưu giữa đạo diễn, diễn viên, các nhà quay phim với sinh viên. Được gặp gỡ các diễn viên mà mình yêu thích, được nghe tâm sự của đạo diễn về đứa con tinh thần của mình sinh viên sẽ càng hiểu thêm giá trị của bộ phim. Và đó là động lực để họ đến với phim.
Ngoài ra các cơ sở điện ảnh phải đổi mới hoạt động của mình để phục vụ tốt thị hiếu của khán giả trong đó có sinh viên:
- Trước hết, các cơ sở điện ảnh chỉ được thực hiện các hoạt động sản xuất phim, phát hành hay phổ biến phim khi có giấy phép phổ biến của cơ quan quản lý nhà nước. Các doanh nghiệp phải thực hiện kinh doanh theo đúng nội dung đã đăng kí.
- Các cơ sở sản xuất phim phải đẩy mạnh hình thức hợp tác liên doanh trong nước và nước ngoài để đưa ra những sản phẩm phù hợp với thị hiếu của công chúng điện ảnh nhất là sinh viên. Hình thức này đã có nhiều nhưng hầu hết là ở các doanh nghiệp miền Nam.
- Các cơ sở phát hành phim điều chỉnh hoạt động bán, cho thuê, in sang đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu phim cho hợp lý.
- Các cơ sở phổ biến phim phải đẩy mạnh việc đưa phim tiếp cận nhanh với công chúng thông qua các hình thức quảng cáo, đưa phim tham dự các liên hoan phim…
3.2.1.2. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về điện ảnh
Cần tăng cường công tác quản lý nhà nước theo phương châm thông thoáng, kịp thời hiệu quả, đẩy mạnh công tác xã hội hoá điện ảnh. Chủ chương xã hội hoá điện ảnh đã lan rộng thành phong trào nhiều khi nó mang tính tự phát . Tự phát một mặt cần được khuyến khích vì nó thể hiện sự năng động trong hoạt động của các hãng phim tư nhân. Nhưng tự phát mà phi kế hoạch, hoạt động mang màu sắc cá thể mạnh ai người nấy làm, chạy theo lợi nhuận cho ra những sản phẩm đáp ứng thị hiếu tầm thường thì không nên. Do vậy khi xã hội hoá hoạt động điện ảnh phát triển thì vai trò quản lý của nhà nước càng lớn. Tuy thế, cũng cần phải nhấn mạnh một điều là quản lý mang tính chất định hướng, quản lý tổng thể giúp tạo điều kiện cần thiết để thúc đẩy.
Các nhà làm phim nên tăng cường tìm nguồn vốn đầu tư bằng cách liên doanh, liên kết cho phim. Hiện nay kinh phí làm ra một bộ phim còn quá ít, lại không được tập chung toàn bộ. Nhà nước chỉ tài trợ 70%, các hãng phim còn gặp nhiều khó khăn nên không đủ tiền đầu tư cho 30% còn lại. Bởi vậy phim là kém chất lượng và không đều. Giải pháp tìm nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước, tăng cường hình thức liên doanh liên kết giúp cho phim hay hơn, có sức thu hút khán giả.
Ngành điện ảnh cần có sự đầu tư có chiều sâu vào các kịch bản hay, mở nhiều hơn các trại sáng tác cho người viết kịch bản và có chế độ đãi ngộ hợp lý cho những tài năng có cống hiến xuất sắc tạo điều kiện cho các tài năng trẻ trưởng thành và cống hiến. Ngành điện ảnh cũng nên tập chung cải tiến quy trình, cơ chế duyệt tác phẩm thông qua các tiêu chí cụ thể và khả thi, thống nhất giữa các ngành liên quan trên cả nước.
Đổi mới công tác đào tạo đội ngũ diễn viên để họ trở thành những diễn viên chuyên nghiệp. Họ chính là linh hồn của một bộ phim. Muốn phim hay thì diễn viên không chỉ có ngoại hình tốt mà diễn xuất tốt. Các cơ quan điện ảnh nên tổ chức nhiều hơn các khoá học ngắn hạn về đào tạo diễn viên hay các nhà phê bình điện ảnh. Trong dàn diễn viên của ta có nhiều người trưởng thành từ các khoá học này và không ít trong số họ là sinh viên đang theo học ở một trường đại học nào đó. Với cách này, các cơ quan điện ảnh đã làm cho sinh viên hiểu hơn về nghề diễn hay nghề hoạt động điện ảnh để yêu thích hơn môn nghệ thuật này. Hơn nữa họ có thể phát hiện ra những nhân tài là chính sinh viên cho công tác của mình.
Các cơ quan quản lý nhà nước về điện ảnh cần đưa ra chính sách để quản lý tốt các hoạt động sản xuất, phát hành, phổ biến phim đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu phim. Trong tình hình hiện nay, sự xâm nhập của nền điện ảnh nước ngoài vào nước ta một cách ồ ạt khó có thể kiểm soát nổi. Chính vì thế, hoạt động nhập này càng phải được đẩy mạnh.
3.2.2. Đối với các cơ quan văn hoá
Các nhà văn hoá cần nghiên cứu về quy luật phát triển của thị hiếu để giúp các nhà điện ảnh làm tốt hơn công tác của mình.
Các cán bộ văn hoá cần tuyên truyền các văn bản luật về điện ảnh cho sinh viên để họ có thể hiểu sâu hơn về hoạt động của ngành điện ảnh, những quy định của nhà nước trong lĩnh vực điện ảnh để có điều chỉnh thị hiếu cho phù hợp.
Các nhà quản lý văn hoá nên tăng cường công tác thanh tra các dịch vụ Internet, băng đĩa hình tạo nên môi trường văn hoá lành mạnh để sinh viên có những thị hiếu tốt.
Các nhà quản lý cũng nên có luật quy định phạt hành chính đối với những thị hiếu không lành mạnh của sinh viên chứ không chỉ dừng lại ở cảnh cáo để sinh viên không tái phạm.
3.2.3. Đối với nhà trường
Nhà trường là môi trường quan trọng để định hướng thị hiếu điện ảnh của sinh viên. Giáo dục trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ tính đa dạng của thị hiếu thẩm mỹ. Thị hiếu tốt hoàn toàn không có nghĩa là phải giống thị hiếu khác. Có người thích xem thể loại phim này, có người lại thích xem thể loại phim khác, người chọn đề tài này nhưng người kia lại chọn chủ đề khác.Do vậy nhà trường phải tôn trọng thị hiếu của mỗi cá nhân song cần phải giúp họ phân biệt đâu là thị hiếu tốt, đâu là thị hiếu xấu. Công tác tuyên truyền cần được tiến hành thường xuyên dưới nhiều biện pháp và nhiều hình thức. Thí dụ như thông qua các đài phát thanh ở ký túc xá sinh viên. Hoặc có thể tổ chức các buổi toạ đàm về thị hiếu của họ và đưa ra những định hướng.
Nhà trường thường xuyên tổ chức các hoạt động điện ảnh cho sinh viên. Các tổ chức Đoàn và Hội sinh viên nên phối kết hợp tổ chức các trò chơi, cuộc thi tìm hiểu về điện ảnh cho sinh viên. Sinh viên có vừa cơ hội đuợc tham gia các hoạt động bổ ích, vừa mở rộng những hiểu biết về điện ảnh.
Nhà trường nên đầu tư kinh phí cho việc thành lập các câu lạc bộ điện ảnh. Tham gia các câu lạc bộ này sinh viên được thoải mái thể hiện sở thích của mình về điện ảnh. Họ có thể học tập những thị hiếu tốt ở ngay những hội viên tham gia câu lạc bộ.
Nhà trường nên tổ chức các buổi chiếu phim miễn phí hay liên kết với các nhà sản xuất phim chiếu những bộ phim nổi tiếng với giá vé ưu đãi cho sinh viên tại các nhà văn hoá. Trường Đại học Kinh tế quốc dân đã làm được rất tốt công tác này.
Ở mỗi phòng ký túc xá trường nên tạo điều kiện cho mỗi phòng một cái ti vi để sinh viên được xem phim nhiều hơn. Hiện nay, ở trường đại học Quốc gia Hà Nội còn nối Internet về mỗi phòng ký túc xá để sinh viên có cơ hội tiếp xúc, giao lưu trao đổi kiến thức cũng như những sở thích của mình, trong đó có sở thích về điện ảnh. Mô hình này các trường đại học khác cần học tập.
Các trường đại học cũng nên đầu tư các loại sách báo về điện ảnh cho thư viện trường để sinh viên có điều kiện đọc sách về chuyên ngành này.
Thường xuyên chăm lo đến đời sống văn hoá văn nghệ cho sinh viên và coi đó là nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng chính trị. Tổ chức có chất lượng và phù hợp các hoạt động văn hoá, văn nghệ cho sinh viên. Những hội diễn văn nghệ, các cuộc thi sinh viên thanh lịch sẽ làm giàu thêm đời sống tinh thần cho sinh viên. Sinh viên sẽ hoạt động năng nổ hơn, hoà đồng với tập thể hơn tạo nên một môi trường văn hoá.
Nhà trường cũng nên có biện pháp để tạo lối sống lành mạnh trong sinh viên. Lối sống lành mạnh là cơ sở để nảy sinh những thị hiếu lành mạnh
Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất như như xây dựng các khu vui chơi ở ký túc xá, mở rộng thêm phòng đọc sách để sinh viên tham gia. Đây cũng là biện pháp để sinh viên tránh xa những hoạt động không lành mạnh.
Tích cực đẩy mạnh công tác của Đoàn và Hội sinh viên trong tổ chức các hoạt động lành mạnh của sinh viên như các cuộc thi đấu thể thao, các buổi diễn văn nghệ…
Tuyên truyền củng cố các mối quan hệ xã hội, quan hệ đạo đức, trên tinh thần tương thân tương ái, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp cho sinh viên.
Ngăn chặn những hủ tục mê tín, lạc hậu, văn hoá đồ truỵ kích động bạo lực xâm nhập môi trường sinh viên, có biện pháp phòng ngừa và xử lý kịp thời các hành vi tuyên truyền, lừa bịp, lôi kéo sinh viên.
3.2.4. Đối với sinh viên
Tiến sĩ Nguyễn Chương Nhiếp trong luận án có đề tài: “Thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nó trong đời sống xã hội” đã viết: “Thị hiếu thẩm mỹ tốt hay xấu đều phải do giáo dục luyện tập mà nên” [20, tr.54]. Thị hiếu điện ảnh của sinh viên là do chính bản thân sinh viên quyết định. Bởi vậy, muốn nâng cao thị hiếu của sinh viên thì phải đi từ đối tượng sinh viên.
Muốn có thị hiếu điện ảnh tốt thì trước hết sinh viên phải biết phân biệt như thế nào là tác phẩm điện ảnh thuộc thị hiếu lành mạnh và những tác phẩm thuộc thị hiếu không lành mạnh . Dưới đây là một vài dấu hiệu để phân biệt:
- Những tác phẩm điện ảnh nào sử dụng thủ pháp nghệ không lành mạnh, khơi dậy bản năng sinh vật trong con người như khiêu dâm hay kích thích tính bạo lực trong con người…đó là dấu hiệu của sự không lành mạnh. Ngược lại những tác phẩm nhằm hướng con người tới chỗ cao đẹp, bồi dưỡng tình cảm và nhân cách cho con người là những tác phẩm xuất phát từ thị hiếu không lành mạnh.
- Căn cứ vào tiêu chuẩn chính trị, đạo đức. Tác phẩm điện ảnh nào thể hiện quan điểm chính trị tốt như ca ngợi độc lập dân tộc, hoà bình chủ nghĩa, tự do bình đẳng thì thuộc thị hiếu lành mạnh. Ngược lại những tác phẩm điện ảnh được coi là không lành mạnh là những tác phẩm đi vào ca ngợi lối sống buông thả không mục đích, không lý tưởng tôn sùng bạo lực, kích động sung đột và chính trị chống độc lập dân tộc và ca ngợi nô dịch.
- Dựa trên cơ sở tính truyền thống và tính dân tộc. Những tác phẩm nào mà biểu hiện, củng cố và phát triển bản sắc dân tộc là lành mạnh. Ngược lại, những tác phẩm phá vỡ giá trị truyền thống là không lành mạnh.
Sinh viên phải tạo cho mình lối sống lành mạnh bằng cách tích cực tham gia vào các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao.
Để có thị hiếu điện ảnh cao và lành mạnh, sinh viên phải có những hiểu biết nhất định về văn hoá nghệ thuật đặc biệt là điện ảnh. Vì vậy, sinh viên phải tích cực trau dồi những kiến thức về văn hoá nghệ thuật.
Sinh viên phải biết sắp xếp thời gian một cách hợp lý để tham gia vào các hoạt động điện ảnh như: xem phim, đọc sách báo điện ảnh, tham gia vào câu lạc bộ điện ảnh, các cuộc thi tìm hiểu về điện ảnh, tham gia viết bài cho các tạp chí điện ảnh…
Trong các buổi gặp gỡ với nhà làm phim, với cơ quan điện ảnh sinh viên nên mạnh dạn nói lên sở thích của mình và những đề xuất để họ đáp ứng tốt hơn nhu cầu và thị hiếu của mình.
KẾT LUẬN
Qua quá trình khảo sát, người viết đã nắm được một vài thị hiếu điện ảnh của sinh viên. Sinh viên rất thích thưởng thức điện ảnh hay nói một cách đơn giản là xem phim. Khi xem phim, họ thường lựa chọn phim truyện, thể loại phim tâm lý xã hội, đề tài tình bạn, tình yêu, những phim có yếu tố vui vẻ nhẹ nhàng. Đa số sinh viên đều xem những phim lành mạnh, nhưng một bộ phận trong họ lại có thị hiếu không lành mạnh như xem phim sexy, phim bạo lực. Trong đánh giá phim, sinh viên thấy phim nước ngoài hay hơn phim Việt, phim thương mại Việt hấp dẫn hơn phim nghệ thuật, phim của điện cách mạng Việt Nam thật hơn phim đương đại. Từ đó hình thành trong họ sở thích xem phim nước ngoài, phim thương mại Việt, phim điện ảnh cách mạng Việt Nam. Không chỉ thưởng thức và đánh giá phim, sinh viên còn tham gia vào sáng tạo điện ảnh như đóng phim, phê bình phim, tuy nhiên hoạt động này chưa nhiều.
Đây cũng chỉ là vài thị hiếu mang tính điển hình của sinh viên nhưng người viết cũng mong đóng góp một vài nhận biết của mình giúp ngành điện ảnh, nhà trường nắm được để kịp thời thoả mãn và có biện pháp để nâng cao thị hiếu, giúp sinh viên nắm xu thế của thị hiếu để điều chỉnh cho phù hợp.
Cuối cùng, người viết xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình và chu đáo của giáo viên hướng dẫn Th.s Trần Thị Diên cùng các giảng viên của khoa Quản lý văn hoá, trường đại học Văn hoá Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Quang Chính - Trần Luân Kim – Lưu Danh Hùng - Đặng Vũ Thảo (1997), Nhu cầu và thị hiếu khán giả điện ảnh, Tạp chí văn hoá nghệ thuật, số 5, số 6, số 7
2. Phạm Vũ Dũng (1997), Mấy thực trạng về điện ảnh hiện nay, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 8
3. Phạm Vũ Dũng (1999), Điện ảnh ấn tượng và suy ngẫm, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
4. Hoàng Trần Doãn (2006), Nhận diện khán giả Việt Nam hôm nay, Tạp chí văn hoá nghệ thuật, số 11
5.Hoàng Trần Doãn (2006), Nghiên cứu nhu cầu điện ảnh của sinh viên, luận án TS TLH, Hà Nội
6. Trần Độ (1987), Thoả mãn nhu cầu văn hoá và nâng cao thị hiếu nghệ thuật, NXB Văn hoá Hà Nội
7. Nguyễn Ánh Hồng (2002), Phân tích về mặt tâm lý học lối sống của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh, luận án TS TLH
8. Nguyễn Phương Hồng (1997), Thanh niên, học sinh với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, NXB Chính trị quốc gia
9. Trần Thanh Hiệp (2004), Điện ảnh của nhu cầu phát triển, NXB Văn hoá Hà Nội
10. Đỗ Huy (2000), Mỹ học với tư cách là một khoa học, NXB Chính trị quốc gia
11. Đặng Minh Liên (2005), Dòng phim giải trí ở Việt Nam, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 5
12. Đặng Minh Liên (2005), Dòng phim truyền thống, Tạp chí văn hoá nghệ thuật, số 3
13. V.I.Lênin(1960) , Bàn về văn hoá nghệ thuật, NXB Sự Thật, 1960
14. B.Ph. Lomov(2000), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận của tâm lý học, NXB ĐHQG Hà Nội
15. Luật Điện ảnh, năm 2006
16. Hiền Lương (2006), Buồn vui phim Việt, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 10
17. Hiền Lương(2005), Mấy nét thực trạng phát hành phim hiện nay, tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 8
18. Macrcel Martin (1994), Ngôn ngữ điện ảnh, Cục Điện ảnh xuất bản, Hà Nội
19. Đặng Minh (1997), Phim nghệ thuật và phim thương mại gợi mở về loại hình, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật
20. Nguyễn Chương Nhiếp (2000), Thị hiếu và vai trò của nó trong đời sống thẩm mỹ, luận án TS Triết học, Hà Nội, 2000
21. Nguyễn Văn Thủ (1993), Nhu cầu điện ảnh của công chúng điện ảnh Việt Nam hiện nay, luận án phó TS XHH, Hà Nội
22. Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách khoa, 2005
23. Kon I. X (1971), Giới sinh viên phương Tây là một nhóm xã hội, Tạp chí Triết học số 191
24. http//www.dienanh.net
25. http//yxine.com.vn
PHIẾU TÌM HIỂU ĐIỆN ẢNH CỦA SINH VIÊN
Bạn hãy tích vào những đáp án bạn cho là đúng
1.Bạn có thích xem phim không? Tại sao?
2. Mục đích xem phim của bạn là gì?
TT
Mục đích đến với điện ảnh
Mức độ quan trọng
Rất quan trọng
Quan trọng
Ko quan trọng
1
Giải trí
2
Nắm bắt những thông tin có ích cho học tập
3
Làm giàu kiến thức và kinh nghiệm sống
4
Trải nghiệm những tình huống mà thực tế chưa trải qua
5
Làm tăng hiểu biết về nghệ thuật
6
Tìm thấy ý nghĩa tốt đẹp của cuộc sống
7
Tìm cho mình thần tượng để mình noi theo
8
Tìm những rung động nghệ thuật
9
Tái tạo nghệ thuật
3. Bạn hay xem phim bằng cách nào?
Số lần/tuần
Xem trên TV
Xem bằng đĩa
Xem trên Internet
0 lần
1 lần
2 lần
3 lần
Hơn 3 lần
4. Bạn có hay đến rạp xem phim không?
Số lần đến xem phim ở rạp 1 tháng
0 lần
1 lần
2 lần
3 lần
Hơn 3 lần
5. Bạn thích xem thể loại phim nào?
TT
Thể loại điện ảnh
Mức độ yêu thích
Rất thích
Thích
Bình thường
Ko thích
1
Tài liệu, phóng sự, khoa học
2
Phim truyện
3
Phim hoạt hình
6. Bạn thích xem thể loại phim truyện nào?
TT
Thể loại phim truyện
Mức độ yêu thích
Rất thích
Thích
Bình thường
Ko thích
1
Phim tâm lý xã hội
2
Chuyển thể văn học
3
Phim hành động
4
Phim viễn tưởng
5
Phim thần thoại
6
Phim lịch sử
7
Phim chưởng
7. Bạn thích xem đề tài phim truỵện nào?
TT
Đề tài phim truyện
Mức độ yêu thích
rất thích
Thích
Bình thường
Ko thích
1
Chiến tranh
2
Sản xuất, kinh doanh, học tập
3
Các vấn đề gia đình
4
Các vấn đề xã hội
5
Tình bạn, tình yêu
6
Lịch sử
8. Bạn thích lựa chọn chủ đề phim nào?
TT
Chủ đề phim
Mức độ yêu thích
Rất thích
Thích
Bình thường
Ko thích
1
Các vấn đề chính trị,xã hội
2
Các vấn đề gia đình
3
Tình bạn, tình yêu
4
Cuộc sống sinh viên
5
Các vấn đề khác của con người
9.Khi xem phim, bạn quan tâm đến yếu tố nào trong bộ phim?
TT
Các yếu tố
Mức độ quan tâm
Quan tâm
Bình thường
Không quan tâm
1
Nội dung của tác phẩm
2
Vấn đề đặt ra trong tác phẩm
3
Yếu tố nghệ thuật: âm thanh, ánh sáng, quay phim…
4
Diễn xuất của diễn viên
5
Các yếu tố khác
10.Bạn thích xem phim Việt Nam hay phim nước ngoài hơn? Vì sao?
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
11. Bạn thích xem phim thương mại Việt Nam hay phim giải trí Việt Nam? Vì sao?
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………....
12. Bạn có thích xem phim của điện ảnh cách mạng Việt Nam không? Vì sao?
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Bạn hãy cho biết một số thông tin cá nhân
Họ và tên :……………………………………………………………..
Trường :…..........................................................................................
Xin chân thành cảm ơn bạn!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XHH14t.doc