Khóa luận Tìm hiểu thực trạng xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay

Tín dụng cần phải được bổ sung bằng tiến bộ kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, hỗ trợ về đầu vào như: hạt giống, phân bón và có thị trường để trao đổi nông sản và những sản phẩm khác do nông dân làm ra. Hình thức cho vay theo nhóm chịu trách nhiệm chung. Việc chia sẻ rủi ro và tự quản lý nhau giúp tăng khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Mỗi thành viên của nhóm là người bảo lãnh cho tất cả các thành viên khác. Chỉ cần một trường hợp không trả nợ đúng lịch thì cả nhóm sẽ mất quyền vay vốn. Ngoài ra, hình thức tín dụng theo nhóm giúp giảm chi phí giao dịch cho cả người cho vay lẫn người đi vay, tăng tỉ lệ thu hồi nợ, tăng lợi thế kinh tế nhờ quy mô trong việc cung cấp tín dụng, góp phần khuyến khích một số giá trị xã hội như: tăng tính đoàn kết và tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm. Một yếu tố mấu chốt cho thành công của các chương trình tín dụng nông thôn là giảm tối thiểu chi phí giao dịch đối với người cho vay lẫn người đi vay. Đối với tổ chức tín dụng, chi phí giao dịch có thể được giảm bằng cách hoàn thành công tác thẩm định dự án, tinh giảng quá trình xét duyệt đơn xin vay, hợp lí hóa bộ máy thu hồi nợ, đào tạo cán bộ tín dụng có khả năng đi sâu đi sát với quần chúng để nắm bắt nhanh nhạy và đáp ứng nhu cầu về vốn cũng như nắm rõ gia cảnh của khách hàng để quản lý tín dụng cho tốt. Chi phí giao dịch đối với người đi vay sẽ giảm đáng kể nếu loại bỏ bớt được những phí tổn về hồ sơ, giấy tờ xin vay, chi phí đi lại

pdf52 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 895 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu thực trạng xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận các dịch vụ sản xuất, dịch vụ xã hội, tự lực vượt qua nghèo khó. Hoạt động xóa đói, giảm nghèo của Ban chỉ đạo chương trình huyện, xã, thị trấn: Từ đầu năm 2006, huyện cũng đã mở Hội nghị triển khai chương trình, kế hoạch giảm nghèo của huyện cho các xã, thị trấn. Qua đó, chỉ ra các mục tiêu, giải pháp, chỉ tiêu nhằm giúp địa phương cơ sở có định hướng xây dựng chương trình, mục tiêu giảm nghèo cho xã, thị trấn. Các ban giảm nghèo xã, thị trấn thường xuyên củng cố tổ chức, đề ra kế hoạch mục tiêu giảm nghèo, đề xuất giải quyết các chính sách cho hộ nghèo, tổ chức hướng nghiệp và liên kết với Ngân hàng chính sách xã hội huyện hướng dẫn giúp đỡ hộ nghèo được vay vốn tạo việc làm để vươn lên thoát nghèo. Các ngành, đoàn thể huyện đã thực hiện phối hợp có hiệu quả tốt trong công tác giảm nghèo như: tổ chức các lớp dạy nghề, hướng dẫn giới thiệu việc làm, vận động tích cực cho quỹ vì người nghèo, cất sửa nhà tình thương, nhà đại đoàn kết cho người nghèo ổn định cuộc sống. Ban chỉ đạo xóa đói, giảm nghèo huyện cũng đã phân công các thành viên phụ trách địa bàn xã, thị trấn nhằm hướng dẫn xã, thị trấn giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động, trọng tâm giúp địa phương cơ sở thực hiện giảm nghèo. Trang 28 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh Trong năm 2007; 2008 nội dung của Nghị quyết số 13/NQ – HU mà huyện ủy và Hội đồng nhân dân huyện đề ra về giảm nghèo được cụ thể hóa thành các mục tiêu, giải pháp và tổ chức thực hiện theo từng năm. Năm 2007: Về mục tiêu: Bằng nhiều biện pháp tích cực nâng cao thu nhập và đời sống hộ nghèo. Phấn đấu giảm tỉ lệ hộ nghèo năm 2007 là 1,16% bằng 880 hộ và phấn đấu hỗ trợ giúp đỡ để những hộ thoát nghèo không tái nghèo. Tạo điều kiện cho hộ nghèo hưởng đầy đủ các chính sách hỗ trợ như: Khám chữa bệnh, miễn học phí và các khoản đóng góp của con em hộ nghèo khi đi học, các chính về thuế, cho vay tạo công ăn việc làm, ưu tiên học nghề miễn phí và giới thiệu việc làm cho con em hộ nghèo, khuyến khích con em hộ nghèo đi xuất khẩu lao động, thường xuyên vận động giúp đỡ hộ nghèo có nhà ổn định và hỗ trợ về đất ở. Kết hợp với trung tâm dạy nghề huyện và các ban ngành, đoàn thể dạy nghề 1.200 lao động trong đó có người nghèo, vận động hộ nghèo đi tìm việc làm trong và ngoài tỉnh Về giải pháp: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền và vận động của cả hệ thống chính trị của địa phương nhất là cơ sở xã, ấp bằng nhiều biện pháp tích cực vận động đẩy mạnh thực hiện chính sách giảm đói nghèo. Xem giảm đói nghèo là một trong những chính sách trọng tâm cần phải thường xuyên thực hiện. Phải kết hợp với tăng trưởng kinh tế để đẩy mạnh giảm nghèo, nâng cao năng lực của người nghèo, tạo mọi điều kiện để người nghèo có công ăn việc làm tự vươn lên thoát nghèo, phấn đấu vươn lên khả giả cùng với phát triển kinh tế cả xã, thị trấn. Mỗi xã, thị trấn có chương trình kế hoạch vận động lao động hộ nghèo học nghề ngắn hạn, dài hạn và tạo điều kiện giới thiệu người nghèo đi tìm việc làm trong và ngoài tỉnh. Vận động con em hộ nghèo có điều kiện (văn hóa, sức khỏe) đi xuất khẩu lao động. Thông qua các chính sách hỗ trợ tạo cơ hội để người nghèo tự vươn lên thoát nghèo như: cho vay vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội, vận động con em hộ nghèo trong tuổi lao động học nghèo, đi tìm việc làm trong và ngoài tỉnh, tìm các mô hình giảm nghèo có hiệu quả phổ biến hướng dẫn cho hộ nghèo, hỗ trợ hộ nghèo tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội như vận động con em hộ nghèo từ 6 đến 15 tuổi phải đi học, vận động giúp phương tiện sách, vở, viết, giấy khi đi học, cấp đầy đủ Bảo hiểm y tế, có đất và nhà ở ổn định, có điều kiện sử dụng nước sạch sinh hoạt; Thông qua các tổ chức Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, các tổ chức Hội giúp Trang 29 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh đỡ người nghèo về nhà ở, phương tiện sản xuất, đời sống và khi gặp rủi ro cần sự hỗ trợ của cộng đồng. Về tổ chức thực hiện: Các xã, thị trấn thường xuyên củng cố ban điều hành giảm nghèo cơ sở và bố trí cán bộ giảm nghèo có năng lực, trách nhiệm để thường xuyên điều hành có hiệu quả công tác giảm nghèo. Mỗi xã, thị trấn phải có kế hoạch cụ thể về chính sách giảm nghèo của địa phương mình, có tổ chức phân công thực hiện. Quá trình thực hiện có kiểm tra và báo cáo kết quả về ban chỉ đạo giảm nghèo huyện hàng tháng, quý, năm để ban chỉ đạo huyện có cơ sở, tổng kết và đề ra kế hoạch giảm nghèo giai đoạn mới. Năm 2008: Về mục tiêu: Đến cuối năm 2008 giảm tỉ lệ hộ nghèo của huyện còn 4,32%, tỉ lệ hộ cận nghèo còn 1,2% (giảm 0,3%), giảm nghèo cho tất cả gia đình chính sách. Phấn đấu hỗ trợ giúp đỡ để những hộ thoát nghèo không tái nghèo, hộ cận nghèo không rớt xuống hộ nghèo; nâng dần thu nhập bình quân đầu người hộ nghèo, hộ cận nghèo. Tạo điều kiện cho hộ nghèo hưởng đầy đủ các chính sách hỗ trợ như: 100% người nghèo được cấp thẻ Bảo hiểm y tế, miễn học phí và các khoản đống góp cho 100% con em hộ nghèo đi học, các chính sách về thuế, cho vay tạo công ăn việc làm, ưu tiên học nghề miễn phí và giới thiệu việc làm cho con em hộ nghèo, khuyến khích con em hộ nghèo đi xuất khẩu lao động và thực hiện tốt chương trình hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo. Kết hợp Trung tâm dạy nghề huyện và các ban ngành, đoàn thể dạy nghề 500 lao động nghèo, vận động hộ nghèo đi tìm việc làm trong và ngoài tỉnh, xuất khẩu lao động. Tập huấn cho 140 người là cán bộ giảm nghèo huyện, xã, ấp. Về giải pháp: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền và vận động của cả hệ thống chính trị của địa phương nhất là cơ sở xã, ấp bằng nhiều biện pháp tích cực vận động đẩy mạnh công tác giảm nghèo. Xem công tác giảm nghèo là một trong những công tác trọng tâm cần phải thường xuyên thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền làm chuyển biến nhận thức trong nhân dân nhất là người nghèo ý thưc tự vươn lên, chủ động tìm giải pháp giảm nghèo cho bản thân và gia đình, không trông chờ, tỷ lệ vào Nhà nước. Phải kết hợp với tăng trưởng kinh tế để đẩy mạnh giảm nghèo, nâng cao năng lực người nghèo, tạo mọi điều kiện để người nghèo có công ăn việc làm vươn lên thoát nghèo, phấn đấu vươn lên khá giả cùng với phát triển kinh tế cả xã, thị Trang 30 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh trấn. Có chính sách giúp đỡ các hộ nghèo chính sách thoát nghèo như: hỗ trợ vốn, nhà ở, việc làm, trợ cấp thường xuyên người cô đơnđể không còn hộ chính sách nghèo. Về tổ chức thực hiện: Các ban ngành, đoàn thể huyện theo chức năng nhiệm vụ cụ thể hóa việc thực hiện Nghị Quyết 13/NQ – HU của Ban thường vụ huyện ủy về “lãnh đạo công tác giải quyết việc làm; xóa đói, giảm nghèo..” để công tác giảm nghèo được quan tâm thực hiện rộng rãi trong các ngành, các cấp. Các xã, thị trấn thường xuyên củng cố Ban điều hành giảm nghèo cơ sở và bố trí cán bộ giảm nghèo có năng lực, trách nhiệm để thường xuyên điều hành có hiệu quả công tác giảm nghèo xã, thị trấn. Hàng năm thực hiện phân loại hộ nghèo theo tiêu chí của tỉnh (A, B, C) gồm: + Loại A là hộ có lao động, chí thú làm ăn, quyết tâm vươn lên thoát nghèo. + Loại B là hộ nghèo bình thường, không quyết tâm cao trong vươn lên thoát nghèo. + Loại C là hộ trông chờ, ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng, hộ có rơi vào tệ nạn xã hội. Ủy Ban nhân dân cấp xã, thị trấn phải chủ động xây dựng mục tiêu, chỉ tiêu, kế hoạch giảm nghèo phù hợp với điều kiện phát triển. Trong đó tập trung dồn sức cho hộ nghèo loại A để tạo điều kiện giúp họ thoát nghèo bền vững. Đối với hộ loại B, chú trọng tuyên truyền giáo dục, khi họ có chuyển biến thật sự quyết tâm thoát nghèo, có cam kết với địa phương cơ sở mới đầu tư hỗ trợ thoát nghèo. Đối với hộ loại C, thường xuyên công khai hóa, phê phán đi đôi với giáo dục, vận động để họ bỏ dần nhận thức ỷ lại vào Nhà nước, bỏ tệ nạn xã hội cùng với người khác phấn đấu vươn lên thoát nghèo Lồng ghép chương trình giảm nghèo với cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa để giải quyết đói nghèo tai địa bàn dân cư”. Các xã, thị trấn phải có kế hoạch cụ thể về công tác giảm nghèo của địa phương mình, có tổ chức phân công thực hiện. 2.2.2.2 Các chính sách hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Chính sách cho vay vốn ưu đãi: Nhằm cung cấp vốn cho các hộ nghèo có sức lao động, chí thú làm ăn, ưu tiên cho hộ là phụ nữ, có nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất, tăng thu nhập và tự lực vượt qua đói nghèo. Trang 31 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh Chính sách hỗ trợ giáo dục: Con em hộ nghèo và các thành viên khác của hộ nghèo trong độ tuổi đi học, học sinh mới thoát nghèo một đến hai năm, ưu tiên cho con em người dân tộc, trẻ em tàn tật, mồ côi đang học ở các trường công lập và ngoài cộng đồng được hỗ trợ như: miễn học phí và các khoản đóng góp khác. Cấp trợ cấp nếu là con em hộ nghèo tàn tật, mồ côi, vận động hỗ trợ sách, vở và dụng cụ học tập cho học sinh hộ nghèo. Chính sách bảo trợ xã hội: Thường xuyên xem xét đề nghị cho các đối tượng bảo trợ xã hội (người già cô đơn, trẻ mồ côi và người tàn tật khó khăn) đều được hưởng trợ cấp thường xuyên đúng quy định của Nhà nước và cứu trợ kịp thời các đối tượng khó khăn khi gặp rủi ro đột xuất. Thực hiện các dự án khuyến nông, lâm như: Nhằm hỗ trợ người nghèo về kiến thức, kỹ năng xây dựng kế hoạch, bố trí sản xuất hợp lí, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và những kiến thức, kinh nghiệm về làm ăn. Trang bị kiến thức, kỹ năng và có sự tham gia của người dân, tập huấn các mô hình thực tế. Hỗ trợ việc hình thành và tổ chức sinh hoạt của các câu lạc bộ, tổ nhóm cùng ngành nghề sản xuất. Dự án dạy nghề cho người nghèo: Nhằm trợ giúp cho người nghèo có tay nghề cần thiết để tạo việc làm ổn định, tăng thu nhập, thông qua các khóa dạy nghề ngắn hạn để họ tìm việc làm ở các doanh nghiệp, nhất là ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đi xuất khẩu lao động hoặc tự tạo việc làm góp phần giảm nghèo bền vững. 2.2.3 Những thành tựu và hạn chế của việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang từ năm 2001 đến nay. 2.2.3.1 Thành tựu: An Giang là tỉnh sớm triển khai công tác xóa đói, giảm nghèo. Khởi đầu là chương trình giúp vốn người nghèo đã thực hiện từ 1992, với nguồn ngân sách tỉnh bỏ ra ban đầu là 4 tỷ đồng. Năm 2000 – 2003 cất 4.320 căn nhà, giá trị mỗi căn nhà thấp nhất là 3,8 triệu (nguồn ngân sách huyện) và cao nhất là hơn 9 triệu đồng (nguồn tài trợ quốc tế). Ngoài ra, các ngành, đoàn thể địa phương trong tỉnh còn tự vận động góp vốn và hàng năm tổ chức sửa chữa hàng chục ngàn căn nhà góp phần làm ổn định nơi ở cho các hộ nghèo. Từ năm 2001 đến năm 2005, trung bình mỗi năm vận động cất tặng 1000 căn nhà tình thương và nhà Đại đoàn kết [2]. Với kết quả xóa đói, giảm nghèo mà tỉnh đã đạt được là nhờ vào sự đóng góp một phần không nhỏ của thành tựu xóa đói, giảm nghèo của huyện Chợ Mới bởi Chợ Mới là một trong bốn huyện của tỉnh An Giang được Ủy ban Trung ương - Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp bằng ghi công và công bố hoàn thành việc cấp nhà Đại đoàn kết, xóa xong “nhà tre lá dột nát, nhà tạm bợ cho người nghèo” Trang 32 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh và thực hiện tốt chương trình quốc gia về xóa đói, giảm nghèo [2]. Thành tựu này được thể hiện ở các mặt: Đối với hộ nghèo: Đầu năm 2001, toàn huyện có 2.927 hộ nghèo trên tổng số 74.661 hộ được xét công nhận và cấp sổ hộ nghèo, chiếm tỉ lệ 3,92% [11]. Đến năm 2005 số hộ nghèo là 759 hộ, đã giảm 355 hộ nghèo, chiếm tỉ lệ 1%, giảm 0,47% so với năm 2004 (tính theo chuẩn nghèo năm 2001). Nếu tính hộ nghèo theo tiêu chí mới (chuẩn nghèo năm 2005) thì số hộ nghèo của năm 2005 là 6.539 hộ, chiếm tỉ lệ 8,66%[11]. Bằng nhiều biện pháp, chính sách hỗ trợ tích cực và sự nỗ lực phấn đấu vươn lên của hộ nghèo, trong năm 2006 toàn huyện đã giảm nghèo được 1.642 hộ, số hộ nghèo thực tế của năm 2006 là 5.259 hộ/75.720 hộ dân, tỉ lệ hộ nghèo là 6,95%, giảm được 1,71% vượt chỉ tiêu giảm nghèo của huyện đề ra 1,2%, có 06 hộ tái nghèo của các năm trước [5]; đến năm 2007 tỉ lệ hộ nghèo là 6,95%, giảm được 1,40% vượt chỉ tiêu giảm nghèo của huyện đề ra là 1,2% và không có hộ tái nghèo của các năm trước [6]. Đối với hộ ngưỡng cửa nghèo: Đầu năm 2001, toàn huyện có 2.358 hộ. Với phương châm tạo điều kiện hỗ trợ giúp đỡ để hộ ngưỡng cửa nghèo không rớt xuống hộ nghèo. Vì vậy, hằng năm mặc dù hộ ngưỡng cửa nghèo có phát sinh thêm (do rủi ro và hộ mới thoát nghèo đưa vào ngưỡng cửa nghèo) nhưng số hộ ngưỡng cửa nghèo hằng năm đều giảm. Tính đến năm 2005, hộ ngưỡng cửa nghèo toàn huyện là 1.283 hộ, chiếm khoảng 1,7% số hộ toàn huyện [11] và năm 2007 toàn huyện còn 1.281 hộ, chiếm tỉ lệ 1, 63%. [6] Về hộ nghèo chính sách: Năm 2000, toàn huyện có 113 hộ nghèo chính sách. Với chủ trương của huyện không để hộ chính sách nghèo, phòng Lao động Thương binh - Xã hội huyện đã tham mưu cho Thường trực Ủy ban nhân dân huyện thực hiện hỗ trợ vốn cho 94 hộ có khả năng lao động với số tiền 2.000.000 đồng/ hộ. Đến năm 2005, còn lại 19 hộ chính sách nghèo không còn khả năng lao động được trợ cấp thêm hàng tháng với số tiền 100.000 đồng/người/tháng để có thu nhập cao hơn hộ nghèo. [11] Về vốn: Từ năm 2001 đến 2005, đã giúp vốn cho hộ nghèo tham gia mua cổ phần hợp tác xã nông nghiệp; mua bán nhỏ; chăn nuôi; giúp vốn theo Đề án 31 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang. Kết quả đã thực hiện cho vay 7.651 lượt hộ với tổng số tiền 15,2 tỷ đồng [11]. Đến năm 2007, tổng số tiền mà các hộ nghèo được vay là 22.758 triệu đồng, tăng 186 triệu đồng so với năm 2006; số hộ nghèo còn dư nợ là 6.828 hộ, so với tổng số hộ nghèo hiện nay, số hộ vay vốn từ nguồn vốn cho vay hộ nghèo cao hơn hộ nghèo, số nợ quá hạn là 2.620 triệu và khoanh nợ là 641 triệu đồng, nguyên nhân do làm ăn rủi ro, gia đình có người bệnh phải lo chăm sóc, điều trị nên không trả được nợ vay đúng hạn; Ngân hàng chính sách xã Trang 33 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh hội còn phát vay được 149 dự án cho 229 hộ nghèo với số tiền 3.488 triệu đồng từ nguồn quỹ quốc gia. [6] Ngoài ra, trong năm 2006 các đoàn thể, Hội chữ thập đỏ còn vận động rất nhiều tiền trợ giúp người nghèo, đã huy động được số tiền 6.236 triệu đồng và 130 tấn gạo [5]. Năm 2007 huy động được với số tiền 5.780 triệu đồng và nhiều hiện vật như: gạo, tole lợp nhà, đồ dùng khácđể góp cho hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn. [6] Về y tế: Giai đoạn 2001 - 2005, kết hợp với Trung tâm y tế huyện thực hiện chế độ ưu đãi chăm sóc sức khỏe, chữa trị bệnh cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Kết quả khám và điều trị theo chế độ thực chi cho 7.914 lượt người nghèo với số tiền là 537,067 triệu đồng [11]. Ngoài ra ngành còn giới thiệu nhiều lượt người đi khám và điều trị ở tuyến tỉnh và thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2007, tổng số nhân khẩu hộ nghèo được cấp thẻ Bảo hiểm y tế là 32.157 người tăng 5.031 người so với năm 2006 [6]. Qua đó, tất cả nhân khẩu hộ nghèo đều có điều kiện khám chữa bệnh miễn phí. Kinh phí do tỉnh mua cấp. Trong năm, ngành Nội vụ Lao động Thương binh - Xã hội tiếp tục giới thiệu nhiều lượt người có hoàn cảnh khó khăn đi điều trị bệnh trong các bệnh viện ở thành phố Hồ Chí Minh do bệnh nặng kéo dài không còn khả năng trị bệnh và 21 hộ có người bệnh phải bổ sung vào hộ nghèo mới. Về an sinh xã hội: Hằng năm đều thực hiện xét trợ cấp cho 570 đối tượng là người già cô đơn, người tàn tật và trẻ mồ côi với mức trợ cấp 65.000 đồng/người/tháng với số tiền là 307.800.000 đồng/năm. Từ năm 2001 đến năm 2004, để hỗ trợ cho người nghèo có phương tiện sinh hoạt trong mùa lũ, tỉnh và địa phương đã vận động cấp cho hộ nghèo 459 chiếc xuồng và phương tiện câu lưới trị giá khoản 450 triệu đồng. [11] Trong năm 2007, huyện trợ cấp cho người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật không có người nuôi dưỡng là 566 người, tăng 3 người so với năm 2006. Trong đó: người già cô đơn 219 người, trẻ mồ côi 104 người; người tàn tật, bệnh nặng 243 người. Trợ cấp đột xuất cho trên 10.000 lượt hộ nghèo gặp khó khăn, lốc xoáy, thiên tai, ốm đau với số tiền 1.061 triệu đồng và hàng chục tấn gạo. [6] Về giáo dục và đạo tạo: Năm học 2005 – 2006, học sinh mầm non, tiểu học và trung học cơ sở đã miễn giảm cho 10.863 em với số tiền 706.485.000 đồng [5]. Năm 2007, 100% hộ nghèo có con em đi học ở các trường phổ thông trong huyện đều được miễn giảm học phí và các khoản đóng góp cho nhà trường. Trong năm, đã miễn, giảm cho trên 4.500 học sinh các cấp học Mầm non và phổ thông với số tiền trên 700 triệu đồng. Ngoài ra các tổ chức đoàn thể, tổ chức Hội địa phương Trang 34 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh còn vận động sách giáo khoa, tập vở, viết và xe đạp cũ để tặng cho 13.013 con em hộ nghèo đi học với số tiền trên 300 triệu đồng. Phòng Nội vụ Lao động Thương binh - Xã hội còn lập dự án cấp học bổng cho 200 em học sinh nữ đang học trung học cơ sở ở xã Kiến An và Mỹ Hiệp với số tiền 300.000 đồng/em với tổng số tiền là 60 triệu đồng. Hỗ trợ giáo dục Trung học cơ sở cho số học sinh mồ côi, tàn tật thuộc diện nghèo 159 học sinh với số tiền trợ cấp là 120.000 đồng/em/năm học, tổng số tiền 19.080.000 đồng [6]. Từ đó góp phần hạn chế việc bỏ học của con em hộ nghèo. Về nhà ở: Trong các năm qua, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, Hội chữ thập đỏ và các tổ chức khác cũng đã vận động, phát động phong trào đóng góp quỹ vì người nghèo, xã hội từ thiện được trên 7,5 tỷ đồng. Qua đó đã cất, sửa đươc trên 1.600 căn nhà, trị giá 4.594 triệu đồng, trợ giúp khó khăn cho hộ nghèo trên 30.000 lượt người với số tiền 3 tỷ đồng [11]. Năm 2005, toàn huyện đã cất mới 587 căn, sửa chữa 161 căn nhà đại đoàn kết với số tiền 1.270 triệu đồng. Hội chữ thập đỏ và các tổ chức Hội cũng đã vận động cất mới 465 căn nhà, sửa chữa 25 căn nhà với số tiền là 865 triệu đồng [11] Thông qua quỹ vận động của Mặt trận Tổ quốc huyện, các đoàn thể và Hội bảo trợ trong năm 2007 đã cất mới, sửa chữa 379 căn nhà (gồm Mặt trận Tổ quốc Trung ương 8 căn nhà, Mặt trận Tổ quốc huyện 322 căn, Hội bảo trợ xã hội 37 căn nhà, xã vận động cất 12 căn nhà). Trong đó, mỗi căn nhà Mặt trận Tổ quốc huyện xây cất trị giá 10 triệu đồng và đối ứng của hộ nghèo bình quân 4 triệu đồng/căn. Sửa chữa 259 căn và cấp 222 mái tole. Tổng trị giá cất, sửa nhà 4.192 triệu đồng. Với phong trào cất, sửa nhà tình thương, nhà đại đoàn kết, đến nay toàn huyện đã cơ bản xóa xong nhà tre lá dột nát, nhà tạm bợ cho hộ nghèo và cơ bản giải quyết được tình trạng nhà ở cho hộ nghèo. [6] Thực hiện chương trình cụm tuyến dân cư toàn huyện cũng đã giải quyết cho trên 400 hộ nghèo, hộ ngưỡng cửa nghèo không có nền nhà ở được mua nền nhà trả chậm theo giá ưu đãi, Ngân hàng chính sách xã hội cũng đã xét cho vay tiền mua nhà trả chậm, bình quân mỗi hộ được vay 7 triệu đồng. Năm 2006, Ngân hàng chính sách xã hội huyện đã thực hiện cho vay 436 hộ mua nhà trả chậm ở các khu dân cư với số tiền 3.924 triệu đồng. Trong đó 118 căn nhà do doanh nghiệp xây dựng, 318 căn dân tự xây dựng. Đây là số hộ nghèo không đất thổ cư được giải quyết mua nền và xây dựng nhà ổn định cuộc sống. Ngân hàng chính sách xã hội kết hợp với Hội phụ nữ huyện cho vay trên 700 triệu đồng để làm hầm cầu vệ sinh tự hoại nhằm giải quyết nhu cầu sinh hoạt. Ngành điện nông thôn cũng có chương trình đưa điện, nước sạch đến hộ nghèo, giúp hộ nghèo có điện, nước sạch để sinh hoạt. [6] Trang 35 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh Về giải quyết việc làm: Năm 2007, phòng Nội vụ Lao động Thương binh - Xã hội cũng thường xuyên kết hợp với trung tâm dạy nghề huyện, phòng kinh tế, phòng nông nghiệp phát triển nông thôn, Hội phụ nữ và các xã, thị trấn mở các lớp dạy nghề cho người lao động, nông dân, thợ thủ công trên địa bàn huyện, trong đó có ưu tiên vận động người nghèo tham gia. Qua dạy nghề, huyện đã liên kết với các đơn vị sản xuất để tạo việc làm tại chỗ như: may, thêu, thắt bím lục bình, chăn nuôi, làm vườn,và giới thiệu người lao động đi làm trong và ngoài tỉnh. Kết quả trong năm 2007 đã mở được 50 lớp dạy nghề cho 1.242 lao động, gồm lao động hộ nghèo. Huyện cũng được các tổ chức quốc tế tài trợ cho 136 phụ nữ nghèo vay vốn với số tiền 260 triệu đồng để làm vốn chăn nuôi, mua bán nhỏ nhằm tăng thu nhập cho gia đình và cấp tiền mở 3 lớp dạy nghề cho 180 lao động nghèo học nghề, qua đó có 80% được giới thiệu việc làm và mở 02 lớp dạy nghề cho các em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, hỗ trợ 53 em khác thuộc diện hộ nghèo, người khuyết tật học nghề với số tiền trên 43 triệu đồng với các ngành nghề như: may công nghiệp, sửa chữa xe gắn máy[6]. Nguyên nhân của những thành tựu trên: Trong những năm qua nền kinh tế huyện nhà liên tiếp phát triển, sản xuất ổn định, ngày càng có thêm nhiều việc làm mới, xu hướng đi tìm việc làm ngoài địa phương ngày càng được lao động hưởng ứng tích cực, kể cả tham gia lao động ở nước ngoài. Từ đó, hộ nghèo thường xuyên có việc làm ổn định, thực trạng hộ nghèo trong huyện ngày càng giảm. Chỉ trừ hộ chưa chí thú làm ăn, thường xuyên bị rủi ro, bệnh tật nên chậm thoát nghèo. Các chủ trương, chính sách về công tác giảm nghèo cũng được tỉnh và huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện thường xuyên quan tâm chỉ đạo. Các Ban ngành, Mặt trận, đoàn thể huyện và lãnh đạo địa phương cơ sở xã, ấp ngày càng quan tâm nhiều hơn như: động viên, giáo dục hộ nghèo phấn đấu vươn lên thoát nghèo, hỗ trợ cất, sửa nhà, cho vay vốn, dạy nghề, giới thiệu việc làm,đã tác động tích cực để hộ nghèo thoát nghèo. Với những thành tựu đã đạt từ việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo là một đóng góp rất to lớn trong việc cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân huyện nhà một cách rõ rệt, đặc biệt là hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; hạn chế được tốc độ gia tăng khoảng cách giàu – nghèo; góp phần làm ổn định tình hình xã hội, kinh tế không ngừng tăng trưởng, đảm bảo được công bằng và tiến bộ xã hội cho huyện nhà. 2.2.3.2 Hạn chế: Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở huyện Chợ Mới cũng còn tồn tại những mặt hạn chế: Trang 36 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh Hàng năm vẫn còn hộ tái nghèo và phát sinh thêm hộ nghèo mới. Trong 5 năm (2001 – 2005) đã có 715 hộ nghèo mới phát sinh và 23 hộ tái nghèo. Đến năm 2006 còn 07 hộ tái nghèo của các năm trước và qua kết quả rà soát có 418 hộ được đưa vào hộ phát sinh hộ nghèo mới [16]. Hộ nghèo theo tiêu chí mới vẫn còn cao: Tổng số hộ nghèo năm 2005 theo tiêu chí mới là 6.539 hộ/75.539 hộ, chiếm tỉ lệ là 8,66% [16]. Do chuẩn nghèo tăng lên nên đã có 64 hộ gia đình chính sách được đưa vào hộ nghèo. Về đất: Toàn huyện có 1.200 hộ không có đất thổ cư bằng 18,35% hộ nghèo. Số hộ này phải ở nhờ vào đất người khác. Những hộ có đất thì diện tích rất ít, sản xuất không đảm bảo đời sống nên dần dần chuyển sang cầm cố, sang bán phải đi làm thuê mướn để sống. Về nhà ở: Hiện có 4.262 hộ, chiếm tỉ lệ 65,18% tổng số hộ nghèo vẫn ở nhà tạm hoặc chưa có nhà (sống trên ghe, thuyền), diện tích nhà ở bình quân người nghèo rất thấp 4–5m2/người (đa phần nhà tạm, nhà tình thương dễ, mau hư hỏng). [6] Về điện, nước sinh hoạt: Việc dùng điện nước trong sinh hoạt hằng ngày của các hộ nghèo đã được cải thiện ở những nơi có điều kiện. Tuy nhiên cũng có 2.626 hộ vẫn chưa có điện sinh hoạt hoặc chỉ câu nhờ điện ánh sáng, chiếm tỉ lệ 40,16%; có 5.471 hộ, chiếm tỉ lệ 83,67% số hộ nghèo còn sử dụng nước tự nhiên để ăn uống, chủ yếu các hộ sống trong các kênh rạch chưa có nhà máy và hệ thống nước sạch. [6] Về thu nhập: Số hộ có thu nhập thấp dưới 120.000 đồng/tháng trở xuống còn rất cao (2.810 hộ, chiếm 42,97%) [11], từ đó đòi hỏi cần phải cần có các giải pháp giúp đỡ để những hộ này không rơi xuống hộ nghèo. Nguyên nhân của những hạn chế trên: Tuy huyện có tỉ lệ hộ nghèo thấp so với các huyện khác trong tỉnh. Nhưng trong số hộ nghèo có nhiều hộ do hoàn cảnh gia đình thường xuyên gặp nhiều khó khăn, bệnh tật, thiếu lao động, không đất đai, tư liệu sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi bị rủi ro, một số hộ có tư tưởng lạc hậu, thiếu ý chí vươn lên, bê tha, lâm vào các tệ nạn xã hội v.vnên việc giảm nghèo cho các hộ này gặp rất nhiều khó khăn. Vẫn còn nhiều hộ nghèo do thiếu ý chí vươn lên, trình độ kém, thiếu kiến thức làm ăn nên không phát huy được nguồn hỗ trợ, vốn vay, lâm vào cảnh nợ nần khó vươn lên thoát nghèo. Huyện có dân số đông, nên số lao động có nhu cầu việc làm rất cao nhưng đất sản xuất ít, ngành nghề không nhiều, lao động đa số không có tay nghề do đó việc làm và thu nhập không ổn định. Một số lao động có học nghề ngắn hạn nhưng chưa mạnh dạn đi tìm việc làm nên cũng không có thu nhập cho gia đình. Trang 37 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh Các chương trình phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và chuyển dịch nông nghiệp địa phương chưa nhiều, nên tạo việc làm tại chỗ cho lao động nghèo còn ít. Vì vậy, công tác xóa đói, giảm nghèo ở huyện nhà chỉ có thể giảm bớt khó khăn nhưng chưa thật sự bền vững. Công tác giảm nghèo ở một số xã, thị trấn cũng chưa được quan tâm lãnh đạo như: chưa có kế hoạch giảm nghèo cho xã, thị trấn, chưa cử cán bộ, đảng viên kìm cặp hướng dẫn động viên, tổ chức công ăn việc làm cho hộ nghèo, chưa chịu khó tổ chức, vận động hộ nghèo có lao động học nghề, đi tìm việc làm trong và ngoài tỉnh, đi xuất khẩu lao động. Đến nay vẫn còn một số xã, thị trấn cán bộ giảm nghèo kiêm nhiệm nhiều công tác khác. Do đó, không sâu sát công tác giảm nghèo hàng năm, không lên được chính xác danh sách hộ nghèo để cấp thẻ Bảo hiểm y tế và cấp sổ hộ nghèo. 2.3 Một số giải pháp góp phần vào việc thực hiện tốt chính sách xóa đói, giảm nghèo của Đảng, Nhà nước tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. 2.3.1 Phương hướng, mục tiêu và giải pháp thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang . Để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010, căn cứ vào Nghị quyết số 13/NQ – HU ngày 26/5/2006 của Ban thường vụ huyện ủy về “Lãnh đạo công tác giải quyết việc làm; xóa đói, giảm nghèo” và Nghị quyết về kinh tế - xã hội của Hội đồng nhân dân huyện. Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo đã đề ra phương hướng, mục tiêu và giải pháp về giảm nghèo cho giai đoạn 2006 - 2010 như sau: 2.3.1.1 Phương hướng. Thứ nhất, tạo điều kiện cho hộ nghèo phát triển sản xuất tăng thu nhập. Tranh thủ Ngân hàng chính sách xã hội và các nguồn vốn vay khác cung cấp tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo. Xã, thị trấn chủ động có kế hoạch mở chương trình khuyến nông, lâm, ngư và tìm mô hình thích hợp ở cơ sở để hướng dẫn cách làm ăn cho hộ nghèo, xây dựng quỹ phát triển cộng đồng, quỹ vì người nghèo. Phòng Nội vụ Lao động Thương binh - Xã hội huyện kết hợp với Trung tâm dạy nghề, các Phòng Nông nghiệp – Phát triển nông thôn, phòng kinh tế, các ngành đoàn thể huyện và xã, thị trấn mở các lớp dạy nghề và hỗ trợ người nghèo tạo việc làm. Tiếp tục đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng các vùng kênh rạch để hộ nghèo có điều kiện tiếp cận các dịch vụ xã hội. Thứ hai, tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Bảo đảm cấp đúng, cấp đủ thẻ Bảo hiểm y tế cho người nghèo và có duy trì từ 1 đến 2 năm sau khi hộ đã thoát nghèo. Thường xuyên rà soát các hộ nghèo Trang 38 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh gặp rủi ro, các đối tượng yếu thế để thực hiện các chính sách bảo trợ xã hội như: trợ cấp xã hội hàng tháng. Hỗ trợ con em hộ nghèo trong độ tuổi đi học 100% học phí và các khoản đóng góp để con em hộ nghèo ít nhất học hết bậc Trung học cơ sở. Hỗ trợ hộ nghèo về đất ở như: cho vay mua nền nhà trả chậm ở các khu dân cư mới. Cho vay mua nền ngoài khu dân cư nếu nơi ở phù hợp với sinh hoạt hộ nghèo, hỗ trợ về nhà ở, điện, nước sinh hoạt Thứ ba, nâng cao năng lực và nhận thức của các ngành, tổ chức, xã, thị trấn, Ban tự quản về công tác xóa đói, giảm nghèo: Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tham gia công tác xóa đói, giảm nghèo từ huyện đến xã, ấp. Đẩy mạnh các hoạt động theo dõi, giám sát, đánh giá tình hình giảm nghèo. Thứ tư, tăng cường hoạt động truyền thông bằng mọi phương pháp để nâng cao nhận thức và năng lực tự vươn lên giảm nghèo của các hộ nghèo. 2.3.1.2 Mục tiêu giảm nghèo. Đẩy mạnh tốc độ giảm nghèo một cách bền vững và toàn diện, tạo môi trường thuận lợi để người nghèo, chủ hộ nghèo tiếp cận các dịch vụ sản xuất, dịch vụ xã hội, lấy tự lực là chính để vượt qua chuẩn nghèo. Đẩy mạnh công tác giảm nghèo ở các xã, thị trấn có tỉ lệ hộ nghèo cao, không còn hộ nghèo diện chính sách. Phấn đấu 100% hộ nghèo không còn nhà “ tre lá tạm bợ” và được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ về y tế, giáo dục, tín dụng, học nghề, giới thiệu việc làm. 2.3.1.3 Các chỉ tiêu cần đạt được đến năm 2010. Căn cứ vào tiêu chí mới về hộ nghèo (thu nhập bình quân đầu người ở xã là 200.000 đồng/người/tháng trở xuống và ở thị trấn là 260.000 đồng/người/tháng trở xuống) thì toàn huyện có 6.539 hộ nghèo, chiếm tỉ lệ 8,66%. Phấn đấu mỗi năm giảm bình quân khoảng 1,2% hộ nghèo để đến năm 2010 còn dưới 3% hộ nghèo, không còn hộ nghèo diện chính sách. 2.3.1.4 Các giải pháp để thực hiện Chương trình giảm nghèo. Thứ nhất, nâng cao nhận thức của chính quyền, đoàn thể, của người dân về xóa đói, giảm nghèo: Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp lãnh đạo Đảng về công tác giảm nghèo (có chủ trương, Nghị quyết về giảm nghèo). Chính quyền đoàn thể phải có kế hoạch và tổ chức vận động, hướng dẫn, giúp đỡ cho người dân biết cách thoát nghèo. Tăng cường các hoạt động truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng các chủ trương, giải pháp, các điển hình về giảm nghèo. Trang 39 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh Lập các tổ, nhóm tự nguyện của người nghèo để nhằm vay vốn, học tập kinh nghiệm, giúp đỡ hướng dẫn nhau làm ăn tiến tới giảm nghèo. Thứ hai, cần có cơ chế thực hiện chương trình: Về huy động nguồn lực: Tỉnh cấp kinh phí mua Bảo hiểm y tế, trợ cấp giáo dục, trợ cấp xã hội, tại nạn rủi ro,; Huyện, xã trích 1% tổng chi ngân sách hàng năm cho hỗ trợ hộ nghèo, trợ cấp cộng đồng và các hoạt động giảm nghèo khác. Huy động đóng góp “quỹ vì người nghèo” hỗ trợ nhà tình thương, thiếu đói, bệnh tật; Tranh thủ sự tài trợ của các tổ chức quốc tế cho vay vốn làm kinh tế nhỏ, học bổng, truyền thông,.. Về phân bổ nguồn lực: Ưu tiên các xã có tỉ lệ hộ nghèo cao. 100% hộ nghèo chí thú làm ăn được cấp vốn ưu đãi (hộ nghèo loại A). Tăng cường sự tham gia của người dân trong mọi hoạt động của chương trình, dự án từ việc xác định đối tượng, chương trình, dự án thực hiện, lập kế hoạch thực hiện một cách công khai, dân chủ và có sự nhất trí cao của các đối tương. Cơ chế khuyến khích hộ nghèo, dạy nghề, tạo việc làm cho người nghèo; Hỗ trợ nhu cầu đối với các doanh nghiệp tiếp nhận người nghèo vào làm việc ổn định, hỗ trợ kinh phí học nghề nếu doanh nghiệp có tổ chức dạy nghể. Miễn phí, cấp tiền ăn cho người nghèo học nghề, hỗ trợ kinh phí đi tìm việc làm, Đối với hộ thoát nghèo được bảo lưu tiếp tục hưởng chính sách trợ giúp về y tế, giáo dục, dạy nghề trong vòng 1 đến 2 năm kể từ cấp xã công bố thoát nghèo. Thứ ba, nâng cao vai trò của công tác giám sát đánh giá: Cấp huyện và xã, thị trấn hàng năm có đề ra chỉ tiêu giảm nghèo cấp mình và tự tổ chức giám sát, báo cáo đinh kỳ 6 tháng, 1 năm, 5 năm. Theo dõi đánh giá, giám sát của Hội đồng nhân dân và cơ quan tổ chức có liên quan chương trình. Thực hiện cơ chế giám sát của cộng đồng thông qua đoàn thể, ban thanh tra nhân dân và chính bản thân người nghèo để thực hiện chính sách hỗ trợ đúng đối tượng, đúng mục tiêu, không bị thất thoát. Thứ tư, phân công trách nhiệm giữa các cấp ngành: Phòng Nội vụ Lao động Thương binh - Xã hội huyện là cơ quan thương trực giúp Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo thực hiện chương trình, chủ trì và phối hợp với các ngành, đoàn thể, xã, thị trấn xác định đối tương hỗ trợ, hướng dẫn lập và thực hiện dự án, nhân rộng mô hình về xóa nghèo, vận động dạy nghề cho người nghèo. Trang 40 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh Các ban ngành, đoàn thể nằm trong Ban chỉ đạo giảm nghèo có trách nhiệm đưa chương trình hỗ trợ giảm nghèo vào lĩnh vực hoạt động của ngành mình để thực hiện giảm nghèo. Ủy ban nhân xã, thị trấn: Phải tự xác định mục tiêu, lựa chọn các giải pháp phù hợp cho địa phương mình, huy động mọi nguồn lực để đẩy mạnh tốc độ giảm nghèo, kiểm tra việc thực hiện chương trình, dự án giảm nghèo tới các ấp trên địa bàn và hộ nghèo. Thứ năm, nâng cao năng lực cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo: Tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn, nâng cao năng lực cho cán bộ giảm nghèo từ huyện, xã, thị trấn và Ban tự quản ấp để thông qua đó nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình giảm nghèo. Các xã, thị trấn cần kiện toàn bố trí ổn định phù hợp đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo, thực hiện tốt công tác giảm nghèo ở các xã, thị trấn. 2.3.2 Một số giải pháp nhằm góp phần vào việc thực hiện tốt chính sách xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang trong thời gian sắp tới. 2.3.2.1 Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần đẩy mạnh việc tăng năng suất đất canh tác nông nghiệp để góp phần làm tăng nguồn thu nhập ổn định cho hộ nghèo đói. Hiện nay, toàn huyện Chợ Mới có khoảng trên 36.000 ha diện tích đất tự nhiên thì diện tích đất nông nghiệp chiếm trên 27.000 ha, với gần 60% hộ gia đình sống chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp [16].Vì vậy, biện pháp tăng thu nhập từ sản xuất nông nghiệp sẽ có tác dụng tăng khả năng xóa đói, giảm nghèo ở huyện nhà. Trong đó, tăng năng suất cây trồng là một giải pháp hữu hiệu nhất ở Chợ Mới trong giai đoạn hiện nay. Nội dung của giải pháp tăng năng suất cây trồng hiện nay ở huyện cần tập trung vào các điểm mấu chốt sau: Thứ nhất, cần khuyến khích nông dân tự bỏ vốn và sức lao động để cải tạo đồng ruộng, xây dựng hệ thống kênh mương và giao thông nông thôn. Khuyến khích quá trình tích tụ ruộng đất hợp pháp thông qua việc thực hiện quyền chuyển đổi và chuyển nhượng ruộng đất. Mức độ hiệu quả sử dụng đất (thể hiện thông qua năng suất cây trồng và giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích) phải trở thành tiêu chuẩn để khuyến khích mở rộng diện tích trồng hoặc hỗ trợ đầu tư. Thứ hai, trang bị công nghệ, vật tư và thiết bị tiên tiến trong nông nghiệp, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, sử dụng hợp lí hơn các yếu tố đầu vào (phân bón, thuốc trừ sâu, thủy lợi,), cải tiến giống và phương thức canh tác. Đây là một hướng đi rất cơ bản nhằm cải tạo nền nông nghiệp, giúp cho nền nông nghiệp Trang 41 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh huyện nhà mang tính chất cơ khí hiện đại, năng suất cao và mang tính hàng hóa rộng rãi và là cơ sở để tận dụng triệt để các tiềm năng đất đai, mặt nước, nguồn nhân lực dồi dào tai huyện nhà. Thứ ba, vấn đề khuyến nông có tác động quan trọng đến việc tăng sản lượng nông nghiệp. Trong nền kinh tế hàng hóa, người nông dân rất cần các thông tin về giá cả, dung lượng thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng, các thông tin về giống, cây trồng, phân bón và hệ thống phương pháp gieo trồng và khuyến nông sẽ giúp cho người nông dân có các quyết định tối ưu về sử dụng các yếu tố sản xuất. Hệ thống trung tâm khuyến nông cần thể hiện tính đa dạng, thuận tiện và phổ biến rộng rãi qua các phương tiện thông tin đại chúng như: phát thanh, truyền hình, báo chí, bản tin thôn, xóm, đặc biệt là đến các vùng chưa có hệ thống mạng lưới điện. Vấn đề khuyến nông cần tập trung vào các nội dung quan trọng như: Nghiên cứu hệ thống đất canh tác để thiết lập quá trình sản xuất có hiệu quả với từng loại cây trồng khác nhau nhằm giúp nông dân lựa chọn đúng. Nghiên cứu thuần dưỡng và phổ biến các loại giống cây trồng và vật nuôi có năng suất, chất lượng cao cho các hộ gia đình. Ba nội dung mấu chốt nêu trên có tác dụng rất tích cực trong việc nâng cao năng suất cây trồng trong nông nghiệp nhưng nó đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn trong cơ chế quản lý, trong phương pháp tổ chức, đặc biệt là đòi hỏi khối lượng vốn đầu tư lớn. 2.3.2.2 Cung cấp vốn cho những hộ nghèo đói để họ có điều kiện tham gia vào các hoạt động sản xuất. Nhìn chung, người nông dân bị hạn chế về vốn, do họ không được vay tín dụng để có thể đầu tư cho nông nghiệp. Vì vậy, những cải tiến trong việc huy động tiết kiệm, phương thúc vay vốn, lãi suất là rất cần thiết để tăng khả năng tiếp cận của các hộ gia đình với tín dụng. Do vậy: Hệ thống Tài chính, Ngân hàng cần mở rộng mạng lưới chi nhánh, lập văn phòng giao dịch ở tận cơ sở như ấp, xã. Cán bộ tín dụng nên tích cực tham gia vào việc phổ biến các dịch vụ tài chính, xác định những người có khả năng vay, kiểm tra mức độ khả tín của khách hàng. Khi cung cấp dịch vụ tài chính nông thôn, điều quan trọng là giúp cho người dân có cả chỗ vay tiền lẫn chỗ gửi tiền (dù là những khoản tiết kiệm rất nhỏ). Chú trọng đến khả năng sinh lợi có ý nghĩa quan trọng đối với tính ổn định về dài hạn của một chương trình tín dụng nông thôn. Hệ thống Ngân hàng cần áp dụng cơ cấu lương bổng đặc biệt để đảm bảo cán bộ tín dụng theo dõi sát sao danh mục cho vay, nếu ai để cho tỉ lệ vỡ nợ tăng cao thì sẽ bị trừ lương. Mức lương cơ Trang 42 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh bản của nhân viên tín dụng được trả khá thấp, nhưng bù vào đó là các khoản tiền thưởng nếu đạt hiệu quả tốt, và có cơ hội thăng chức nếu tỉ lệ lợi nhuận của chi nhánh Ngân hàng, tín dụng tăng lên. Tín dụng cần phải được bổ sung bằng tiến bộ kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, hỗ trợ về đầu vào như: hạt giống, phân bón và có thị trường để trao đổi nông sản và những sản phẩm khác do nông dân làm ra. Hình thức cho vay theo nhóm chịu trách nhiệm chung. Việc chia sẻ rủi ro và tự quản lý nhau giúp tăng khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Mỗi thành viên của nhóm là người bảo lãnh cho tất cả các thành viên khác. Chỉ cần một trường hợp không trả nợ đúng lịch thì cả nhóm sẽ mất quyền vay vốn. Ngoài ra, hình thức tín dụng theo nhóm giúp giảm chi phí giao dịch cho cả người cho vay lẫn người đi vay, tăng tỉ lệ thu hồi nợ, tăng lợi thế kinh tế nhờ quy mô trong việc cung cấp tín dụng, góp phần khuyến khích một số giá trị xã hội như: tăng tính đoàn kết và tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm. Một yếu tố mấu chốt cho thành công của các chương trình tín dụng nông thôn là giảm tối thiểu chi phí giao dịch đối với người cho vay lẫn người đi vay. Đối với tổ chức tín dụng, chi phí giao dịch có thể được giảm bằng cách hoàn thành công tác thẩm định dự án, tinh giảng quá trình xét duyệt đơn xin vay, hợp lí hóa bộ máy thu hồi nợ, đào tạo cán bộ tín dụng có khả năng đi sâu đi sát với quần chúng để nắm bắt nhanh nhạy và đáp ứng nhu cầu về vốn cũng như nắm rõ gia cảnh của khách hàng để quản lý tín dụng cho tốt. Chi phí giao dịch đối với người đi vay sẽ giảm đáng kể nếu loại bỏ bớt được những phí tổn về hồ sơ, giấy tờ xin vay, chi phí đi lại 2.3.2.3 Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần phát huy vai trò kinh tế của phụ nữ ở nông thôn. Ngày nay, lao động và thu nhập của phụ nữ nông thôn ngày càng có vai trò thiết yếu cho cuộc sống gia đình, nhất là những hộ không có đất. Hơn nữa phụ nữ thường giỏi quản lý thu nhập để giải quyết các nhu cầu sinh hoạt của gia đình như: ăn, mặc, ở, lo chuyện học hành cho con. Tuy nhiên, vai trò kinh tế của phụ nữ thường không được nhìn nhận đúng mức, và họ thường bị loại trừ khỏi các hoạt động tài chính chính thức và các dịch vụ khuyến nông. Do vậy, cấp tín dụng trực tiếp cho phụ nữ được xem là một chất xúc tác quan trọng để tăng cơ hội tham gia hoạt động kinh tế cho họ. Ngoài ra, điều đó còn có tác động tích cực về mặt xã hội: giúp phụ nữ thoát khỏi cảnh lệ thuộc kinh tế và nâng cao lòng tự tin và tự chủ của họ. Theo kinh nghiệm của nhiều chương trình tín dụng ở các nước đang phát triển, phụ nữ nông thôn có rủi ro tín dụng rất thấp. Trang 43 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh So với khách hàng nam giới, họ có tỉ lệ trả nợ cao hơn vì họ thực hiện nghĩa vụ nợ nghiêm túc hơn, và lo sợ hơn về khả năng vỡ nợ. *** Xóa đói, giảm nghèo là một trong những chính sách được ưu tiên trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở huyện Chợ Mới. Trong những năm qua, nhờ có sự quan tâm của huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện trong việc đề ra các mục tiêu, giải pháp nhằm chỉ đạo cho các ban ngành, Mặt trận, các đoàn thể và địa phương cơ sở gắn kết với nhiệm vụ trọng tâm ngành và địa phương mình tăng cường tuyên truyền, giáo dục, thực hiện tích cực các chính sách hỗ trợ cho hộ nghèo như: chính sách hỗ trợ giáo dục, chính sách về tín dụng, chính sách an sinh xã hội. Nhờ vậy, mà song song với quá trình tăng trưởng kinh tế thì tỉ lệ hộ nghèo ở huyện giảm xuống rõ rệt từ 3,92% năm 2001 xuống còn 1% năm 2005; Thu nhập, đời sống của cộng đồng dân cư trong đó có hộ nghèo từng bước nâng lên và được cải thiện rõ rệt: GDP bình quân đầu người từ 5,70 triệu đồng/người (năm 2002) lên 9,95 triệu đồng/người (năm 2006), bình quân cứ 100 hộ thì có 57 chiếc tivi nhưng đến năm 2006 thì cứ bình quân 100 hộ thì có 72 chiếc tivi, tỉ lệ suy dinh dưỡng giảm rõ rệt từ 29,40% (năm 2002) xuống còn 23,25% (năm 2006) [16]. Thành tựu này đã góp phần giảm bớt được sự chênh lệch giàu – nghèo và bất bình đẳng trong xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân nhằm xây dựng quê hương Chợ Mới ngày thêm giàu đẹp, văn minh. Trang 44 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh PHẦN KẾT LUẬN Hiện nay, chúng ta đang tiến hành đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo là một trong những biện pháp cơ bản để góp phần thực hiện mục tiêu ấy, chỉ có đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo mới phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Nhận thức sâu sắc được vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã tích cực đề ra những chủ trương, chính sách xóa đói, giảm nghèo thích hợp và tổ chức thực hiện một cách đồng bộ các chủ trương, chính sách ấy đối với người nghèo: chính sách đất đai, vốn, đào tạo nghề; chính sách miễn giảm thuế và đóng góp xã hội; chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, và các giải pháp về nâng cao trình độ văn hóa, giáo dục. Nhờ vậy, mà trong giai đoạn 1993– 2004, Việt Nam đã giảm được 60% tỷ lệ nghèo khổ; tạo điều kiện chăm sóc sức khỏe miễn phí cho 88% người nghèo, hoàn thành giáo dục Tiểu học cho mọi người dân; xây dựng 400.000 căn hộ mới cho người nghèo; xóa tất cả những căn nhà tạm ở 2.000 thôn, xóm và 5 tỉnh. Thành tựu giảm nghèo ở Việt Nam còn phản ánh cả trên bình diện gia tăng chi tiêu đầu người trong hộ gia đình và tăng thu nhập đầu người nhờ có thành tựu 20 năm đổi mới (1986- 2006) GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng nhanh từ 98 USD năm 90 lên 729 USD năm 2006. Thành tựu này phản ánh vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chăm lo và không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân; tạo điều kiện cho mọi người dân phát huy quyền làm chủ của mình trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy một vấn đề đang đặt ra là tuy mức sống của người nghèo đã được cải thiện, đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt nhưng khoảng cách giàu - nghèo ngày càng tăng, do các hộ thuộc nhóm nghèo tuy thu nhập có tăng nhưng tốc độ tăng chậm hơn so với các hộ thuộc nhóm giàu. Do vậy, đây cũng là vấn đề đặt ra khi giải quyết xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam. Xóa đói, giảm nghèo là mục tiêu quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội bền vững, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Thực hiện quan điểm, chủ trương này của Đảng, trong những năm qua huyện Chợ Mới luôn Trang 45 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo trên cơ sở Nghị quyết của huyện ủy và Hội đồng nhân dân huyện đề ra. Trên cơ sở này, Ban chỉ đạo công tác xóa đói, giảm nghèo của huyện đã đề ra mục tiêu, chỉ tiêu giảm nghèo, giải pháp và tổ chức thực hiện để đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu về xóa đói, giảm nghèo ở huyên nhà. Nhờ vậy, mà công tác xóa đói, giảm nghèo ở huyện đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ: từ 2.927 hộ nghèo năm 2001 xuống còn 1.114 hộ nghèo năm 2005 (tính hộ nghèo theo chuẩn cũ). Như vậy, chỉ trong 4 năm toàn huyện đã giảm được 1.813 hộ nghèo và đến năm 2007 thì huyện không còn hộ nghèo chính sách. Trong 5 năm qua (2001– 2006), huyện đã giải quyết được 299 dự án vay vốn với số tiền là 12 tỷ đồng, góp phần giảm tỉ lệ hộ nghèo xuống còn 6,95% (theo chuẩn mới) vào năm 2006; Nhiều xã, thị trấn có tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh, bền vững, đời sống hộ nghèo về mặt vật chất tinh thần ngày càng được cải thiện. Bên cạnh những thành tựu đạt được, thì kết quả của việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo của huyện còn những mặt tồn tại như: số lượng hộ nghèo vẫn còn cao hơn các địa phương khác trong tỉnh, công tác xóa đói, giảm nghèo ở một số xã, thị trấn cũng chưa được sự quan tâm chỉ đạo đúng mức, kết quả giảm nghèo chưa thật sự bền vững Do vậy, các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương cần có những chủ trương, giải pháp khắc phục những mặt tồn tại để đảm bảo cho công tác xóa đói, giảm nghèo ngày càng đạt kết quả tốt hơn. Bước đầu tìm hiểu thực trạng xóa đói, giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang tôi nhận thấy đói nghèo vẫn đang là vấn đề xã hội bức xúc, là một vấn đề xã hội mang tính cao cả và nhân văn, thể hiện một tình cảm thiêng liêng, cao quý của con người, một truyền thống đạo đức của dân tộc “lá lành đùm lá rách” vẫn mãi sáng ngời trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Xóa đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững luôn luôn được các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nơi đây, là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Trang 46 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh TÀI LIỆU THAM KHẢO. [1] Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương - Tài liệu học tập các Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003. [2] Ban Tuyên Giáo tỉnh ủy An Giang – Thông tin công tác tư tưởng. Tháng 11 năm 2005. [3] Báo cáo phát triển Việt Nam 2004 – Nghèo. [4] Báo cáo Chương trình giảm nghèo 2006. Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới - phòng Nội vụ Lao động Thương binh - Xã hội. Ngày 10 tháng 01 năm 2007. [5] Báo cáo Chương trình giảm nghèo 2007. Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới - phòng Nội vụ Lao động Thương binh - Xã hội. Ngày 02 tháng 01 năm 2008. [6] Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2007 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2008. Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới. Ngày 30 tháng 11 năm 2007. [7] Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII 1/1994. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994. [8] Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001. [9] Đảng Cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2006. [10] Võ Nguyên Giáp – Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003. [11] Kế hoạch thực hiện công tác giảm nghèo và giải quyết việc làm huyện Chợ Mới năm 2006 – 2010. Ủy ban nhân dân huyện Chợ Mới - phòng Nội vụ Lao động Thương binh - Xã hội. Ngày 01 tháng 10 năm 2006. [12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần 1. Nxb Sự thật, Hà Nội 1984, tập 4. [13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất bản lần 1. Nxb Sự thật, Hà Nội 1984, tập 7. [14] Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, tập 10. [15] Nghiên cứu phát triển bền vững 3(16) 2007. [16] Niên giám Thống kê năm 2006 - Phòng Thống kê huyện Chợ Mới. [17] Giáo sư, phó Tiến sĩ. Vũ Thị Ngọc Phùng – Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999. [18] Giáo sư, Tiến sĩ. Vũ Thị Ngọc Phùng – Giáo trình kinh tế phát triển. Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội 2005. [19] Tạp chí Cộng sản số 777 (7/2007). [20] Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn số 16 (9/2007). Trang 47 Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm. SVTH:Nguyễn Ngọc Ánh [21] Vũ Hồng Tiến; Nguyễn Duy Nhiên – Giáo trình những vấn đề của thời đại. Nxb Đại học Sư phạm. [22] Tin tức cuối tuần số 42 (18/10/2007 - 24/10/2007). [23] Giáo sư, phó Tiến sĩ. Nguyễn Văn Thường; Giáo sư, Tiến sĩ khoa học. Lê Du Phong – Tổng kết kinh tế Việt Nam 2001 – 2005: Lí luận và thực tiễn. Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân. [24] Trung tâm kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (Vapec) - Làm gì cho nông thôn Việt Nam? Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, thời báo kinh tế Sài Gòn 2003. [25] Tuổi trẻ số 355/2007 (5318), SSN 1859 – 1108. Trang 48

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1278.pdf
Tài liệu liên quan