Khóa luận Tìm hiều vấn đề Tự do hoá tài chính ở Việt Nam

Tự do hoá tài chính đang là một xu hướng lớn , chi phối toàn bộ quá trình toàn cầu hoá và hội nhập của các quốc gia. Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề hết sức phức tạp nên cả về lý thuyết và thực tế hiện có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về xu hướng này. Chúng ta không thể phủ nhận những hậu quả đáng tiếc mà tự do hoá tài chính đã góp phần gây ra cho một số nền kinh tế trên thế giới, nhưng cũng phải thấy rằng những lợi ích mà tự do hoá tài chính mang lại là rất lớn và nều gắn liền với nó là thiết lập một hệ thống giám sát tốt cũng như các biện pháp hỗ trợ khác thì những nguy cơ tiềm tàng trên là có thể ngăn chặn được. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, vừa tiến hành đổi mới cơ chế, thể chế, chính sách để hội nhập vào khu vực và quốc tế, nên không thể không thực hiện tự do hoá tài chính. Quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam được tiến hành từ những năm sau đổi mới theo lộ trình tương đối giống như "trình tự tối ưu hoá kinh tế " của Mc. Kinnon đó là thực hiện tự do hoá tài chính trong nước trước khi tự do hoá tài khoản vốn. Cho đến nay, Việt Nam đã tương đối hoàn thiện tự do hoá lãi suất, các nội dung khác như phân bổ tín dụng, dịch vụ tài chính, thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối đều đã được đổi mới theo hướng thị trường, tuy nhiên mức độ tự do hoá vẫn mới ở những bước đầu và còn bị kiềm chế hơn nhiều so với xu hướng chung trên thế giới. Tuy còn nhiều khó khăn và tồn tại nhưng có thể khẳng định quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam là một bước đi đúng hướng, đã có những tác động tích cực đối với nền kinh tế, góp phần mang lại sự phát triển kinh tế, xã hội trong những năm sau đổi mới. Bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay đều cho thấy việc thực hiện tự do hoá tài chính ở các nước nói chung và Việt Nam nói riêng là hết sức cần thiết, và cần phải xúc tiến mạnh mẽ hơn nữa. Tuy nhiên để quá trình đó được đến đích thành công, việc thực hiện tự do hoá tài chính phải chủ động với bước đi thận trọng, kết hợp với sự giám sát chặt chẽ, đảm bảo tự do hoá có hiệu quả và an toàn. Chúng ta cũng cần sử dụng giải pháp tự do hoá là một công cụ quan trọng để từng bước thực hiện mục tiêu xây dựng thể chế tài chính phù hợp với cơ chế thị trường và định hướng phát triển nền kinh tế theo định hướng XNCN.

doc70 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiều vấn đề Tự do hoá tài chính ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thời gian tới sẽ biến đổi theo một số xu hướng mới. Đó là: - Đổi mới cơ chế và thể chế kinh tế theo cơ chế thị trường vẫn được tiếp tục diễn ra với tốc độ mạnh hơn, nhanh hơn và triệt để hơn. Mức độ và phạm vi thị trường hoá các quan hệ kinh tế tài chính sẽ được mở rộng và phát triển ở mức độ cao hơn. Khu vực kinh tế - tài chính công sẽ bị thu hẹp về quy mô và tỷ trọng nhưng chất lượng và hiệu quả sẽ cao hơn. Khu vực kinh tế - tài chính tư nhân sẽ phát triển mạnh, có quy mô và tỷ trọng tăng cao và sẽ chiếm vị trí quan trọng. Sự can thiệp trực tiếp mang tính hình thức của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế sẽ giảm dần và được thay đổi về cơ bản từ phương thức quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp bằng các công cụ pháp luật, cơ chế, chính sách vĩ mô. Sự độc lập và tự chủ của các đơn vị kinh tế được mở rộng. Nhiều tổ chức nghề nghiệp hoạt động theo chế độ tự quản sẽ ra đời và phát triển, thay thế cho các chức năng của một số cơ quan quản lý Nhà nước. Môi trường kinh tế tài chính đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh sẽ trở nên bình đẳng, không có sự phân biệt theo tính chất sở hữu và địa điểm ưu tiên. - Hội nhập quốc tế về kinh tế sẽ diễn ra mạnh mẽ cả về bề rộng lẫn chiều sâu: Cạnh tranh kinh tế - tài chính trên thị trường nội địa và quốc tế sẽ trở nên quyết liệt hơn. Hệ quả là, các nguồn lực kinh tế sẽ được phân bổ và sử dụng có hiệu quả hơn thông qua cơ chế thị trường nhưng sự khan hiếm và khó khăn về nguồn lực phân tán, nhất là các nguồn vốn đối với nhiều chủ thể kinh tế, hoạt động không hiệu quả sẽ là rất tất yếu và có thể dẫn đến bị phá sản. Sự giao lưu và thâm nhập của các nguồn lực từ bên ngoài vào và từ trong nước chảy ra nước ngoài sẽ được tăng lên. Công nghệ trong thanh toán và giao dịch sẽ có đổi mới nhanh hơn nhưng khoảng cách chênh lệch so với các nước vẫn còn lớn. Loại hình và chất lượng của các dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng sẽ được đa dạng hoá hơn vì có chất lượng cao hơn. - Tài chính - tiền tệ trở thành công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu của Nhà nước, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Một mặt, tài chính - tiền tệ sẽ trở thành công cụ sắc bén nhất để Nhà nước điều khiển sự phát triển kinh tế, điều tiết phân bổ nguồn lực và thu nhập, là thước đo để đánh giá chất lượng và hiệu quả tăng trưởng. Mặt khác, các công cụ về dịch vụ tài chính ngày một phong phú hơn ở thị trường trong nước và quốc tế. - Thu nhập và mức sống của đại đa số nhân dân ngày một tăng cao. Nhu cầu tiết kiệm, tích luỹ và sử dụng các khoản tiền tiết kiệm ngày càng lớn và đa dạng hơn. Các dịch vụ tài chính - tiền tệ ngày càng phát triển. Có thể nói, trước các biến đổi lớn theo cơ chế thị trường trong các lĩnh vực kinh tế - tài chính ở trong nước đang đòi hỏi phải giảm bớt sự kiểm soát tài chính, nới lỏng dần các cơ chế, thể chế tài chính tiền tệ theo xu hướng tự do hoá với tốc độ nhanh hơn, hiệu quả hơn. 3.1.2. Bối cảnh ngoài nước. - Xu thế tự do hoá kinh tế - tài chính tuy trở thành một xu thế lớn, chi phối các hoạt động chính trị, xã hội khác. Toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại, dịch vụ, đầu tư diễn ra rất nhanh, nhất là sau năm 2010 và tiến tới cơ bản tự do hoá sau năm 2020. Tỷ trọng thương mại, dịch vụ của các nước đang phát triển trong tổng sản phẩm của thế giới và tổng kim ngạch XNK thế giới tăng lên. Phần lớn các nước chuyển đổi đã hội nhập với thế giới và tuân thủ các cam kết giữa kinh tế, thương mại dịch vụ và đầu tư. - Xu thế toàn cầu hoá gắn với phát huy nội lực ở các quốc gia, đổi mới cơ cấu kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Tiết kiệm nội địa cho đầu tư phát triển kinh tế sẽ được đề cao. Các nguồn vốn của ngoại kiều đầu tư vào trong nước sẽ được khuyến khích mạnh và có quy mô ngày càng lớn. Cơ cấu kinh tế dựa trên nền tảng kỹ thuật có công nghệ cao chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Cơ cấu dịch vụ trong GDP ngày càng tăng, nhất là các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tín thác đầu tư. - Xu hướng sáp nhập các tập đoàn tài chính diễn ra mạnh hơn, cạnh tranh về thu hút vốn chiếm lĩnh thị phần trên thị trường dịch vụ tài chính sẽ trở nên khốc liệt hơn. Các công cụ tài chính điện tử hoá sẽ đa dạng hơn, các công cụ thanh toán ngân hàng sẽ dần dần được thay thế. Di chuyển các nguồn vốn tài chính quốc tế sẽ nhanh hơn và sự biến động của nó ngày càng trở nên khó dự đoán hơn. - Sự phục hồi kinh tế của các nước khu vực sau khủng hoảng kèm theo nó là sức cạnh tranh và tiềm lực tài chính của các định chế tài chính trung gian được nâng cao. Mức độ tự do hoá tài chính ở các nước trong khu vực được mở rộng hơn và cơ chế giám sát tài chính tiền tệ được kiện toàn, có tính thống nhất khu vực cao hơn. Các đồng bản tệ ở khu vực có sức mạnh và uy tín cao hơn, phần lớn đã trở thành các đồng tiền có khả năng chuyển đổi tự do trên các tài khoản vốn và tài chính. Nói tóm lại, các xu thế biến đổi về kinh tế - tài chính trong nước và ở bên ngoài trên đây có tác động rất lớn đến quá trình đổi mới tài chính tiền tệ ở nước ta và tự do hoá tài chính trong nước phù hợp với thể chế và luật lệ quốc tế không chỉ là cần thiết mà còn là một xu thế khách quan trong tiến trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, đó là một quá trình tự do hoá chủ động, có sự kiểm soát của Nhà nước XHCN. 3.2. Một số quan điểm cơ bản về tự do hoá tài chính. Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của việc tự do hoá tài chính trong quá trình phát triển và hội nhập của đất nước, từ thực trạng đổi mới thể chế tài chính tiền tệ trong nước theo cơ chế thị trường, việc hoạch định chiến lược về chính sách tài chính tiền tệ trong giai đoạn tới theo hướng tự do hoá cần phải quán triệt một số quan điểm cơ bản sau đây: 3.2.1. Tự do hoá tài chính phải tiến hành theo lộ trình, bước đi chủ động, thận trọng và hiệu quả, góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, phục vụ tích cực cho sự phát triển kinh tế với tốc độ cao và vững chắc. Trong thời gian tới, một trong những định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước là phát triển kinh tế với tốc độ cao và vững chắc, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm để tạo cơ sở vật chất cho việc giải quyết các vấn đề phát triển xã hội. Để phát triển kinh tế cần phải có môi trường tài chính tiền tệ ổn định, vì mọi sự bất ổn định về tài chính tiền tệ đều có thể dẫn đến lạm phát, biến động giá cả thị trường và kết quả là, tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế. Do đó, tự do hoá tài chính phải được tiến hành một cách chủ động, có lộ trình và bước đi thận trọng, vừa phù hợp với năng lực và sức cạnh tranh của các tổ chức tài chính - tiền tệ trong nước, và đáp ứng yêu cầu thực hiện chiến lược mở cửa nền kinh tế với nước ngoài, đảm bảo môi trường kinh tế bình đẳng ổn định, bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế, giữa trong nước với nước ngoài phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. 3.2.2. Tự do hoá tài chính phải được coi là phương tiện, là khâu đột phá và được tiến hành trước một bước trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phục vụ cho sự hội nhập và phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi có một môi trường đảm bảo cho các chủ thể có quyền tự do kinh doanh, không có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước và cũng đòi hỏi một mức giá cả được quyết định bởi các yêú tố cung - cầu, không lệ thuộc vào các quyết định hành chính. Do đó, cần phải coi quá trình đổi mới tài chính tiền tệ là quá trình hướng tới thực hiện quản lý nền tài chính tiền tệ quốc gia theo cơ chế thị trường, tôn trọng các yếu tố thị trường trong quá trình thiết lập và phát triển các quan hệ tài chính trong nền kinh tế. Song hội nhập cũng là một quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, do đó, để hội nhập có hiệu quả cần coi tự do hoá là một phương tiện để hoàn chỉnh cơ chế thị trường trong nước, tạo cơ sở vững chắc để hội nhập với thị trường nước ngoài. Thực tế cho thấy, nếu thị trường trong nước còn bị kiềm chế, thiếu sức mạnh thì vẫn không thể tiếp nhận được những cơ hội thuận lợi, được chuyển giao từ thị trường bên ngoài, vừa có thể làm cho chính bản thân thị trường trong nước bị bóp méo hoặc hoạt động lệch pha. Vì thế, để hội nhập với thị trường tài chính quốc tế, trước hết cần phải cải cách thị trường tài chính trong nước theo hướng tự do hoá, phù hợp với luật lệ quốc tế nhằm tạo dựng cho được một hệ thống tài chính đủ mạnh để hấp thụ ngoại lực và cạnh tranh chiến thắng ở cả trong nước và ngoài nước. 3.2.3. Tự do hoá tài chính phải nằm trong sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của Nhà nước bằng pháp luật và thông qua một hệ thống hành lang an toàn, nhằm bảo đảm an ninh tài chính tiền tệ quốc gia. Nói đến cơ chế thị trường tự do, chỉ là sự tự do một cách tương đối, không phải là không có giới hạn, mà là một sự tự do trong một khuôn khổ luật pháp do Nhà nước quy định. Do đó, cơ chế thị trường tự do là đề cao, tôn trọng các yếu tố cung - cầu, nhưng vẫn có sự điều tiết của Nhà nước với mục đích đảm bảo cho các thể chế tài chính hoạt động tự do nhưng hướng tới đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, ổn định, không gây các cú sốc lớn trên thị trường, ảnh hưởng đến sự phát triển. Tuy nhiên, tự do hoá sẽ chứa đựng nhiều rủi ro, gây mất an toàn, do đó, cần phải có một hệ thống hành lang an toàn để cảnh báo, ngăn chặn và đối phó kịp thời với nhiều tình huống bất lợi, có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính tiền tệ. Vì thế, để bảo đảm an ninh tài chính quốc gia trong tiến trình tự do hoá tài chính cần phải tăng cường chính sách kinh tế vĩ mô, tăng cường tính công khai và minh bạch và phải có một hành lang an toàn để thực hiện cảnh báo và phát hiện kịp thời mọi tình huống bất lợi. 3.3. Định hướng giải pháp chính sách tự do hoá tài chính ở Việt Nam trong các năm tới. Xuất phát từ chỗ coi quá trình chuyển đổi nước ta đang được thực hiện theo hai hướng cơ bản: chuyển đổi sang cơ chế thị trường và chuyển đổi phù hợp với xu hướng hội nhập vào khu vực và quốc tế. Trong đó, tự do hoá tài chính là một xu hướng lớn, chi phối hoạt động của cả 2 quá trình nói trên. Dưới đây tập trung vào một số định hướng chính sách tự do hoá tài chính, đặc biệt nhấn mạnh đến tự do hoá khu vực dịch vụ tài chính là một trong những trọng điểm của chiến lược tài chính đến 2010. 3.3.1. Định hướng tự do hoá lãi suất. Hiện nay, có ý kiến cho rằng, nói đến tự do hoá lãi suất là chủ yếu đề cập đến tự do hoá lãi suất ngân hàng (lãi suất vay và cho vay). Nếu quan niệm như vậy thì mới chỉ hiểu ở góc độ hẹp, mà cần phải hiểu tự do hoá lãi suất ở góc độ rộng hơn, tức nói đến tự do hoá tất cả hoặc tất cả lãi suất trên thị trường tài chính (lãi suất trên thị trường tín dụng, lãi suất trên thị trường chứng khoán, lãi suất trên thị trường dịch vụ tài chính, bảo hiểm, kiểm toán). - Về định hướng tự do hoá lãi suất ngân hàng: Đây là mục tiêu rất quan trọng nhằm thiết lập cơ chế lãi suất phù hợp với cơ chế thị trường và tạo điều kiện cho NHNN thực hiện chính sách điều tiết lãi suất trên cơ sở sử dụng lãi suất tái chiết khấu. Cho đến nay, nước ta đã chính thức đưa vào thực hiện lãi suất thỏa thuận, cơ chế lãi suất của thị trường.Tuy nhiên, để thực hiện thành công bước chuyển đổi cơ chế này, chúng ta cần phải thực hiện các giải pháp theo hướng NHNN tiếp tục chủ động thực hiện các biện pháp để tránh và giảm thiểu biến động theo hướng bất lợi của lãi suất thị trường, cụ thể là: Thứ nhất: Làm tốt việc giải thích, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân và các tổ chức kinh tế hiểu rõ sự cần thiết và tác dụng của việc tổ chức tín dụng cho vay theo lãi suất thoả thuận. Thứ hai: Yêu cầu các tổ chức tín dụng tiếp tục đơn giản hoá thủ tục, mở rộng cho vay để người sản xuất và tổ chức kinh tế, nhất là ở khu vực nông thôn thấy được lợi ích của việc áp dụng lãi suất cho vay thoả thuận là họ được vay vốn thuận lợi hơn. Thứ ba: chủ động dự báo chiều hướng biến đổi của lãi suất thị trường biến động phù hợp để định hướng lãi suất thị trường biến động phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô. Thứ tư: Củng cố các thiết chế thị trường tiền tệ để có quy mô đủ lớn, phản ánh đúng tình hình cung cầu vốn thị trường, để NHNN có thông tin kịp thời đối với thị trường tiền tệ. - Về định hướng tự do hoá lãi suất (giá cả trong giao dịch và mua bán chứng khoán): Trong quan hệ mua, bán chứng khoán có rất nhiều loại giá cả dưới các dạng phí, lệ phí, chênh lệch giá mua và giá bán chứng khoán. Ở đây, vai trò khống chế của Nhà nước về các loại lãi suất khác nhau là rất quan trọng. Ví dụ, cần phải giới hạn mức phí bảo lãnh, môi giới mua bán chứng khoán để khống chế mức chi phí của người phát hành và của người mua và bán chứng khoán với mức thấp nhất để khuyến khích thị trường phát triển. Hoặc trong giao dịch mua, bán chứng khoán cũng cần phải khống chế mức chênh lệch giá mua vào, bán ra để loại trừ các biến động lớn và tránh gây giả tạo trên thị trường, đặc biệt là hiện tượg "bong bóng" thị trường. Từ lập luận trên, có thể thực hiện tự do hoá lãi suất trên thị trường chứng khoán với các bước đi như sau: + Giả sử thị trường chứng khoán Việt Nam được thành lập từ năm 2000, thì từ năm 2000, cần áp dụng giới hạn phần trăm (%) trần các loại phí bảo lãnh, môi giới, tư vấn đầu tư chứng khoán và mức chênh lệch giá mua và bán trong các hoạt động kinh doanh chứng khoán để bảo vệ các công ty chứng khoán cạnh tranh lành mạnh và tạo môi trường ổn định cho thị trường hoạt động, với các biến động lớn. Mức giới hạn này nên áp dụng từ 5 đến 7 năm sau khi thị trường ra đời. + Sau 5 đến 7 năm hoạt động, thị trường đã có môi trường phát triển, các công ty chứng khoán đã có nhiều kinh nghiệm cạnh tranh, các nhà đầu tư đã dần gắn với các luật chơi của thị trường thì có thể áp dụng mức giới hạn nới lỏng hơn như: quy định trần mức phí bảo lãnh, thực hiện mức hoa hồng môi giới theo giá thoả thuận và quy định mức tối đa tư vấn đầu tư chứng khoán. Nhưng vẫn cần phải khống chế chặt chẽ mức chênh lệch giá mua vào và giá bán ra để đảm bảo giá cả thị trường ổn định, khống chế các hoạt động đầu cơ, mua, bán giả tạo trong khoảng 10 năm đầu khi thị trường ra đời và phát triển. + Sau năm 2010, có thể thực hiện tự do hoá nhiều loại lãi suất trên thị trường chứng khoán để tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh giữa các công ty chứng khoán trong nước vơí các công ty chứng khoán nước ngoài, từng bước thực hiện hoà đồng lãi suất (giá cả) giữa các công ty kinh doanh chứng khoán, không phân biệt các công ty trong nước hay nước ngoài. - Về định hướng tự do hoá lãi suất trên thị trường dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ kiểm toán: Hiện nay đang có dấu hiệu các doanh nghiệp bảo hiểm tra nước cạnh tranh nhau không lành mạnh thông qua việc hạ mức phí và trả hoa hồng cao cho các khách hàng của mình. Các công ty kiểm toán trong nước thì chỉ nhận hợp đồng kiểm toán với mức phí thấp hơn nhiều các công ty kiểm toán nước ngoài. Điều này làm cho các công ty kiểm toán trong nước khó có điều kiện nâng cao tiềm lực tài chính. + Đối với việc tự do hoá lãi suất trên thị trường bảo hiểm cần chú ý đến một số định hướng cơ bản: Thứ nhất là, tiếp tục áp dụng mức trần phí bảo hiểm và mức trả hoa hống cho khách hàng như hiện nay đối với các doanh nghiệp baỏ hiểm trong nước, nhằm tạo môi trường cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước cạnh tranh nhau trên cơ sở nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng. Thứ hai, không thực hiện hoà đồng lãi suất giữa doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh và các công ty bảo hiểm 100 vốn nước ngoài, chỉ thực hiện từng bước áp dụng mức phí bình đẳng sau 2010 để tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh và tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước; Thứ ba, từng bước tự do hoá mức phí tái bảo hiểm bắt buộc 20% như hiện nay để tiến tới sau năm 2010, thực hiện tự do hoá (xoá bỏ) tái bảo hiểm bắt buộc. Cũng sau năm 2010 có thể tiến hành cổ phần hoá công ty tái bảo hiểm quốc gia để từng bước nâng cao sức mạnh tài chính của công ty tái bảo hiểm, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh của thị trường, tạo điều kiện cho công ty này có thể tham gia thị trường tái bảo hiểm khu vực ASEAN và quốc tế. + Đối với việc tự do hoá lãi suất trên thị trường kiểm toán, cần nâng mức phí thuê hợp đồng kiểm toán của các doanh nghiệp kiểm toán Việt Nam lên cao hơn so với hiện nay và tiến tới áp dụng mức phí bình đẳng giữa các công ty kiểm toán Việt Nam và công ty kiểm toán 100% vốn nước ngoài khi thực hiện kiểm toán các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 3.3.2.Định hướng tự do hoá hoạt động tín dụng. Trong thời gian tới, việc lấy yếu tố thị trường là công cụ để điều tiết và phân bổ các luống vốn tín dụng có ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn tín dụng cho đầu tư phát triển kinh tế. Điều đó có nghĩa là cần phải thị trường hoá tối đa các nguồn vốn tín dụng, vừa đảm bảo yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn vừa đáp ứng nhu cầu quản lý vốn tín dụng phù hợp với các cam kết và nguyên tắc hội nhập với khu vực và quốc tế, đó là xoá bỏ các ưu đãi và bao cấp bất hợp lý đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Để đảm bảo các yêu cầu trên đây, hoạt động tín dụng cần phải được tự do hoá theo một số hướng cơ bản sau đây: + Từng bước mở rộng và tiến tới xoá bỏ mọi cản trở đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong việc tiếp cận vay vốn ngân hàng; triệt để xoá bỏ mọi sự can thiệp của chính quyền vào hoạt động của các ngân hàng để yêu cầu các tổ chức ngân hàng cho DNNN vay theo chỉ định. Thực hiện quyền tự quyết định lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng theo cơ chế thị trường trên cơ sở tính toán hiệu quả các dự án đầu tư và thời hạn vay vốn của dự án. + Từng bước giảm dần và tiến tới xoá bỏ việc cấp vốn tín dụng Nhà nước với lãi suất ưu đãi tràn lan cho nhiều dự án đầu tư của khu vực Nhà nước. Thực hiện cơ chế tín dụng Nhà nước hỗ trợ cho các dự án đầu tư phát triển không phân biệt tính chất sở hữu, đặc biệt là cho các dự án đầu tư phát triển SXKD, phục vụ cho xuất khẩu. Phấn đấu nâng tổng vốn đầu tư của Nhà nước thông qua cơ chế tín dụng Nhà nước từ 20-25% lên khoảng 60-70% vào 2010 và chuyển dần theo lãi suất thị trường, hạn chế tối đa việc cấp và cho vay vốn với lãi suất ưu đãi và sẽ có chính sách hỗ trợ khác sau đầu tư hoặc miễn giảm thuế. + Đối với một số ngành như nông nghiệp, một số ngành công nghiệp mũi nhọn có nhiều khó khăn để phát triển mạnh hoạt động xuất nhập khẩu cần phải tiếp tục hỗ trợ tín dụng với lãi suất ưu đãi. Riêng các khoản tín dụng ưu đãi trước đây được thực hiện qua quỹ hỗ trợ phát triển, ngân hàng phục vụ người nghèo, ngân hàng phát triển nhà ở tại Đồng bằng sông Cửu Long, nay đã được tổ chức lại thành một đầu mối có tên gọi là ngân hàng chính sách hỗ trợ phát triển. Vấn đề là làm thế nào để các ngân hàng này hoạt động tốt đáp ứng được đúng mục tiêu thành lập ban đầu. Đồng thời cần thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu trên cơ sở tập trung các nguồn vốn ưu đãi của Nhà nước hàng năm và các quỹ hỗ trợ xuất khẩu để tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng này có cơ hội phát triển. 3.3.3. Định hướng tự do hoá hoạt động ngoại hối. Cần phải nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Để thực hiện việc tự do hoá chế độ quản lý ngoại hối thì vấn đề đầu tiên cần quan tâm là nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng sao cho các hoạt động giao dịch, mua bán chuyển nhượng ngoại tệ đúng là một thị trường có nội dung chất lượng ngày càng hoàn thiện. Vấn đề đáng quan tâm chú ý là thị trường ngoại tệ phải có mối liên hệ với thị trường nội tệ, việc tự do hoá các công cụ của thị trường ngoại hối phải gắn với việc hoàn thiện và tự do hoá các công cụ của thị trường nội tệ. - Thị trường ngoại tệ cần được phát triển theo hướng mở rộng diện đối tượng tham gia hoạt động sao cho khối lượng cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngày càng gia tăng đáp ứng nhu cầu hoạt động của các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế. Thị trường ngoại hối càng mở rộng thì tỷ giá mua bán cảng phản ánh chính xác tương quan cung cầu ngoại tệ và từ đó sẽ hạn chế được các tiêu cực của nền kinh tế do yếu tố này gây ra. Thị trường ngoại tệ nếu chỉ giới hạn trong phạm vi mua bán ngoại tệ thị trường đó sẽ tạo ra những rủi ro lớn mà các đối tượng tham gia đặc biệt là các ngân hàng thương mại khó có thể gánh chịu nổi. Do đó trong thời gian trước mắt, các ngân hàng cần có các điều kiện được thực hiện các nghiệp vụ vay và cho vay vốn ngắn hạn (ngoại tệ) ở thị trường trong nước cũng như trên thị trường tiền tệ quốc tế. Cần đa dạng hoá các công cụ của thị trường ngoại tệ: Trong hệ thống hoạt động của ngân hàng và thị trường ngoại tệ, các công cụ của thị trường còn rất giản đơn và hệ thống thanh toán còn đơn điệu. Do đó các công cụ của thị trường cần được phát triển đa dạng như (thương phiếu, hối phiếu được ngân hàng chấp nhận, giấy chứng nhận tiền gửi, các nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi, v.v...). Các công cụ đó đồng thời cũng có thể được mua bán trên thị trường ngoại tệ. Cùng với việc phát triển các công cụ của thị trường thì cũng đồng thời cần nghiên cứu triển khai các hệ thống thanh toán mới phù hợp với sự phát triển của công nghệ thông tin và viễn thông. Hiện nay việc mua bán, thanh toán và chuyển tiền của các ngân hàng còn rất chậm thường một dịch vụ phải mất 2 đến 3 ngày. Việc chậm trễ trong việc mua bán, thanh toán và chuyển tiền nhất là về mặt ngoại hối sẽ gây nên những thiệt hại cho những đối tượng tham gia thị trường. Do đó vấn đề đặt ra là cần thực hiện thanh toán, chuyển nhượng mua bán ngoại tệ và các công cụ qua hệ thống ngân hàng từ hệ thống thanh toán hiện hành sang hệ thống thanh toán hiện đại như hệ thống toán tiền điện tử và tiến tới áp dụng hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng. Tất nhiên việc áp dụng hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng. Tất nhiên việc áp dụng hệ thống thanh toán tiên tiến sẽ rút ngắn thời hạn thanh toán nhưng đòi hỏi phải đầu tư trang bị hệ thống máy tính điện tử một cách đồng bộ và nâng cao năng lực của hệ thống các đối tượng tham gia thị trường đặc biệt là hệ thống ngân hàng. - Cần điều chỉnh tỷ giá linh hoạt. Trên cơ sở hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để từ đó có thể hình thành được mức tỷ giá hợp lý sát với tình hình biến động chung của thị trường ngoại tệ trong nước và đảm bảo ổn định giữa đồng Việt Nam với đồng đô la Mỹ. Tỷ giá ổn định là yếu tố quan trọng để kiềm chế lạm phát và nâng dần uy tín của đồng Việt Nam trong các hoạt động kinh tế. Để giảm bớt sự phụ thuộc vào một đồng tiền và đặc biệt là những rủi ro có thể xảy ra khi xác định tỷ giá chỉ với một đồng tiền khi đồng tiền đó bị mất giá thì cũng làm cho đồng Việt Nam cũng bị trượt giá theo (giảm mức giảm giá của đồng Việt Nam so với ngoại tệ bao nhiêu thì cũng có nghĩa là tài sản của Nhà nước ta bị giảm tương ứng) do đó, vấn đề đòi hỏi cần thiết là phải xác lập tỷ giá giữa đồng Việt Nam với một số đồng ngoại tệ quan trọng (hiện nay ta mới chỉ xác lập tỷ giá giữa đồng Việt Nam và USD). Hiện nay nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển ngoại thương mới và chuẩn bị mọi điều kiện để tham gia vào tổ chức thương mại thế giới thì việc chuyển sang cơ chế xác định tỷ giá giữa đồng Việt Nam với các đồng ngoại tệ chuyển đổi chủ yếu là cần thiết. Việc gắn đồng Việt Nam với nhóm ngoại tệ sẽ giảm được các rủi ro so với phương pháp xác định tỳ giá đồng Việt Nam so với chỉ một đồng ngoại tệ thì khi tổng ngoại tệ đó giảm mạnh thì đồng Việt Nam cũng sẽ bị trượt theo. Vấn đề quan trọng là khi chuyển phương thức xác định tỷ giá thì cần phải nghiên cứu để chọn đồng tiền căn cứ vào tiềm năng của đồng tiền chọn lựa và tỷ trọng ngoại thương nào là đạt được và xu hướng phát triển ngoại thương giữa ta với nước có đồng tiền lựa chọn. Khi tỷ giá phản ánh đúng giá thực trên thị trường và thường xuyên ổn định thì vấn đề mua ngoại tệ theo tỷ lệ bắt buộc sẽ không trở thành vấn đề đối với doanh nghiệp và tổ chức kinh tế vì lợi ích kinh tế được đảm bảo khi cần mua ngoại tệ của ngân hàng trong trường hợp ngoại tệ vẫn đáp ứng đầy đủ nhu cầu. Trong điều kiện đó thì các tổ chức kinh tế và doanh nghiệp sẽ tự nguyện bán toàn bộ ngoại tệ cho ngân hàng để lấy đồng Việt Nam trước khi mức lãi suất của đồng Việt Nam cao hơn lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Như đã trình bày ở phần trên: mục tiêu của tự do hoá ngoại tệ là nhằm góp phần tăng dự trữ. Để đạt được mục tiêu đó thì trong hoạt động ngoại tệ cần nghiên cứu chuyển sang cơ chế xác định tỷ giá giữa đồng Việt Nam với một số đồng ngoại tệ chính thức đồng thời cũng đòi hỏi phải thực hiện dự trữ ngoại tệ theo cơ cấu. Ở Việt Nam từ trước đến nay do dự trữ ngoại tệ còn hạn chế nên cũng mới chỉ thực hiện cơ chế dự trữ USD. Ngày nay quan hệ buôn bán và tín dụng giữa Việt Nam với nước ngoài được mở rộng đáng kể bao gồm cả khối lượng kim ngạch và với nhiều nước khác nhau do đó, trong dự trữ ngoại tệ cũng cần nghiên cứu chuyển từ cơ chế dự trữ một ngoại tệ (USD) sang cơ chế dự trữ ngoại tệ theo cơ cấu (nghĩa là nhiều loại ngoại tệ). Một số nước ASEAN như Thái Lan, Malaysia và Indonesia thực hiện cơ cấu dự trữ ngoại tệ theo cơ cấu phù hợp với cơ cấu ngoại tệ nước ngoài. Chính sách dự trữ ngoại tệ này đảm bảo cho họ hạn chế được một phần các rủi ro do biến động tỷ giá cuả các đồng tiền vay nợ. Để thực hiện chính sách đảm bảo giá trị trả nợ tương đương với giá trị ở thời điểm vay nợ, nên khi có sự mất cân đối giữa cơ cấu dư nợ và cơ cấu dự trữ các loại ngoại tệ thì NHTW cần phải tìm các biện pháp chuyển hoá đồng tiền vay nợ hoặc tìm nguồn để đảm bảo cân đối với giá trị của các loại ngoại tệ vay ban đầu. Các nước đang phát triển đều thực hiện cơ chế dự trữ ngoại tệ theo cơ cấu. Việt Nam trong thời kỳ bao cấp quan hệ hợp tác kinh tế lớn nhất là quan hệ với Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu cũ, đồng tiền chính là rúp chuyển nhượng. Ngày nay quan hệ hợp tác buôn bán, vay nợ được phát triển với nhiều nước và với nhiều đồng tiền khác nhau, do đó để tránh những rủi ro do những biến độ của các đồng tiền mà ta có quan hệ, cần nghiên cứu chuyển cơ chế dự trữ ngoại tệ theo cơ cấu phù hợp với cơ cấu kim ngạch xuất nhập khẩu và vay nợ (đồng tiền ký kết). Trong quá trình thực hiện NHTW cần định kỳ xem xét phân tích đánh giá tình hình và xu hướng biến động của các đồng tiền chủ yếu mà ta có quan hệ để có biện pháp điều chỉnh ngoại tệ kịp thời phù hợp với cơ cấu kim ngạch buôn bán và vay nợ hoặc chuyển hoá các đồng vay nợ sao cho phù hợp với cơ cấu dự trữ. Việc thực hiện cơ chế dự trữ ngoại tệ theo cơ cấu là một phương thức mới phù hợp với chính sách đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại với nước ngoài. Thực hiện cơ chế này, đòi hỏi cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô phải nhạy bén trong việc nắm bắt được những diễn biến của thị trường ngoại tệ trong và ngoài nước và qui luật biến động để có các biện pháp điều chỉnh cơ cấu dự trữ ngoại tệ kịp thời. Trong việc ngoại tệ được tập trung vào ngân hàng thì trong những vấn đề cần chú ý là vấn đề lãi suất (huy động tiền gửi ngoại tệ của dân, các tổ chức kinh tế và cho vay bằng ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp). Cơ chế lãi suất cần gắn với lãi suất của thị trường ngoại hối quốc tế. Lãi suất tiền gửi và cho vay cần được điều chỉnh thường xuyên khi cần thiết phản ánh những thay đổi của lạm phát và lãi suất trên thị trường quốc tế. Cơ chế lãi suất thông thoáng sẽ đảm bảo cho ngoại tệ trong dân và các tổ chức kinh tế được tập trung vào hệ thống ngân hàng. Mặt khác, lãi suất được xác định phù hợp với lãi suất của thị trường quốc tế sẽ tránh được những trường hợp các ngân hàng thương mại không sử dụng ngoại tệ để cho các tổ chức kinh tế vay phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh khi có nhu cầu mà lại chuyển ngoại tệ ra nước ngoài gửi để thu mức lãi suất ở thị trường nước ngoài cao hơn lãi suất trong nước. Việc làm đó của một số ngân hàng nước ta trong thời gian qua là do cơ chế vận hành lãi suất, phương thức đó tuy có đảm bảo an toàn vốn cho họ nhưng không phù hợp với tính chất của một tổ chức kinh doanh tiền tệ. Mặt khác cơ chế lãi suất ngoại tệ gắn với lãi suất thị trường quốc tế sẽ có tác dụng thúc đẩy các ngân hàng nước ngoài hoạt động ở Việt Nam tham gia vào giải quyết nhu cầu ngoại tệ cho các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh góp phần đẩy nhanh mức tăng trưởng của nền kinh tế. 3.3.4. Vấn đề chuyển đổi đồng VND trên tài khoản vãng lai và tài khoản vốn. Một trong những vấn đề quan trọng của tự do hoá tài chính là làm cho đồng tiền của quốc gia có thể tự do chuyển đổi sang một trong những đồng tiền dự trữ quốc tế chủ yếu. Tuy nhiên, từ nhiều năm nay, đồng tiền Việt Nam vẫn chưa thực hiện được chức năng chuyển đổi ra các ngoại tệ mạnh. Bất cứ lúc nào, người ta cũng có thể đổi 100.000 USD ra VND. Nhưng ngược lại muốn đổi VND lấy 10.000 USD một cách hợp lệ là một việc không phải là đơn giản, mà hầu như ít có ngân hàng nào có khả năng giải quyết được. Do đồng VND không có khả năng chuyển đổi ra ngoại tệ và do tỷ giá đồng VND chưa thật hợp lý, chưa được thị trường và mọi người hoàn toàn chấp nhận (người dân vẫn còn tâm lý muốn găm giữ USD), và do cơ chế ngân hàng và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều mặt chưa chuyển đổi cho phù hợp với tình hình mới, nên dẫn đến tình trạng các phương án đầu tư phục vụ thị trường nội địa không có điều kiện thực hiện tốt. Vậy làm thế nào để tạo cho đồng VND có khả năng chuyển đổi ra ngoại tệ mạnh để nhập khẩu, để trả nợ, để thanh toán lãi đầu tư....? Chúng ta hoàn toàn có đầy đủ các điều kiện làm cho đồng VND có khả năng chuyển đổi qua các biện pháp sau: - Ngành ngân hàng cần đổi mới triệt để, nhanh chóng áp dụng các nghiệp vụ kĩ thuật và kinh nghiệm tổ chức kinh doanh của hệ thống ngân hàng thế giới, - Thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi hợp lý, sát với thị trương từng giờ từng ngày trong mua bán ngoại tệ. Thực hiện cơ chế giá bán và giá mua thống nhất trong cả nước. - Thành lập quỹ dự trữ ngoại tệ nhà nước. Ngành ngân hàng, tài chính, thương mại cần thống nhất chủ trương, chính sách và các biện pháp thực hiện nhằm tạo cho VND có khả năng chuyển đổi . - Thực hiện chế độ lưu hành duy nhất đồng VND trên thị trường Việt Nam.. - Cơ cấu đồng tiền thanh toán trong kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu phải được tính toán cụ thể, từ đó cho phép một số ngân hàng trung ương ở một số nước có thể mở tài khoản đồng VND tại ngân hàng trung ương hoặc một số ngân hàng ngoại thương ở nước ta. Còn lại chỉ là các biện pháp tổ chức và vấn đề tiền mặt để mua ngoại tệ. Nhưng ta đều biết rằng có USD, có ngoại tệ là có tiền mặt. Nếu ngân hàng thay đổi cung cách quản lý, biết học tập và áp dụng những kinh nghiệm của ngân hàng thế giới thì vấn đề tiền mặt sẽ được giải quyết. Khi đồng VND chuyển đổi được, chúng ta sẽ có một cơ chế tiền tệ như các nước làng giềng, chẳng hạn như ở Malaysia, cứ 2,5 Ringgít là đổi ra một USD và ngược lại. Các cửa hàng, khách sạn,...không ai thấy cần nhận USD, chỉ cần nhận tiền nội tệ thì chỉ cần ra ngân hàng đổi với tỷ giá sát với thị trường, không ai bị thiệt nên mọi người chấp nhận. Nâng dần và tiến tới khả năng chuyển đổi của đồng VND sẽ tạo điều kiện cho công tác đầu tư, du lịch, xuất nhập khẩu....có điều kiện phát triển mạnh, có hiệu quả cao; đồng thời giúp cho công tác quản lý ngoại tệ được chặt chẽ, đẩy nhanh hoạt động thanh toán qua ngân hàng có lợi cho nền kinh tế đất nước đang trong tiến trình chuyển đổi để hội nhập kinh tế thế giới. Đặc biệt tại hội nghị " Đồng tiền chung cho Đông Nam á" họp tại Penang (Malaysia) ngày 5/8/99, Tổng thư ký ASEAN đã chỉ thị tiến hành nghiên cứu khả thi của việc thiết lập đồng tiền chung cho ASEAN cùng hệ thống tỷ giá hối đoái liên ngân hàng. Do vậy việc tạo ra khả năng chuyển đổi cho đông VND là cần thiết trong việc tham gia đồng tiền chung châu á trong tương lai và đảm bảo lộ trình tham gia AFTA. 3.3.5. Định hướng tự do hoá hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính. Trong phạm vi hoạt động của thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ kiểm toán) có rất nhiều các loại hình tổ chức tham gia, cả trong và ngoài nước. Do đó, trong phạm vi như vậy, cần phải tiến hành thực hiện tự do hoá từng bước ở thị trường nội địa trước một bước, đồng thời từng bước tự do hoá với bên ngoài để đảm bảo môi trường nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức tín dụng Việt Nam trong điều kiện phát triển và hội nhập. Đối với các tổ chức tín dụng. - Các tổ chức ngân hàng trong nước cần phải tiến hành: + Cho phép các ngân hàng thương mại quốc doanh có qui mô vốn lớn, có uy tín, có kinh nghiệm thực hiện chức năng kinh doanh tổng hợp: vừa thực hiện chức năng nghiệp vụ ngân hàng, vừa có chức năng kinh doanh chứng khoán, vừa tham gia góp vốn cổ phần vào các doanh nghiệp và đảm nhận các dịch vụ thanh toán trong nền kinh tế để nâng cao tiềm lực tài chính của ngân hàng. + Nghiên cứu cổ phần hoá một đến hai ngân hàng thương mại quốc doanh nhằm xây dựng các tập đoàn ngân hàng có quy mô vốn lớn, có sự tham gia đóng góp cổ phần của các tập đoàn ngân hàng nước ngoài có uy tín. + Các ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô nhỏ có tiềm lực tài chính kém cần phải thực hiện sáp nhập nhằm tăng qui mô vốn và mở rộng thị trường hoạt động. + Từng bước xoá bỏ các ưu đãi tài chính đối với các tổ chức ngân hàng, không phân biệt tính chất sở hữu như các hiện tượng khoanh nợ, các mối quan hệ thân tín đối với các cấp chính quyền, phạm vi và đối tượng cho vay có đảm bảo. - Đối với ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài. + Trong giai đoạn từ nay đến 2005 có thể nới lỏng giới hạn mức huy động tiền gửi bằng VNĐ từ 25% hiện nay đến 30-35% so với vốn tự có đối với cả chi nhánh và các ngân hàng liên doanh với nước ngoài. Từng bước cho phép các ngân hàng liên doanh và chi nhánh các ngân hàng nước ngoài được cung cấp vốn tín dụng hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh phục vụ cho xuất khẩu; mở rộng phạm vi cung cấp vốn tín dụng bằng VND đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. + Sau năm 2005, có thể nới lỏng tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trong việc liên doanh thành lập các tổ chức ngân hàng liên doanh; xoá bỏ hạn chế về tổng số người được tuyển của các tổ chức tài chính nước ngoài; cho phép các cá nhân nước ngoài tham gia nắm giữ cổ phần của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. + Sau năm 2010, có thể từng bước cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam và xoá bỏ các hạn chế về phạm vi hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Đối với các công ty chứng khoán: - Các công ty trong nước cần phải tiến hành: + Nghiên cứu giảm mức vốn pháp định hiện nay đối với các loại hình kinh doanh chứng khoán để tạo điều kiện cho việc hình thành các công ty chứng khoán cổ phần với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế với sự tham gia cổ phần của Nhà nước. Đồng thời, tạm thời chưa đánh thuế đối với các công ty chứng khoán trong khoảng 3-5 năm sau khi thành lập nhằm tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán ra đời và phát triển. + Nghiên cứu nới lỏng quy định tỷ lệ nợ quá hạn khoảng 5% tổng dư nợ cho vay để có thêm các ngân hàng thương mại quốc doanh có đủ điều kiện thành lập công ty chứng khoán con. - Các công ty chứng khoán nước ngoài: + Từ nay đến 2010 chỉ cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam dưới hình thức góp vốn liên doanh với mức tối đa 49% và sau năm 2010 có thể nâng tỷ lệ tham gia góp vốn từ 60 đến 70% và có thể cho phép đến thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài. Riêng các cá nhân đầu tư nước ngoài có thể đầu tư vào nắm giữ cổ phần của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh của Việt Nam đến 49%, thậm chí 70% cổ phần của các doanh nghiệp Nhà nước mà Nhà nước không nắm giữ 100% vốn sở hữu. Với việc nới lỏng như vậy cũng phù hợp với xu hướng tự do hoá với mức mở cửa rộng hơn cho sự tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán nội địa ở các nước sau khủng hoảng tạo điều kiện cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài một cách gián tiếp. Đối với các công ty tham gia vào hoạt động của thị trường dịch vụ bảo hiểm và kiểm toán. - Đối với các công ty bảo hiểm: + Đối với các công ty bảo hiểm trong nước cần phải có chính sách hỗ trợ đầu tư trong nước và các ưu đãi về thuế, tạo điều kiện cho việc thành lập các công ty cổ phần với sự tham gia của các thành phần kinh tế và dân cư (hiện nay, các công ty bảo hiểm mới thành lập chủ yếu là các công ty bảo hiểm chuyên ngành); đến năm 2005 từng bước giảm tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc xuống từ 20% còn 10%. + Đối với các công ty bảo hiểm nước ngoài; từ nay đến 2005 khống chế số lượng các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài và sau 2005 có thể tăng lên 8 công ty nhằm tạo điều kiện cho các công ty bảo hiểm trong nước có thị trường phát triển, từng bước mở rộng diện và phạm vi thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ của các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoặc tham gia các hoạt động giám định và đại lý bảo hiểm. - Đối với các công ty kiểm toán: + Đối với các công ty kiểm toán trong nước, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ tạo điều kiện cho sự phát triển hệ thống các công ty kiểm toán độc lập, đặc biệt là việc đào tạo hệ thống chuyên gia kiểm toán theo chuẩn mực quốc tế; tạo điều kiện cho phép hành nghề tư vấn tài chính, kế toán. Thực hiện cơ chế chuyển giao dần nhiệm vụ, chức năng quản lý nghề nghiệp cho Hiệp hội kế toán và kiểm toán. + Đối với các công ty kiểm toán nước ngoài: từng bước cho phép các công ty kiểm toán nước ngoài (100% vốn nước ngoài) được phép kiểm toán các công ty cổ phần Việt Nam ngoài việc quy định hiện hành cho phép kiểm toán các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoaì và các dự án sử dụng vốn vay nước ngoài, đảm bảo đáp ứng nguyên tắc hội nhập và tự do hoá thương mại dịch vụ (hiện nay có quy định các chuyên gia nước ngoài phải có chứng chỉ do Bộ Tài chính cấp, nhưng trên thực tế không thực hiện được) phấn đấu mở rộng thị trường với khối lượng khoảng 5 đến 6 công ty kiểm toán 100% vốn nước ngoài trong giai đoạn từ nay đến 2005. 3.4. Một số điều kiện đảm bảo cho việc tự do hoá tài chính có hiệu quả. Tự do hoá tài chính chắc chắn sẽ gây ra những biến động bất lợi trong ngăn chặn, có ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế như lãi suất tăng, cản trở cho doanh nghiệp vay vốn, thị trường trong nước có thể bị thu hẹp đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực tài chính có sức cạnh tranh yếu, thậm chí có thể làm cho các doanh nghiệp này không có khả năng vươn lên, phải chấp nhận phá sản. Chính vì thế cần có một điều kiện cần thiết, đảm bảo cho việc thực hiện tự do hoá tài chính vừa an toàn vừa có hiệu quả. 3.4.1. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thực tế cho thấy năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta so với khu vực rất thấp, đặc biệt là khả năng cạnh tranh của các tổ chức tài chính tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm và có quy mô tài chính rất nhỏ, thị trường còn thu hẹp, các sản phẩm tài chính còn đơn điệu, nghèo nàn, trình độ đội ngũ cán bộ còn bất cập. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của phần lớn khách hàng là các doanh nghiệp Nhà nước lại chưa cao. Kinh nghiệm khủng tài chính ở khu vực vừa qua cho thấy, hiệu quả sử dụng vốn thấp ở các khu vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ là nguy cơ dẫn đến khủng hoảng nợ ở khu vực ngân hàng, tiếp theo đó là khủng hoảng tài chính và cuối cùng là khủng hoảng kinh tế xã hội, chính vì thế cần phải có các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và tổng thể của nền kinh tế, trong đó đặc biệt chú ý đến hệ thống các giải pháp tài chính thúc đẩy nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 3.4.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, đầy đủ và minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế. Tự do hoá tài chính thúc đẩy hoạt động tài chính tiền tệ nước ta hội nhập nhanh với quĩ đạo vận động của tài chính quốc tế. Các thể chế, công cụ tài chính tiền tệ và công nghệ vận doanh, vận hành phải gắn với thị trường quốc tế và tuân thủ các nguyên tắc và luật lệ chung. Đồng thời phải đảm bảo tính đồng bộ, tính minh bạch và rõ ràng của hệ thống pháp luật, sao cho nó trở thành phương châm và ý thức hành động của mọi chủ thể trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. 3.4.3. Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán. Có thể nói, chưa thể nói đến tự do hoá với mức độ rộng trong lĩnh vực tài chính, nếu như ở quốc gia nào đó chưa có thị trường chứng khoán. Bởi vì, thị trường chứng khoán được xem như là một điều kiện cần để thực hiện tự do hoá tài chính. Thực tế cho thấy tự do hoá lãi suất có thể làm cho giá cả về vốn đắt hơn, vốn trở nên khan hiểm hơn và đôi khi bị ách tắc nếu các nguồn vốn chỉ luân chuyển qua một kênh duy nhất là hệ thống ngân hàng. Trường hợp có thị trường với hoạt động ổn định, vững chắc thì đó chính là các van để điều tiết lãi suất thị trường và điều chỉnh sự vận động của các nguồn vốn, đáp ứng tính thanh khoản cao của các công cụ tài chính trong điều kiện tự do hoá tài chính. 3.4.4. Thiết lập cơ chế giám sát tài chính đối với nền kinh tế. Từ thực tế khủng hoảng tài chính khu vực cho thấy việc nới lỏng và xoá bỏ các can thiệp mang tính hành chính tổng quản lý trực tiếp đối với các hoạt động quản lý tiền tệ không gắn liền với sự kiểm tra, giám sát tài chính, sẽ dẫn đến các hiện tượng tiêu cực phát sinh, và hậu quả cho thấy là việc nổ ra các cuộc khủng hoảng tài chính, đặc biệt là khủng hoảng về nợ. Do đó, nhu cầu thiết lập hệ thống giám sát là rất quan trọng. Ở nước ta, các công tác thanh tra, kiểm tra tài chính tuy đã được tăng cường và nâng cao hiệu quả nhưng vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu quản lý, chưa nói đến yêu cầu nâng cao hiệu quả, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia vì trên thực tế, chưa thực hiện được thanh tra hoạt động, tức là hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. Giám sát tài chính đòi hỏi phải thực hiện giám sát từ xa, gián tiếp, trực tiếp, trước, trong và sau quá trình hoạt động và sử dụng các nguồn lực tài chính của mọi chủ thể trong nền kinh tế để kịp thời có biện pháp phát hiện, phòng ngừa ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra. Đồng thời, phải vừa thực hiện giám sát vĩ mô và vi mô thông qua sử dụng hệ thống của hành lang an toàn tài chính. Hệ thóng giám sát tài chính như trên phải được thiết lập nhanh chóng để đáp ứng yêu cầu kiểm tra, giám sát sự di chuyển nhanh, với qui mô ngày càng lớn của các nguồn vốn trong nền kinh tế, đặc biệt là các luồng vốn ngắn hạn với thị trường bên ngoài. Ngoài ra, để đảm bảo cho việc thực hiện các nhiệm vụ giám sát tài chính có hiệu quả cần thiết phải củng cố và hoàn thiện chế độ kế toán; phát triển mạnh hoạt động kiểm toán, hệ thống kiểm soát nội bộ, củng cố và thiết lập tới hệ thống thông tin kinh tế. KẾT LUẬN Tự do hoá tài chính đang là một xu hướng lớn , chi phối toàn bộ quá trình toàn cầu hoá và hội nhập của các quốc gia. Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề hết sức phức tạp nên cả về lý thuyết và thực tế hiện có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về xu hướng này. Chúng ta không thể phủ nhận những hậu quả đáng tiếc mà tự do hoá tài chính đã góp phần gây ra cho một số nền kinh tế trên thế giới, nhưng cũng phải thấy rằng những lợi ích mà tự do hoá tài chính mang lại là rất lớn và nều gắn liền với nó là thiết lập một hệ thống giám sát tốt cũng như các biện pháp hỗ trợ khác thì những nguy cơ tiềm tàng trên là có thể ngăn chặn được. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, vừa tiến hành đổi mới cơ chế, thể chế, chính sách để hội nhập vào khu vực và quốc tế, nên không thể không thực hiện tự do hoá tài chính. Quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam được tiến hành từ những năm sau đổi mới theo lộ trình tương đối giống như "trình tự tối ưu hoá kinh tế " của Mc. Kinnon đó là thực hiện tự do hoá tài chính trong nước trước khi tự do hoá tài khoản vốn. Cho đến nay, Việt Nam đã tương đối hoàn thiện tự do hoá lãi suất, các nội dung khác như phân bổ tín dụng, dịch vụ tài chính, thị trường chứng khoán và thị trường ngoại hối đều đã được đổi mới theo hướng thị trường, tuy nhiên mức độ tự do hoá vẫn mới ở những bước đầu và còn bị kiềm chế hơn nhiều so với xu hướng chung trên thế giới. Tuy còn nhiều khó khăn và tồn tại nhưng có thể khẳng định quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam là một bước đi đúng hướng, đã có những tác động tích cực đối với nền kinh tế, góp phần mang lại sự phát triển kinh tế, xã hội trong những năm sau đổi mới. Bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay đều cho thấy việc thực hiện tự do hoá tài chính ở các nước nói chung và Việt Nam nói riêng là hết sức cần thiết, và cần phải xúc tiến mạnh mẽ hơn nữa. Tuy nhiên để quá trình đó được đến đích thành công, việc thực hiện tự do hoá tài chính phải chủ động với bước đi thận trọng, kết hợp với sự giám sát chặt chẽ, đảm bảo tự do hoá có hiệu quả và an toàn. Chúng ta cũng cần sử dụng giải pháp tự do hoá là một công cụ quan trọng để từng bước thực hiện mục tiêu xây dựng thể chế tài chính phù hợp với cơ chế thị trường và định hướng phát triển nền kinh tế theo định hướng XNCN. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo của IMF 8.2000 và 4.2001 Các văn bản pháp luật (Nghị định, Thông tư, Chỉ thị, Quyết định) về hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam Donald J.Mathieson & Liliana Rojas-Susrez - Liberalization of the Capital Account: Experiences and Issues - IMF - 3.1993. Đề tài nghiên cứu khoa học: "Tự do hoá tài chính: cơ sở lý luận, thực tiễn ở các nước và vấn đề thực hiện ở Việt Nam" - Bộ Tài chính - Viện nghiên cứu tài chính. Economic and social survey of ASIA and The Pacific 1998, United Nations, New York, 1998. F.S.Mishkin - Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính - NXB Khoa học và Kỹ thuật – 1994 Financial deregulation, capital flows and macroeconomic management in The Asia Pacific, UNDP, Korea development Institute. Financial liberalization in Asia: Analysis and Prospect –Edited by Douglas H. Brooks and Monika Quesser. papers Kế hoạch phát triển ngân hàng 5 năm 2001 - 2005 - NHNN Kế hoạch phát triển tài chính 5 năm 2001 - 2005 – Bộ Tài Chính - Viện Nghiên cứu Tài chính Ngô Việt Phương & Lê Văn Hinh - Lãi suất thoả thuận - Những thách thức trên con đường chuyển đổi cơ chế lãi suất ở Việt Nam - Tạp chí Ngân hàng số 8, năm 2002. Ngọc Kha - Tự do dần hoạt động ngoại tệ - Báo Đầu tư Chứng khoán - Số 169 - tháng 3/2003 Nguyễn Đình Tài - Tự do hoá tài chính đối với nền kinh tế chuyển đổi: thực tiễn, vấn đề và bước đi - Tạp chí Ngân hàng số 13 năm 1998 Nguyễn Đức - Nhìn lại việc điều hành chính sách quản lý ngoại hối và tỷ giá thời gian qua - Thị trường tài chính - tiền tệ 1.2002 Nguyễn Hoàng Giang - Vấn đề chuyển đổi đồng tiền ở Việt Nam - Phát triển kinh tế - Tháng 2/2003 Nguyễn Văn Hiệu - Tự do hoá tài chính - Kinh nghiệm của Trung Quốc, Canada và bài học đối với Việt Nam - Nghiên cứu kinh tế số 274 – 2001 Saleh M. Nsouli and Mounir Rached – Capital account liberalization in Southern Mediterrance –Finance and Development 12/1998 Tài chính cho tăng trưởng - Ngân hàng thế giới - NXB Văn hoá Thông tin - 2001 Tường Vi - Nhà đầu tư nước ngoài được mở tài khoản tại công ty chứng khoán - Cơ hội mới cho toàn thị trường- Báo Đầu tư chứng khoán Số 176, tháng 4/2003 Trần Ngọc Thơ - Giải pháp cho việc điêù hành chính sách tỷ giá ở Việt Nam - Phát triển kinh tế - Tháng 2/2003 Trần Nguyên Nam - Tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngoài quốc doanh - Thông tin tài chính - Tháng 9/2002 Võ Tá Hân, Trần Quốc Hùng, Vũ Quang Việt - Châu Á: Từ khủng hoảng nhìn về thế kỷ 21 - NXB TP.Hồ Chí Minh, VAPEC, TBKT Sài gòn – 2000 Vũ Đình Ánh - Làm gì trong hệ thống tài chính thế giới mới - Tạp chí Tài chính 1.2000 Vũ Đình Ánh - Mười năm tỷ giá hối đoái - Tạp chí Tài chính 2.2000 Vũ Đình Ánh – Tự do hoá tài chính – con đường phải qua –Tạp chí tài chính Số 1+2 năm 1998 Vũ Long - Hoàn thiện cơ chế lãi suất tín dụng theo hướng tự do hoá - Tạp chí Ngân hàng Số 1+2, năm 2003. Vũ Phương Liên - Một số biện pháp góp phần thực hiện thành công cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận - Tạp chí Ngân hàng Số 6, năm 2002 Vũ Thu Giang - Chính sách tài chính Việt Nam trong quá trình hội nhập - NXB - 2000 Wendy Dobson, Pierre Jacquet - Tự do hoá tài chính trong khuôn khổ WTO: Kinh nghiệm các nước - NXB Tài chính – 2001 MỤC LỤC Các thuật ngữ và các từ viết tắt………………………………………………….. 1 Lời mở đầu 2 Chương 1. Khái quát về tự do hoá tài chính 4 1.1. Khái niệm 4 1.2. Trình tự tự do hoá tài chính 6 1.3. Vai trò của tự do hoá tài chính đối với nền kinh tế 8 1.3.1. Những lợi ích của tự do hoá tài chính 8 1.3.2. Những mặt trái của tự do hoá tài chính 12 1.4. Quá trình tự do tài chính trên thế giới 15 Chương 2. Tự do tài chính ở Việt Nam 19 2.1. Sự cần thiết tiến hành tự do hoá tài chính tại Việt Nam 19 2.2. Quá trình tự hoá tài chính ở Việt Nam 19 2.2.1. Tự do hoá lãi suất 20 2.2.2. Tự do hoá hoạt động tín dụng 25 2.2.3. Tự do hoá hoạt động của các định chế tài chính trung gian 28 2.2.4. Tự do hoá thị trường chứng khoán 32 2.2.5. Tự do hoá thị trường dịch vụ tài chính ( bảo hiểm, kiểm toán...) 34 2.2.6. Tự hoá thị trường ngoại hối 37 Chương 3. Một số quan điểm cơ bản và định hướng giải pháp thực hiện tự do hoá tài chính ở Việt Nam trong thời gian tới 39 3.1. Bối cảnh kinh tế- tài chính ở trong và ngoài nước 39 3.1.1. Bối cảnh trong nước 39 3.1.2. Bối cảnh ngoài nước 40 3.2. Một số quan điểm cơ bản về tự do hoá tài chính 41 3.2.1. Tự do hoá tài chính phải tiến hành theo lộ trình, bước đi chủ động 42 3.2.2. Tự do hoá tài chính phải được coi là phương tiện, là khâu đột phá 42 3.2.3. Tự do hoá tài chính phải nằm trong sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ 43 3.3. Định hướng giải pháp chính sách tự do hoá tài chính ở Việt Nam trong các năm tới 43 3.3.1. Định hướng tự do hoá lãi suất 44 3.3.2. Định hướng tự do hoá hoạt động tín dụng 46 3.3.3. Định hướng tự do hoá hoạt động ngoại hối 48 3.3.4. Vấn đề chuyển đổi VND trên tài khoản vãng lai và tài khoản vốn 51 3.3.5. Định hướng tự do hoá hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính 54 3.4. Một số điều kiện đảm bảo cho việc tự do hoá tài chính có hiệu quả 57 3.4.1. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế 57 3.4.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, đầy đủ và minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế 58 3.4.3. Xây dựng và thị trường chứng khoán 58 3.4.4. Thiết lập cơ chế giám sát tài chính đối với nền kinh tế 58 Kết luận 60 Tài liệu tham khảo 61

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0367.doc
Tài liệu liên quan