Khóa luận Tìm hiểu về lễ hội chùa Đọi

MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I 5 ĐỌI SƠN VÀ DI TÍCH CHÙA ĐỌI 5 I. ĐỌI SƠN 5 1. Vài nét về Hà Nam 5 2. Đọi Sơn – một danh lam thắng cảnh trấn Nam Sơn. 7 II. DI TÍCH CHÙA ĐỌI 19 1. Vị thế ngôi chùa Long Đọi Sơn. 19 2. Lịch sử chùa Long Đọi Sơn 20 3.Kiến trúc và quy mô của chùa Long Đọi Sơn. 23 4. Những di tích và di vật quý ở chùa Long Đọi Sơn. 25 5. Những nhân vật được thờ tự trong chùa Long Đọi Sơn. 30 CHƯƠNG II 34 LỄ HỘI CHÙA ĐỌI 34 I. CHUẨN BỊ LỄ HỘI 34 II. DIỄN BIẾN LỄ HỘI CHÙA ĐỌI 36 1. Phần lễ 36 2. Phần hội 46 CHƯƠNG III 54 LỄ HỘI CHÙA ĐỌI ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ NƠI ĐÂY 54 I. LỄ HỘI CHÙA ĐỌI THỂ HIỆN TƯ TƯỞNG UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT 55 II. LỄ HỘI CHÙA ĐỌI NHẰM THỎA MÃN NHU CẦU VUI CHOI GIẢI TRÍ TRONG NHÂN DÂN 57 III. LỄ HỘI CHÙA ĐỌI NHẰM THỎA MÃN NHU CẦU GIAO LƯU TÌNH CẢM GIỮA NHỮNG CON NGƯỜI, ĐẶC BIỆT LÀ TÌNH CẢM LỨA ĐÔI 59 IV. LỄ HỘI CHÙA ĐỌI NHẰM THỎA MÃN NHU CẦU SINH HOẠT TÂM LINH CỦA CƯ DÂN TRONG VÙNG 61 V. LỄ HỘI CHÙA ĐỌI VỚI ĐỜI SỐNG KINH TẾ CỦA NHÂN DÂN ĐỌI SƠN 65 VI. LỄ HỘI LÀ NƠI THỂ HIỆN TÀI NĂNG CỦA CON NGƯỜI 66 VII. LỄ HỘI CHÙA ĐỌI GÓP PHẦN CỦNG CỐ KHỐI ĐOÀN KẾT CỘNG ĐỒNG 67 VIII. LỄ HỘI CHÙA ĐỌI LÀ BIỂU HIỆN CỦA VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG HÀ NAM 71 KẾT LUẬN 75 TÀI LIỆU THAM KHẢO 78 PHỤ LỤC. 82 MỤC LỤC 120

doc122 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2447 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu về lễ hội chùa Đọi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, cứu tạo hóa chi u cơ. Vận trí biên thông, hiển mưu xung tắc. Tinh ngoại phương chi âm hưởng, dịch chư kĩ chi yếu đoan.Tác diệu vũ chi tuyệt luân, thị xương kì chi đồng lạc. Phục chế giáng vân tiên tử, nhi ca thanh liệu lượng, tán triết hậu chi nguyên công, xuất liên bảo vụ nhi nhược chất biên thiên, khánh thâm nhân chi mĩ hoá. Tư tắc bệ hạ chi diệu toán dã. Đức đồng cao hậu tắc ngũ vị chiếu phù, huệ cập phi tiềm, tắc vạn linh tiến chỉ. Thần long nhi cửu, quang phụ ư bảo điện quỳnh đan, tuyết tượng nhất thiên, hộ trình ư dao trì cấm ngự. Chương đai bảo chi khả cửu, phù thần hỗ chi ưu long. Cố lâm hà kì tư, thiên chiêu linh trạng. Phục hiện thần tượng nhất đầu. Hình chất nhi khôi ngô dị đẳng, tị ngạch nhi diểu hiển thần quang. Nghiệm văn thái nhi thanh tịnh hữu trừ, bẩm thông minh chi chiếu chương vô ngoại. Ngự hiệu viết: “ Siêu quần thần tượng” Ưu đàm biền phương, xá lị ngọc hiện. Thảo mộc hiệu chỉ, thần vật thư quang. Yết tứ mĩ vô cúng, thị thuỳ hồng hữu khánh. Linh thảo lưỡng hiện, hạo lộc trục lăn. Tố chương độc lai, huyền thư song chí. Chiêu trường thừa thượng đế chi mệnh, khế vĩnh bảo mấn thiên chi hưu. Phận củ trình nghiên, biền biền hiển lệ. Quy ngũ sắc nhi thiên điểm, liên lưỡng kính nhi nhất hình. Trạch cập yên tuyến, vật phương tiến thuỵ cảm lê manh chi ninh bật, chiêu xã tắc chi ích long. Nguyệt trùng luân ư tằng tiêu, kim thái phát ư u giản. Minh chiếu lâm ư hữu tiệt, chương tể đoá ư vô ngân. Cố thiên tượng hiện tường, u nguyên tiến chỉ, tử tân cô cán, phồn trưởng linh miêu, mâu chúng quốc dĩ vệ trung bang, loại phổ thiên nhi phù nghuyên thủ. Thần quang cửu thập, tiết giới ngũ dương. Thử biến sương mao, tùng sinh yển cái , nghĩ hạc sào nhi tiến dị, kì ngọc thố di chiêu phù. Hiệp hoàn hải chi yến thanh, khí triệu dân di tập mục. Quỳnh cư bạch tước nhi lũ tập, tố duật ngọc long nhi thuỷ trình, thư khiết tịnh chi dung nghi, hiển duy tinh duy nhất, cách chân thường chi cựu chất hiệu khắc khoan khắc nhân. Chiêu dao luân tinh bạch kí sinh, cựu nhu mao tinh vinh ngưu hiện. Quần nhạn tập nhi quan quang suất hạ, mãnh hổ hoạt nhi hiển thế uý uy. Phượng tử thành song, thuỵ tuyết thâm tích. Phiêu tố anh chi doanh xích, chưng nhất thế chi tam đăng. Xước dị trạng chi cửu bao, trước thành hàng chi quần lộ. Bạch từ ô chi cạnh chí, hao hộc dự dĩ tranh tường, “Chương” phản bô chi tinh cần, cảm chí hiếu chi thuần hậu. Niệm kinh chung trục nhi phi sất, chúc thánh vạn tuế nhi định thường. Tần lang hàm châu, dương chi sái ngọc. Nhiễu cửu long chi bảo, trinh đoaqtj hảo châu, trường phồn kì chi tư tường siêu dị mẫu. Ý phù thừa thiên địa hồng hưu, thiệu tổ tông cách mệnh, ngũ thập dư niên nhi thống hoá, bách thiên chư hạ dĩ khâm uy. Vũ dương hợp thời, tinh thần nhuận độ, thượng niệm nông vi thủy bản, chính tất thượng tư, tuy tuế tuế cung hành, ý tư tư bất đãi. Thời tường hội đại khánh cửu niên hạ ngũ nguyệt nhật, giá phi tiên chi phượng liễn, dạng diệu bảo chi long chu. Nhật lệ ba bình, triều hồi yên liễm. Lịch Hà - lô chi trường phái, kiến Long-lĩnh chi lâm nhai. Tuy tủng thế lân tuân, đáo dính đoan binh thản. Sư nghĩ sưu ngạn dĩ duy lãm chiếu hộ giá chi quần liêu. Nhị vị chi viết: “Trẫm dĩ tư sơn nhi kinh doanh phạn phúc khả đắc chi hồ?” Tả hữu tương suất nhi tâu viết: “ Văn hương lão sở truyền tư sơn thường dĩ xuân phẩm đán đàm, hằng vũ dĩ nhuệ kiềm lê. Nghi khả thi công, sùng thành thiện quả” Kiến thỉnh thự kì sơn viết Long Đội. Thánh tinh doãn khả, nãi mệnh nhật giả, dĩ biện phương hướng. Diện đối Kinh giang, phong lĩnh nhi trường thư bích luyện, bối phân Điệp tụ, vũ tiêu nhi nùng đoạn ích quang. Hữu khống bình nguyên, vọng kièn hưng chi cổ tiệm, tả diên lưu khoái, hoàn Hán thuỷ dĩ triều tông, tái chiếu công thâu, trung phân thắng mặc. Thi tài dĩ minh công đức, cố dân tư kiệt lực lâm hành, vận tài dĩ tận thần kì, cưu công xảo thành thành quần tượng. Lũ trinh Mâu nhi tác đẩu, trác thuý Vũ dĩ vi doanh. Dũng sốc hán chi thập tam tằng, ,khải thừa phong chi thập tứ hộ. Bích thuyên long quật, giác quải kinh linh, thượng tầng giam xá lị lang hàm, trữ phóng tường quang ư thịnh thế, tuyệt đính trí bổng bàn tiên khách, trường thừa ngọc lộ ư tình thiên. hạ tầng phân bát tướng khôi ngô , ủng lập tắc thần nhân trượng kiếm. Kì trung toạ Đà Bảo Như Lai chi thuỵ tướng dã, hoằng tâm nguyện lực, minh dẫn toàn thân. Chính liên kệ nhi tất sậu linh uy, dữ già văn nhi bán phân dao toạ. Quải châu phạn chi hoảng diệu, huyền bảo cái chi lung linh, giai đình thăng giáng nhi hữu sai, lang vũ tả hữu nhi song dực. Thứ bỉ, tả kiến tứ giác nhi trấn địa, phụ bát tướng dĩ triều thiên. Dương khí khái ư danh sơn, bá thánh công ư hậu duệ. Hữu phạn phuơng kiều khám thất, trữ dĩ tân đầu hoà thượng phong vu Ma lê sơn thụ chúc luỹ ư Như Lai. Vị chứng sinh nhi chứng phúc. Hạ cấp, tiền cấu lăng-hán các, huyền Thú-Sơn chi đỉnh khí, mi bích hải chi kình chuỳ. Quá thời vận dật ư thiên trình. Văn xứ kiếm đình ư khổ thú. Hoàn viên dung dĩ nghiêm hộ, trữ hiên vũ dĩ phô trang. Tạo kiều quang khải kì thông cù, nghệ tùng thành hằnh lưỡng giới. Kiệt tinh thành dĩ sùng diệu quả, hy hiện lịch số di trường tân, cùng quỷ chí dĩ điệp nguy tằng, kí ích duệ linh chí di viễn cố ngự đề viết: Sùng Thiện Diên Linh tháp. Kỳ tháp kinh thuỷ ư hội tường Đại khánh cửu niên chi hạ, tất công ư Thiên Phù Duệ Vũ nhị niên chi thu. Nhân thời khích nhi hưng doanh, đãi phong đăng nhi thiết lập. Lịch ư tam canh tứ nẫm nhi hậu hoàn yên. Cập khánh thành dã, sắc phụng thường dĩ chỉnh giá, cảm phong bá dĩ thanh trần. Trầm đàn vụ chức ư khê sơn, chàng phan hà lạn ư nhai đạo. Cổ trung huyên phí, nạo khánh banh oanh. Tiền đạo tam bảo vân xa, hậu triển nhất nhân kim lộ. Khuynh lục cung chu thuý, lai vạn quốc kì đồng. Hoa vũ tiền hoành. Thức đài trung xưởng. Hội phương bào chi khiết hạnh diễn giác đế chi chân thuyên. Anh thánh ngưng lưu, trữ kệ chung nhị kiều khử thành tảng, tiên cơ liễm duệ, thính trục tận nhi hiến vũ cung tô. Tụng tuyết lạp chi hương trai, ốc sung cơ lữ, tán tuyền lưu chi viên bảo, chu chuẩn cùng manh. U hiển hàm trăn, thiên long tất tháo. Dĩ tối thượng công lực, vô biên phúc điền, ích tán hoàng cương, đẳng viên phương nhi cộng vĩnh, tương kì bảo vận, dữ nhật nguyệt nhi trường thanh. Tảo đản nguyên thần, vĩnh ưng lịch số. Kì bản chi bách thế, kí xã tắc ư linh. Thảo yển đa phương, quỳ khuynh vạn quốc. Thần dân ái đới, tổ khảo khuông tì. Thần đạo minh phù thiên nhân hàm tán. Thái tổ, Thái tông, Thánh tông hoàng đế, kí đinh hoàn danh, đạp thăng tiêu hán, bằng tư thăng lợi vĩnh nhiếp kim liên, Hoàng tỉ Phù Thánh Linh Nhân hoàng hậu, Yến cư nhân thế, cao ngự yên hà, mộc thử lương nhân siêu sinh tịnh độ. Đại phàm chư hầu vương cung phi đẳng , tinh lệ u trinh nhiếp hoà nội trị. Di triển nhu gia chi tháo, ích chương nhục thận chi thành. Trữ giáng tiền tinh hiệp suy đồng mạt nguyên lê dân phú thứ, hoàn vũ túc thanh. Văn quỹ đồng nghi, hoa di cộng quán. Ngũ hành thuận tự, bách cốc phong đăng. Tái tuyệt yên trần, quốc vô tai lệ. Nhi thần thiểm liệt nhạn tự, lạm xí nho lâm. Kỉ sự chi thành, thực thánh chi sảo. Khuynh thiên cắng địa chi công. Tuy hữu Uyên Vân chi tài, ban mã chi học, diệc nan tự vạn chi nhất yên. kí hiệu niệm, quỳ quắc chi tiêm huỷ, nhật nguyệt chi chiếu lâm, thiên tải nhất thì, khánh ngu hà mậu. Cương bỉnh quân hào, cảm thân tự thuật. Minh viết: Chí diêu chí tịch Cương tự lập thanh Hy di tất tại Đạm bạc mị đãi Vô tương vô hình Yếm xử nhân hoàn Bạch hồng đằng diệu Song thụ phất y Tiên thiên địa sinh Niết nhi bất tri Ma nhi bất lận Thuần tuý duy tinh Việt hữu kim tiên Giáng tích trúc càn Thập hiệu câu bị Tứ hoẵng quảng phu Lục đồ tề tu Cứu tư nguyên vị Giác trục phù nguỵ Thiết thanh tịnh giáo Đạo quy chân tính Tỉ tĩnh như sơn Tam giới chiêm ngưỡng Thập phương hồi hướng Sư phụng từ nhan Chửng tế kí hành Phù âu băng tán Tự tư dĩ giáng Tuế nguyệt diên trường Vô bất sùng phụng Đãi ngã triết hậu Truyền hộ vưu quý Kim dung hối cảnh Lan cao nhuận thăn Chiên đàn tác tân Hoả hoả yên thông Đồ tì hoán hổ Xá lị ngưng thành Doanh bàn dật mãnh Hoặc hiển cửu thái Hoa hao huỳnh hoàng Âm giớ minh trung Hoàn vũ thiên cung Tứ chủng quốc vương Thời giai sậu tập Cạnh phấn hùng cường Các tự danh tướng Kim hàm ngũ trùng Long luân bình bí Sùng tháp nghiêm trí Bức tấu triều lâu Vân trăn sơn đính Trừng tâm oánh tịnh Nghê đài cao trắc Triều âm tán thân Phỏng tư tiền trí Hướng Long Đội Sơn Điệp thứu hùng kì Cao suất trùng vân Thượng tằng thao tàng Trữ dũng thần quang Tác thụy minh quân Sơn thuỷ thanh tú Yên hà nhân uân Quýnh cách trần phân Ngự đề gia hiệu “ Sùng Thiện Diên Linh” Thọ kì di quýnh Cốc đán giai thần Phúc trường viên mãn Phủ thành tương khánh Tập hội thiên nhân Chung cổ huyên điền Trâm đàn phân phù Cẩm tú tranh xuân Thừa tư phúc tuệ Linh ngự câu hệ Hàm thoát u truân Thần thiểm kỷ sự Tài phi ngũ xa Đế công triêu trứ Tổng khai hộ dữ Tứ hải hội đồng Cộng tán ngũ hoàng Thiên địa trường cửu Thiên Phù Duệ Vũ nhị niên, Tân Sửu, thất nguyệt, sơ lục nhật. Triều liệt hình bộ thượng thư binh bộ viên ngoại lang đồng chi phiên công viện chư sự, thần Nguyễn Công Bật phụng soạn. Hữu thị lang, thượng thư, công bộ viên ngoại lang đồng chi thẩm hình viện sự, thượng kinh xa đô uý, tử kim ngư Lý Bảo cung phụng sắc thư. Dịch nghĩa: Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh của vua thứ tư triều Lý đương làm chủ nước Đại Việt Bia tháp báu Sùng Thiện Diên Linh ở núi chùa Long Đội. Nhãn bia nhà vua viết bằng lối chữ phi bạch. Cái diệu thể thì huyền tịch, là một ánh linh quang không ở trong không ở ngoài, nhưng lại là khởi nguyên của năm nguyên tố. Còn cái hiện tượng thì tràn đầy, là cõi bao la, có hình thù, có thể chất nhưng lại nằm trong cái khí thái hư. Nó không có dấu hiệu để suy lường, không có bóng hình để tìm kiếm. Nó bao trùm cả đất trời rộng lớn, đâu thể dò xem. Nó hoà đồng để tinh tú huy hoàng, dễ nào tìm xét, dẫu có làm cho thêm máy của tạo hoá chuyển vần, nhưng nó vẫn nghiễm nhiên ở đó, dù có xô đẩy sự mau chậm của âm dương thì cái nòng cốt nhiệm màu vẫn ở yên trong chỗ kín sâu. Đó chẳng phải là huyền tịch hay sao? Như vậy mà muốn phân tích một cái sâu rộng về cái cơ vi màu nhiệm, muốn truy nguyên đến cái đầu tiên, muốn thâu tóm đến cái cuối cùng, há chẳng khó lắm thay! Ngẫm như họ Đại Hùng của ta, ứng vận thời trung cổ, hiển linh ở trời Tây. Người có trọn ba nghìn uy nghi, ba mươi hai tướng lạ, mười hiệu đầy đủ, trăm phúc trang nghiêm. Người cùng cứu cái tinh vi kia, và sáng tỏ cái thuần tuý nọ. Người thương cho chúng sinh vì say mê cái “thức”, người sót cho bốn loài vì lầm lẫn điều “chân”. Trong áo quên vàng mà chẳng biết, đáy hòm chứa rắn mà không hay. Do đó Người lập nên diệu giáo của bồ đề để nuôi dưỡng kẻ đói lòng đã bao thủa. Thắp ngọn đèn rực rỡ, soi đêm tối bao năm khiến cho vẻ hồn nhiên của tấm lòng phóng đãng được yên, làm cho thói bừa bãi của tính mê làm được định. Cho nên ba giới quy, mười phương hồi hướng. Phật ở trần thế bảy mươi chín năm, thiết lập tám vạn bốn nghìn giáo pháp. Có thể gọi là hình tích đã hợp với trần hoàn, tấm thân nên xa lánh nơi hư ảo. Bởi vậy, thân thể vàng dấu sắc rừng song thụ, cầu vồng trắng rực rỡ nơi tầng trời. Bông đâu la bọc lấy thần tư, dầu tử lan tẩm trên hương thể. Lòng tin hướng mộ dùng gỗ thơm mà làm củi, Phật tinh linh thông ứng dàn lửa mà tự thiêu. Khói hoả đàn vùa tắt, hạt xá lị ngưng thành. Giống như hạt châu được sinh ra từ hạt trai, như hạt móc lấp lánh trên bàn tay ngọc. Hạt thì rực rỡ năm sắc, hạt thì óng ánh chín màu. Tràn mâm đầy học, khôi tục siêu phàm. Cho nên, các bậc nhân chủ, long vương còn cõi âm gian, thiên tượng hết thảy kéo về chia nhau giác tướng. Trân trọng thì lấy hòm vàng chứa đựng, giữ gìn thì cầm gươm báu canh phòng. Họ đều tìm nơi đặt xá lị. Nhưng các nơi không nhất định ở chỗ nào. Hoặc trên đỉnh núi Hương Sơn, hoặc giữ cõi trần nhân thế, hoặc ngoài khoảng không triều dã, hoặc trong cung cấm long vương. Họ thi nhau xây chùa, cất cao vật báu. Từ xưa tới nay lưu truyền không mất. Như vật có thể nói dày công nối gót há chẳng thịnh vượng lắm sao? Kính nghĩ đức Hoàng đế bệ hạ, bậc “Thánh hiền thể đạo, thánh văn thần vũ, anh cánh dân vật, vạn chiếu linh ứng, vĩnh long nguyên hoá, thông minh quảng vận, nhân trí ý nghĩa, thuần thành minh hiếu” của triều Lý là do đất trời chung đúc, nhật nguyêth kết tinh. Cho nên điềm lành báo trước, triệu tốt mở ra. Phụ hoàng nằm mộng nước ngoài dâng voi trắng sáu ngà. Mẫu hậu có thai, gác tía phủ rồng vàng năm sắc. Đó là điềm lúc bệ hạ đầu thai vậy. Sao lành đêm hiện, sông Ngân ứng vẻ sáng trăng non, mây ttối sớm bay, bộ đỏ giãi sắc thành màu lụa trắng. Khí mừng vút thẳng trời xanh, hương lạ ngọt ngào cung cấm. Mười hai tháng hoài thai tròn cữ, tháng giêng xuân tiết sinh Người. Đó là cái điềm lúc bệ hạ ra đời Tuổi thơ mà lên ngôi đại bảo, trời đất khuông phù, trẻ dại mà thống ngự toàn khu, thần nhân giúp đỡ. Người rồng mắt phượng, trong ngọc trắng băng. Mắt trrong mà xanh trắng rõ ràng, khác con mắt hai ngươi Thuấn đế, tai đẹp mà vành tai dài rộng, chê cái tai ba lỗ của Hạ Vương. Dáng người vạm vỡ, bàn chân đầy đặn, nét mặt ôn hoà, vầng trán cao sáng sủa. Thực là anh linh của ngàn đời, vượt hẳn vẻ kì tú của trăm chúa. Đây là vẻ trang nghiêm bề ngoài của bệ hạ vậy. Ơn khắp cỏ cây muôn thú, trí nhanh gío táp mưa xa. Sách kinh nội điển tinh thông tới chỗ yếu huyền, pháp thuật ngoại quyền, thâu tóm được toàn tôn chỉ. Đúc lời đẹp như đá vàng, sáng hơn tinh đẩu, đặt tên hay cho điện tháp, chiếu dọi xưa nay. Sành phép viết để thông thần, vận bút vua đến tuyệt diệu. Thế chữ tựa rồng bay phượng múa, phép viết từ tay ngọc viết ra, hình chữ như loan liệng thước bay, thể chữ do lòng vua thể nghiệm. Khắc biển vàng để chốn Phạn cung, chạm ngọc tốt để nơi đạo quán. Tứ thơ tóm mua hoa của thợ trời, nhạc phổ hoà âm thanh của nhà Phật. Phép viết chữ thì cùng cứu đến huyền cơ, tài bắn cung thì tinh thông đến diệu thuật. Đó là Bệ hạ tinh thông sâu rộng ở tài nghệ vậy. Gặp lúc trung thu cảnh đẹp, muôn việc nghỉ ngơi. Mở lòng thành sửa soạn cỗ bàn, bày thịnh lễ dâng cúng hoàng khảo. Lại sớm tối mồng ba mới sắm sưả xe giá, cưỡi xe ngọc ra ngoài chín bệ, lên xe châu rong ruổi đường vàng, quạt lông chỉ che ở hai bên, kiệu nạm bạc vây quanh bốn phía. Lọng vàng rợp trời, cờ màu loé nắng như sao năng rậm liễu như sao chuyển đường hoa. Hướng trường lô sông biếc, ngự điện báu linh quang, nghìn thuyền như chớp giật giữa dòng, muôn tróng như sấm vang dậy nước. Dưới hiên ngọc thiết hội đồng hương bá, trong thềm đan tâu chương biểu sứ tiên. Thả rùa vàng đội ba ngọn núi, trên mặt sáng rập rờn, phơi mai văn để lộ bốn chân dưới dòng sông lững lờ. Liếc mắt nhìn bờ, hé môi phun bến. Ngửa trong giải vũ nhà vua, cúi xét bầu trời lồng lộng. Trông vách dựng cheo leo, dạo nhạc thiền réo rắt. Cửa động mở ra, thần tiên xuất hiện đều là dáng điệu thiên cung, há phải phong tư trần thế. Vươn tay nhỏ dâng khúc hồi phong, nhíu mày thuý ngợi ca vận tốt. Chim quý từng đàn ca múa, thú lành thành đôi xênh xang. Tới lúc áng vàng xế bóng, xe báu sắp về đến giữa đường bằng phẳng ở ngoài quảng thiên. Hướng thẳng đài cao về lục địa, quay lưng rùa lớn đội ba non. Ngắm bàn son mà vẫy đầu, kéo đuôi an phận. Chim líu lô trên mây, hổ hầm hầm xuống núi. Trổ hết oai hùm, cắn vồ thú nhỏ. Gặp lúc thượng lâm đệ tử, cầm lông trĩ cán son. Thiết đất thanh xô đến trước mặt vua, đắp bãi rộng làm nơi săn hổ, kéo cung đuổi bắn, rút kiếm dạo quanh. Kẻ trổ oai trong chốc lát, người đón đánh lúc bấy giờ. Lân quốc mến nên dắt già bế trẻ, chư hầu vui mà vượt núi băng tường. Chăm chú xem xét chính giáo, ngóng chờ mong thấy mặt vua. Khắp chốn trang hoàng gấm vóc, hàng năm vui vẻ ba ngày. Đưa đời người lên cõi hồ thiên, đặt dân chung vào nơi lạc quốc. Đó là việc nhà vua suy xét mà chế tạo rùa vàng vậy. Làm sáng tỏ sự diệu kì của mưu thần, nên chế tạo sự tinh kì của thuyền ngự. Theo hình đặt hạm đội hùng tráng, lập cách dựng hàng nghìn thuyền tú lệ. Đặt lầu gác ngất trời, dựng thềm hiên cao vút. Trong đặt toà thêu cao vọi để nhà vua rộng tầm mắt nhìn xa, cạnh xem hàng gấm rõ ràng cho thể nữ được sẵn sàng hầu cận. Dốc châu báu trang hoàng, đủ ba cung nhà cửa. Giữa dòng buổi sáng lênh đênh ngỡ hải thần hà hơi chặn sóng. Góc bến ban chiều dừng lại, tưởng rùa vàng đội núi chọc trời. Đó là tài chế tạo khéo léo và tân kì của bệ hạ vậy. Rộng vận thần công, cả suy thánh đoán. Sửa sang thắng sự, chăm tối lương duyên. Dựng đài cao quảng chiếu, hướng sân trước đoan môn. Trong nêu một cột, ngoài đặt bẩy tầng. Uốn hình cung nâng lấy sen vàng, may lồng nhiễu che cho ngọn lạp. Dấu cơ vi ở dưới đất, như bánh xe xoay chuyển. Rực sáng ở giữa trời như bóng ác chói chang. Lại có bảo thánh rực rỡ trang nghiêm, điện vàng viện báu. Do ý thánh dựng lên đặt tượng vàng hai dãy. Dáng tỏ linh văn, hình phô kì lệ. Lại có hai toà lầu trong treo chuông vàng, khắp chú tiểu mình mặc áo nâu sòng, vặn máy ngầm giơ vô chuông lên đánh. Nghe vỗ bao gươm mà dứng nghiêm quay mặt, nhìn thấy thánh minh mà khom cật cúi đầu. Những việc này đều nảy ra từ ý nhà vua, muốn sao được vậy. Lại có đài cao thất bảo xếp thành một dãy, chính giữa có một ngọn núi vàng. Đặt tượng đẹp Như Lai Đa Bảo bày chân hình xe phép mấy tầng. Mái hiên lấp lánh ánh mặt trời buổi sáng, màu ngói huy hoàng, vẻ mây biếc ban chiều. Thứ đến hai toà bạch ngân, bên tả đặt chân đức Phật A-Di-Đà, bên trái để xá lị của sắc thân màu nhiệm. Chiều cao mở ra thế khoẻ, vẻ đẹp pho ra mái cong. Long lanh ngỡ tuyết trắng đang tan, rực rỡ trăng thu vằng vặc.Thứ nữa, có hai toà Điển Văn bên tả đạt từ nhan của Chính giác, bên hữu đặt diêu tướng của Bồ Đề. Đã hoàn thành giác lớn, lại xây dựng lầu cao. Nóc che ngói quý, vách chạm hình rồng. Lại thêm nữa có hai toà ngà voi, bên tả chạm hình dung Phật Cam Lồ, bên hữu đặt diệu tướng Phật Bảo Thắng, gọt màu chất quý, cao dựng cột hiên. Các cạnh nạp ngọc quý, các khen khám sừng tê. Lại soạn kĩ những lời ghi đẹp đẽ, khắc vào bên cạnh toà sen. Mở tấm lòng trong trắng, soi sáng mãi đời sau. Lại toả chín phương bằng năm sắc, khắc bốn cột bằng song huyền. Hai bên nghìn đèn nhấp nháy, bốn mặt rực rỡ vàng son. Có thể nói là: hơn xa chế độ xưa nay, vượt hẳn sinh thành tạo hoá. Do hoà vui của thiên hạ, đêm trở thành ngày, thoả tân mục của thế gian. Già nay trẻ lại. Đó là công lao khi xây dựng thắng duyên của bệ hạ vậy. Tôn sùng đạo Phật, hâm mộ thắng nhân. Mở chùa Diên Hựu tại vườn Tây, dấu vết theo quy mô thủa trước, lo toan do thánh ý ngày nay. Đào ao thơm Linh Chiểu, giữa ao trồi lên một cột đá, trên cột có một đoá sen nghìn cánh xoè ra. Trên hoa dựng ngôi đền đỏ sẫm, trong đền đặt pho tượng sắc vàng, ngoài ao có hành lang bao bọc. Ngoài hành lang lại đào ao Bích Trì, bắc cầu cong để đi lại. Ở sân trước cầu, hai bên tả hữu xây tháp báu lưu li để mồng một hàng tháng, để mùa xuân hàng năm nhà vua thân ngồi xe ngọc đến mở tiệc chay. Hương hoa bày hình thức kì an, bồn chậu đặt lễ nghi tắm Phật. Trang sức tướng tinh thành cho năm chúng, hoặc hở vai tiến thoái nhịp nhàng, tạo đội ngũ thiên vương ở bốn phương, nâng khí cụ bồi hồi nhảy múa. Vì vậy huyền đạo tinh thông, đều cùng phù hộ. Đó là bệ hạ dựng chùa thờ Phật để cầu phúc thọ. Trên vừa trị yên trong nước,duới đương giúp đỡ lân bang. Bỗng lính thú nơi biên khu trở mặt, gây lên hiềm khích dở dang. Vội vàng chống địch, làm nhụt oai thù. Quân châu Ung muôn ức tan tành như mây mù gió cuốn, quân Như Nguyệt trăm vàn đổ vỡ như nắng gặp băng tan. Tự thi hành do viên tướng ngoài biên, đâu có phải lòng vua quyết định. Đưa hoàng cực nên cõi thanh bình, dẫn sinh dân đến nơi giàu có. Quạt gió nhân giáo hoá nước nhà, ra ơn huệ ban cho khắp chốn. Do đó Hoàn Vương Xạ Chế lìa cung thất đến cửa khuyết xưng thần, Quốc chủ La Vu bỏ đất nước tới đan đình quỳ phục. Dốc ý kính yêu bệ hạ, nghiêng lòng hướng tới mặt trời. Gần đây bọn Mán Sa Ma cậy có non sông hiểm trở, sinh lòng lang sói, không theo giáo hoá của triều dình. Vua ta nổi giận, xe giá lên đường. Mãnh tướng như mây theo, mưu thần như mưa họp. Dàn quân sĩ ở đồng hoang, đánh úp bọn dân hung hãn. Bọn tù trưởng bị bắt, lũ đầu sỏ cầm tù. Ngoài ra thì máu nhuốm cỏ hoang, thây phơi rừng suối. Chả hùm thiêng bắt chuột, nào có khó gì. Lăn đá to ép trứng sao mà dễ thế. Đó là lệ thường mỗi khi bệ hạ dùng võ vậy. Nhân dân hoà hợp, trăm họ yên vui, mùa xuân ra mắt, dâng ngọc kính ngà, mùa thu vào chầu, trình bày chức vị. Họp các nước chư hầu mà yến thưởng, xây bảo đai ba cấp cho quần tiên. Lợp ngói bạc sáng chói trời xanh, đặt toà sen phô bày tướng báu. Trên nóc phượng hoàng đứng thẳng, xung quanh rồng lớn đua vờn. Lọng trang sức thất trân, đai trang hoàng bách bảo. Đó là: Thềm trên cao nhất, thánh thượng ngự chơi, bậc giữa tầm thường, cung tần chầu chực. Nhạc quan đứng sắp dưới sân đều cùng nhảy múa. Ráng sức thiên tài làm nên điệu khúc, vỗ về phiên thuộc xa tới ấp phong. Lưng trời tiếng át mây bay, hoà sáo vang thêm ân sáng. Đó là đức cao nhất về sửa sang ân giáo của bệ hạ. Làm chủ của trời đất, xét huyền cơ của tạo hoá. Vận trí biến thông, hiển mưu đầy khắp. Tinh tường âm hưởng nước ngoài, phiên dịch yếu đoan mọi nghệ. Chế ra khúc múa tuyệt vời, tỏ rõ điềm vui đời thịnh. Lại chế khúc “tiên tửu xuống mây” véo von tiếng hát ca ngợi công lớn tiền vương và khúc “sao băng rời chỗ” uyển chuyển dáng hình, chúc tụng ơn giáo hoá. Đó là sự lo toan nhiệm màu của bệ hạ vậy. Đức cùng trời đất, nên năm sao chói sáng, ơn tới cá chim thì muôn vật dâng điềm. Mười chín rồng thần quang phục thềm quỳnh điện báu, một nghìn con voi trắng hộ trì vườn cấm ao tiên. Tỏ rõ sự dài lâu của ngôi báu, hợp phù ưu thịnh của phúc lành. Cho nên, trời hiện điềm thiêng, rừng phô vật lạ. Nên voi thần xuất hiện, hình thù to đẹp, trán hiệu thần quang. Nghiệm văn thái sạch trong có bậc, bành thông minh chiếu gọi khôn cùng. Vua đặt cho tên “Thần tượng siêu quần” ưu đàm đưa thơm, xá lị hiện ngọc, cây cỏ dâng phúc, thần báo vật điềm. Nêu nên sự ban phúc khôn cùng, chỉ rõ sự truyền ngôi vô hạn, cỏ thơm mọc hai đợt, hươu trắng đến sáu lần. Nai tuyết lại một con, hoẵng đen về một cặp. Thừa mệnh thượng đế, giữ lâu phúc trời. Dồn dập tỏ điềm hay, song song phô vẻ lạ. Rùa nghìn chấm năm màu, sen hai gương một nhánh. ơn thấm suốt nguồn, vật dâng điềm lạ. Cảm ứng sự yên tĩnh của muôn dân, gợi bao sự hưng vong của xã tắc. Nên: Vành trăng tán ở tầng trời, ánh vàng rọi từ khe tối, tỏ rõ sự sáng soi là hữu hạn, nói lên sự tế đoán là vô cùng. Điềm trời phúc báo, khe tốt dâng điềm. Một cây cay tía, nảy nắm mầm thiêng. Giống như các nước bảo vệ triều đình, cũng tự khắp trời phù trì nguyên thuỷ. Thời qua chín chục, tiết đến mồng năm. Chuột sinh lông trắng, thông biến lọng nghiêng. Giống như tổ hạc mà dâng điềm lạ, coi ra Hằng Nga để tỏ phúc lành. Hợp với sức thanh bình của bốn bể, hoà cùng sự yên ấm của muôn dân, sẻ trắng, cửa vàng tụ tập, rồng xanh cò trắng dâng trình. Giãi tỏ dung nghi trong sạch, nổi lên “duy nhất duy tinh” đổi thay chất cũ chân thường , thay được “hay nhân hay thứ”. Triệu dao chìm ngựa ký sinh ra, móng mền nhẹ, trâu đen xuất hiện. Đàn nhạn hợp mà phương xa thần phục, mãnh hổ vờn mà khắp chốn sợ oai. Bươm bướm thành đôi, tuyết lành đầy đọng. Mưa tuyết dạt bay đầy thước, tượng trưng thời đại thái bình. Mượt mà như lông phượng khác thường rực rỡ như đàn có thành dãy. Đàn quạ trắng đua bay, đàn ngỗng trời tranh liệng. Tỏ rõ sự tinh cần báo đáp, cảm thông lòng huần hậu thảo hiền. Đọc Phật kinh trọn gói mà không ai sánh kịp, chúc thánh thượng muôn năm mà quy định lệ thường. Cau quả ngậm châu, cành dương dưới ngọc. Điềm lành quanh quất chốn cửu long, át xa châu báu, triệu tốt sinh sôi đầy các ngả, vượt tới phương xa. Ôi ! Vâng chịu phúc dày trời đất, kết thừa mệnh lớn tổ tông, hơn hai mươi năm trị nước, hàng trăm nghìn nước sợ oai. Mưa nắng hợp thời, trăng sao đúng độ. Người thường nghĩ: Việc làm ruộng là căn bản trước tiên nên chính sự ắt nhờ vào đó. Tuy hàng năm vẫn phải thân hành, nhưng ý chí chưa từng trễ nải. Ngày tháng năm muàg hạ, niên hiệu Hội Trường Đại Khánh thứ chín ( 1118), nhà vua cữa xe ngựa phi tiên, đáp thuyền rộng diệu bảo. Nắng đẹp sóng im, triều lui mây tạnh. Qua dòng Hà Lô, thấy bến Long Lĩnh. Tuy thế núi chênh vênh nhưng đỉnh vun bằng phẳng. Vua bèn truyền lệnh buộc dây thuyền, xuống chiếu cho các quan hộ giá mà bảo họ rằng: Trẫm muốn dựng một ngôi chùa ở đỉnh núi này có được chăng? Tả hữu bước ra tâu rằng: “ Chúng thần nghe các cụ già trong làng kể lại. ở núi này cứ đến mùa xuân thì trời thường mưa để nhuần thấm cho muôn dân. Vậy bệ hạ nên dựng chùa để chóng thành thiện quả và xin bêh hạ đặt tên núi này là Long Đội”. Nhà vua chuẩn ý, bèn hạ lệnh cho viên quan coi việc bói toán, xác định phương hướng. Mặt chùa trong ra sông Kinh, gió lặng mặt sông như lụa biếc dải, lưng chùa quay về núi Điệp, mưa tan dáng núi như gấm xanh thêm sóng. Bên hữu khống chế bình nguyên trông tới luỹ Càn Hưng, bên tả men theo sông nhỏ quanh Hán Thuỷ để ra khơi. Xuống chiếu cho thợ thuyền năng dây nẩy mực. Thi của cải làm sáng thêm công đức, khiến quan coi rừng gắng sức để giảm bớt dân tư. Chuyển gỗ rừng hết sức thần kì, sai thợ mộc giỏi trổ tài để làm việc khéo léo. Lấy đá Mân làm đấu, dùng đá Vũ dựng hiên. Xây mười ba tầng trọc chời, bốn mươi cửa hứng gió. Vách trạm rồng ổ, xà treo chuông đồng. Tầng trên đặt hộp vàng Xá Lị, toả tường quang cho đời thịnh sau này. Đỉnh nóc xây tiên khách bưng mâm hứng móc ngọc dưới bầu trời tạnh ráo. Tầng dưới chia tám tướng khôi ngô đứng hộ vệ có thần nhân cầm kiếm. Chính giữa đặt tượng Đa Bảo Như Lai sức thề nguyện sâu rộng dù hiến cả thân mình. Nghe kệ sen giúp đỡ oai thiêng, lắng kinh Phật chia đôi toà báu. Treo phướn vàng rực rỡ, cắm lọng tía long lanh. Sân thêm có bậc, lang vũ hai bên. Rồi bên tả chùa dựng cung tứ gtiác, ngậm hai mân trấn đất, đội tám tướng chầu trời. Nêu cao khí tượng cho danh sơn, truyền rộng thánh sơn cho hậu thế. Bên hữu chùa dựng nhà khám nhọn vuông, trong đặt Tân đầu hoà thượng là người bị Phật đày ra Ma Lệ Sơn. Nhận lời răn của Phật Như Lai vì chúng sinh mà chứng phúc. Tầng dưới xây đài Lăng Hán, đỉnh treo khí Thú Sơn, buộc chày kình Bích Hải. Khi đánh thì âm vang cả tầng trời, khi nghe thì lưỡi kiếm thôi vung nơi bể khổ. Xây tầng cao để ngăn giữ, dựng giải vũ để phô trương. Bắc cầu mở rộng đường thông, trồng bách thành hàng hai dãy. Kết tinh thành tôn sùng diệu quả mong cho lịch số lâu dài. Hết kiểu lạ xây dựng lầu cao, kì vọng tuổi vua thọ mãi. Cho nên nhà vua đặt tên tháp ấy là Sùng Thiện Diên Linh. Tháp này xây dựng từ niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (1118) đến mùa thu niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ (1121) thì hoàn thành. Nhân lúc rảnh mà dựng xây, gặp được mùa mà thiết lập. Trải qua ba vụ cầy, bốn mùa lúa chín sau mới hoàn thành. Đến khi làm lễ khánh thành, sai phụng thường chỉnh đốn kiệu xe khiến cho phong bá quét sạch bụi bặm, khói trầm đàn như mây tỏ khắp sơn khê, bóng cờ phướn như dáng phô bầy khắp ngả. Chuông trống vang ầm, khánh tiêu inh ỏi. Phía trước xe mây Tam Bảo, đằng sau kiệu báu Thánh Hoàng. Dốc nghiêng xanh tía sáu cung, về hết già trẻ muôn nước. Điện hoa vắt ngang phái trước, chùa Phật mở rộng bên trong. Hội tăng ni trai khiết, diễn gác đế chân kinh. Hoàng đế nghiêm trang đọc kệ, đoạn cúi đàu tạ lễ, cung nga khép nép nghe kinh xong dâng sữa múa ca. Thổi cơm chay trắng muốt, thiết khách đói qua đường, phát tiền quý ùn ùn cấp cho dân nghèo khắp chốn. U hiển đều về, thiên long cùng đến đem lực công cùng đến, phúc đức vô lường. Ca ngợi hoàng cương vũng bền như trời đất, cầu mong bảo vận vằng vặc như trăng sao. Sớm sinh thái tử, nối mãi mệnh trời. Mong gốc mành ngàn thủa, cầu xã tắc muôn năm. Cỏ lướt nhiều phương, quỳ nghiêng muôn nước, thần nhân yêu mến, tổ khảo khuông phù, thần đạo giúp ngầm, trời người nâng đỡ. Thái Tổ, Thái Tông và Thánh Tông hoàng đế định xong bốn bể, nhẹ gót lên tiên, nhờ quả phúc này mà ngụ mãi toà sen, Hoàng tỷ Phù Thánh Linh Nhân chán cõi hoàn trần, ngự chơi mây khói, gội lương nhân này mà siêu sinh tịnh độ. Nói chung là các vương phi của các vua chư hầu, là những người hiền thục u trinh điều hoà nội trị. Nâng thêm tiết tháo hiền hoà, tỏ rõ tấm lòng thục thuận. Đợi sao trời xuống, cùng thổi luật đồng. Sau cùng xin nguyện nhân dân giàu có, bốn biển an ninh, thống nhất sơn hà, hoa di thông suốt. Năm hành tuần tự, thóc lúa trĩu bông. Biên cương im khói lửa, trong nước bặt tai ương. Thần, thẹn xem hàng nhạc, lam dự rừng nho, ghi chép sự việc hoàn thành nhờ bởi thánh minh khéo léo. Còn cái công huân nghiêng trời lệch đất của bệ hạ thì dẫu có tài như Uyên, Vân học rộng như Ban cũng khó lòng ghi lại được muôn một vậy. Lại nghĩ phụ rau quỳ, sau hoắc nhỏ nhoi, nhờ dược ánh mặt trời, mặt trăng soi tưới. Nghìn năm một thủa, dốc hết lòng trung. Gượng cầm ngòi bút đánh bạo trình bày. Minh rằng: Rất diệu mà rất tĩnh Không dáng cũng không hình Gượng đặt tên cho nó “Cực nhỏ” và “cực tinh” Đạm bạo riêng tồn tại Trước thủa trời đất sinh Muốn nhuộm đen chẳng được Đem mài vẫn nguyên lành Diệu thay cái tâm ấy Thuần tuý và tinh anh Xưa bên trời Tây Trúc Giáng sinh ở Kim tiên Mười danh hiệu đầy đủ Chán cõi tục hư ảo Như bọt nổi băng tan Ánh cầu vồng rực sáng Người giữ có về ngàn Nét mặt vàng mờ bóng Tấm thân tẩm dầu lan Gỗ chiên đàn làm củi Khói bay lên hỏa đàn Lửa thiêu vừa lụi tắt Kết xá lị muôn vàn Đầy hòm và đầy chậu Hoặc năm sắc rõ ràng Hoặc hiện thành chín vẻ Lung linh và chói chang Rộng mở lời thề nguyền Tu hành đủ lục độ Tham cứu sâu đạo thiền Trí tuệ đuổi hư nguỵ Dựng giáo lý diệu huyền Đưa đạo về chân tính Như núi lặng non yên Khắp ba cõi chiêm ngưỡng Mười phương về hợp duyên Người vâng mệnh đức Phật Tế độ vũng non thuyền Nơi nơi đều thờ phụng Người tu hành siêng năng Đến nay vua nước Việt Truyền giữ càng ân cần Hướng về núi Long Đội Nguyện theo ý tiền nhân Xây điện tháp hùng vĩ Vượt mây cao mấy tầng Đỉnh tháp đặt xá lị Mong điềm sinh thánh quân Hào quang toả phép lạ Sông núi vẻ thanh tân Mây giáng cùng hoà hợp Cách biệt cõi hồng trần Đức vua ban tên hiệu Tháp Sùng Thiện Diên Linh Cầu mong dài tuổi thọ Được tháng tốt ngày lành Cùng hợp nhau khánh chúc Quả phúc đã viên thành Khắp thiên cung rộng lớn Khắp âm giới dương gian Quốc vương cả bốn hướng Cùng kéo về rộn ràng Tranh hùng xưng danh tướng Mang năm lớp hòm vàng Xe rồng êm chuyển bánh Tháp báu đặt nghiêm trang Từ đó và mãi mãi Năm tháng tỏ đèn nhang Viếng chùa xe tấp nập Như mây tụ non xanh Quyết giữ lòng trong sạch Bước tiếp lên đài cao Rì rầm kinh tụng niệm Người, trời hào vẻ thanh Trống chiêng khua gióng rỏi Hương trầm khói toả quanh Gấm vóc khoe xuân sắc Phúc lành khắp chúng sinh Gồng cùm và tù ngục Phá bỏ đời thanh bình Tôi được giao chép việc Tài mọn thêm thẹn thùng Ba đông học chưa trọn Mà ơn vua vô cùng Xin mở tung của ngõ Cho bốn biển hoà chung Ngợi ca đức năm thánh Dài lâu cùng núi sông. Dựng bia ngày 6 tháng 7năm Tân Sửu, niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ hai (20-8-1121) Nguyễn Công Bật giữ chức Triều liệt, Hình bộ thượng thư, Binh bộ viên ngoại lang Đồng chi phiên công viện chính sự vâng sắc chỉ soạn văn bia. Lý Bảo Cung giữ chức hữu thị lang, Thượng thư công bộ, Viên ngoại lang đồng chi thẩm hình viện sự, thượng kinh xa uý, tử kim ngư vâng sắc chỉ viết chữ bài văn bia. Ở mặt sau của tấm bia Sùng Thiện Diên Linh có khắc một bài thơ của Lê Thánh Tông và hai đoạn văn, 1 đoạn ghi việc Thái hậu Phù Thánh Linh Nhân (tức Ỷ Lan) cúng ruộng, 1 đoạn ghi việc trùng tu và dựng lại chùa dưới thời nhà Mạc. Toàn văn như sau: 1. Đoạn 1: Phiên âm: Hoàng Việt Lý triều đệ tứ hoàng tỷ Phù Thánh Linh Nhân Thái hậu cung điền tại Thượng Hồng phủ, Cẩm Giàng huyện, Cẩm Trục, Thu Lãng nhị xã, Mạn-để xứ khu nhất, tương liên thất thập nhị mẫu, đông cận Đường Tiên, tây cận Đường bạn, nam cận dân điền, bắc cận Phan Côn, dĩ di hương đăng, vĩnh vi vạn đại. Nhị bản xã lục đình thập phương đẳng. Nhược hậu hữu hà nhân thủ tam bảo điền dĩvi sinh lệ tư sự. Nguyện hoàng thiên thập bátlong thần tâu chi, diệt chi. Kì giá điền cung nhập tam bảo dĩ hữu khả khất phụng đắc miễn tô thuế. Thiên Phù Duệ Vũ nhị niên, Tân Sửu thất nguyệt sơ lục nhật. Dịch nghĩa: Thân sinh ra vua thứ tư triều Lý của nước Hoàng Việt là thái hậu Phù Thánh Linh Nhân cúng một khu ruộng ở khu Mạn thuộc hai xã Cẩm Trục và Thu Lãng huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng gồm 72 mẫu liền nhau. Phía đông giáp Đường Tiên, phía Tây giáp Đường Bạn, phía nam giáp ruộng của dân, phía Bắc giáp Phan Côn, để làm ruộng đền nhang lưu mãi muôn đời. Sau này nếu kẻ nào trong hai xã 6 thôn hoặc người tứ xứ chiếm ruộng tam bảo làm của riêng thì xin hoàng thiên và thập bát long thần tru diệt. Những ruộng này đem cúng vào của Tam bảo đã có tờ khai xin được miễn tô thuế. Ngày 6 tháng 7 năm Tân Sửu niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ hai (tức ngày 28/8/1121) Đoạn 2: Phiên âm: Hoàng Việt Mạc triều đệ ngũ đế, Hoàng trụ tứ niên, Tân Mão, ngũ nguyệt đoan dương tiết, cai Duy Tân huyện bộ chỉ huy Vân Quảng Bá, đồng ty quan Phú triều bá, cai quan lam cầu bá, cập Đội Sơn nhất nhị tam giáp, Đội Trung, Đội Lĩnh. Trung tín đẳng xã cộng thụ đảo bi, giá đồi lương, bổ khuyết tượng, sáng môn, xế tường, kinh ngũ bách niên dư chi tùng lâm thắng cảnh nghiễm nhiên tái nhất tân hĩ. Dịch nghĩa: Ngày mồng 5 tháng 5 năm Tân Mão, niên hiệu Hưng Trị thứ 4 đời vua thứ 5 triều Mạc (tức ngày 25/6/1591) cai huyện bộ chỉ huy huyện Duy Tân là Vân Quảng Bá cùng với ty quan là Phú Triều Bá, cai quan Lam Cầu Bá và giáp nhất, giáp nhì, giáp ba xã Đội Sơn, Đội Trung, Đội Lĩnh, Trung Tín cùng góp sức dựng lại bia đổ, bắc lại xà nhà và những chõ tượng hư hỏng, làm cửa xây tường, khiến cho hơn 500 năm sau một nơi thắng cảnh trong chốn tùng lâm lại được mới mẻ. Do đó mà ghi lại. Đoạn 3. Phiên âm: Dư bái yết sơn lăng, lộ kinh sơn tả, toại đăng lãm yên, tiếu lí triều sự đản chi quân thần, ta quốc bộ tằng kinh ư binh tiễn, lưu nhất luật vu hữu. Âm văn: Thiên nhận tằng loan cổ hoá thành Phan duyên thạch đắng khấu thiền huynh Lý triều quái đản bi không tại Minh tậc hung tàn tự dĩ canh Lộ thiểu nhân tông đài giấp lục Sơn đa xuân vũ hiển ngân thanh Đăng cao nhãn giới vô cùng trứ Vạn lý mang mang bảo thụ bình. Thiên Nam động chủ lưu đề, Quang Thuận bát niên, trấn điện tướng quân, thần Lê Văn phụng tả. Dịch nghĩa: Ta đi bái yết sơn lăng, đường qua bên tả núi này, bèn lên chơi chùa. Cười vua tôi nhà Lý tôn sùng điều quái đản, thương đất nước trải nhiều phen binh lửa. Nên có đề một bài thơ dưới đây: Thành hoá chon von núi một đây Leo qua đèo đá viếng am mây Chuyện kì vua Lý bia trơ đó Tội ác giặc Minh vết phá đây Đường vắng chân người rêu biếc phủ Xuân nhiều mưa núi ngấn xanh dầy Lên cao tầm mắt nhìn bao quát Muôn dặm mênh mông cỏ lẫn cây. Thiên Nam động chủ lưu đề, năm Quang Thuận thứ 8 ( 1476) kẻ bề tôi là Lê Văn giữ chức trấn điện tướng quân vâng mệnh viết chữ. Văn bia 2: LONG ĐỌI SƠN TỰ BI KÍ Cái văn: Long sơn tự, duy tiên hạt nhất danh lam dã, ngô tăng môn nhất tông nhân dã. Sơn dĩ tự danh tự dĩ sơn thắng. Lý triều sáng tạo, phạn vũ hữư bi. Lê hoàng du lãm ngự Minh hữu thi bất dĩ minh nhi dẫn, bất dĩ Mạc nhi hưng. Sơn vô suy di, tự hữu linh hiển, gia chi phật giáo phổ lưu nhật thịnh, nhân tâm hướng mộ nhạt đốc. Số thiên niên lai, hưng, phế, cự thuỵ chi đại thiệu nhân đại phúc quả, đại đại hữu nhân. Tiền giả ngô sơn môn lịch thế sắc tứ hoà thượng chí đệ lục tổ. Nhất phiên tụ tập phạn lang la liệt sở đắc sơn tàng chi đồng khải, đồng cổ, kim hiện trữ tại Hà thành Bác Cổ trường, đại ngô thất thế bát thế tăng tổ tuỳ khuyết, tuỳ bổ tự xá như cố. Nhiên nhi quốc gia công nhận chi cổ tích tắc vi dã. Niên tích nguyệt cửu, vận hoán tinh di, tự vũ hủ lâu, Phật tượng triết huỷ, đồng xá, hành lang, tăng đường, chung lâu nhất đai đồi hoại. Thiên toạ chủ Vũ Phúc Hựu trù kế trùng tu công phí thâm cựu, viên hiệp lục đình kì lí trung ngôn vu bản huyện Tiên Xá xã sắc thụ chánh bát phẩm xung Bắc Kì nghị viên dinh công viết tính. Y công thị nhất huyện danh hao diệc thiểm cựu thức giã. Công nghị nhiên chủ kì sự, thân hướng tỉnh toà trần thuyết Thừa sứ hiến Pha Lỗ li biệt hiệu Tất La nghĩa đại nhân, thanh tư chính phủ phái Bác Cổ quan triệu hồi xét nghiệm. Linh triều thần bi, kim cương thạch tượng dữ bác cổ sở di trước kí vi cổ tích mông quốc gia lượng cấp khố ngân ngũ bách nguyên quan chuẩn pháp hành khuyến thập phương chư quân tử thử xuất lương hằng tập dịch thành cừu tu lưu vi hải, trình công kế sư tức nhật trùng doanh. Dĩ Hoàng Khải Định canh thân bát nguyệt nhật khởi công chí giáp tí niên tam nguyệt nhật công thoan. Khánh thành nhật tỉnh hiến Tây Nam quan lợi đại nhân giá hội quán nhân tấu tập, thiện tín hành hương, thiên hoa trú hạ pháp vũ phổ triệm, uông uông hồ thế giới chi tự tại thiên, hạo hạo hồ trần trung chi cực lạc quốc. Cổ minh vân: Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh, thuỷ bất tại sâu hữu long tắc linh, tư sơn nhi hữu tư tự kì bất vị chi sơn chi tiên thuỷ chi long hồ. Cửu Long hiến trạng, cửu tỉnh minh thoan cổ trung giác mộng, kinh kê điểm ngoan, giang sơn danh thắng chi khu, ba la tế độ chi phúc, khi kim nhi hậu vĩnh liệt ư á Đông chi bác kì kì linh tích quang đại nhi hà ư? Đăng tư sơn giả lãm cổ tự , thiên nhiên chi đại cảnh trí, tụng quốc gia chi ân cấp chi đại công đức tự đương kí nghị viên Đinh công chi nhất thiện tâm, hoa nhất thiện từ kim trường dữ Long Sơn thạch tịnh truyền yên. Hữu năng kế chi thuật chi thị, thiểm sở hậu vọng dã, thị kí. Toạ chủ Vũ Phúc Hựu cẩn chí. Bảo Đại tam niên lục nguyệt sơ thập nhật lập bi. Dịch nghĩa: BÀI BIA KÍ CHÙA NÚI LONG ĐỌI Từng nghe: Chùa núi Long Đọi là một danh lam của hạt Duy Tiên, sư trụ trì cũng là những người có tông phái. Núi lấy tên chùa, chùa lấy vẻ đẹp của núi. Triều Lý xây dựng, trong chùa còn có bia ghi lại. Vua Lê tới thăm có làm bài minh bằng thơ. Chùa không vì giặc Minh mà bị phá huỷ, không vì nhà Mạc mà hưng thịnh. Núi không thay đổi, chùa luôn hiển linh, thêm vào Phật giáo mỗi ngày một phổ biến thịnh vượng, nhân dân hướng mộ mỗi ngày một nhiều. Mấy ngàn năm nay chùa có lúc hưng, lúc phế nhưng đời nào cũng có người làm việc đại thiện nhân đại phúc quả. Trước đây chùa ta, trải các triều, sắc ban cho hoà thượng tới tổ đời thứ 6. Một lần tu bổ rộng khắp trong chùa dẫ phát hiện ra dưới lòng núi có trống đồng ….nay hiện để ở tại trường Bác Cổ ở Hà Nội. Tăng tổ đời thứ 7 thứ 8 lại tiếp tục tu bổ những nơi hỏng hóc. Chùa chiền lại như cũ. Tuy nhiên nhà nước vẫn chưa công nhận đây là một cổ tích. Năm tháng lâu ngày, vật đổi sao dời, chùa bị dột nát, mối mọt, tượng Phật bị gẫy nát. Các nơi nhà động hành lang, tăng đường gác chuông đều bị hư hại. Toạ chủ là Nguyễn Phúc Hựu trù tính việc trùng tu, phí tổn rất lớn, bèn bàn với các vị kì hào lí dịch trong lục đình tới xin ý kiến ông họ Đinh tên là Tính người xã Tiên Xá trong huyện, sắc thụ là Chánh bát phẩm, là một nghị viên Bắc Kì. Ông này là một vị hào kiệt có tiếng ở huyện, toạ chủ vốn là người quuen biết. Ông bèn nhất trí chủ trì công việc, tự mình xuống dưới tỉnh trình bày với quan thừa sứ hiến Ba Lỗ Li biệt hiệu là Tất La Nghĩa đại nhân. Thanh tư chính phủ phái quan ở trường Bác Cổ triệu hồi xét nghiệm tất cả các thứ như bia, tượng kim cương và những vật lưu giữu tại trường Bác Cổ đều cho thấy đây là một cổ tích. Thế là được nhà nước cấp cho số tiền là 500 đồng , chuẩn cho tiến hành quyên góp các bậc quân tử thập phương có hằng tâm hằng sản tụ ít thành nhiều. Sau đó trình bày kế hoạch công việc tiến hành trùng tu. Khởi công từ tháng 8 năm Canh Thân niên hiệu Khải Định tới tháng 3 năm Giáp Tý thì hoàn thành. Ngày khánh thành quan tỉnh là Tây nam quan lợi đại nhân cũng về dự hội, mọi người tụ hội đông vui, họ thắp hương dâng hoa, đúng như một thế giới mênh mông, một quốc gia cực lạc vậy. Người xưa nói: Núi không cao có tiên tất nổi tiếng, sông không sâu có rồng tất linh thiêng. Núi này có chùa há chẳng phải có tiên trên núi, rồng dưới sông sao? Chín rồng khoe vẻ, chín giếng khoe thanh, trống chuông tỉnh mộng, kinh kệ bớt ngu, rõ ràng đây là nơi danh thắng núi sông rộng mở phúc tế độ mà nay và mai sau mãi mãi là nơi có tiếng của Á Đông. Linh tích này rạng rỡ vĩ đại là vì sao? Vì ngôi chùa cổ trên núi là một đại cảnh trí của tự nhiên. Vì quốc gia rất quan tâm ban phát tiền của, vì ông nghị viên họ Đinh có tấm lòng thiện. Cho nên tôi viết thiên từ này để truyền lại dài lâu với đá núi Long Đọi với hi vọng có thể kế tiếp, thuật lại cho đời sau. Bởi vậy làm bài kí. Toạ chủ Vũ Phúc Hựu kính cẩn ghi lại. Lập bia ngày 10 tháng 6 niên hiệu Bảo Đại thứ 3. Phụ lục 4. DANH SÁCH NHỮNG ĐỜI SƯ TRỤ TRÌ CHÙA ĐỌI. TT Pháp danh (họ tên) Năm sinh Năm mất Năm trụ trì Quê quán Ngày giỗ 1 Đàm Cứu Chỉ 995 1067 1054 Tiên Du- Bắc Ninh 2 Thích Hải Triều 1521 1591 15-7 3 Thích Tịch Khoan 1658 1613 Đọi Sơn – Duy Tiên Hà Nam 14-11 4 Thích Chiếu Tính 1629 Đọi Sơn- Duy Tiên Hà Nam 22-3 5 Thích Chấn Đức 1646 Tiên Lữ Khoái Châu Hưng Yên 22-5 6 Thích Chiếu Thường 1765 1840 Đọi Sơn Duy Tiên Hà Nam 21-3 7 Thích Thanh Tùng (Tạ Thanh Tùng) Đọi Sơn Duy Tiên Hà Nam 22-8 8 Thích Bảo Thụ (Trần Bảo Thụ) Mỹ Lộc Nam Định 15-10 9 Thích Thông Quyền (Trần Thông Quyền) 1908 1839 Phù Tiên Hưng Yên 25-10 10 Thích Quảng Chí (Vũ Phúc Hựu) 1858 1929 Thường Tín Hà Tây 8-9 11 Thích Tịnh Đức (Lê Thông Trà) 1945 Châu Giang Duy Tiên Hà Nam 4-1 12 Thích Thanh Quảng 1924 1932-1947 Hưng hà Thái Bình 13 Thích Thanh Bột 1902 1973 1957 Điệp Sơn Duy Tiên Hà Nam 22-8 14 Thích Liên Huê 1921 1989 1957 Đọi Sơn Duy Tiên Hà Nam 5-11 15 Thích Đàm Thử 1907 1997 1957 Hưng Hà Thái Bình 14-11 16 Thích Thanh Vũ 1959 1989 Hoà Hậu Lý Nhân Hà Nam Phụ lục 5: THƠ VỀ CHÙA ĐỌI. Thế đất Cửu Long. Đầu gối núi Đọi Chân dọi Tuần Vường Phát tích đế vương Lưu truyền vạn đại. ( khuyết danh) 2.Chùa Long Đọi Giữa cánh đồng băng một trái non Kìa chùa long Đọi đứng chon von Công trình kiến trúc khen ai khéo Phong cảnh xưa nay dậy tiếng đồn. ( khuyết danh) 3.Tiếng chuông chùa Đọi. …Vẳng tự chùa xa tới Tiếng thưa lọt núi bồng Triều dâng trời đất dạng Trăng bạc sáng mênh mông. ( Nguyễn Phi Khanh) 4.Núi Long Đọi. Chùa núi từ xa đã tới nơi Dứng nhìn muôn dặm nước non phơi Lý triều bia tạc lời hoang đản Chiếu Miếu bình thơ bút thảnh thơi Rồng cuộn khúc thiêng nằm vực thẳm Chim bay mỏi cánh ngậm ngang trời Bao la vũ trụ trời dầm nước Vời vợi trong lòng nghĩ mãi thôi. ( Nguyễn Bảo) 5.Đề bia chùa Đọi. Thành hoá chon von núi một đây Leo qua đèo đá viếng am mây Chuyện kì vua Lý bia còn đó Tội ác giặc Minh vết phá đây Đường vắng chân người rêu biếc phủ Xuân nhiều mưa núi ngấn xanh dầy Lên cao tầm mắt nhìn bao quát Muôn dặm cây xanh một dải mờ. ( Lê Thánh Tông) 6.Lên núi Long Đọi đề thơ vào vách chùa Quấn quýt bầy rồng dáng lượn bay Vẻ non vẫn biếc muôn đời nay Bia ghi triều Lý riêu phong kín Làn nước mênh mang một chòm nổi Dòng sông uốn lượn ba bề vây Phòng sư thấp thoáng trong vòm trúc Phủi đá sườn non ngủ gốc cây. ( Bùi Dị) 7.Thăm chùa Đọi Đồng bằng mọc núi lạ lùng thay Lầu gác lô nhô bóng xế tây Mười dặm đường dài còn vẻ biếc Lưng trời chim mỏi trở chiều bay Cây bồng xóm mạc xa xa thấy Mắt loá phong trần bước bước ngay Cái thú trên non chừng vẫn có Bên mây đủng đỉnh một sư thầy. ( Nguyễn Khuyến) 8. Nhớ cảnh chùa Đọi. Già yếu xa xôi bấy đến nay Làng chơi loang loáng lại buồn thay! Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá Sư cụ nằm chung với khói mây. Dặm thế ngõ đâu tầng trúc ấy, Thuyền ai khách đợi bến đâu đây? Chuông chưa vẳng tiếng người không biết, Trâu thả sườn non ngủ gốc cây. ( Nguyễn Khuyến) 9. Lên chùa Đọi nhớ người xưa. Sừng sững non cao giữa cánh đồng Xanh xanh nước biếc dưới ngàn thông Đọi Sơn dựng tháp Diên Linh tự Bia đá đề thơ Lê Thánh Tông Vua Lý xây chùa cầu việc thiện Đại Hành cày ruộng khuyến nghề nông Phi Khanh thổn thức hồn non nước Nguyễn Khuyến ngâm nga giãi tấc lòng. (Nguyễn Lương) 10. Hỏi thăm núi Đọi. Hỏi thăm núi Đọi ở nơi nao Rằng phúc, rằng duyên dạo gót vào Ngọn tháp Diên Linh xinh đẹp nhỉ Nét bia Phạn tự lạ kì sao Sông Châu núi Đọi còn ghi ấn Nhà Lý rừng công cũng lớn lao Mới biết có người nên có cảnh Tháp cổ ngàn năm núi lại cao. ( Hoà thượng Thích Đức Nghiễm- Nam Định). 11: Cảnh chùa Đọi Lúc hội rồng mây lúc vắng teo Âm u một khoảnh tít trên đèo Dấu thơm lừng lẫy tranh khôn vẽ Hương ngát uy nghi tiếng mãi reo Sườn núi rừng thanh cây chen chúc Giữa lòng bể thích nước trong veo Bồng hồ lãng uyển đây chăng tá? Du khách ngỡ ngàng cuốn gió theo. ( Lê Phương) 12. Phong cảnh núi Đọi. Phong cảnh trông xa nhỏ tí teo Tới nơi bát ngát mộit phương đèo Chuông vàng trên gác chiều vang vọng Đá trắng sương non riêu mốc meo Trên núi linh cầm thông bát ngát Dưới sông ngư phủ gió vì vèo Bốn phương nô nức đâu là chẳng Một bước cao trông một bước trèo. ( Bùi Văn Di) Phụ lục 6: CÁC LỄ HỘI TIÊU BIỂU Ở HÀ NAM. Ngoài lễ hội chùa Đọi thì Hà Nam còn có các lễ hội tiêu biểu sau. 1. Hội vật võ Liễu Đôi. Hội vật võ Liễu Đôi được tổ chức vào mồng 5 đến mồng 10 tháng Giêng hàng năm tại làng Liễu Đôi xã Thanh Trúc huyện Thanh Liêm, Hà Nam. Hội này mở ra để tưởng nhớ ông tướng họ Đoàn-một vị tướng tài ba dũng cảm chống giặc, người đã tổ chức huấn luyện môn võ-vật cho nhân dân nơi đây có sức khoẻ để bảo vệ tổ quốc. Sau khi ông mất người dân nơi đây đã lập đền thờ ông tại khu vực cánh đồng thôn Tháp (xã Liễu Đôi trước đây) gọi là đền ông Thánh Tiên và mở hội thi vật để tưởng nhớ công ơn của ông. Hội này 2 năm tổ chức một lần.Vào ngày chính hội ở đây diễn ra nghi lễ rước bát hương từ đền ông thánh Tiên ra sới vật (thuộc thôn Tháp) sau đó mới tổ chức lễ Vật. Nét độc đáo của lễ vật này nằm ở phần nghi lễ. Để tổ chức lễ vật này người ta chọn 2 bé trai sinh cuối cùng trong năm đó, 1 của làng Tháp và 1 của làng Đống Cầu (quê vợ ông Thánh Tiên) vào hầu Thánh 5 keo và không được thua. Nếu em trai nào không vật được thì có thể nhờ người trong nhà: anh trai, bố, ông …. Nghi thức này gọi là vật giai rốt (em trai cuối cùng). Sau màn hầu Thánh đó mới đến 5 keo vật của trẻ em tiếp đó mới đến 5 keo vật của người lớn. Có tục lệ này là vì ông họ Đoàn đã tổ chức huấn luyện vật cho trẻ em trước mới đến người lớn. Những năm không phải lễ chính người ta vẫn tổ chức 5 keo vật của trẻ em trước đền ông Thánh Tiên. Để khích lệ tinh thần thượng võ của nhân dân làng còn trao giải cho cả những người thua cuộc và những người nhiệt tình tham gia trong ngày hội. 2 .Lễ hội đền Trần Thương. Đền Trần Thương nằm ở thôn Trần Thương xã Đạo Lí huyện Lí Nhân. Hà Nam. Đây là ngôi đền thờ Trần Hưng Đạo và song thân của Ngài được xây dựng trên nền của kho lương thực cũ nhà Trần (Trần Thương). Đền Trần Thương là một ngôi đền lớn không chỉ là của người dân Hà Nam mà so với các nơi thờ tự Ngài ở các nơi khác. Lễ hội đền Trần Thương được tổ chức từ ngày 20-23/8 âm lịch nhưng do nhân dân về đây lễ đông nên thường phải tổ chức trong 5 ngày. Lễ hội ở đây phần lễ diễn ra rất long trọng và chủ yếu. Trong lễ hội nhiều trò chơi được tổ chức trong đó trận thi đấu cờ tướng. Người chủ lễ cáo yết Đức Thánh Trần sau đó rước bàn cờ từ hậu cung ra hương án vái 3 vái. Sau đó cuộc chơi bắt đầu. Hai đối thủ mang y phục truyền thống của các tướng lĩnh nhà Trần mang thanh đao vào cuộc. Sau một tuần hương ai thắng người đó đoạt giải. Tàn cuộc, quân và bàn cờ được rửa bằng nước giếng của đền rồi đặt lên hương án. Đây là một lễ hội nhằm tưởng nhớ công lao của vị anh hùng Trần Hưng Đạo và những trò chơi trong hội nhằm tái hiện lại sự mưu trí và tài thao lược của tướng lĩnh nhà Trần và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xưa. 3. Lễ hội đền Trúc. Đền Trúc là ngôi đền thờ Lý Thường Kịêt nằm ở thôn Quyển Sơn xã Thi Sơn huyện Kim Bảng, Hà Nam. Lễ hội đền Trúc được tổ chức từ ngày mồng 1-10/2 âm lịch trong không gian từ đình Trung tới đền Trúc, chùa Thi và vùng ven núi Cấm. Trong lễ hội nghi thức ở đây diễn ra rất độc đáo mang đậm phong cách lễ hội truyền thống. Độc đáo nhất trong lễ hội này là múa hát dậm Quyển Sơn và hội đua thuyền. Múa hát dậm ở đây tương truyền do Lý Thường Kiệt dạy cho nhân dân nơi đây sau khi ông thắng trận trở về. Hát dậm được tổ chức trong 10 ngày lễ hội. Múa hát dậm là một phường gồm từ 30 người trở lên. Đó là những cô gái xinh đẹp có tài múa hát độ tuổi từ 13-15 và đứng đầu là cụ trùm chỉ đạo múa hát. Múa hát Dậm có bài bản mang tên: Lý Đại Vương bình Chiêm sự tích diễn ca, gồm hơn 30 tiết mục múa với trên 1000 câu thơ. Đây là lối múa dậm kết hợp với hát mô phỏng lại động tác chèo thuyền khi đưa quân Lý Thường Kiệt qua sông Đáy. Ngoài ra tại đây còn có hát bỏ bộ, hát đúm dành cho nam nữ thanh niên còn son. Hội đua thuyền tổ chức vào mồng 6-2 chỉ dành cho nam giới. Thường thì mỗi năm có 3 đội thi mặc trang phục 3 màu khác nhau. Đường đua dài gần 3km bắt đầu từ đền Trúc tới chân cầu Quế và ngược lại. Mỗi thuyền đua gồm 18 người. Cuộc đua thuyền trên sông Đáy mang nhiều tầng lớp ý nghĩa. Đó là một nghi lễ tưởng niệm cuộc hành quân của Lý Thường Kiệt và sâu hơn nữa là tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp lúa nước cầu mong mưa thuân gió hoà mùa màng tươi tốt. Lễ hội đền Trúc là một lễ hội độc đáo tiêu biểu của Hà Nam. 4. Lễ hội đền Lảnh Giang. Đền Lảnh Giang nằm trong địa phận thôn Yên Lạc xã Mộc Nam hyện Duy Tiên, Hà Nam. Theo thần phả thì đây là một ngôi đền thờ 3 vị danh thần thời Hùng Vương đã có công giúp vua Hùng đánh giặc và Chử Đồng Tử cùng Tiên Dung công chúa. Tương truyền 3 vị danh thần đó thác sinh ban đầu là 3 con rắn được sinh ở nơi đây. Sau khi giúp vua Hùng đánh giặc xong 3 ông về đây dựng ấp lập làng. Ông mất ngày 25/8. Nhớ ơn đó nhân dân trong vùng lập đền thờ ông. Ngoài ra trong khuôn viên của đền còn thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa là những vị nhân thần với mối tình đẹp trong nhân gian. Hàng năm tại dền Lảnh Giang tổ chức hai kì lễ hội vào ngày 18-25/6 và 20-25/8 âm lịch với đông đảo nhân dân khắp nơi về đây cúng lễ. Mặc dù đây đang là mùa nước nhưng rất nhiều người đã bơi thuyền ra tế để tỏ lòng tôn kính tam vị danh thần và vợ chồng Tiên Dung công chúa đồng thời cầu mong các bậc thánh thần phù hộ. Lễ hội ở đây diễn ra rất phong phú và đa dạng chủ yếu là phần lễ là chính. Đây là một lẽ hội thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn của nhân dân ta nhưng rõ nhất vẫn là những hoạt động nghi lễ của tín ngưỡng thờ thần nước của nhân dân vùng lụt này. Hiện nay đền Lảnh Giang người dân mọi nơi đổ về đây lễ quanh năm không cứ gì là ngày hội. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDL 154.doc