Thiết lập mô hình quản lí rủi ro
Cùng với quá trình toàn cầu hoá và đi kèm theo nó là tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế về ngân hàng, mức độ rủi ro chắc chắn ngày càng tăng, đặc biệt là rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro thanh toán và tất yếu cuối cùng là dẫn đển rủi ro tín dụng.Vì vậy việc mỗi NH tự lập riêng cho mình một mô hình quản lý rủi ro là việc làm cấp bách .Cho đến nay, một số NHTM Nhà nước ở Việt Nam bước đầu đã có mô hình quản lí rủi ro, đó là : Uỷ ban quản lý rủi ro NHNT VN ; Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn VN ; Phòng thông tin phòng ngừa và xử lý rủi ro NHCT VN ; Hội đồng quản lý rủi ro NH đầu tư và phát triển VN. Các NHTM khác nên học tập mô hình quản lý rủi ro tại các NH trên để từ đó lập cho mình mô hình thích hợp nhấtm song phải lưu ý "phòng hơn chữa", tránh thiên về biện pháp xử lý , tập trung vào các giải pháp nhằm dự báo và phòng ngừa rủi ro tổng thể cũng như cho từng loại rủi ro có thể xảy đến với hoạt động của ngân hàng.
Ngoài các kiến nghị mang tính hệ thống nói trên, em xin mạnh dạn đề đạt một số đóng góp sau tại chi nhánh NHNT HN :
ã Tiếp tục việc xác định một hướng kinh doanh đúng đắn trên cơ sở nghiên cứu kỹ tình hình thực tế tại địa bàn: Trước tiên phải thực hiện đa dạng hóa cho vay bằng việc mở rộng thị trường đầu tư: do hạn chế chỉ được hoạt động trong địa bàn Hà nội nên cũng sẽ là khó khăn cho ngân hàng ngoaị thương Hà nội trong việc mở rộng thị trường đầu tư của mình. Song bên cạnh việc tiếp tục phát huy đầu tư vào lĩnh vực kinh tế trọng như các nghành công nghiệp , sản xuất vật liệu xây dựng, du lịch.và ngoài việc đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước chi nhánh ngân hàng ngoại thương nên chú ý tới các đối tượng khách hàng sau:
o Đối tượng khách hàng là các công ty liên doanh: hiện nay trên địa bàn có một số công ty liên doanh đã đi vào hoạt động và bước đầu làm ăn có hiệu quả do đó việc mở rộng đầu tư với các đối tượng này có một số thuận lợi. Đây chủ yếu là các liên doanh sản xuất hàng để xuất khẩu là chính do đó họ có nguồn thu ngoại tệ là tiền đề để cho vay ngoại tệ giải quyết tình trạng hiệu quả sử dụng vốn ngoại tệ hạn chế hiện nay, mặt khác việc chấp hành các qui định của luật pháp, các chế độ kế toán thống kê, báo cáo tài chính rất rõ ràng và luôn được kiểm toán là điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong quá trình thẩm định và quản lý vốn vay. Ngoài ra quan hệ tín dụng phát triển sẽ tạo điều kiện để các nghiệp vụ khác cùng phát triển như nghiệp vụ thanh toán quốc tế, nghiệp vụ huy động vốn.
o Các công ty xuất khẩu thuỷ sản: đây là các công ty làm ăn có hiệu quả, trong thời gian qua, có nguồn thu ngoại tệ và thường xuyên sử dụng các nghiệp vụ thanh toán quốc tế qua Ngân hàng Ngoại thương Hà nội do đó cũng là những khách hàng rất có tiềm năng.
o Tìm cách thu hút các khách hàng bưu điện, xăng dầu, điện lực, là những khách hàng tuy có cơ chế vốn tập trung với tổng công ty song cũng có những dự án nhỏ nằm trong thẩm quyền của các công ty địa phương, đây là những đơn vị sẽ có chất lượng đầu tư tốt.
o Cho vay các đơn vị trúng thầu xây dựng: hiện nay việc xây dựng một số công trình hạ tầng quản trọng đang được tiến hành. Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội cần phải tiếp tục tiếp cận những đối tượng này.
o Ngoài ra chọn lọc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả cho vay trước mắt cần xem xét các doanh nghiệp mới được cổ phần hóa .
ã Mở rộng cho vay cầm cố bằng sổ tiết kiệm, kỳ phiếu gửi tại Ngân hàng Ngoại thương và các ngân hàng khác trên địa bàn. Đây là những khoản cho vay có chất lượng cao không những hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng mà còn tác động tốt tới công tác huy động vốn (tạo thuận lợi cho những người gửi tiền tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội).
93 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1707 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng: Một số biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện của các ngân hàng nước ngoài.
Thời gian qua, hệ thống NHTM Việt Nam đã trải qua những giờ phút vô cùng căng thẳng với những vụ án lớn liên quan đến hoạt động tín dụng , với những con số nợ đọng, khó thu hồi, những con số về khối lượng khổng lồ giá trị tài sản thế chấp bị đóng băng không giải toả được, tất thẩy những con số đó đã kéo đồ thị niềm tin của dân chúng, của xã hội đốivới ngân hàng đi xuống đến cực điểm. Cơn bão đó đã qua nhưng hậu quả của nó để lại thật nặng nề.Mặc dù được sự quan tâm chỉ đạo của chính phủ, ngân hàng Nhà nước nhưng hoạt động của các NHTM vẫn còn gặp nhiều khó khăn thách thức, đặc biệt nổi lên trong hoạt động của toàn hệ thống hiện nay là mức dư nợ quá hạn rất lớn, có thể nói là lên đến con số đáng báo động:
Bảng 6-Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của các NHTM VN
Năm
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tỷ lệ %
9,6
4,6
3,5
4,2
4,5
5,8
7,4
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 6 năm 2001
Tỷ lệ nợ quá hạn bình quân ở mức 5% như trên là rất đáng lo ngại vì thông lệ quốc tế chỉ cho phép ở mức 1-2%. Tất nhiên trong kinh doanh ngân hàng, nợ quá hạn là điều khó tránh khỏi nhưng cũng sẽ chẳng có gì đáng để đưa ra tranh luận nếu nguyên nhân chỉ đơn thuần là sự chậm trễ, sai hẹn trong việc trả nợ của khách hàng. Điều đáng quan tâm ở đây chính là khả năng không thu hồi được của số nợ đó. Ngay cả trong số nợ bình thưòng cókhả năng thu hồi vẫn ẩn chứa nhiều vấn đề không bình thường dễ gây ra rủi ro tín dụng.Trong hoàn cảnh khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực vẫn còn đang tác động , nền kinh tế Việt Nam còn đang chững lại, môi trường kinh doanh vẫn còn nhiều khó khăn và nhiều bất cập về vấn đề pháp lí, những tồn tại trong kinh doanh của các NHTM nói chung vẫn còn đó, song các ngân hàng vẫn phải tiếp tục đi lên, tiếp tục là những chiếc cầu chuyển tải dòng vốn trong nền kinh tế, tiếp tục thực hiện những chức năng và nhiệm vụ mới góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao hơn nữa. Tất cả những điều đó đòi hỏi việc nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của các NHTM phải được tiến hành thường xuyên,liên tục và có tính chất lâu dài, không những là nhiệm vụ của riêng hệ thống NHTM mà còn là mối quan tâm của Nhà nước, Chính phủ và của toàn xã hội vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân.
Phân tích các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNT Hà Nội
Ban hành quy chế cho vay chi tiết hơn so với quyết định của Nhà nước nhằm đảm bảo an toàn
Một trong những biện pháp đầu tiên mang tính cơ bản nhằm đảm bảo hoạt động tín dụng của ngân hàng diễn ra ổn định và trong phạm vi an toàn là việc thiết lập được một quy chế cho vay cụ thể, phù hợp với đặc điểm kinh doanh của riêng ngân hàng và phù hợp với tình hình thực tế. Quy chế cho vay vừa phải thông thoáng song lại phải rất chi tiết cụ thể, rõ ràng để đảm bảo độ chính xác và có ít rủi ro nhất xảy đến với ngân hàng mình, nó được coi là một trong những nhân tố quan trọng nhất định hướng cho hoạt động tín dụng của mỗi ngân hàng.NHNN đã ban hành QĐ 1627/2001/QĐ-NHNN về quy chế cho vay của tổ chức TD đối với khách hàng, song dựa trên tình hình hoạt động thực tế của ngân hàng mình, NHNT đã ra quyết định số 407 về quy chế cho vay của các chi nhánh NHNT với nhiều điểm chi tiết và giải thích rõ , nhằm đem lại cách hiểu thống nhất giữa ngân hàng và khách hàng và cũng để đảm bảo cho hoạt động của NH được diễn ra an toàn, hiệu quả.Có thể phân tích một số ưu điểm trong QĐ 407/ NHNT- HĐQT so với QĐ 1627/NHNN về quy chế cho vay như sau:
QĐ 1627-NHNN
QĐ 407-NHNT
Phân tích
Điều 1-Phạm vi điều chỉnh
Tổ chức TD không thuộc phạm vi điều chỉnh của QĐ này
Hướng dẫn khách hàng là tổ chức TD, Quỹ hỗ trợ phát triển không thuộc phạm vi điều chỉnh của Hướng dẫn.
Vì Quỹ hỗ trợ và phát triển có quy chế hợp tác riêng với NH, hơn nữa khả năng tài chính của tổ chức này rất khác so với các loại đối tượng khách hàng khác nên không thể đồng nhất áp dụng 1 quy chế cho vay cho cả đối tượng này
Đối tượng áp dụng
cá nhân và pháp nhânVN,nước ngoài
Pháp nhân nước ngoài: phải có giấy phép hoạt động hoặc được phép thực hiện phương án, dự án tại VN.
Cá nhân nước ngoài: có hộ chiếu, giấy phép cư trú có thời hạn tại VN nhưng thời hạn cư trú còn lại không được ít hơn thời hạn vay vốn.
do hiểu biết về hệ thống pháp luật của nước ngoài còn hạn chế, thông tin về khách hàng nước ngoài không đầy đủ và khó xác minh tính trung thực nên cần phải quy định chặt chẽ về đối tượng này
Thể loại cho vay, thời hạn cho vay
Thể loại cho vay ngắn, trung,dài hạn áp dụng cho tất cả các nhu cầu vay vốn không phân biệt vốn lưu động hay vốn cố định
Thời hạn cho vay căn cứ vào chu kỳ sản xuất, thời hạn thu hồi vốn của phương án,dự án, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn của tổ chức TD để định thời hạn cho vay, không phụ thuộc vào đối tượng cho vay là vốn lưu động hay vốn cố định như trước đây
Việc xác định thời hạn cho vay căn cứ vào những tiêu chí trên là rất hợp lí vì nó có liên quan đến tính khả thi của dự án cho vay, nhằm đảm bảo khả năng hoàn trả tín dụng của khách hàng.
Điều9: nhu cầu vay vốn
Không quy định cụ thể những nhu cầu vốn được phép cho vay mà chỉ QĐ những nhu cầu vốn không được cho vay
NHNT không hướng dẫn cụ thể các nhu cầu vốn được phép cho vay và các nhu cầu vốn mà pháp luật cấm,song có QĐ đối tượng hạn chế( chi nhánh xem xét cho vay khi có ý kiến chấp thuận của TGĐ): cho vay vốn thành lập công ty liên doanh; cho vay nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
Các văn bản của N/nước quy định về đối tượng cấm không được phép giao dịch thay đổi trong từng thời kỳ nên không thể dẫn chiêu văn bản cụ thể nào.Việc đưa ra những trường hợp hạn chế như bên là vì những nhu cầu này còn nhiều rủi ro nên cần có sự theo dõi của trung ương.
Điều 11:
Lãi suất cho vay
Lãi suất cho vay do TCTD và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của NHNN
Lãi suất quá hạn: do TCTD và khách hàng thoả thuận nhưng không vượt quá 150%lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong HĐTD
Quy định 2 loại lãi suất cho vay:lãi suất cố định và lãi suất điều chỉnh theo định kỳ hoặc theo thông bảo của NHNT hoặc theo thị trường quốc tế.
Lãi suất đối với nợ gốc quá hạn: như QĐ 1627-NHNN
Lãi suất đối với nợ lãi quá hạn: có thể không AD hoặc áp dụng lãi phạt đối với số nợ lãi quá hạn nhưng tối đa không quá 5% so với số nợ lãi quá hạn.
NH và KH có thể thoả thuận một trong hai loại lãi suất này. Trước kia QĐ của NHNN là mức lãi suất cho vay phù hợp với QĐ về mức lãi suất tại thời điểm ký hợp đồng TD. Nếu sau này lãi suất tăng sẽ bất lợi cho NH. Việc quy định 2 loại lãi suất này sẽ giảm bớt phần nào rủi ro xảy ra do sự tăng hay giảm của tỉ giá, thích úng kịp thời với biến động của thị trường tiền tệ.
Việc tách riêng rõ ràng lãi suất đối với nợ gốc và nợ lãi nhằm giứp KH hiểu rõ hơn về lãi suất quá hạn so với QĐ của NHNN, đồng thời làm KH phần nào cảm thấy bớt áp lực tâm lý khi phải chịu lãi chậm trả , tạo điều kiện thuận lọi hơn cho Chi nhánh trong việc thu hồi nợ
Điều 12: Mức cho vay
Mức cho vay được xác định trên cơ sở nhu cầu vay vốn, khả năng hoàn trả nợ vay của KH vay và khả năng nguồn vốn của TCTD
Quy định mức cho vay có bảo đảm bằng Tài sản: do chi nhánh quyết định trong giới hạn giá trị TS bảo đảm tiền vay và phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đảm bảo thu đủ nợ gốc, lãi và chi phí khác của khoản vho vay trừ trường hợp KH vay có đủ điều kiện vay không có bảo đảm bằng TS,song chi nhánh lựa chọn phương thức cho vay có bảo đảm bằng TS là biện pháp bổ sung
Thực hiện theo đúng quy định tại nghị định 178/ CP và thông tư 06/ TT về quy chế bảo đảm tiền vay
Gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ
Thời hạn gia hạn nợ gốc hoặc lãi tối đa không quá 12 tháng đối với cho vay ngắn hạn hoặc 1/ 2 thời gian đối với cho vay trung dài hạn.TH vượt thời hạn nêu trên, do nguyên nhân khách quan, Chủ tịch HĐQT hoặc TGĐ quyết định và báo cáo NHNN
Chi nhánh xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc/lãi, gia hạn nợ gốc/lãi .
Thời hạn gia hạn nợ gốc hoặc lãi tối đa không quá 12 tháng đối với cho vay ngắn hạn hoặc 1/ 2 thời gian đối với cho vay trung dài han.TH vựơt thời hạn nêu trên,do nguyên nhân khách quan, chi nhánh trình TW hồ sơ xin gia hạn . Hồ sơ phải gửi trước 7 ngày làm việc
Nhằm đảm bảo việc gia hạn giúp những KH có khó khăn tạm thời về tài chính( như tiền chưa chuyển về kịp, hàng đang tiêu thụ..) phục hồi sản xuất, kinh doanh, có nguồn để trả nợ .Còn những KH có tình hình tài chính xấu, không lành mạnh, không thể khắc phục được mà việc gia hạn không làm thay đổi tình hình tài chính thì không gia hạn.
Quy định cụ thể rõ ràng về cơ chế bảo đảm tiền vay tại chi nhánh
Mặc dù quyết định cấp một khoản tín dụng dựa hoàn toàn vào tính khả thi của dự án xin vay vốn, phương án kinh doanh, mức độ tín nhiệm, khả năng , uy tín của khách hàng vay vốn( điều này phụ thuộc vào công tác đánh gía thẩm định của cán bộ TD) nên việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản chỉ là một trong những biện pháp nhằm đảm bảo khả năng trả nợ, giảm rủi ro. Nhưng trên thực tế hiện nay hầu hết các khoản vay tại ngân hàng đều theo loại hình cho vay hoàn toàn dựa vào thế chấp, cầm cố tài sản nên các biện pháp bảo đảm tiền vay trở thành biện pháp quan trọng nhất để đảm bảo an toàn vốn vay. Các biện pháp bảo đảm tiền vay gồm có:
Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay
Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3
Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Hiện nay, hình thức bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay do khá phức tạp và rắc rối , khó khăn trong việc định giá và quản lý tài sản hình thành từ vốn vay nên cả khách hàng và NH đều không muốn áp dụng. Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3 thì thường gặp phải thái độ phản đối không sẵn sàng giao tài sản hoặc thực hiện nghĩa vụ đã cam kết với NH của bên bảo lãnh, do đó nếu chi nhánh đồng ý với hình thức bảo đảm này thì trong hợp đồng bảo lãnh phải quy định cụ thể và rõ ràng nghĩa vụ của bên bảo lãnh: " cam kết một cách vô điều kiện ngay khi có yêu cầu bằng văn bản của NHNT HN trả nợ thay cho bên được bảo lãnh và thực hiện ngay các biện pháp bảo đảm bằng tài sản trong thời hạn bảo lãnh".Tuy nhiên cả hai hình thức này có tính khả thi không cao lắm với NH về mức độ đảm bảo nên phổ biến hiện nay NH áp dụng biện pháp cầm cố thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay.Tình hình thực tế cho thấy đây cũng không phải là biện pháp dễ dàng thực hiện vì tình trạng phổ biến chung của các NHTM là khó khăn trong việc xử lý tài sản thế chấp nên để khắc phục những khó khăn này NHNT HN đã có những quy định cụ thể hoá thêm một số điểm trong Thông tư số 06/2000/NHNN1 hướng dẫn thực hiện nghị định số 178/1999/NĐ-CP để hạn chế bớt rủi ro có thể xảy đến đối với món vay.
Điều kiện đối với tài sản bảo đảm tiền vay: Chi nhánh NHNT HN tạm thời không nhận một số tài sản sau làm tài sản bảo đảm :
các tài sản cầm cố không có đăng ký quyền sở hữu mà chi nhánh không thể nắm giữ tài sản.
quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền phát sinh từ hợp đồng.
quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp
không nhận thế chấp quyền sử dụng đất và công trình xây dựng trên đất một cách riêng rẽ.
Chi nhánh hạn chế nhận thế chấp đối với quyền sử dụng đất thuê.
Sở dĩ NHNT HN không nhận một số tài sản trên là do khả năng chuyển nhượng của nhiều tài sản hiện nay thấp và NH khó quản lý được tài sản và những tài sản trên lại mang tính "trừu tượng", các văn bản pháp lý liên quan đến việc quản lý và sử dụng những tài sản này còn rất ít và thiếu chặt chẽ.Nếu chấp nhận những tài sản này làm tài sản bảo đảm thì cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận trước rủi ro. Chính vì vậy, tạm thời chưa chấp nhận những tài sản trên là việclàm rất cần thiết cho việc phát huy hiệu quả của biện pháp bảo đảm tiền vay này. Song chi nhánh không áp dụng một cách cứng nhắc mà có linh hoạt để không bỏ lỡ một khoản vay tiềm năng nào: Nếu chi nhánh thấy việc nhận các tài sản trên làm tài sản bảo đảm có tính khả thi , có thể chuyển thành tiền một cách dễ dàng và chắc chắn ( có tính thanh khoản cao) thì sẽ xem xét và trình tổng giám đốc quyết định.
Về thủ tục cầm cố ,thế chấp tài sản : Trong khi vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể thi hành nghị định 08/2000/ NĐ-CP ngày 10-03-2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm, chi nhánh được chủ động xem xét việc thoả thuận với khách hàng vay vốn về việc công chứng hoặc không công chứng đối với tài sản bảo đảm, khi nào có hướng dẫn cụ thể về đăng ký giao dịch bảo đảm thì sẽ thực hiện theo quyết định đó. Nhưng vì ở Việt Nam cơ chế công chứng tự nguyện không bảo đảm được độ an toàn nên để đảm bảo chắc chắn , an toàn là trên hết, chi nhánh yêu cầu tất cả các tài sản bảo đảm đều phải công chứng( trừ trường hợp tài sản bảo đảm là bất động sản có giá trị thấp).
Giải thích bổ xung đối với khách hàng vay: việc cầm cố thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản thế chấp của đơn vị hạch toán phụ thuộc phải có thêm văn bản xác nhận của pháp nhân cho phép thực hiện và được phép phát mại khi đơn vị hạch toán phụ thuộc không trả được nợ. Đơn vị hạch toán phụ thuộc của pháp nhân phải có xác nhận bằng văn bản của pháp nhân về việc đơn vị hạch toán phụ thuộc được phép vay vốn tại chi nhánh và cam kết củ pháp nhân trả nợ thay trong trường hợp đơn vị hạch toán phụ thuộc không trả được nợ.
Đề ra những tiêu chí cụ thể như vậy tuy có khắt khe hơn so với nghị định của chính phủ và nó có thể làm ảnh hưởng tới số lượng khách hàng của chi nhánh nhưng đó lại là những quy định rất cần thiết để đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng của chi nhánh. Hơn nữa với phương châm" đi vay để cho vay" thì chi nhánh càng phải đặt sự an toàn lên hàng đầu, thà mất đi một số khách hàng mà kinh doanh thuận lợi còn hơn là mở rộng khách hàng nhưng độ rủi ro cũng tăng lên cùng với lượng khách hàng đó.
Xác định mức rủi ro cao nhất cho từng khách hàng (xác định giới hạn TD)
Giới hạn TD của một khách hàng là tổng mức dư nợ TD tối đa mà NHNT chấp nhận giao dịch đối với khách hàng trong một thời kỳ(1năm), thể hiện quan điểm đánh giá rủi ro của NHNT đối với khách hàng đó.Nói cách khác, giới hạn TD là mức rủi ro cao nhất mà NHNT chấp nhận đối với khách hàng đó trong 1 năm tiếp theo. Rõ ràng, giới hạn TD của một khách hàng phụ thuộc vào mức độ rủi ro của chính khách hàng đó.
Trước kia, chi nhánh xác định hạn mức TD tối đa đối với một khách hàng, chủ yếu chỉ xác định đến hoạt động cho vay và việc xác định hạn mức TD tiến hành dựa trên đề nghị của khách hàng là chính và tiến hành dơn lẻ. Do đó, trong trường hợp khách hàng có nhiều loại giao dịch TD (đặc biệt là các khách hàng lớn) thì hạn mức TD không phản ánh đầy đủ các mức độ rủi ro của khách hàng đó đối với NH. Giới hạn TD được xác định bao gồm tất cả các giao dịch làm phát sinh nghĩa vụ nhận nợ của khách hàng đối với NH, bao gồm dư nợ cho vay, số dư bảo lãnh và L/C miễn ký quỹ, cho vay chiết khấu, cho vay thấua chi…So với hạn mức TD, giới hạn TD có phạm vi rộng hơn và tổng hợp hơn, hơn nữa nó còn nhằm nâng cao chất lượng quản trị TD và hạn chế rủi ro về việc xác định giới hạn TD dựa trên đánh giá mức độ rủi ro tổng thể của khách hàng. Công tác này được chi nhánh duy trì thường xuyên và cho phép nắm rõ tình hinh khách hàng của mình.
Vấn đề trung tâm của công tác xác định giới hạn TD là làm thế nào để đánh giá khả năng trả nợ và cán bộ TD phải phân tích các khía cạnh cơ bản như: phân tích thông tin tài chính, rủi ro ngành hàng, rủi ro DN…Sau khi phân tích và đánh giá tất cả các khía cạnh nêu trên, cán bộ TD cần phải xác định giới hạn TD cho khách hàng trong thời gian 1 năm tiếp theo. Hiện nay NHNT HN đang triển khai xây dựng mô hình cho phép lượng hoá mức độ rủi ro của từng khách hàng.Từ cách xây dựng giới hạn TD của chi nhánh, có thể rút ra một số điểm lưu ý sau:
Giới hạn TD cao hay thấp phụ thuộc vào khả năng kiểm soát của chi nhánh đối với khách hàng, thể hiện thông qua các vấn đề: khả năng kiểm soát các tài sản đảm bảo, mối quan hệ thường xuyên giữa khách hàng và chi nhánh.
Giới hạn TD phụ thuộc vào quan điểm của chi nhánh trong quản lí danh mục đầu tư theo ngành hàng. Thông thường, để giảm thiểu rủi ro ,chi nhánh không nên tập trung đầu tư quá nhiều vào một số ít ngành hàng mà cần đa dạng hoá sang các lĩnh vực khác nhau.
Sau khi đưa ra các giả định nhằm ước tính tình hình kinh doanh năm tới của DN và xác định giới hạn TD, cán bộ TD phải thưòng xuyên nắm tình hình hoạt động của DN đó và đối chiếu với các giả định đưa ra. Đến cuối kỳ, cần phải so sánh mức thực hiện thực tế của DN với mức mà mình đã dự đoán để phân tích mức độ xác thực của các dự đoán. Việc này sẽ có tác dụng nâng cao chất lượng dự đoán cho những năm tiếp theo.
Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động
Mục đích của việc quy định các tỷ lệ này là để đảm bảo duy trì khả năng thanh toán của chi nhánh có tính đến việc sử dụng các nguồn vốn, tài sản, xác định mức độ rủi ro của các loại tài sản, xác định những tỷ lệ hợp lý nhất và an toàn cho hoạt động của chi nhánh.Nếu chi nhánh chỉ đánh giá khách hàng và mức độ rủi ro của các khoản vay mà quên đi mất khả năng tài chính của mình thì sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối giữa thu và chi.Hơn nữa, như trên cũng đã đề cập, chi nhánh thực hiện đa dạng hoá mở rộng hoạt động theo phương châm" đi vay để cho vay" , do đó rất cần thiết phải tính toán một tỷ lệ hợp lýgiữa kỳ hạn thu nợ và kỳ hạn trả nợ, giữa tài sản Có và tài sản Nợ…để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán. Chính vì thế , chi nhánh quy định phải thường xuyên duy trì 3 tỷ lệ đảm bảo an toàn sau:
Tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung và dài hạn= 25%
Kết thúc ngày làm việc, chi nhánh phải duy trì cho ngày làm việc tiếp theo tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tài sản Có có thể thanh toán ngay so với các loại tài sản Nợ phải thanh toán ngay.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu= 8% giữa vốn tự có so với tài sản Có, kể cả các cam kết ngoại bảng được điều chỉnh theo mức độ rủi ro.
Sở dĩ cần phải quy định những tỷ lệ trên vì đó đều là những tỷ lệ liên quan đến những nguồn tài sản , nguồn vốn ngắn hạn có tính thanh khoản cao. Một sự tăng lên hay giảm xuống của những tài sản này đều có thể xảy ra trong thời gian ngắn và bất ngờ nên có ảnh hưởng ngay lập tức tới khả năng chi trả của NH. Việc tuân thủ nghiêm túc và duy trì chính xác tỷ lệ này vì thế cũng là một trong những biện pháp rất quan trọng để hạn chế rủi ro TD của NH.
Thực hiện phân tán rủi ro
Trong bất kỳ ngành kinh doanh nào, đặc biệt là kinh doanh tiền tệ, rủi ro là điều khó tránh khỏi và dường như không thể tránh khỏi bởi tính chất bất ngờ và khólường trước của nó. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tối thiểu hoá những rủi ro đó mà vẫn đồng thời đạt được mục tiêu lợi nhuận. Phân tán rủi ro TD chính là việc chi nhánh thực hiện nguyên tắc kinh điển trong kinh doanh:"không nên bỏ tất cả số trứng của bạn vào một rổ". Hiện nay chi nhánh chọn những cách phân tán rủi ro như sau:
Đa dạng hoá đối tượng đầu tư
Đây là biện pháp tốt nhất và chủ động nhất của chi nhánh trong việc phân tán rủi ro , chia nguồn tiền của mình vào nhiều loại hình đầu tư, nhiều ngành nghề khác nhau cũng như nhiều khách hàng ở nhiều điạ bàn khác nhau. Việc này vừa mở rộng được phạm vi hoạt động TD của NH, khuếch trương thanh thế, vừa đạt được mục đích phân tán rủi ro. Để thực hiện được điều này, chi nhánh lập kế hoạch kinh doanh thích hợp từng giai đoạn trên cơ sở quán triệt các vấn đề sau:
Đầu tư vào nhiều ngành kinh tế khách nhau để tránh sự cạnh tranh của các tổ chức TD khác trong việc giành giật thị phần trong phạm vi hẹp của một số ngành đang phát triển cũng như tránh gặp phải rủi ro do những chính sách của Nhà nước với mục đích hạn chế hoạt động của một số ngành nghề nhất định trong kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế. Hiện nay đối tượng khách hàng chủ yếu của chi nhánh là thuộc ngành sản xuất và thương mại. Chi nhánh đang lập kế hoạch đầu tư và mở rộng sang ngành chế biến thực phẩm và khai thác dầu than. Đây là những ngành hiện đang được đánh gía là có tốc độ tăng trưởng cao , tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của ngành chế biến thực phẩm là 16.2, của ngành khai thác dầu than là 14.1- những tỷ lệ cao so với các ngành khác.
Tránh cho vay quá nhiều đối với một khách hàng, luôn đảm bảo một tỷ lệ vay nhất định ,chỉ cho vay theo giới hạn TD đã được xác định cho mỗi khách hàng.
Cho vay với nhiều loại thời hạn khác nhau, bảo đảm sự cân đối giữa số vốn cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, đảm bảo sự phát triển vững chắc và tránh rủi ro TD do sự biến đổi của lãi suất thị trường.
Tạo lập một tỷ lệ thích hợp giữa cho vay bằng nội tệ và cho vay bằng ngoại tê theo từng thời kỳ, đảm bảo đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, tránh được rủi ro TD do sự biến đổi của tỉ gía hối đoái.
Cho vay đồng tài trợ
Đây là hình thức TD khá mới mẻ đối với các NHTM Việt Nam.Mới mẻ không phải bởi loại hình TD mà mới ở chỗ mới chỉ có ít NHTM thực hiện nghiệp vụ cho vay đồng tài trợ này( còn gọi là hình thức cho vay hợp vốn). Trên thực tế có những DN có nhu cầu vay vốn rất lớn mà chi nhánh không đáp ứng được , thường là nhu cầu đầu tư cho các dự án lớn và khó xác định mức độ rủi ro có thể xảy ra (như các dự án đầu tư mua sắm trang thiết bị phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng thành phố, dự án phát triển nông nghiệp..). Trong trường hợp này, nếu các NH cùng nhau liên kết để thẩm định dự án, cho vay và thì hiệu quả sẽ cao hơn và các bên có thể san sẻ bớt rủi ro , nâng cao ý thức nghĩa vụ và quyền lợi mỗi bên. Trong thời gian qua, NHNT HN đã triển khai thử nghiệm một vài khoản vay hợp vốn với các NHTM Nhà nước khác, rất thành công và rất hiệu quả (đạt mức dư nợ 61,635 tỷ trong năm 2001, trong đó đáng kể nhất là cho vay đồng tài trợ dự án vùng nguyên liệu dứa đóng hộp xuất khẩu với chi nhánh NHNn&PTNT thành công).
Tổ chức phân tích xếp loại tín dụng doanh nghiệp và xem xét lại TD
Việc phân tích TD chính là xác định các yếu tốt về lượng của nhu cầu vay vốn TD. ở đây, NH sẽ xây dựng quy mô của nhu cầu vay hợp lí, mà điều này phụ thuộc khả năng hoạt động của khách hàng, quy mô nguồn vốn cần thiết để thực hiện phương án tài chính . Mục tiêu của phân tích TD là dự kiến những rủi ro có thể xảy ra đối với những khoản TD sẽ cấp. Vì vậy sau khi phân tích cần phải xếp hạng rủi ro khách hàng theo những tiêu chí nhất định. Hiện tại, chi nhánh tiến hành phân tích và xếp loại TD theo các bước sau:
Thu thập và xử lý thông tin thông qua bảng cân đối kế toán, bảng kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình quan hệ TD với các NH khách và các thông tin phi tài chính khác.
Phân loại ngành kinh tế của DN: theo 4 nhóm ngành kinh tế lớn: Nông nghiệp-lâm nghiệp và ngư nghiệp- thương mại &dịch vụ- sản xuất CN và xây dựng cơ bản.
Phân loại doanh nghiệp theo quy mô: dựa trên 4 chỉ tiêu: mức vốn kinh doanh, doanh thu, tổng số lao động, nộp thuế.
Phân tích các chỉ tiêu cơ bản:
chỉ số tài chính: khả năng thanh toánh nhanh, khả năng thanh toán hiện tại, tốc độ tăng trưởng doanh thu, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, hệ số lợi nhuận ròng, hệ số lợi nhuân/ tài sản. hệ số lợi nhuận/ vốn chủ sỏ hữu, tỷ lệ chi phí quản lý, số ngày phải thu, số ngày phải trả, số ngày hàng tồn kho, vòng quay tài sản có, hệ số đòn bảy, hệ số Nợ ngắn hạn / tổngnợ.
chỉ tiêu phi tài chính: các yếu tố đặc thù về quá trình sản xuất, kinh doanh của khách hàng(nếu có); chất lượng của bộ máy quản lý; tình hình phát triển ngành hàng, vị trí, uy tín của khách hàng trên thị trường tiêu thụ; thị trường tiêu thụ chủ yếu của khách hàng(giá cả, đối thủ cạnh tranh chính); các yếu tố có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của khách hàng trong thời gian tới( nếu có).
Đối chiếu bảng tính điểm để xác định điểm cho chỉ tiêu (dựa vào bảng tiêu chuẩn đánh gía các tỉ số tài chính của trung tâm thông tin TD - CIC)
Kiểm tra lại và đưa kết quả phân tích , nhận xét,đánh giá và kiến nghị.
Một công việc nữa cũng hết sức quan trọng là việc tổ chức xem xét lại các khoản TD đó theo thời hạn nhất định. Việc xem xét lại TD trong phạm vi một ngân hàng được coi là công tác thanh tra, kiểm soát nội bộ , đảm bảo hoạt động TD được an toàn, đúng hướng, có hiệu quả. Hiện nay, NHNT HN tuân theo định kỳ xem xét lại TD theo quy định của NHNT VN: định kỳ xem xét phụ thuộc vào hạng TD. Nếu được xếp vào hạng tốt nhất, định kỳ xem xét lại là 360 ngày, còn đối với các khoản TD có độ rủi ro cao định kỳ là 30 ngày.
Mục đích của việc phân tích xếp loại TD DN là đưa ra nhận xét đánh giá tình hình hoạt động và khả năng sinh lời, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai của DN nhằm xác định khả năng thu hồi vốn của NH, lường trước được các rủi ro có thể xảy ra trong kinh doanh để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời, giúp các NHTM với tư cách là nhà đầu tư vốn đưa ra các quyết định thích hợp nhằm bảo vệ quyền lợi của mình.
Trích lập quỹ dự phòng rủi ro
Về thực chất, quỹ dự phòng rủi ro không phải để nhằm hạn chế rủi ro mà nó chỉ có tác dụng "dự phòng", nhằm giảm bớt thiệt hại xảy ra đôí với chi nhánh và để khắc phục khả năng tài chính cho chi nhánh.Từ năm 1998 trở về trước, chi nhánh trích lợi nhuận sau thuế theo một tỷ lệ% nhất định do chi nhánh tự quy định ra cho phù hợp với quy mô TD và mức độ rủi ro trung bình của ngành ngân hàng.Từ khi có quyết định số 48/1999/QĐ-NHNN về việc trích lập và sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động NH, chi nhánh đã thực hiện đúng theo sự chỉ đạo hướng dẫn của NHNT Việt Nam. Nguồn kinh phí của quỹ được trích từ lợi nhuận trước thuế, mức trích quỹ cần thiết tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro của tài sản Có mà chủ yếu là các khoản cho vay, tức là tuỳ thuộc vào thời gian quá hạn của khoản vay và tuỳ thuộc vào việc khoản vay đó có bảo đảm hay không có bảo đảm. Các khoản trích lập quỹ được tính như sau: chi nhánh phải trích 20% dư nợ của khoản vay có bảo đảm đã quá hạn trả nợ dưới 6 tháng và cũng mức đó đôí với khoản vay không có bảo đảm đã quá hạn dưới 3 tháng. Chi nhánh còn phải trích 50% dư nợ của khoản vay có bảo đảm quá hạn từ 6-12 tháng và đối với khoản vay không có bảo đảm quá hạn từ 3-6 tháng. Đối với những khoản vay không có bảo đảm quá hạn từ 6 tháng trở lên, chi nhánh phải trích lập quỹ dự phòng 100%. Khoản dự phòng rủi ro này được tính vào chi phí hoạt động và trường hợp thu hồi được vốn đã được xử lý bằng khoản dự phòng rủi ro , số tiền thu hồi này được coi là doanh thu.
Tỷ lệ trích lập quỹ dự phòng trên là hợp lý và rất chính đáng để tránh cho doanh nghiệp không phải lúng túng khi có những khoản nợ quá hạn xảy ra. Hình thức trích lập quỹ dự phòng rủi ro là một hình thức tự bảo hiểm cho chi nhánh, đó là một việc làm thiết thựcvà khôngthể không làm trong điều kiện hiện nay để đảm bảo an toàn hoạt động nên được chi nhánh thực hiện tốt.
Một số kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại các NHTM VN
Trong quá trình phân tích và tìm ra những nguyên nhân dẫn đến rủi ro TD của các NHTM mà lấy điểm nghiên cứu cụ thể tại chi nhánh của một trong những ngân hàng lớn mạnh nhất Việt Nam hiện nay, em thấy có một vài ý kiến sau và cũng mong rằng thông qua đó góp phần nhỏ bé đưa ra được những biện pháp hữu ích và thực tế cho các NHTM nước ta.
Về phía Chính phủ
Điều cần làm nhất hiện nay là sửa đổi và bổ xung một số nghị định để nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại, cụ thể xem xét lại những vấn đề sau:
Nhanh chóng sửa đổi NĐ 178/ 1999/NĐ-CP để sao cho các quy định về bảo đảm tiền vay phù hợp với thực tiễn và bảo đảm lợi ích của các bên trong giao dịch bảo đảm, đó là về các vấn đề:
Hoàn thiện cơ chế xác định giá trị tài sản thế chấp,cụ thể đối với tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất mà doanh nghiệp đi thuê.
Đẩy mạnh tính khả thi của các quy định liên quan đến việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực bảo đảm tín dụng.
Quy định về phạm vi bảo đảm tài sản : do quy định giá trị của tài sản bảo đảm tiền vay phải lớn hơn giá trị khoản vay nên có trường hợp một khoản vay được đảm bảo bằng nhiều tài sản. Khi ngân hàng phải xử lý tài sản đảm bảo, ngân hàng có thể chỉ phải bán một tài sản ví dụ như một bất động sản trong khối tài sản bảo đảm là đã đủ để thu hồi nợ (cả gốc và lãi) vì giá trị tài sản bất động sản hiện nay rất cao so với thời điểm khách hàng vay vốn.Cho nên quy định này không hợp lý ở chỗ nếu khách hàng vay không có khả năng trả nợ đến hạn thì tất cả khối tài sản đảm bảo của anh ta sẽ bị xử lý
Trong Bộ luật dân sự, nên đưa danh sách những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu. Nếu họat động đăng ký quyền sở hữu đối với các tài sản được tiến hành tốt, hiệu quả của hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm sẽ chắc chắn được nâng cao, quyền lợi của các chủ nợ cũng sẽ được bảo đảm tốt hơn.
Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng TD: Theo khoản 2-Đ16-NĐ 165/1999/NĐ-CP quy định: " giao dịch bảo đảm bị vô hiệu không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp giao dịch bảo đảm là điều kiện có hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm". Như đã phân tích trong phần nguyên nhân dẫn đến rủi ro TD do môi trường pháp lý, đây là điều bất hợp lý. Do đó quy định này nên sửa lại thành:"giao dịch bảo đảm bị vô hiệu không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm", chứ không quy định thêm các trường hợp loại trừ.
Vấn đề xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các tổ chức TD theo thông tư liên tịch số 03/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC. Có thể nói đây là một văn bản quy định đầy đủ và tương đối cụ thể nhiều vấn đề liên quan đến trình tự thủ tục xử lý các tài sản đảm bảo để thu hồi nợ cho các tổ chức TD, song vẫn còn một số vấn đề sau:
Thứ nhất: về quyền bán đấu giá quyền sử dụng đất .Trong Đ2.1 mục II phần B có quy định các tổ chức TD được phép bán đấu giá trực tiếp tài sản bảo đảm trừ tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và các tài sản khác mà pháp luật quy định phải được bán đấu giá tại các tổ chức bán đấu giá chuyên trách.Vậy ở đây "tài sản khác" là tài sản gì, tại sao không quy định cụ thể tất cả các trường hợp phải được bán đấu giá tại cơ quan bán đấu giá chuyên trách để các tổ chức TD áp dụng thống nhất?
Thứ 2: Khi cơ quan bán đấu giá tài sản tiến hành bán đấu giá, nếu bên bảo đảm không đồng ý giao tài sản , cơ quan bán đấu giá lại không có chức năng cưỡng chế giao tài sản, dẫn đến việc đấu giá không thành thì ai sẽ chịu lệ phí bán đấu gía? Hơn nữa lại làm mất thời gian và chi phí của NH. Nên chăng bỏ quy định phải uỷ quyền bán đấu giá quyền sử dụng đất cho cơ quan bán đấu giá chuyên trách và để tổ chức TD phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện( bao gồm cả việc tổ chức bán và cưỡng chế giao tài sản ) có lẽ phù hợp với thực tế hơn.
Thứ 3 : liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất của hộ gia đình và cá nhân nông dân thì tổ chức TD chỉ được xử lý chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các tổ chức, còn quyền sử dụng đất của hộ gia đình và cá nhân nông dân thì không được chuyển nhượng. Điều này sẽ gây khó khăn cho các tổ chức TD thuộc các tỉnh hiện nay khi mà dư nợ trên 80% tài sản thế chấp của hộ gia đình, cá nhân nông dân là quyền sử dụng đất .Nếu không cho xử lý hoặc chuyển nhượng thì tổ chức TD không thể tiếp tục cho hộ gia đình, cá nhân nông dân vay vốn được nữa. Đây là vấn đề cần được các cơ quan chức năng xem xét.
Thứ 4: trách nhiệm của UBND và cơ quan công an. Tại điểm 2,3 mục XI phần B có đề cập đến trách nhiệm của UBND và cơ quan công an nơi cư trú của bên bảo đảm hoặc nơi có tài sản bảo đảm của bên bảo đảm hỗ trợ tổ chức TD trong việc áp dụng các biện pháp cần thiết để buộc bên giữ tài sản bảo đảm giao tài sản cho tổ chức TD. Tuy nhiên thực tế các tổ chức TD chỉ có thể mời được chính quyền địa phương hỗ trợ trong việc xử lý tài sản,còn vấn đề mời cơ quan công an tham gia là một vấn đề khó khăn, bởi theo quy định của ngành công an, cơ quan công an chỉ tham gia cưỡng chế khi có quy định cưỡng chế của cơ quan Nhà nước theo quyết định của Toà án thi hành án mà thôi. Ngành công an cần xem xét lại và có quyết định thống nhất từ trên xuống để cơ quan công an địa phương có biện pháp hỗ trợ các tổ chức TD trong quá trình xử lý thu hồi nợ.
Để có được môi trường pháp lý hoàn thiện thì việc hết sức cần thiết là Nhà nước cần tạo lập ra một môi trường kinh doanh làm mạnh cho các doanh nghiệp thông qua việc phát triển một nền kinh tế có độ ổn định cao, từ đó đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn TD mà NH cấp cho nền kinh tế. Hiện nay, chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới và hoàn thiện, do đó việc thay đổi tất yếu không tránh khỏi. Song, để đảm bảo có được sự ổn định tương đối cho hoạt động của các DN trong đó có hoạt động của các NHTM thì việc thay đổi cơ chế chinh sách hoặc ban hành cơ chế mới cần nghiên cứu một cách thận trọng tới sự tác động của nó tới các doanh nghiệp (như trường hợp công ty xuất khẩu mây tre Hà Nội đã đề cập đến ở chương II), nên có những bước đệm để tránh việc áp dụng đột ngột hoặc có những giải pháp thiết thực tháo gỡ những khó khăn gây ra khi có sự chuyển đổi điều chỉnh cơ chế chính sách liên quan đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế.
Về phía Ngân hàng Nhà nước
Hiện nay các văn bản về phân tích tín dụng và đo lường rủi ro còn chưa được ban hành đầy đủ hoặc nhiều văn bản đã không còn phù hợp cần sửa đổi hoặc thay thế. Ví dụ như việc phân tích hoạt động kinh tế và xếp loại doanh nghiệp hiện nay, các ngân hàng thương mại vẫn đang áp dụng theo công văn số 180/CV-TD 3 ngày 20.06.1994 của vụ tín dụng ngân hàng nhà nước Việt Nam trong khi đó chế độ kế toán doanh nghiệp đã thay đổi, cho nên phần lớn nội dung của công văn này không còn phù hợp trong thực tế.. Trong khi đó, trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại nhiều câu hỏi như: Tỷ lệ giữa số nợ và vốn tự có bao nhiêu là lý tưởng, trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam khả năng thanh toán nhanh, thanh toán chung và thanh toán cuối cùng của các doanh nghiệp bao nhiêu là đảm bảo hay tỉ suất sinh lời kinh tế, sinh lời tài chính của ngành này hay lĩnh vực kia bao nhiêu là hợp lý, tỷ trọng rủi ro khi đầu tư tín dụng vào các ngành là bao nhiêu..? Do đó ngân hàng nhà nước cần tập hợp và ban hành thống nhất các văn bản về phân tích tín dụng và đo lường rủi ro để các ngân hàng thương mại có cơ sở xây dựng các quy trình tín dụng cụ thể của mình đồng thời có cơ sở đánh giá và ra quyết định cho vay.
ở Mỹ có một số tổ chức như : Robert Moris Associates .. hàng năm xuất bản một tập tài liệu dày khoảng 1.000 trang, cung cấp tất cả những chỉ số tài chính quan trọng của các tập đoàn và công ty có qui mô khá và trung bình, được xếp theo từng ngành, nghề và doanh thu. Các chủ doanh nghiệp có thể căn cứ vào đó để so sánh các chỉ số tài chính của công ty mình. Đồng thời các ngân hàng cũng có thể dựa vào đó để so sánh cơ cấu tài chính của khách hàng khi cho vay. Trung tâm thông tin tín dụng CIC của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nên học tập mô hình của những tổ chức như vậy trên thế giới để có thể có những tổng hợp, tổng kết và xuất bản những tập tài liệu tương tự.
- Đơn giản hoá thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý nợ đọng:NHNN đã có quyết định 488/ 1999/ QĐ- NHNN hướng dẫn các NHTM lập hồ sơ pháp lý để xử lý xoá nợ đối với các khoản nợ từ năm 1995 trở lại đây. Còn đối với những khoản nợ quá hạn khó đòi của các doanh nghiệp đã giải thể từ năm 1995 trở về trước do nguyên nhân khách quan của nền kinh tế hoặc do cơ chế thay đổi phải lập rất nhiều hồ sơ, qua xác minh của cơ quan tài chính, cơ quan ra quyết định thành lập doanh nghiệpđể chứng minh không có khả năng trả nợ hoặc không còn tài sản để có thể xoá nợ. Mặt khác, sau khi đã có đủ hồ sơ, việc xem xét giải quyết những khoản nợ này được thực hiện bởi liên bộ( NHNN-Bộ tài chính-Thanh tra Nhà nước) nên thời gian kéo dài và qua nhiều thủ tục hành chính khá phức tạp. Đây cũng là một vấn đề mà NHNN cần kết hợp với Chính phủ để đơn giản hoá thủ tục và thúc đẩy nhanh tiến độ xử lý tồn tại TD này.
- Về cơ chế chuyển lại nợ vay giữa ngoại tệ và đồng Việt Nam: các DN đã vay ngoại tệ để đầu tư trung và dài hạn vào các dự án sản xuất kinh doanh nhưng không có nguồn thu ngoại tệ để trả nợ đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc trả nợ bằng ngoại tệ và phải "chịu trận" do tỷ giá ngoại tệ liên tục tăng.Rủi ro do tỉ giá mà DN gặp phải rất có thể dẫn đến rủi ro TD cho các NH cho vay, do đó NHNN cần xem xét đến vấn đề có một cơ chế tháo gỡ cho các DN khỏi các khó khăn do rủi ro tỉ giá mang lại. cho phép các NHTM có thể chuyển từ nợ ngoại tệ sang nợ nội tệ có tính đến một tỷ lệ lãi phạt nhất định.
- Cho phép thực hiện cơ cấu lại nợ dài hạn cũ: tại điều 5 chỉ thị 09/ CT-NHNN ngày 27/8/1997 của Thống đốc NHNNvề việc xác định lại thời hạn dư nợ đối với các khoản dã cho vay: chỉ cho phép chuyển các khoản nợ ngắn hạn (dưới 1năm) hoặc trung hạn (1-3năm) trước đây sang loại cho vay vốn có thời hạn từ 1-5 năm và tín dụng dài hạn (có thời hạn từ 5 năm trở lên),còn đối với các khoản cho vay dài hạn trước đây (trên 3 năm) thì không được xác định lại thời hạn nợ. Quy định này đã không giúp các NHTM có những khoản vay dài hạn trước đây có khả năng cơ cấu lại nợ cho các DN.Trong khi đó vì trước đây các NHTM phải gò ép cho vay dài hạn các dự án với thời gian ngắn (thường là 4 năm do khó khăn về nguồn vốn và tâm lý muốn thu hồi vốn nhanh) nên không phù hợp với khả năng hoàn vốn của dự án, đến nay các dự án này gặp nhiều khó khăn trong việc thu nợ. NHNN nên xem xét việc cho phép thực hiện cơ cấu lại các khoản nợ đã cho vay dài hạn theo cơ chế TD cũ được điều chỉnh thời hạn cho vay phù hợp với các quy định mới về cho vay hiện nay cũng như phù hợp với khả năng hoàn vốn của các dự án.
- Tăng cường công tác kiểm tra giám sát các NHTM: Mục tiêu quan trọng của NHNN với tư cách là NHTW là ổn định giá trị đồng tiền, góp phần đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức TD, do đó NHNN có nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra hoạt động các NH. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của nềnkinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Hoạt động của các NH sẽ phát huy được hiệu quả khi nó được thanh tra, giám sát chặt chẽ.Kết quả những đợt kiểm tra chính là những tín hiệu vô cùng quan trọng để tăng cường ngăn chặn những xu hướng tiêu cực có thể xảy ra. Sự kiểm soát thường xuyên của thanh tra NHNN và sự kiểm toán định kỳ của các cơ quan kiểm toán độc lập phải đi đôi với các biện pháp buộc các NHTM tuân thủ nghiêm túc các khuyến nghị hay xử lý sau công tác thanh tra, kiểm tra.Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, quyền tự quyết của mỗi tổ chức tín dụng được mở rộng thì vấn đề tăng cường kiểm tra giám sát chặt chẽ từ phía cơ quan có chức năng quản lí Nhà nước càng có ý nghĩ quan trọng,là một trong những yếu tố cơ bản đảm bảo sự an toàn có tính hệ thống cho hoạt động của các NHTM.
Về phía các NHTM
Chuẩn hoá cán bộ NH, đặc biệt là cán bộ TD cả về tư cách đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn
Con người luôn là yếu tố trung tâm quyết định hiệu quả trong mọi hoạt động kinh doanh.Việc đào tạo được một đội ngũ cán bộ TD có trình độ nghiệp vụ cao, có đạo đức và tinh thần trách nhiệm tốt đối với công việc là một trong những biện pháp rất quan trọng để hạn chế rủi ro do nguyên nhân chủ quan. Bởi thế công tác đào tạo cán bộ phải được coi là một trong những nền tảng quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi NH và cần chú trọng vào :
Đầu tư thích đáng cho công tác đào tạo cán bộ,xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ ngay từ khi mới được tuyển dụng cả về chuyên môn, đạo đức.
có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại .đào tạo ngắn hạn và dài hạn, đào tạo chuyên sâu và toàn diện các mặt như luật pháp, tài chính, kế toán, marketing
thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ, cử cán bộ đi học tập ở trong và ngoài nước để có được một đội ngũ cán bộ đủ mạnh chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh sẽ hết sức khó khăn đối với các ngân hàng khi bước vào hội nhập.
tổ chức những hội thi nghiệp vụ hoặc tổ chức những kỳ thi sát hạch để chọn lọc được những cán bộ có đủ năng lực, đồng thời khuyến khích họ không ngừng tự học hỏi , trau dồi kiến thức nghề nghiệp.
Nâng cao chất lượng tín dụng
Việc ban hành cơ chế nghiệp vụ tín dụng nên cân nhắc thận trọng tránh mâu thuẫn chồng chéo với các quy định của Nhà nước, đặc biệt đối với các đối tượng vay vốn do sự chỉ định của chính phủ, NH phải kết hợp hài hoà giữa chính sách ưu đãi và điều kiện cho vay, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo thu hồi vốn , lãi suất đúng hạn.
Cuối mỗi năm tài chính tổng kết lại các mô hình cho vay, chấn chỉnh các sau sót để lựa chọn ra hình thức cho vay bảo đảm để thu hồi vốn nhanh,tránh thất thoát và để tổng kết rút kinh nghiệm.
Hiện nay đang diễn ra tình trạng các NHTM cạnh tranh nhau bằng hình thức liên tục tăng lãi suất huy động vốn bằng nội tệ. Việc điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với tình hình kinh tế xã hội là cần thiết nhưng không nên quá nhiều lần làm ảnh hưởng đến tâm lí người gửi tiền, đặc biệt không huy động được vốn dài hạn, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng. Nhất là nền kinh tế thị trường nước ta đang trong giai đoạn phát triển ,nhu cầu đầu tư vốn dài hạn tăng nhanh.Nếu các NH huy động vốn trong thời hạn ngắn để đầu tư cho các dự án khả thi dài hạn thì sẽ gặp khó khăn trong việc tính toán vòng quay chu chuyển vốn, liên quan đến khả năng trả nợ của NH.
Thiết lập mô hình quản lí rủi ro
Cùng với quá trình toàn cầu hoá và đi kèm theo nó là tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế về ngân hàng, mức độ rủi ro chắc chắn ngày càng tăng, đặc biệt là rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro thanh toán và tất yếu cuối cùng là dẫn đển rủi ro tín dụng.Vì vậy việc mỗi NH tự lập riêng cho mình một mô hình quản lý rủi ro là việc làm cấp bách .Cho đến nay, một số NHTM Nhà nước ở Việt Nam bước đầu đã có mô hình quản lí rủi ro, đó là : Uỷ ban quản lý rủi ro NHNT VN ; Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn VN ; Phòng thông tin phòng ngừa và xử lý rủi ro NHCT VN ; Hội đồng quản lý rủi ro NH đầu tư và phát triển VN. Các NHTM khác nên học tập mô hình quản lý rủi ro tại các NH trên để từ đó lập cho mình mô hình thích hợp nhấtm song phải lưu ý "phòng hơn chữa", tránh thiên về biện pháp xử lý , tập trung vào các giải pháp nhằm dự báo và phòng ngừa rủi ro tổng thể cũng như cho từng loại rủi ro có thể xảy đến với hoạt động của ngân hàng.
Ngoài các kiến nghị mang tính hệ thống nói trên, em xin mạnh dạn đề đạt một số đóng góp sau tại chi nhánh NHNT HN :
Tiếp tục việc xác định một hướng kinh doanh đúng đắn trên cơ sở nghiên cứu kỹ tình hình thực tế tại địa bàn: Trước tiên phải thực hiện đa dạng hóa cho vay bằng việc mở rộng thị trường đầu tư: do hạn chế chỉ được hoạt động trong địa bàn Hà nội nên cũng sẽ là khó khăn cho ngân hàng ngoaị thương Hà nội trong việc mở rộng thị trường đầu tư của mình. Song bên cạnh việc tiếp tục phát huy đầu tư vào lĩnh vực kinh tế trọng như các nghành công nghiệp , sản xuất vật liệu xây dựng, du lịch...và ngoài việc đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước chi nhánh ngân hàng ngoại thương nên chú ý tới các đối tượng khách hàng sau:
Đối tượng khách hàng là các công ty liên doanh: hiện nay trên địa bàn có một số công ty liên doanh đã đi vào hoạt động và bước đầu làm ăn có hiệu quả do đó việc mở rộng đầu tư với các đối tượng này có một số thuận lợi. Đây chủ yếu là các liên doanh sản xuất hàng để xuất khẩu là chính do đó họ có nguồn thu ngoại tệ là tiền đề để cho vay ngoại tệ giải quyết tình trạng hiệu quả sử dụng vốn ngoại tệ hạn chế hiện nay, mặt khác việc chấp hành các qui định của luật pháp, các chế độ kế toán thống kê, báo cáo tài chính rất rõ ràng và luôn được kiểm toán là điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong quá trình thẩm định và quản lý vốn vay. Ngoài ra quan hệ tín dụng phát triển sẽ tạo điều kiện để các nghiệp vụ khác cùng phát triển như nghiệp vụ thanh toán quốc tế, nghiệp vụ huy động vốn...
Các công ty xuất khẩu thuỷ sản: đây là các công ty làm ăn có hiệu quả, trong thời gian qua, có nguồn thu ngoại tệ và thường xuyên sử dụng các nghiệp vụ thanh toán quốc tế qua Ngân hàng Ngoại thương Hà nội do đó cũng là những khách hàng rất có tiềm năng.
Tìm cách thu hút các khách hàng bưu điện, xăng dầu, điện lực, là những khách hàng tuy có cơ chế vốn tập trung với tổng công ty song cũng có những dự án nhỏ nằm trong thẩm quyền của các công ty địa phương, đây là những đơn vị sẽ có chất lượng đầu tư tốt.
Cho vay các đơn vị trúng thầu xây dựng: hiện nay việc xây dựng một số công trình hạ tầng quản trọng đang được tiến hành. Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội cần phải tiếp tục tiếp cận những đối tượng này.
Ngoài ra chọn lọc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả cho vay trước mắt cần xem xét các doanh nghiệp mới được cổ phần hóa .
Mở rộng cho vay cầm cố bằng sổ tiết kiệm, kỳ phiếu gửi tại Ngân hàng Ngoại thương và các ngân hàng khác trên địa bàn. Đây là những khoản cho vay có chất lượng cao không những hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng mà còn tác động tốt tới công tác huy động vốn (tạo thuận lợi cho những người gửi tiền tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội).
Tiếp tục nghiên cứu cơ cấu lại các khoản vay định thời hạn chưa phù hợp hoặc xử lý chuyển loại nợ vay để tránh rủi ro tỷ giá cho các đơn vị ngay sau khi Ngân hàng Nhà nước có cơ chế cho phép thực hiện các hoạt động này.
Tích cực thực hiện việc thu các khoản lãi treo, nhất là các khoản lãi treo phát sinh từ các khoản vay quá hạn đã được xử lý hoặc đang dược xử lý đồng thời xem xét áp dụng các quy định về miễn giảm lãi để chia sẻ rủi ro với khách hàng đồng thơì giải quyết dứt điểm các khoản lãi treo đã quá lâu và khó có khả năng thu hồi.
Việc thẩm định về mặt kỹ thuật các dự án và tài sản đảm bảo rất phức tạp, nhiều khi vượt quá khả năng của các cán bộ tín dụng do đó để đảm bảo chất lượng công tác thẩm định , trong những trường hợp cần thiết phải thuê các cơ quan chuyên môn thẩm định về mặt kỹ thuật của các dự án hoặc các tài sản đảm bảo.
Tiếp tụp phát triển nghiệp vụ Leasing vì thực trạng kinh tế Hà nội nhu cầu về máy móc thiết bị nhiều song hiện nay mới chỉ cung cấp nghiệp vụ cho vay thông thường đối với các doanh nghiệp.
Đồng thời với việc tiếp tục chú trọng xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt, chặt chẽ với các doanh nghiệp vay vốn cần phải đổi mới chính sách khách hàng: thu hút hơn nữa những khách hàng có chất lượng tới giao dịch mở rộng thị phần của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội trên cơ sở cung cấp các dịch vụ tiện ích, các công nghiệp ngân hàng hiện đại . Có chính sách ưu đãi những khách hàng có quan hệ trọn gói (tín dụng, thanh toán, kinh doanh ngoại tệ...) với ngân hàng từ đó nắm chắc hơn tình hình kinh doanh của khách hàng cũng như tạo điều kiện cho khách hàng kinh doanh hiệu quả giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Kết luận
Kinh doanh tiền tệ tín dụng trong điều kiện nền kinh tế nước ta như hiện nay, các ngân hàng thương mại gặp phải rất nhiều khó khăn và rủi ro. Thực trạng đó là kết quả tổng hợp của rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng để có thể tồn tại và phát triển đòi hỏi mỗi ngân hàng thương mại nói chung và chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nói riêng phải biết vượt lên chính mình, đẩy lùi những vướng mắc tồn tại trong kinh doanh, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất bằng nhiều biện pháp khác nhau. Song dù các giải pháp có hữu hiệu tới đâu chúng ta cũng chỉ có thể hạn chế rủi ro, chứ đặt vấn đề thủ tiêu rủi ro là hoàn toàn thiếu thực tế. Do vậy trong quá trình kinh tế đòi hỏi mỗi ngân hàng phải biết chấp nhận rủi ro ở một mức nhất định mà vẫn đảm bảo cho hoạt động ngân hàng mình ổn định và phát triển vững chắc.Theo quan điểm của cá nhân, em thấy biện pháp hữu hiệu nhất để rủi ro không xảy đến với cả ngân hàng cũng như các doanh nghiệp là bản thân các doanh nghiệp phải có các phương án kinh doanh và dự án đầu tư khả thi, có hiệu quả ngay từ đầu.
Trong thời gian tới nền kinh tế Việt Nam sẽ có rất nhiều chuyển kiến mạnh mẽ, khó khăn cũ có thể sẽ mất đi nhưng tất yếu có những khó khăn mới nẩy sinh. Yêu cầu đặt ra là phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa Chính phủ với Ngân hàng nhà nước và các Ngân hàng thương mại để có biện pháp chỉ đạo thích hợp nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng và bản thân chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội cũng cần phải có những biện pháp cụ thể và hiệu quả nhằm giải quyết những khó khăn mà mình đang và sẽ phải đối đầu.
Nhất định với những giải pháp hữu hiệu và đồng bộ, ngành ngân hàng nói chung và chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà nội nói riêng sẽ vững bước đi lên xứng đáng với vị trí của mình như Đại hội Đảng đã xác định "Ngân hàng là trung tâm tiền tệ tín dụng và thanh toán của các thành phần kinh tế,huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội,thúc đẩy sản xuất phát triển có hiệu quả, góp phần ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam".
Với thời gian và trình độ có hạn, kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều nên bản khoá luận không tránh khỏi thiếu sót, song em hi vọng những gì mình nghiên cứu trong bản luận văn này mang tính thực tế khả thi và đóng góp được những ý kiến thiết thực cho ngành Ngân hàng nói chung và Chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Hà nội nói riêng. Em cũng rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía các thầy cô và bạn đọc.
Cuối cùng em xin được gửi lời biết ơn sâu sắc tới các thầy cô trong khoa kinh tế ngoại thương, những người đã truyền đạt cho em được những kiến thức bổ ích mà em có được ngày hôm nay. Em cũng xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ của cô giáo-Th.s Trần thị Kim Anh , đặc biệt là các anh chị phòng tín dụng tổng hợp của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã hỗ trợ em rất nhiều trong quá trình thu thập và tìm tài liệu để có thể hoàn thành bài khoá luận tốt nghiệp này.
Tài liệu tham khảo
Ngân hàng thương mại- Edward W.Reed và Edward K.Gill- NXB thành phố Hồ Chí Minh.
Giáo trình Tín dụng ngân hàng- Học viện Ngân hàng-2001
Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng - Học viện Ngân hàng- 2000
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Đại học Ngoại thương-NXB Giáo dục.
Giáo trình Quản trị rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng - Học viện Ngân hàng- Nguyễn Văn Tiến.
Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương các số 101/2001; 104,108/2002
Tạp chí Ngân hàng các số năm 2001; số 5,6, 8 năm 2002
Thời báo Ngân hàng số 64/8-2002
Luật các tổ chức tín dụng-luật số 02/1997/ QH10
Các nghị định CP : NĐ 165/1999, NĐ 08/2000,NĐ178/1999, NĐ17/1999
Thông tư 06/ 2000-NHNN; Thông tư 1417/1999/TT-TCĐC
Các văn bản pháp lý của NHNT VN; Văn bản nghiệp vụ tín dụng- chi nhánh NHNT HN
Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2001, 9 tháng đầu năm 2002- NHNT HN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hang tcvn.doc