Nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng là một vần đề vô cùng quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường, nó không chỉ là vấn đề sống còn của ngân hàng thương mại mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc củng cố hoàn thiện và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn là một vần đề đòi hỏi phaỉ thường xuyên và thực hiện nghiêm túc.
Qua nghiên cứu về công tác tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá trong giai đoạn 1996-2000 và để có cơ sở đánh giá đúng hoạt động tín dụng trung, dài hạn, bản luận văn này đã nêu tóm tắt khái quát về lý luận có liên quan đến hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trưòng, đồng thời đánh giá thực trạng tín dụng trung, dài hạn trong 5 năm qua và rút ra những mặt được, chưa được tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá. Nội dung chủ yếu đi sâu phân tích công tác thẩm định dự án, việc chấp hành qui trình tín dụng cho vay, thu nợ đối với tín dụng trung, dài hạn.
Tuy nhiên mặt được rất nhiều, song cũng còn những tồn tại khó khăn không chỉ do chi nhánh mà còn liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Với kiến thức đã được trang bị ở trường và qua tìm hiểu thực tế tôi xin nêu ra một số giải pháp và đề xuất kiến nghị mong muốn sẽ góp phần giải quyết những vấn đề đang đặt ra nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá nói riêng.
Nội dung đề tài tương đối rộng, phức tạp, mặt khác bản thân còn nhiều hạn chế về lý luận, cũng như thực tế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Một lần nữa tôi rất mong được sự góp ý của các Thầy, Cô giáo, lãnh đạo chi nhánh và các bạn đồng nghiệp để bản luận văn của tôi được hoàn chỉnh hơn.
70 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1557 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tín dụng trung, dài hạn ở ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh Hóa: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho vay bằng hình thức tín dụng này đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh như: các doanh nghiệp cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, kinh tế trang trại.v.v… Những đánh giá cụ thể là:
- Đa số các dự án được đầu tư hàng năm theo đúng định hướng của Chính phủ, Nghị quyết của Tỉnh đảng bộ đề ra và chiến lược phát triển kinh tế của địa phương.
- Những dự án đầu tư, những phương án sản xuất kinh doanh xin vay vốn đều là những phương án có hiệu quả kinh tế - xã hội. Đây cũng là một yếu tố được chi nhánh quan tâm hàng đầu. Hầu như gần 100% các dự án được đầu tư trong giai đoạn 1996-2000 sau khi đưa vào sử dụng đều có hiệu quả kinh tế rõ rệt, nó đã tạo ra một khối lượng lớn sản phẩm hàng hoá cho địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh từng vùng, góp phần tăng trưởng kinh tế cho tỉnh, tạo nên các vùng kinh tế mới, thay đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao chất lượng sản phẩm các ngành. Nâng công suất nhà máy đường Lam sơn lên 6.000 tấn mía/ngày tương đương 100.000 tấn đường/ năm, lao động nông nghiệp có việc làm và nâng cao thu nhập. Đặc biệt là thông qua vốn đầu tư của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (cùng với tổ chức tín dụng khác và vốn tự có) đã góp phàan chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân bố lại lực lượng dân cư; giải quyết tốt quan hệ công nghiệp - nông nghiệp làm cho cả vùng mía thuộc nhiều huyện phía tây, tây nam và phía bắc của Thanh Hoá từ chỗ đất xấu, dân nghèo trở thành vùng kinh tế phát triển và nâng cao đời sống nhân dân.
- Thông qua tín dụng đầu tư đối với các dự án, Ngân hàng tác động đến hạch toán kinh tế, làm lành mạnh tình hình tài chính và đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm túc thể lệ tín dụng trung, dài hạn. Bởi vì Ngân hàng chỉ xem xét đầu tư cho các dự án tính toán được hiệu quả kinh tế trực tiếp có khả năng trả nợ được chắc chắn. Vì vậy, để được đầu tư vốn, doanh nghiệp phải bảo vệ được dự án đầu tư với Ngân hàng, qua đó Ngân hàng cùng với doanh nghiệp xem xét lại một cách tỷ mỷ, sự cần thiết phải đầu tư, qui mô đầu tư, nguồn vốn tham gia đầu tư... Xác định tính toán kỹ các yếu tố chi phí để có giá thành hợp lý, từ đó xác định được nguồn trả nợ và thời gian thu hồi vốn. Thông qua việc thẩm định Ngân hàng giúp doanh nghiệp bổ sung, điều chỉnh dự án vay vốn đảm bảo đúng trình tự và đảm bảo được hiệu quả kinh tế sau khi đầu tư. Mặt khác cũng qua việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay tín dụng trung, dài hạn, Ngân hàng đã giúp cho các doanh nghiệp xem xét lại công nợ, tính toán lại những khoản phải thu, phải trả và tìm biện pháp giải quyết góp phần từng bước làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp. Đi đôi với việc đầu tư trung, dài hạn Ngân hàng đã xem xét đến việc đầu tư cho vay khép kín, cho vay bổ sung vốn lưu động tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy chất lượng công tác tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh hoá ngày càng được nâng cao ngay từ khâu tìm kiếm dự án để đầu tư, sau khi đi vào sản xuất các dự án đảm bảo trả nợ ngân hàng đạt và vượt kế hoạch. (Đến 31/12/2000 số nợ tồn đọng chủ yếu phát sinh trong giai đoạn 90-94, chỉ có 1 dự án dài hạn của Công ty lâm sản xuất khẩu sau khi đầu tư thì Nhà nước cấm xuất khẩu gỗ nên hiện nay công ty đã ngừng sản xuất.
Qua số liệu biểu 9 và 10 cho thấy tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá luôn tăng tưởng, năm 1996 dư nợ là 59.528 triêu/ tổng dư nợ 135.670 triệu, chiếm 43,8% thì cuốí năm 2000 dư nợ là 298.982 triệu/ tổng dư nợ 496.906. Như vậy dư nợ tín dụng trung, dài hạn đến tháng 12/2000 gấp 5 lần so với năm 1996, tỷ trọng chiếm 60% trong tổng dư nợ tín dụng các loại, tuy tỷ trọng này đối với hoạt động tín dụng của một Ngân hàng thương mại là cao nhưng xuất phát từ vai trò chức năng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nên vẫn hợp lý. Về nợ quá hạn, năm 1996 tỷ lệ nợ quá hạn của TD trung, dài hạn so với dư nợ của chính loại này chiếm 2% thì đến 31/12/2000 chỉ chiếm 0,33%, trong khi đó dư nợ tăng gấp 5 lần. Mặt khác TD trung, dài hạn bằng ngoại tệ không có nợ quá hạn. Qua đó cho thấy chất lương hoạt động TD trung dài hạn 5 năm qua rất đảm bảo. Từ đó đã góp phần tăng thêm hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Mặt khác qua tín dụng đầu tư đối với các dự án đòi hỏi bản thân cán bộ Ngân hàng đặc biệt là số cán bộ trực tiếp làm công tác tín dụng phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng kịp yêu cầu đổi mới chất lượng tín dụng của toàn chi nhánh hiện nay.
Tín dụng, trung dài hạn đối với các dự án 5 năm qua đã góp phần lập lại trật tự kỷ cương trong xây dựng cơ bản. Trong những năm trước đây trên địa bàn Thanh Hoá tình hình vi phạm về lĩnh vực xây dựng cơ bản ở các dự án, công trình là khá phổ biến, các chủ đầu tư chưa triệt để tuân thủ các qui định của Chính phủ về quản lý XDCB. Thời gian gần đây thông qua hoạt động đầu tư tín dụng của Ngân hàng đã và đang từng bước đưa lĩnh vực này vào kỷ cương nề nếp. Đã có sự phối hợp chặt chễ giữa các ngành với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nên các dự án trước khi được ghi vào kế hoạch đầu tư năm của Tỉnh đều được gửi qua Ngân hàng tham gia ý kiến. Bởi vì để thực hiện tốt qui trình tín dụng đầu tư, Ngân hàng chỉ khảo sát trình duyệt những dự án có đủ căn cứ, điều kiện theo đúng qui định của Nhà nước và của ngành. Vì vậy các chủ đầu tư phải chuẩn bị tốt luận chứng kinh tế kỹ thuật, dự toán hoặc hợp đồng kinh tế. Theo yêu cầu của Ngân hàng, để Ngân hàng thẩm định, trình duyệt và cho vay. Thông qua việc kiểm tra của Ngân hàng phát hiện chủ dự án có vi phạm về sử dụng vốn sai mục đích, giá cả, chủng loại thiết bị... thì Ngân hàng đề nghị yêu cầu các chủ dự án phải thực hiện theo đúng cam kết và chấp hành đầy đủ định mức giá cả theo đúng qui định hiện hành.
2- Một số khó khăn tồn tại:
Qua thời gian thực hiện tín dụng đầu tư đối với các dự án, bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình thực hiện còn có những tồn tại khó khăn như sau:
Thứ nhất: Chấp hành điều lệ quản lý xây dựng cơ bản
+ Hầu hết các dự án khi đưa đến Ngân hàng đã được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt chưa đảm bảo quy trình được ban hành.
+ Nhà nước làm, xây dựng, duyệt quy hoạch và chỉ đạo cụ thể việc các doanh nghiệp sản xuất cái gì, bao nhiêu, bán cho ai... dẫn đến nếu ngân hàng thẩm định theo quy trình sẽ chậm trễ, thậm chí không đầu tư là tạo thế đối lập với chính quyền cấp tỉnh bởi ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương mà việc lý giải không phải dễ dàng.
+ Việc xét duyệt, thẩm định và quyết định đầu tư cũng có nhiều vấn đề bất cập, nhất là chưa xác định rõ trách nhiệm của các khâu lập và xét duyệt dự án trong đầu tư.
Trong thời gian qua một số dự án chất lượng luận chứng kinh tế kỹ thuật chưa đạt yêu cầu so với điều lệ XDCB (kể cả những dự án được duyệt luận chứng trước khi ghi kế hoạch), một số dự án được ghi kế hoạch trước khi phê duyệt luận chứng. Chính khâu chuẩn bị đầu tư làm chưa chu đáo, hồ sơ dự án không đầy đủ nên dẫn tới tình trạng làm vội, thiếu cân nhắc tính toán kỹ dẫn tới sau đầu tư có dự án không phát huy được hiệu quả hoặc không tiêu thụ được sản phẩm như kế hoạch dự tính do thiết bị lạc hậu, không đồng bộ.
Thứ hai: Về chủ trương đầu tư tín dụng trong những năm qua nhìn chung là đúng hướng. Nhưng việc bố trí kế hoạch tín dụng hàng năm thường chậm, do đó ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư của dự án và tiến độ phát vốn vay của chi nhánh thường phải kéo dài qua nhiều năm. Mặt khác, việc bố trí cơ cấu đầu tư ở các ngành chưa hợp lý. Ví dụ như sản xuất gạch tuy-nen (đầu tư nhiều dự án, nhiều chủ đầu tư trên một địa bàn, qui mô lại lớn) mặt dù sản phẩm làm ra đạt chất lượng song thị trường tiêu thụ không hết làm xuất hiện tình trạng cạnh tranh không lành mạnh (về giá). Hơn nữa, Nhà nước - Tỉnh chưa có chính sách ưu đãi rõ ràng (trợ giá, thuế) cho những dự án mũi nhọn của tỉnh, nhất là những dự án bị mất thị trường do chính sách của Nhà nước nên gây nhiều khó khăn trong việc thu hồi vốn đúng kế hoạch của ngân hàng.
Thứ ba: Đối với khách hàng:
+ Việc xây dựng các dự án đầu tư hoặc những mặt hàng chưa được xác định theo một chiến lược tổng thể, nên khi vay vốn xây dựng xong dự án, thì không phát huy được hiệu quả kinh tế.
+ Năng lực tài chính của khách hàng vay còn quá mỏng và yếu. Nhất là trên địa bàn Thanh hoá ít doanh nghiệp lớn, hơn 85% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn tự có chỉ chiếm 2-5% tổng nguồn vốn, nhiều dự án vay vốn ngân hàng 100% làm cho khả năng tự bù đắp rủi ro của các doanh nghiệp là vô cùng nhỏ bé. Bên cạnh đó chất lượng, gía cả hàng hoá của các doanh nghiệp lại thiếu sức cạnh tranh và thị trường không ổn định, mặt khác các nhà doanh nghiệp Việt nam khả năng quản lý kinh doanh trong nền kinh tế thị trường và trình độ kỹ thuật còn hạn chế. Do đó không đủ điều kiện để đảm bảo an toàn vốn vay.
+ Một số doanh nghiệp còn nặng về tranh thủ nguồn vốn, chưa quan tâm triệt để đến khả năng hoàn trả vốn (nhất là khi mới triển khai tín dụng dài hạn), chưa chấp hành nghiêm túc điều lệ xây dựng cơ bản, thể lệ qui định của Ngân hàng, quản lý vốn vay chưa chặt chẽ, sử dụng sai mục đích, chưa sử dụng triệt để nguồn vốn tự có để đầu tư vào dự án (vốn tự có tham gia ít) có doanh nghiệp đưa vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn dẫn đến giá thành công trình cao ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh. Từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ ngân hàng. Mặt khác, phần lớn các doanh nghiệp mới quan tâm đến trả gốc vốn vay mà chưa quan tâm đúng mức đến trả lãi, nhất là lãi vay thi công của các dự án dài hạn (đến 31/12/2000 số lãi chưa thu trung hạn: 3.008 triệu đồng, tăng 52,35% so 1999. Lãi chưa thu dài hạn: 14.843 triệu đồng, tăng so 1999 là 104,03%)
Thứ tư: Trong những năm qua, Ngân hàng mới tập trung đầu tư tín dụng trung, dài hạn vào các ngành kinh tế quốc doanh là chủ yếu, tỷ trọng đầu tư loại hình TD này cho khách hàng ngoài quốc doanh còn rất ít.
Năng lực thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp của cán bộ ngân hàng mà trước hết là cán bộ tín dụng vẫn còn nhiều hạn chế.
+ Đội ngũ cán bộ có liên quan đến công tác thẩm định cho vay dự án thiếu hiểu biết về lĩnh vực chuyên ngành, còn thiếu kiến thức về kinh tế thị trường.
+ Việc thẩm định dự án có những trường hợp chưa sâu do thiếu thông tin hoặc nắm bắt thông tin không kịp thời... đặc biệt là về chất lượng, giá cả thiết bị, công nghệ; về thị trường tiêu thụ sản phẩm đáng chú ý là thị trường nước ngoài bao tiêu sản phẩm. Vì vậy chưa phát hiện được hết những vấn đề bất cập trong dự án (rủi ro tiềm ẩn), mặt khác việc tìm hiểu nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính của các doanh nghiệp còn chậm, chưa sâu, quá trình cho vay (rải ngân) kiểm tra kiểm soát có lúc chưa chặt chẽ, cho nên chậm phát hiện những sai sót của doanh nghiệp.
- Tuy đã có nhiều cố gắng để thẩm định hết các dự án với chất lượng ngày càng đảm bảo nhưng chất lượng thẩm định dự án, phân tích đánh giá hiệu quả còn chưa cao, mới dừng lại ở thủ tục hành chính theo các quy định trong điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng, chưa đánh giá sâu về thị trường tiêu thụ sản phẩm, các yếu tố đầu vào về đảm bảo chất lượng sản phẩm, giá thành, giá bán..., chưa dự đoán được những tiềm ẩn rủi ro dẫn đến việc trả nợ khó khăn hoặc buộc phải xin gia hạn nợ.
- Tồn tại khác:
+ Hầu hết các dự án theo kế hoạch Nhà nước vốn đầu tư vay ngân hàng gần 100% nên khả năng trả nợ kéo dài, hiệu quả dự án thấp.
+ Cơ chế chính sách về cho vay thay đổi liên tục cũng ảnh hưởng đến việc tín dụng đầu tư. Mặt khác, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý dự án còn yếu
+ Hệ thống thông tin kinh tế, thị trường, giá cả nói chung và thông tin rủi ro trong hệ thống ngân hàng nói riêng đều đang ở trong tình trạng phân tán, kếm hiệu quả, quy mô nhỏ bé, không đầy đủ và thiếu chính xác. Do hạn chế thông tin ở tầm vĩ mô nên hiệu quả đầu tư của dự án thực tế khác rất xa so với hiệu quả trong tính toán ban đầu của quá trình thẩm định dự án.
+ Chưa có hệ thống tiêu thức thống nhất trong và ngoài nghành ngân hàng nhằm phân loại những doanh nghiệp (trước hết là doanh nghiệp Nhà nước) để ưu tiên vốn đầu tư, ưu tiên sắp xếp, củng cố hoặc loại trừ khỏi đời sống kinh tế.
Có được kết quả trên bởi Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã thực hiện các biện pháp để đẩy mạnh cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn- những biện pháp đó là:
- Xác định được mục tiêu chiến lược của công tác tín dụng đầu tư trung dài hạn của mình.
- Chủ động bám sát chủ trương kế hoạch đầu tư của địa phương, phối hiệp và đấu mối với các ngành, các sở có liên quan để tìm dự án đầu tư, qua đó xây dựng kế hoạch về huy động vốn, mở rộng cho vay và kế hoạch cho vay thu nợ, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của tín dụng trung dài hạn.
- Xác định không chỉ tập trung cho vay các dự án thuộc doanh nghiệp Nhà nước mà đã mở rộng cho vay các doanh nghiệp thuộc kinh tế ngoài quốc doanh; không chỉ cho vay đến doanh nghiệp mà còn thông qua doanh nghiệp cho vay đến cán bộ côg nhân viên mua cổ phần của doanh nghiệp (Đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá).
- Nâng cao chất lượng trong việc thẩm định dự án từ việc nghiên cứu dự án, nắm bắt thông tin và đánh giá hiệu quả dự án và tình hình doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, không chỉ đánh giá tình hình trong một năm mà đánh giá phân tích tình hình 2->3 năm gần nhất và mức độ phát triển của doanh nghiệp trong những năm tới. Mặt khác chấp hành và thực hiện đảm bảo đúng qui trình thẩm định, nguyên tắc cho vay.
- Chỉ ký kết HĐTD khi dự án thẩm định xét thấy hiệu quả và giải ngân khi đã có khối lượng, không làm ẩu.
- áp dụng lãi suất linh hoạt cả trong huy động và cho vay trung, dài hạn trên cơ sở hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
- Xắp xếp bố trí lại và phân công nhiệm vụ, giao trách nhiệm cho các phòng tín dụng, thành lập tổ Thẩm định. Thực hiện cho vay khép kín đối với một khách hàng nghĩa là khách hàng vay nhiều hình thức chỉ tập trung đầu mối vào một phòng. Qua đó tránh phiền hà và giải quyết kịp thời nhu cầu vốn trong quá trình SXKD của khách hàng.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng tín dụng của chi nhánh cũng như phương pháp làm việc của cán bộ. Đồng thời chỉ bố trí cán bộ làm công tác thẩm định, tín dụng có trình độ Đại học trở lên và có phẩm chất đạo đức, am hiểu pháp luật.
- Thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm công tác thẩm định dự án đầu tư, thông qua việc tổng kết đánh giá lại hiệu quả dự án đã đầu tư để rút ra những mặt được và chưa được.
Tuy đã có cố gắng đẩy mạnh cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn nhưng vẫn còn những việc chưa làm được là:
- Việc phối hợp với các ngành, các sở để nắm bắt chủ trương, tìm khách hàng tuy đã quan tâm nhưng chưa tích cực, chưa chủ động.
- Trong quá trình nghiên cứu thẩm định dự án khi thấy hiệu quả chưa cao còn thận trọng, từ chối không đầu tư hoặc chưa mạnh dạn tham mưu cho tỉnh để điều chỉnh. Nhiều thông tin về kinh tế kỹ thuật của những dư án sản xuất sản phẩm mới chưa có đủ và chưa chính xác.
- Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ chưa thường xuyên.
Nguyên nhân :
- Có dự án tài sản thế chấp thiếu, hoặc bảo lãnh của bên thứ 3 không có không đảm bảo theo qui định của Chính phủ. Mặt khác, pháp luật chưa đồng bộ lại có xu hướng hình sự hoá hoạt động ngân hàng nên những dự án khi thẩm định không có hiệu quả nếu cho vay khả năng rủi ro là không tránh khỏi mà nguồn vốn đầu tư chủ yếu là của ngân hàng huy động.
- Chi nhánh còn nặng về hiệu quả kinh tế của dự án và lợi nhuận mang lại cho ngân hàng.
- Đối với khách hàng: có khách hàng lập dự án chưa tính toán kỹ thậm chí thiếu cơ sở khoa học để đánh giá hiệu qủa dự án.
&
Chương III
Giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoa
-------------------------
I/ Định hướng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển về tín dụng trung, dài hạn:
- Tín dụng dài hạn từ năm 2001 trở đi Ngân hàng tự huy động vốn, tự tìm kiếm các dự án có hiệu quả để đầu tư, vấn đề này vẫn được xác định là khâu quan trọng. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá tiếp tục đáp ứng với mức cao nhất nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển của những dự án nằm trong kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước, của tỉnh chuyển tiếp từ năm 1999, bên cạnh đó chủ động tìm kiếm các dự án có hiệu quả theo định hướng, mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong năm 2001 và những năm tiếp theo của Tỉnh với mục tiêu an toàn và vững chắc trong tăng trưởng.
- Tín dụng trung hạn đẩy mạnh hơn nữa công tác tìm kiếm dự án, nhất là dự án của những công trình chuyển tiếp có thời gian thi công ngắn, những dự án, công trình của các doanh nghiệp, khách hàng truyền thống (Bia, bưu điện, giấy, khối xây lắp...) có hiệu quả kinh tế, chuẩn bị đủ điều kiện vay, có khả năng trả nợ ngân hàng. Đồng thời coi trọng mở rộng quan hệ với nhóm khách hàng mới thuộc khối xây lắp và khách hàng có dự án phát triển kinh tế biển, kinh tế trang trại… có hiệu quả kinh tế.
- Mở rộng tìm kiếm các khách hàng mới, nhất là dự án của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mục tiêu của loại tín dụng này nhằm tài trợ cho các doanh nghiệp mua thêm, thay thế hoặc đổi mới trang thiết bị, máy móc, bí quyết hoặc công nghệ để khai thác hết năng lực sản xuấtn năng lực thiết bị hiện có - loại hình này vừa có nhu cầu vốn ít, thời gian đầu tư ngắn lại phát huy hiệu quả được ngay. Đối với các doanh nghiệp xây lắp thì nó còn làm tăng khả năng trúng thầu trong quá rình tham gia đấu thầu xây lắp công trình. Đặc biệt là cho các mục đích sản xuất và thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ, dự án Tài chính nông thôn (RDF), thực chất là đầu tư khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đồng thời tập trung vào các dự án đổi mới công nghệ nhập thiết bị tiên tiến của các nước phát triển để có thể cho vay Tài trợ xuất nhập khẩu, lãi suất thấp, thời gian tối đa 10 năm nguồn vốn ổn định do Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam ký được hiệp định khung tài trợ hàng năm với ngân hàng các nước đó.
Để đạt đựơc các định hưóng trên, hàng năm mục tiêu hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh hoá là:
1. Nguồn vốn huy động: tăng trưởng hàng năm 18-20%
2. Sử dụng vốn:
* Tổng dư nợ: hàng năm tăng trưởng từ 15- 20%
Trong đó :- Trung hạn: tăng từ 25%-> 30%
- Dài hạn : tăng từ 5->10%
Cơ cấu tín dụng: Trung, dài hạn chiếm 50->60%
Chất lượng TD: Nợ quá hạn dưới 1% so với tổng dư nợ, không phát sinh nợ khó đòi.
3. Kết quả kinh doanh: Lợi nhuận hàng năm tăng 5->10%
II/ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn :
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam vừa là một ngân hàng thương mại quốc doanh, có chức năng nhiệm vụ như tất cả các ngân hàng thương mại quốc doanh khác vừa có nhiệm vụ phục vụ lĩnh vực xây dựng cơ bản. Thực tế đã chứng minh vai trò của hệ thống ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung cũng như ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh hoá nói riêng với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Cùng với thời gian chất lượng công tác tín dụng nhất là tín dụng trung, dài hạn ngày càng cao thể hiện ở dư nợ quá hạn luôn dưới mức cho phép. Tuy nhiên như ở trên đã trình bày tín dụng trung, dài hạn có thời gian thu hồi vốn kéo dài nên tiềm ẩn rủi ro lớn, mà dư nợ lĩnh vực này lại chiếm trên 50% tổng dư nợ cho vay của ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh hoá và trong tương lai còn tăng lên nữa. Do vậy, để đảm bảo sự tồn tại và phát triển vững chắc của hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam cũng như Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh hoá thì việc đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn là vô cùng quan trọng.
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình kinh doanh, công tác tín dụng trung, dài hạn tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh hoá, đặc điểm, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn: Những thuận lợi, khó khăn cũng như những mặt đã đạt được, những tồn tại trong thời gian qua. Tôi xin nêu một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác tín dụng trung, dài hạn như sau:
1. Ngân hàng phải xây dựng chính sách tín dụng trung, dài hạn một cách hợp lí:
Đứng về mặt chiến lược mà nói, một chính sách tín dụng phải thu hút được khách hàng, duy trì và phát triển được khách hàng để mở rộng quy mô hoạt động của một ngân hàng thương mại. Do vậy chính sách tín dụng trung, dài hạn phải chú ý đến chiến lược thu hút khách hàng có sự lựa chọn. Các tiêu chuẩn chính dể lựa chọn khách hàng, như:
- Khách hàng có khả năng ổn định và phát triển kinh doanh lâu dài.
- Khách hàng có đội ngũ quản lý giỏi, có khả năng thích ứng tốt với môi trường kinh doanh.
- Khách hàng có triển vọng chiếm lĩnh thị trường ...
- Khách hàng đang có khó khăn nhưng dự án đầu tư thực sự có hiệu quả những doanh nghiệp này Ngân hàng vẫn đầu tư cho dự án đó, thông qua việc đầu tư giúp cho doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn và phát triển đi lên.
Như vậy để thực hiện quan điểm chỉ đạo gắn công tác tín dụng trung dài hạn với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển. Vừa phục vụ cho đầu tư phát triển vừa hỗ trợ các doanh nghiệp phát huy hiệu quả vốn tín dụng ngắn hạn, hạn chế thấp nhất rủi ro trong hoạt động tín dụng, vừa đảm bảo thu nhập cho ngân hàng. Chi nhánh phải chủ động nắm bất kịp thời chủ trương đầu tư hàng năm của địa phương để xây dựng chiến lược, kế hoạch cho vay trung, dài hạn hàng năm chi tiết đến từng ngành, từng chủ đầu tư, từng dự án.
Bên cạnh sự lựa chọn khách hàng, dự án để thực hiện chính sách tín dụng, lãi suất cũng là một chính sách quan trọng của ngân hàng để thu hút khách hàng. Về nguyên tắc mà nói lãi suất cao sẽ hạn chế sự vay vốn của khách hàng, lãi suất thấp sẽ thu hút nhiều khác hàng hơn. Song, chính sách lãi suất phải linh hoạt với từng khoản tín dụng, từng khách hàng và phải đảm bảo kết hợp hài hoà giữa lợi ích của ngân hàng và khách hàng.
Với đặc thù của loại hình tín dụng trung, dài hạn có thời hạn kéo dài, vốn của ngân hàng chịu rủi ro rất lớn do nhiều yếu tố lạm phát, thị trường. Để khắc phục tình trạng này ngân hàng nên:
+ Nghiên cứu áp dụng các hợp đồng tín dụng có lãi suất thả nổi (tức lãi suất thay đổi) để giảm rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức này vấn đề cốt lõi là ngân hàng phải có một chiến lược về kinh doanh và một chiến lược dự báo xu thế thị trường.
2- Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án:
Thẩm định một dự án đầu tư (TĐDAĐT) gồm nhiều phần như: Sự cần thiết phải đầu tư, công nghệ, nguyên liệu, thị trường, tài chính dự án... Đứng trên giác độ là Ngân hàng, ở đây tôi xin nhấn mạnh vấn đề cơ bản về thẩm định tài chính dự án đầu tư (TĐTCDAĐT). Việc thẩm định này ngoài mục tiêu đánh giá hiệu quả dự án còn nhằm bảo đảm sự an toàn cho các nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng.
Tuy lâu nay phương pháp TĐTCDAĐT đã được nghiên cứu và vận dụng thích ứng với thực tiễn nền kinh tế nhưng dưới tác động của các quy luật kinh tế thị trường đòi hỏi việc hạch toán kinh doanh phải chặt chẽ, hạn chế thấp nhất rủi ro thì phương pháp thẩm định cũ đã bộc lộ một số thiếu sót sau:
- Phương pháp thẩm định cũ còn khá đơn giản, phiến diện không thích hợp với những yếu tố phức tạp đa dạng của môi trường kinh doanh hiện nay. Chẳng hạn: ít chú ý phân tích rủi ro, chưa tính toán đủ chi phí vốn đầu tư, chưa đề cập nhân tố lạm phát...
- Phương pháp thẩm định cũ nghiên cứu dự án đầu tư ở trạng thái tĩnh bằng các chỉ tiêu, các con số gộp, tổng cộng, chưa chú ý trạng thái động như quá trình diễn biến của dự án và cũng chưa chú ý đến giá trị của tiền tệ theo thời gian.
Trước thực tế này việc nghiên cứu hoàn thiện phân tích TCDAĐT là rất cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nội dung chính của việc nghiên cứu phương pháp thẩm định là hệ thống chỉ tiêu làm căn cứ đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư. Trong phạm vi luận văn này tôi xin nêu một số vấn đề sau:
Một là: Hiệu quả tài chính cũng như bao loại hiệu quả khác, bản chất của nó không chỉ được thực hiện trên một mặt nào đó mà trên nhiều khía cạnh khác nhau, nó là hệ thống chỉ tiêu có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Hệ thống chỉ tiêu đó có thể chia làm 3 nhóm. Một nhóm phản ánh khả năng sinh lợi như doanh thu, lợi nhuận, suất đầu tư... Một nhóm phản ánh mức độ rủi ro của dự án. Một nhóm phản ánh khả năng hoàn vốn từ dự án như hệ số hoàn vốn, điểm hoà vốn, tỷ lệ thu hồi nội tại...
Hai là: Sau khi xác định được hệ thống chỉ tiêu cần thiết để thẩm định tài chính DAĐT vấn đề là tính toán các chỉ tiêu như thế nào:
+ Các chỉ tiêu thẩm định xét cho đến cùng đều được xây dựng, tính toán trên cơ sở lợi ích của dự án. Khi tính toán phải tính đủ các yếu tố cấu thành nên cho mọi loại hình dự án cũng như cho cả các dự án đặc thù.
+ Cuối cùng việc vận dụng tính toán các chỉ tiêu không thể không chú ý đến tính khả thi. Tiêu điểm của vấn đề là dữ liệu. Các yếu tố cấu thành chỉ tiêu, phương pháp tính toán chỉ tiêu phải đảm bảo dựa trên cơ sở những số liệu có thể thu thập được trong, ngoài dự án hoặc dự kiến một cách tương đối chính xác trong thực tế như giá cả, sản lượng, lãi suất...
Ba là: Mặc dù hệ thống chỉ tiêu cũng như cách tính toán là nội dung chính của thẩm định TCDAĐT nhưng điều cuối cùng là phải có phương pháp đánh giá, nhìn nhận để có kết luận xác đáng từ việc phân tích trên. Mỗi chỉ tiêu sẽ có vai trò quan trọng khác nhau chút ít trong từng loại hình dự án. Nói cách khác căn cứ vào từng loại hình dự án mà xem chỉ tiêu nào là quan trọng hơn. Ví dụ như một dự án dài hạn mang lại lợi ích to lớn về mặt xã hội thì NPV không dương vẫn có thể cho vay.
3- Trú trọng phân tích tài chính doanh nghiệp trước khi quyết định cho vay:
Đứng trên giác độ Ngân hàng trước các quyết định cho vay trung, dài hạn theo tôi cần quan tâm phân tích các chỉ tiêu tài chính sau:
a. Xem xét các chỉ tiêu về cơ cấu vốn của doanh nghiệp:
Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn tự có và vốn đi vay. Nguồn gốc và cấu thành hai loại vốn này xác định sự ổn định tài chính và khả năng thanh toán dài hạn của doanh nghiệp (DN), các DN thường muốn sử dụng vốn tự có ít nhất nhưng mang lại hiệu quả cao nhất vì nếu DN chỉ góp một phần nhỏ trong toàn bộ vốn hoạt động thì rủi ro trong kinh doanh chủ yếu do người cho vay gánh chịu. Trong khi đó DN nắm phần lợi rõ rệt vì chỉ bỏ ra một số vốn ít nhưng lại được quyền sử dụng một lượng tài sản lớn mà không phải chia sẻ quyền kiểm soát. Đặc biệt khi mà hoạt động của DN đang phát triển lãi thu được trên tiền vay lớn hơn lãi suất tiền vay, thì DN càng vay càng hiệu quả và khi đó rủi ro đến với người cho vay càng lớn.
Ngân hàng luôn muốn mở rộng cho vay nhất là với các DN kinh doanh có hiệu quả song nếu cho vay quá nhiều ngân hàng sẽ trở thành người đỡ đòn rủi ro cho DN. Do đó khi phân tích ngân hàng cần quan tâm đến cơ cấu vốn của DN.
*Tỷ số nợ = Nợ phải trả/Tổng nguồn vốn của DN
Hoặc
* Tỷ số tự tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu/ Tổng nguồn vốn của DN
Tỷ số này cho biết tổng số vốn của DN chiếm bao nhiêu trong tổng số vốn mà DN đưa vào sản xuất kinh doanh. Tỷ số này càng lớn càng tốt, càng có sự bảo đảm cao cho các khoản nợ, nhất là khi DN bị đặt vào tình trạng thanh lý tài sản thì vốn tự có này để bù đắp phần thiếu hụt phát sinh khi chuyển nhượng tài sản.
* Tỷ số nợ dài hạn = Số nợ dài hạn/Nguồn vốn chủ sở hữu
Tỷ số này cao phản ánh DN phụ thuộc nhiều vào chủ nợ, đó là cấu trúc vốn mạo hiểm. Tỷ số này càng cao thì an toàn trong đầu tư càng giảm. Theo kinh nghiệm ở một số nước, người cho vay chỉ chấp nhận tỷ số này < 1. Nghĩa là tỷ số này càng gần 1 DN càng ít khả năng được vay vốn dài hạn.
* Tỷ số tài trợ TSCĐ = Nguồn vốn dài hạn/Giá trị TSCĐ
Tỷ số này luôn phải lớn hơn 1 mới mang lại cho DN sự ổn định và an toàn tài chính. Tỷ số này nhỏ hơn 1 có nghĩa DN đang dùng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Tình hình tài chính của DN không bình thường, việc cho DN vay vốn đầu tư lúc này là quá mạo hiểm.
b. Xem xét khả năng trả nợ của doanh nghiệp
Khả năng sinh lời là yếu tố chính đo độ bền kinh tế và tài chính của DN, là điều kiện cho sự phát triển trong tương lai của DN. Không có sinh lời hoặc khả năng sinh lời thấp DN không thể tồn tại và phát triển, đồng thời khả năng sinh lời là một trong các nguồn trả nợ chính cho các khoản vay dài hạn. Vì vậy ngân hàng luôn quan tâm đến chỉ tiêu này.
Khả năng sinh lời của DN được đánh giá qua nhiều chỉ tiêu. Có thể xem 3 chỉ tiêu chính sau:
* Tỷ suất lợi nhuận Lợi tức sau thuế
doanh thu Doanh thu thuần
* Tỷ suất lợi nhuận Lợi tức sau thuế + Lãi phải trả về tiền vay
tổng tài sản Tổng tài sản
* Tỷ lệ sinh lời của Lợi tức sau thuế + Trả lãi tiền vay
nguồn vốn dài hạn Tổng tài sản
Nếu như tỷ suất lợi nhuận doanh thu đo lường hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp thì tỷ suát lợi nhuận tổng tài sản đo lường thành tựu của doanh nghiệp trong sử dụng tài sản để sáng tạo ra thu nhập một cách độc lập với những hoạt động tài trợ cho những tài sản đó, còn tỷ lệ sinh lời của vốn thường xuyên cho thấy khả năng sinh lời của vốn sử dụng lâu dài trong doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao thì rủi ro mất khả năng chi trả càng thấp.
Để đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp còn có thể được xem xétt qua các tỷ số sau:
* Khả năng hoàn trả Vay dài hạn
nợ vay Khả năng tự tài trợ
Vì nguồn vốn trả nợ dài hạn là khả năng tự tài trợ (Lợi nhuận + khấu hao). Tỷ số này nêu lên thời hạn lý thuyết tối thiểu cần thiết để hoàn trả toàn bộ vốn vay. Tỷ số này càng nhỏ càng tốt.
* Khả năng Lợi tức trước thuế + Lãi phải trả về nợ dài hạn
thanh toán lãi Lãi phải trả về nợ dài hạn
Tỷ số này thường được tính để đánh giá độ an toàn của việc hoàn trả nợ. Số tiền thu được trước khi trả lãi lợi tức và các khoản tiền lãi cố định là số tiền để sẵn sàng để thanh toán tiền lãi cho các khoản nợ vay dài hạn. Thông thường khả năng thanh toán lãi được xem là an toàn, hợp lý nếu doanh nghiệp tạo ra khoản thu nhập gấp hơn hai lần khoản lãi cố định phải trả hàng năm.
Trên đây là một số chỉ tiêu tính toán nhưng cũng như khi ta thẩm định tài chính doanh nghiệp, điều quan trọng là tính chính xác của số liệu. Cái khó ở đây là cơ sở của số liệu lấy từ Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhưng báo cáo chỉ phản ánh các sự kiện tài chính trong quá khứ trong khi ta lại quan tâm nhiều hơn đến tình hình tài chính tương lai của doanh nghiệp. Đó là chưa nói đến một số doanh nghiệp còn vì lợi ích riêng của mình mà đưa những thông tin sai vào báo cáo. Do vậy để thực hiện tốt giải pháp này đòi hỏi trình độ của cán bộ tín dụng phải được nâng cao rất nhiều.
4- Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn trung, dài hạn:
Thực tế hoạt động những năm vừa qua công tác huy động vốn ở chi nhánh có nhiều chuyển biến tích cực, vốn huy dộng có thời hạn trên một năm ngày càng chiếm tỷ trọng cao. Năm 1999, 2000 nguồn vốn tự huy động đã đáp ứng được 100% nhu cầu vốn lưu động, vốn trung hạn bằng VNĐ và một phần vốn cho dài hạn. Để có nguồn vốn tương đối ổn dịnh phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chính sách huy động vốn của chi nhánh phải khắc phục một số điểm sau:
- Thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng, gửi tiền vào ngân hàng của đại bộ phận dân cư chưa hình thành một cách phổ biến. Ngay cả dân cư thành thị, hoạt động ngân hàng còn xa lạ với họ.
- Mạng lưới ngân hàng còn mỏng, các hình thức huy động vốn chưa đa dạng, chưa phong phú, chưa linh hoạt theo nhu cầu sử dụng và khả năng của từng bộ phận vốn nhàn rỗi.
Để có thể tiến tới đảm bảo cho toàn bộ nhu cầu vốn trung, dài hạn (cả bằng VNĐ và USD) chi nhánh thanh hoá chú trọng phát triển các phương thức huy động đã có như tiền gửi có kỳ hạn, tiết kiệm trên một năm, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng... Đồng thời tiến hành đẩy mạnh huy động nguồn vốn ngắn hạn (có số dư tăng và ổn định) để dành một tỷ lệ cho vay trung và dàI hạn bằng việc đa dạng hoá các hình thức huy động với các điều kiện, lãi suất linh hoạt phù hợp với từng nhóm đối tượng khách hàng, với tính chất của các bộ phận vốn nhàn rỗi trong dân cư. Đổi mới triệt để phong cách phục vụ, xử lý nhanh chóng, chính xác, với giá dịch vụ thấp để cạnh tranh với các ngân hàng khác trên địa bàn để duy trì và mở rộng nguồn vốn tiền gửi của các doanh nghiệp và dân cư.
Chuẩn bị các tiền đề, các điều kiện để sớm tham gia vào thị trường chứng khoán, tăng khả năng huy động vốn từ nền kinh tế
5- Tiêu chuẩn hoá cán bộ để nâng cao chất lượng tín dụng:
Chất lượng tín dụng phụ thuộc khá nhiều vào chất lượng các công việc từ khâu hoạch định chủ trương, chính sách, đến việc thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp, ra quyết định đầu tư, kiểm tra sử dụng vốn vay, thu nợ... Thực tiễn cho thấy ngoài những yéu tố khách quan đem lại sự thành công hay thất bại của dự án đều có nhân tố chủ quan của con người với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ kinh tế. Đương nhiên ngoài yếu tố chủ quan cố ý vì mục đích tư lợi cũng có yếu tố do trình độ khả năng bất cập không thể hoặc chưa thể làm được.
Để có được những cán bộ ngân hàng vừa có "tâm" vừa có "tầm" chi nhánh phải coi trọng việc đào tạo và đào tạo lại lực lượng CB ngân hàng là rất cần thiết và cần đặt ra những tiêu chuẩn CB như sau:
- Cán bộ ngân hàng phải có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định với mục tiêu phát triển của ngân hàng đề ra. Mọi cán bộ ngân hàng phải nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của mình trong từng lĩnh vực công tác cụ thể, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, có ý thức kỷ luật tốt, liêm khiết.
- Phải có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, nắm bắt kịp thời các chủ trương, chính sách của Nhà nước, ngành, địa phương; biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo lý luận đã học vào thực tiễn trong khuôn khổ cho phép của pháp luật. Không ngừng tự trau dồi kiến thức qua văn bản nghiệp vụ của ngành, chi nhánh, sách báo... Để từ đó có sự cập nhật những thông tin liên quan đến hoạt động của ngân hàng. Nếu không làm được những điều này cán bộ ngân hàng sẽ không kiểm soát được chất lượng công tác mà mình đảm nhận.
Như vậy ở những vị trí khác nhau những người làm công tác tín dụng cần có thêm những tiêu chuẩn cụ thể sau:
* Đối với cán bộ xây dựng chiến lược về tín dụng:
- Trước hết phải là người có trình độ lý luận về nghiệp vụ ngân hàng vững vàng, ngoài ra phải là người có kiến thức kinh tế tổng hợp, có phương pháp nghiên cứu khoa học, am hiểu thị trường, giàu kinh nghiệm thực tế, có khả năng tổng hợp phán đoán tốt và phải có khả năng dự báo. Từ đó có thể xây dựng chiến lược tín dụng phù hợp với thực tế, đảm bảo tính khả thi.
- Am hiểu pháp luật vì hoạt động tín dụng liên quan đến hầu hết các ngành thuộc mọi thành phần kinh tế. Do vậy cũng liên quan đến hầu hết các ngành luật của hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế. Đảm bảo hệ thống chính sách tín dụng không chồng chéo, các quy định phù hợp với hệ thông luật pháp.
- Phải có có kiến thức ngoại ngữ, tin học vì đây là cơ sở, phương tiện để tiếp xúc, nắm bắt nhanh nhạy những sự kiện kinh tế mới phát sinh, để lường trước những biến động trong tương lai. Ngoài ra phải am hiểu về marketing ngân hàng, tuy đây là lĩnh vực khá mới mẻ ở nước ta, nhưng có như vậy chính sách tín dụng mới khai thác được triệt để khách hàng hiện có và có chiến lược khai thác khách hàng tiềm năng.
* Đối với cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng:
Đây là bộ phận có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đến những phán quyết tín dụng của chi nhánh. Do vậy, ngoài việc được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ ngân hàng, chấp hành nghiêm túc trình tự tác nghiệp tín dụng, họ cần có thêm những tiêu chuẩn sau:
- Am hiểu sâu sắc tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có khả năng dự báo xu hướng phát triển, hoặc phát hiện những rủi ro tiềm ẩn từ khoản vay, từ chính doanh nghiệp. Từ đó tham mưu kịp thời cho lãnh đạo hướng xử lý cụ thể.
- Có những hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, pháp luật để tránh tình trạng ngân hàng vô tình thành kẻ tiếp tay cho một số cán bộ doanh nghiệp chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
- Phải có trình độ ngoại ngữ, tin học nhất định vì với xu hướng phát triển của xã hội, thì việc cập nhật thông tin mới là vô cùng quan trọng, nó là cơ sở ban đầu cho mọi phán quyết tín dụng. Hơn nữa, ngày càng nhiều nghiệp vụ tín dụng liên quan đến các công ty, ngân hàng nước ngoài do vậy nhu cầu sử dụng thành thạo máy vi tính, biết giao dịch bằng một ngoại ngữ ngày càng trở nên bức thiết.
- Chi nhánh nên có kế hoạch bồi dưỡng cán bộ với những nội dung cơ bản như: Nghiệp vụ, pháp luật, tin học, ngoại ngữ... và định kỳ đánh giá nhận xét cán bộ qua đó để phân loại, xắp xếp lại cán bộ. Những cán bộ tín dụng nào không đủ tiêu chuẩn sẽ bố trí cho làm công tác khác. Cùng với việc phân loại cán bộ ngân hàng nên xây dựng chế độ thưởng, phạt công minh nhằm gắn liền lợi ích vật chất với công việc được giao, nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng.
6- Phát triển hệ thống thông tin:
Trong thời đại ngày nay với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin - tin học, con người có thể khai thác được lượng thông tin vô tận trong thời gian gần như tức thời để phục vụ, hỗ trợ cho mục tiêu hoạt động của mình. Vì vậy nếu không có sự đầu tư quan tâm thích đáng đến công nghệ đầu tư thông tin - tin học thì ngân hàng sẽ rất bất lợi trong cạnh tranh khi môi trường kinh doanh ngày càng được mở rộng và trở nên thống nhất.
Những năm gần đây, ban lãnh đạo ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam đã giành sự quan tâm đặc biệt cho đầu tư, ứng dụng tin học phục vụ hoạt động của ngành và coi đây là một trong những biện pháp đột phá để tăng khả năng cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập và ngày càng khẳng định vị thế của ngân hàng. Tuy nhiên ứng dụng tin học mới chủ yếu để phục vụ công tác thanh toán, kế toán, lưu trữ số liệu hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà chưa quan tâm đúng mức đến những thông tin phục vụ tín dụng.
Như trên đã nêu tầm quan trọng của thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp mà trong đó thông tin chính xác là nền tảng của mọi phân tích, đánh giá. Trong tình hình trên việc ngân hàng tự xây dựng cho mình một hệ thống thông tin quản lý, lưu trữ và dự báo riêng là rất cần thiết. Điều đó cho phép ngân hàng có được nguồn thông tin tin cậy, nhanh chóng, do tự mình xây dựng, kết hợp các thông tin nhiều chiều khác để trợ giúp, phục vụ kịp thời yêu cầu công việc. Đây thực chất là hoạt động tổng kết trên diện rộng quá trình thực hiện đầu tư.
Nội dung: Hệ thống thông tin này phải được tiến hành thống nhất trong toàn hệ thống ngân hàng đầu tư. Tất cả cán bộ tín dụng đều có nhiệm vụ cập nhật thông tin vào mạng theo những tiêu thức thống nhất về tất cả các dự án, khách hàng ngân hàng đã thẩm định. Trước khi cho vay một dự án mới, cán bộ tín dụng chi nhánh có thể truy nhập vào hệ thống bất cứ lúc nào và đều có được thông tin cơ bản như Chủ trương đầu tư hiện tại của Nhà nước, của ngành, các chỉ tiêu, thước đo, suất đầu tư, thiết bị, công nghệ, khả năng cung cấp nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, giá thành các sản phẩm hiện tại, giá bán, so sánh với hàng nhập khẩu...
III/ Kiến nghị
Từ chỗ đầu tư tín dụng theo kế hoạch Nhà nước cho khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước là chủ yếu không có tài sản thế chấp và không có vốn tự có tham gia vào dự án chuyển sang việc đầu tư cho vay phải có tài sản làm đảm bảo, có bảo lãnh của bên thứ 3 và có vốn tự có tham gia vào dự án 50%
(NĐ178/1999/NĐ-CP) mặc dù giả pháp của chính phủ cuối năm 2000 quy định tỷ lệ này là 30% và việc tổ chức TD cho vay không có bảo đảm bằng tài sản thế chấp theo quy định của chính phủ. Với thực trạng doanh nghiệp hiện nay vốn tự có rất thấp, tình hình SXKD khó khăn nên việc thực hiện đầu tư cho dự án rất khó khăn, hơn nữa việc thực hiên quy định đảm bảo tiền vay của chính phủ khó thực hiện được. Từ những lý do trên và những tồn tại rút ra từ hoạt động tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá, tôi xin kiến nghị như sau:
1. Đối với Nhà nước:
- Nhà nước cần tạo lập môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với các doanh nghiệp.
ở nước ta Luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng mới ra đời là sự cần thiết khách quan, nhưng việc đưa luật vào cuộc sống đòi hỏi phải có sự linh hoạt và phù hợp với nền kinh tế nước ta hiện nay. Các văn bản dưới luật cần phải được ban hành đầy đủ và đồng bộ từng bước phù hợp với thực tế nền kinh tế trong từng thời kỳ, không thể áp dụng một cách máy móc - nó không những không thúc đẩy sự phát triển mà còn gây cản trở cho sự phát triển. Trước mắt cần ban hành luật kiểm toán để làm cơ sở cho việc nghiên cứu đánh giá tài chính doanh nghiệp một cách chính xác; luật về thé chấp tài sản... Sự đồng bộ, phù hợp của hệ thống pháp luật sẽ tạo ra hành lang pháp lý cho các ngân hàng cũng như doanh nghiệp hoạt động ổn định, mặt khác đảm bảo tính an toàn, hiệu quả cho hoạt động tín dụng ngân hàng.
- Nhà nước phải ổn định môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Nghĩa là Nhà nước phải xác định rõ chiến lược phảt triển kinh tế, hướng đầu tư một cách ổn định, lâu dài, ổn định thị trường, ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên. Đây là điều kiện để ổn định giá trị tiền tệ, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đầu tư, khuyến khích sản xuất. Trên cơ sở đó đảm bảo khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
- Chính phủ cần có thái độ rứt khoát sắp xếp lại các doanh nghiệp, chỉ để lại các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, thực sự cần thiết cho quốc tế dân sinh nhằm tạo điều kiện cho đầu tư có trọng điểm, hiệu quả. Đồng thời chỉ đạo các ngành, các cấp có trách nhiệm cấp đủ vốn tự có cho các doanh nghiệp này để nó có đủ khả năng cạnh tranh và vay vốn ngân hàng. Bên cạnh việc sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước phải đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khắc phục khó khăn về vốn, có nhiều cơ hội đầu tư nâng cao công suất thiết bị, mở rộng môi trường kinh doanh.
Chính phủ nhanh chóng đánh giá tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán trong thời gian qua, khắc phục những tồn tại, hạn chế để thị trường này hoạt động có hiệu quả. Bởi vì sự hoạt động của thị trường này sẽ đem lại tính lỏng cao cho các khoản đầu tư của Ngân hàng cũng như doanh nghiệp. Sự phát triển của thị trường chứng khoán là nơi cung cấp dồi dào nguồn vốn cho tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng và của doanh nghiệp.
2. Đối với với địa phương:
- Trong thời gian tới UBND tỉnh cần có thái độ dứt khoát sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo định hướng của chính phủ.
- Chủ trương của Chính phủ về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là rất đúng đắn, song việc cổ phần hoá hiện nay trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá diễn ra rất chậm do nhiều lý do. Đề nghị UBND tỉnh cần phải tăng cường chỉ đạo và có biện pháp thực hiện tốt hơn nữa. Vì đây là tiền đề tạo ra "hàng hoá" giúp các doanh nghiệp trao đổi và thu hút thị trường vốn, đồng thời giúp các doanh nghiệp này sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn trong việc cho vay chiết khấu các chứng từ có giá, an tâm trong đầu tư qua đó nâng cao được chất lượng tín dụng.
- UBND tỉnh khoanh nợ cho các DN lỗ từ trước đồng thời cấp đủ vốn lưu động cho các các dự án đầu tư mà Ngân hàng ĐT và PT đã đầu tư.
- UBND Tỉnh chỉ đạo các ngành chấp hành đúng trình tự xây dựng cơ bản. Ngân hàng đầu tư phải là thành viên chính thức của Hội đồng thẩm định dự án của Tỉnh nhất là các dự án có vay vốn tín dụng, đồng thời chỉ đạo các ngành nên phố hợp chặt chẽ với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh hoá trong việc xây dựng chủ trương đầu tư của tỉnh để giúp Ngân hàng chủ động trong việc tham gia đầu tư tín dụng.
- Để ghi các dự án vào kế hoạch đầu tư hàng năm, tỉnh cần phải có qui hoạch phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng kinh tế một cách kỹ càng, một mặt vừa đảm bảo đầu tư đúng hướng khai thác được tiềm năng thế mạnh của địa phương, mặt khác cần chú ý về cơ cấu đầu tư theo ngành và đảm bảo hiệu quả. Tránh tình trạng đầu tư tràn lan dẫn đến sau đầu tư không có thị trường tiêu thụ sản phẩm.
- Có chính sách hỗ trợ về vốn cụ thể, kịp thời cho các doanh nghiệp được hình thành và phát triển từ nguồn vốn vay tín dụng.
3. Đối với ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam:
- Có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ tín dụng qua các đợt học tập tập trung ngắn hạn về từng chuyên đề cụ thể như thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp, các văn bản luật liên quan đến ngân hàng.
- Nâng mức uỷ nhiệm trong việc giải quyết cho vay trung, dài hạn ở chi nhánh, qua đó nâng cao hơn trách nhiệm và tạo chủ động linh hoạt cho chi nhánh giải quyết
- Xây dựng hệ thống thông tin toàn ngành qua mạng phục vụ công tác thẩm định dự án .
- Xây dựng hệ thống các tiêu thức để phân loại, đánh giá khách hàng theo từng ngành kinh tế thống nhất. Căn cứ vào đó các chi nhánh xây dựng chiến lược khách hàng phục vụ nhu cầu kinh doanh của mình.
4. Đối với ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh hoá:
- Nâng cao hơn nữa vai trò tư vấn của ngân hàng trong lĩnh vực thẩm định dự án. Từ đó có thể tìm kiếm các dự án có hiệu quả để cho vay.
- Chủ động nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng qua việc học các văn bản, chế độ mới ban hành vào các chiều thứ 5 hàng tuần.
- Trong thời gian tới trong khi chờ ngân hàng Trung ương thiết lập và triển khai hệ thống thông tin toàn ngành Ngân hàng Thanh hoá cần đặc biệt chú ý tới công tác thông tin và công tác marketing Ngân hàng. Trong đó công tác thông tin cần phải chú ý tới quá trình thu nhập thông tin, xử lý thông tin (thông tin thực sự có chất lượng).
Kết luận
Nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng là một vần đề vô cùng quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường, nó không chỉ là vấn đề sống còn của ngân hàng thương mại mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc củng cố hoàn thiện và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn là một vần đề đòi hỏi phaỉ thường xuyên và thực hiện nghiêm túc.
Qua nghiên cứu về công tác tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá trong giai đoạn 1996-2000 và để có cơ sở đánh giá đúng hoạt động tín dụng trung, dài hạn, bản luận văn này đã nêu tóm tắt khái quát về lý luận có liên quan đến hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trưòng, đồng thời đánh giá thực trạng tín dụng trung, dài hạn trong 5 năm qua và rút ra những mặt được, chưa được tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá. Nội dung chủ yếu đi sâu phân tích công tác thẩm định dự án, việc chấp hành qui trình tín dụng cho vay, thu nợ đối với tín dụng trung, dài hạn.
Tuy nhiên mặt được rất nhiều, song cũng còn những tồn tại khó khăn không chỉ do chi nhánh mà còn liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Với kiến thức đã được trang bị ở trường và qua tìm hiểu thực tế tôi xin nêu ra một số giải pháp và đề xuất kiến nghị mong muốn sẽ góp phần giải quyết những vấn đề đang đặt ra nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá nói riêng.
Nội dung đề tài tương đối rộng, phức tạp, mặt khác bản thân còn nhiều hạn chế về lý luận, cũng như thực tế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Một lần nữa tôi rất mong được sự góp ý của các Thầy, Cô giáo, lãnh đạo chi nhánh và các bạn đồng nghiệp để bản luận văn của tôi được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Ban giám đốc, các bạn đồng nghiệp trong Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này./.
Mục lục
Chương I:
Đầu tư và tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng đối với nền kinh tế
Trang
I/ Vai trò, đặc trưng của Đầu tư:
3
1. Vai trò của đầu tư
3
2. Đặc trưng của đầu tư
4
II/ Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế
5
1. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
5
2. Tín dụng và các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại
5
3. Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng TM đối với nền kinh tế
8
4. Vai trò tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng
9
III/ Chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại
10
1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại
10
2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Trung, dài hạn của NHTM
11
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn
13
IV/ Cơ chế chính sách có liên quan đến việc nâng cao chất lương tín dụng trung, dài hạn.
15
1. Những quy định chung về cho vay trung, dài hạn
15
2. Qui trình tín dụng đầu tư tại các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
17
Chương II:
thực trạng tín dụng đầu tư trung, dài hạn tại ngân hàng
đầu tư và phát triển thanh hoá
I/ Bối cảnh kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh thanh hoá
20
1. Những thuận lợi trong thời gian tới
20
2. Khó khăn
20
II/ Về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Hoá.
21
1. Mô hình tổ chức của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá
21
2. Kết quả hoạt động kinh doanh 5 năm của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh hoá (từ 1996-2000)
22
III/ Thực trạng công tác tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá
25
1. Thực hiện qui trình thẩm định
25
2. Tình hình hoạt động tín dụng trung, dài hạn đối với các dự án
39
IV/ Những kết quả và tồn tại rút ra từ hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng ĐT và PT Thanh Hoá
47
1. Những kết quả đạt được
47
2. Một số khó khăn tồn tại
50
Chương III:
GiảI pháp để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dàI hạn tại ngân hàng đt và pt thanh hoá
I/ Định hướng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ĐT và PT về tín dụng trung, dài hạn
55
II/ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn
56
1. Xác định tính chiến lược của chính sách tín dụng trung, dài hạn
56
2. Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án
57
3. Phân tích tài chính doanh nghiệp trước khi cho vay
59
4. Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn trung, dài hạn
61
5. Tiêu chuẩn hoá cán bộ để nâng cao chất lượng tín dụng
62
6. Phát triển hệ thống thông tin
64
III/ Kiến nghị
64
1. Đối với Nhà nước
65
2. Đối với địa phương
66
3. Đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam
66
4. Đối với Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh hoá
67
Kết luận
68
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28216.doc