Việt Nam thực hiện đẩy mạnh quá trình CNH và HĐH trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có những biến đổi nhanh chóng và mạnh mẽ. Những biến đổi đó là hệ quả trực tiếp của xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Đến lượt nó, những biến đổi này bao gồm (1) phân công lao động mang tính toàn cầu (2) toàn cầu hoá giao lưu quốc tế về thương mại, đầu tư và thị trường lao động quốc tế và (3) xu hướng hình thành những khối kinh tế mậu dịch khu vực đã gây ảnh hưởng sâu sắc tới tất cả các quốc gia, các nền kinh tế trên thế giới trong đó có Việt Nam. Việt Nam và các nước đang đứng trước những thời cơ mới, những vận hội mới song cũng phải đối mặt với những thách thức cũng to lớn không kém. Bên cạnh cơ hội tham gia hệ thống phân công lao động quốc tế, tiếp cận thị trường thế giới ngày càng rộng mở, các nước đang phát triển và Việt Nam nhìn chung phải đứng trước ba thách thức lớn (về tái cơ cấu nền kinh tế, về cạnh tranh quốc tế, về chính trị-xã hội). Vựot qua được những thách thức này hay không là phụ thuộc vào khả năng của mỗi quốc gia.
Nhận thức được bản chất của toàn cầu hoá kinh tế cũng như các thách thức và cơ hội mà toàn cầu hoá kinh tế tạo ra trên con đường phát triển của nó, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã sớm có những chủ trương và chính sách thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thực chất là nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài, kết hợp với việc phát huy cao độ nội lực, tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với chủ trương như vậy, trong giai đoạn từ 1991 trở lại đây, các hoạt động của Việt Nam nhằm hội nhập với khu vực và thế giới được triển khai hết sức nhộn nhịp. Trên cơ sở quan hệ đối ngoại được mở rộng từ giai đoạn trước, hoạt động hội nhập giai đoạn này diễn ra thuận lợi và đưa lại những chuyển biến đáng kể cho nền kinh tế nước nhà. Có thể nói nhờ có chủ trương và chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tận dụng được một cách hiệu quả những cơ hội do toàn cầu hoá kinh tế đem lại. Tuy vậy, quá trình hội nhập vừa qua cũng đã cho thấy những yếu kém và bất cập của nền kinh tế Việt Nam. Những yếu kém này đặt trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa các thị trường, thuận lợi hoá đầu tư thực sự trở thành những vấn đề cấp bách cần tìm giải pháp. Một vài trong số những vấn đề cấp bách đó là vấn đề thống nhất tư tưởng, các vấn đề liên quan đến khả năng cạnh tranh của Việt Nam, đến điều chỉnh cơ cấu kinh tế và xác định lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Với những thành quả đã đạt được trong hơn 15 năm đổi mới và tiến hành hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, với sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước cùng với sự nỗ lực của các cơ quan ban ngành, các doanh nghiệp, chúng ta có thể tin tưởng vào khả năng giải quyết thành công những vấn đề này.
86 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1635 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Toàn cầu hoá kinh tế và những vấn đề đặt ra với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như sự điều chỉnh chính sách kinh tế thương mại của các nước khác từ đó định được hướng điều chỉnh vừa phù hợp với tiến trình chung vừa khai thác triệt để những cơ hội có lợi nhất cho mình.
Trong trường hợp ngược lại, nếu không được chấp nhận là thành viên của các tổ chức như WTO, Việt Nam sẽ mất đI cơ hội tham gia những cuộc thương thuyết phân chia quyền lợi và thị trường, không có thông tin, điều này có nghĩa là Việt Nam sẽ mất đi chủ quyền đấu tranh, thương thuyết, phát biểu nếu các vấn đề xảy ra hoặc các thoả thuận đó gây phương hại cho lợi ích quốc gia.
Như vậy, tham gia hội nhập quốc tế, Việt Nam không những đứng trước những cơ hội lớn của một thị trường thế giới rộng mở với tiềm năng lớn về khoa học và công nghệ cũng như về vốn mà Việt Nam đang rất cần cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước mà còn giúp cải thiện, nâng cao vị trí của Việt Nam trong quan hệ kinh tế quốc tế. Song song với những cơ hội có thể tận dụng trong thời gian trước mắt, Việt Nam còn phải đối phó với những thách thức không kém phần to lớn do TCH mang lại.
Những thách thức
Nói một cách tổng quát, thách thức đối với Việt Nam hiện nay là phải tham dự một “cuộc chơi lớn” trong khi các điều kiện đảm bảo cho sự thành công còn rất thiếu. Trong hoàn cảnh thực lực yếu, công tác chuẩn bị chưa được bao lâu, phải làm quen với các nguyên tắc quốc tế, chấp nhận tính khắc nghiệt của “luật chơi” đã được định ra trong các diễn đàn, các tổ chức khu vực và quốc tế thực sự là thách thức lớn. Những thách thức này cần được nhìn nhận và đánh giá một cách nghiêm túc, chính xác, trên cở sở đó, Việt Nam có thể tìm ra phương án thực hiện hội nhập một cách có hiệu quả.
2.1 Những đòi hỏi của các tổ chức kinh tế thương mại quốc tế
Mỗi tổ chức quốc tế đều có mục tiêu, nguyên tắc và nội dung hoạt động riêng của tổ chức đó, một nước muốn trở thành thành viên của tổ chức phải cam kết tuân thủ các quy định của tổ chức và chứng tỏ khả năng của mình trong việc hoàn thành các nghĩa vụ của thành viên và thụ hưởng các lợi ích do việc tham gia của tổ chức đem lại.
WTO là nền tảng mang tính toàn cầu, theo đó AFTA, APEC, ASEM là những tổ chức và chương trình hợp tác từng bước cụ thể hoá tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Các tổ chức này đã tạo ra một cơ chế những nguyên tắc và ràng buộc chặt chẽ theo hướng ngày càng cao mà bất cứ nước thành viên và các nước xin gia nhập nào cũng buộc phải tuân thủ.
Trong khuôn khổ WTO, các Hiệp định chủ yếu là Tổng hiệp định về quan thuế và thương mại 1994 (GATT), kèm theo 12 hiệp định cụ thể, Tổng hiệp định về dịch vụ (GATT), hiệp định về tài sản trí tuệ liên quan tới thương mại (TRIPs). Nội dung chủ yếu của các quy định trong các Hiệp định này là:
Về trao đổi thương mại, các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi quan thuế, bao gồm các hạn chế định lượng như quota, chế độ giấy phép xuất khẩu, thay vào đó là thuế khoá trừ những lĩnh vực liên quan đến quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, đạo đức và truyền thống dân tộc. Các tiêu chuẩn kỹ thuật về vệ sinh dịch tễ được áp dụng trên cơ sở khoa học và công bằng, không được lạm dụng để cản trở thương mại. Toàn bộ biểu thuế nhập khẩu được ràng buộc ở mức hiện hành và giảm dần theo lịch trình thoả thuận, công nhận quyền kinh doanh của các chủ thể kinh tế nước ngoài trên lãnh thổ mình và được bình đẳng trước pháp luật.
Về lĩnh vực dịch vụ, với sự phân loại thành 12 lĩnh vực và 155 tiểu ngành, các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả 4 phương thức cung cấp dịch vụ: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, hiện diện thương mại thông qua liên doanh, chi nhánh hoặc công ty 100% vốn nước ngoài và hiện diện thể nhân.
Về đầu tư, WTO có Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs), theo đó các nước cam kết không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, về cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ.
WTO thoả thuận các thành viên là nước phát triển cam kết giảm mức thuế hàng công nghiệp từ 6,3% năm 1994 xuống còn 3,9% năm 2000; các nước chuyển đổi tương ứng giảm từ 8,6% xuống còn 6% và các nước đang phát triển từ 15,3% xuống còn 12,3%. Về nông nghiệp, các nước phát triển cam kết giảm 36% mức thuế quan trung bình trong vòng 6 năm từ 1995 đến năm 2000, ít nhất giảm 15% cho mỗi sản phẩm; các nước đang phát triển giảm từ 24% trong vòng 10 năm từ năm 1995 cho đến năm 2004 ít nhất 10% mỗi sản phẩm; các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi giảm trung bình 36%.
Các tổ chức kinh tế quốc tế khác trong đó có APEC, ASEM, AFTA về cơ bản đều hoạt động theo các nguyên tắc chung của WTO song những yêu cầu về nội dung, lộ trình, mốc thời gian thì có sự khác biệt.
AFTA quy định các thành viên cũ phải giảm thuế quan xuống còn 0-5% vào năm 2003, Việt Nam là năm 2006, Lào và My-an-ma là năm 2008, Campuchia là năm 2010. Hiện nay các nước thành viên cũ của ASEAN đang tích cực đẩy nhanh tiến độ thực hiện AFTA để tới năm 2010, 6 nước thành viên cũ của ASEAN sẽ đạt được mục tiêu thực hiện thuế suất của toàn bộ các mặt hàng giảm xuống bằng 0%. Với các nước mới gia nhập sẽ thực hiện vào năm 2015.
APEC đặt mục tiêu tương tự cho các nước phát triển vào năm 2010 và các nước đang phát triển vào năm 2020. Tuy nhiên, xu hướng chung gần đây là muốn đẩy lên sớm hơn. Mặc dù APEC quy định cho 15 lĩnh vực trong chương trình hành động quốc gia (IAP) gồm thuế, phi thuế, dịch vụ, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ nhưng nhìn chung mức độ và thời gian ràng buộc cho tới nay chưa cao như AFTA. Tuy nhiên, sắp tới hàng năm các nước thành viên APEC (trong đó có cả Việt Nam) vẫn phải đưa ra các cam kết mới để nâng cấp những cam kết đã có trong năm trước nhằm thực hiện các mục tiêu của APEC. Trong việc thực hiện Kế hoạch hành động tập thể (CAP), Việt Nam đã chọn tham gia thí đIểm các lĩnh vực : đơn giản hoá thủ tục hải quan, tiêu chuẩn và hợp chuẩn. Trong khuôn khổ hợp tác APEC, Việt Nam cũng đã tham gia chương trình Hợp tác kinh tế kỹ thuật (ECOTECH) và phát triển hệ thống lương thực.
ASEM cho đến nay chưa có quy định cụ thể về mốc thời gian thực hiện tự do hoá mậu dịch. Những hoạt động chủ yếu hiện nay là hợp tác kinh tế và hợp tác trong các lĩnh vực văn hoá thông tin khoa học công nghệ.
Những quy định nhằm đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại, đầu tư và tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế khác của các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới này là những quy định mà hiện tại và trong tương lai Việt Nam phải tuân thủ. Tuy nhiên để thực hiện điều này, Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức to lớn.
2.2 Năng lực cạnh tranh của Việt Nam còn yếu
Năng lực cạnh tranh là một yếu tố quyết định trong việc mở rộng thị trường, hội nhập kinh tế với thế giới có hiệu quả, đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Năng lực cạnh tranh của một quốc gia, một nền kinh tế nói chung một mặt là tổng hợp các khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và các sản phẩm hàng hoá dịch vụ của quốc gia đó trên thị trường (cả trong nước và quốc tế), mặt khác là một môi trường kinh tế chung có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư (cả trong nước và nước ngoài). Như vậy ngoài việc phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, năng lực cạnh tranh còn liên quan đến hàng loạt những yếu tố quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô, xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư, khuyến khích cạnh tranh và chống độc quyền, các định chế tài chính, tiền tệ, hệ thống thông tin, cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật và xã hội, dịch vụ công, thị trường lao động, thể chế, luật pháp, chính sách, cơ cấu bộ máy nhà nước và năng lực của công chức trong bộ máy đó.
Những lợi thế của Việt Nam chủ yếu là lợi thế tự nhiên tập trung ở yếu tố con người (đông dân, lực lượng lao động đông đảo, khéo léo, cần cù, trình độ văn hoá tương đối khá), yếu tố vị trí địa - kinh tế, địa - chính trị (nằm ở khu vực phát triển năng động, giàu tài nguyên, có vị trí chiến lược quan trọng) và yếu tố tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, những đánh giá trong thời gian gần đây cho thấy các lợi thế này, đặc biệt là lợi thế về nhân lực của Việt Nam đang suy giảm dần. Nếu so sánh chi phí lao động với năng suất lao động thì chi phí lao động ở Việt Nam không thuộc loại thấp so với nhiều nước trong khu vực (do năng suất lao động Việt Nam quá thấp). Tiền lương của lao động Việt Nam gần đây có xu hướng tăng so với các nước khu vực đã làm ưu thế lao động rẻ của Việt Nam ngày cảng bị giảm xuống. Ví dụ, nếu tiền lương của công nhân dệt may ở Trung Quốc khoảng 22 USD/ tháng, ở In-đô-nê-xia khoảng 25 USD/tháng thì tiền lương của công nhân Việt Nam ở các công ty phía Nam trung bình là 1,12 triệu đồng (VND) tương đương với gần 80 USD/tháng.
Về sức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam, nhiều đánh giá và phân tích quốc tế cho rằng khả năng cạnh tranh cấp quốc gia của Việt Nam thấp. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 1997, Việt Nam đứng thứ 49 trong số 53 quốc gia được đánh giá về tính cạnh tranh của nền kinh tế. Năm 1998, cũng theo đánh giá của Diễn đàn này, Việt Nam được xếp thứ 39 trong số 53 nước. Chỉ số cạnh tranh của Việt Nam được đánh giá cao hơn chủ yếu là do sự giảm sút mạnh của nhiều nền kinh tế khác trong khu vực. Nhưng năm 1999, xếp hạng về khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam lại bị đẩy lùi về vị trí 48 trong số 59 nước được xem xét.
Đã có nhiều nghiên cứu phân tích nguyên nhân khả năng cạnh tranh thấp của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài. Những nguyên nhân được đề cập đến trước hết là trình độ phát triển thấp của cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Trong nhiều dự án đầu tư, các nhà đầu tư ngoài việc xây dựng nhà máy, còn phải tự đầu tư làm đường, đường đIện, trạm biến áp, các hạng mục cung cấp nước cho nhà máy hoạt động…Tiếp đó là thể chế luật pháp, chính sách chưa hoàn chỉnh, chưa ổn định và chưa nhất quán, hiệu lực thi hành chưa nghiêm, mỗi khi thay đổi hoặc do những giải thích vận dụng khác nhau ở các cấp, các địa phương đều gây khó khăn cho nhà đầu tư; những thủ tục hành chính phiền hà trong xét duyệt và thực thi dự án, những kéo dài và tốn kém trong đền bù, giải toả, giải phóng mặt bằng xây dựng…Xếp hạng thấp về khả năng cạnh tranh quốc gia, Việt Nam sẽ gặp phải những khó khăn trong thu hút đầu tư vốn nước ngoài. Để cải thiện và nâng cao khả năng cạnh tranh, tạo sự hấp dẫn của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục đổi mới, cải cách các lĩnh vực có liên quan đến khả năng cạnh tranh như : hệ thống cơ sở hạ tầng, thể chế luật pháp, các chính sách tài chính tiền tệ, chất lượng của lực lượng lao động, của đội ngũ công chức trong bộ máy nhà nước và các thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước…
Về khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhiều đánh giá cho rằng những năm gần đây một số doanh nghiệp Việt Nam đã vươn lên nâng cao được một bước khả năng cạnh tranh, nhất là sau khi thành lập một số tổng công ty lớn, nên đã đẩy lùi được một số mặt hàng nước ngoài trên thị trường Việt Nam (như bia, quần áo, xe đạp, bóng đèn…), mở rộng được xuất khẩu, thâm nhập được vào thị trường nhiều nước trên thế giới (như hàng may mặc, giày dép, thuỷ sản…). Nhưng nhìn chung khả năng cạnh tranh của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp.
Tình trạng chung của nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất lạc hậu, thiếu vốn, ít chú ý tới học hỏi kinh nghiệm quốc tế để đổi mới quản lý và phương thức kinh doanh; nhiều doanh nghiệp hầu như không (hoặc hoàn toàn không) đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, cho đào tạo huấn luyện công nhân, cán bộ kỹ thuật và quản lý doanh nghiệp, chưa tự chủ được về kiểu dáng công nghiệp và chưa tổ chức tiếp thị cả ở thị trường trong nước và nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của ta chủ yếu dựa vào các bạn hàng nước ngoài trong việc cung cấp các yếu tố sản xuất đầu vào, thiết kế mẫu, công nghệ, marketing, phân phối, tiêu thụ, chưa thiết lập được mối liên hệ trực tiếp với khách hàng, không kiểm soát được ở mức độ nào đó các kênh phân phối quốc tế. Phần lớn các doanh nghiệp chưa xây dựng được chiến lược phát triển dài hạn, mà hoạt động hầu hết đều nhằm vào các mục tiêu ngắn hạn, trước mắt, nhiều doanh nghiệp còn muốn ỷ lại vào sự bảo hộ và bao cấp của nhà nước, chú trọng nhiều đến “thái độ” của nhà nước, cố gắng giành cho được giấy phép, hạn ngạch, trợ cấp và chính sách bảo hộ càng nhiều càng tốt, chưa thực sự chủ động, sáng tạo và năng động linh hoạt trong tổ chức quản lý và kinh doanh, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh.
Về khả năng cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ được đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí như: gắn với sử dụng lợi thế của Việt Nam (lao động, đất đai, nguyên liệu địa phương), năng suất lao động, năng suất cây trồng, vật nuôi cao, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, sản phẩm mang tính độc đáo, quí hiếm mà nơi khác không sản xuất được, có thị trường tiêu thụ và có khả năng mở rộng thị trường, suất đầu tư thấp, tạo giá trị gia tăng cao.
Dựa trên các tiêu chí trên, các cơ quan nghiên cứu và quản lý bước đầu chia các sản phẩm của Việt Nam làm 3 nhóm:
Nhóm có khả năng cạnh tranh cao
Nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện (cần có thời gian và sự hỗ trợ nhất định của cơ chế, chính sách)
Nhóm có khả năng cạnh tranh thấp
Một số sản phẩm được đánh giá là có khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong thời điểm hiện nay là: cà phê, điều, lúa gạo, hàng thuỷ sản, hàng may mặc, giày dép, động cơ đi-ê-zen nhỏ, du lịch…(khoảng 11-12 mặt hàng). Ví dụ, hiện nay Việt Nam đang đứng thứ 4 thế giới và thứ nhất khu vực về sản lượng cà phê. Việt Nam xuất khẩu 90-95% sản luợng cà phê sang 52 nước và vùng lãnh thổ, năm 1997 xuất 392 nghìn tấn thu 490 triệu USD; năm 1998 xuất 382 nghìn tấn thu 595 triệu USD; năm 1999 xuất 450 nghìn tấn thu gần 600 triệu USD. Sản xuất lúa gạo của Việt Nam đứng hàng thứ 5 châu á , xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới. Việt Nam còn có tiềm năng lớn trong đánh bắt nuôi trồng thuỷ hải sản. Hiện Việt Nam đứng thứ 29 thế giới về xuất khẩu thuỷ hải sản…
Tuy nhiên cần phải thấy rằng, trong số những sản phẩm được đánh giá là có khả năng cạnh tranh này, một phần lớn là sản phẩm nông nghiệp (gạo, cà phê, hạt điều, tiêu, trái cây đặc sản, thuỷ hải sản…), dựa trên những lợi thế tự nhiên nhiều hơn là những lợi thế do nỗ lực gắn với tiến bộ khoa học công nghệ. Một số sản phẩm như giày dép, may mặc thì phần lớn làm gia công, giá trị gia tăng không cao, đầu vào, đầu ra phụ thuộc nhiều vào đối tác bên ngoài. Động cơ đi-ê-zen nhỏ tuy được chấp nhận và có uy tín với một số thị trường (như My-an-ma, I-rắc, In-đô-nê-xia) nhưng giá thành còn cao gấp 2 lần sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, nên khả năng cạnh tranh còn chưa vững chắc.
Tham gia hội nhập quốc tế, với sức cạnh tranh của hàng hoá như trên, Việt Nam khó có thể có cơ hội xâm nhập thị trường quốc tế. Nếu hàng hoá Việt Nam không có sự thay đổi trong thời gian tới thì chắc chắn sẽ không có chỗ đứng ngay cả tại thị trường trong nước.
2.3 Đổi mới trong nước chưa theo kịp với yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Đổi mới bên trong và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta gắn kết chặt chẽ với nhau. Đổi mới kinh tế để xây dựng tiềm lực kinh tế, khoa học-công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh; có thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm nền kinh tế đủ sức đứng vững và phát triển trong mọi tình huống là tiền đề cần thiết cho hội nhập. Hơn một thập kỷ qua, Đổi mới kinh tế ở Việt Nam với nội dung quan trọng là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo tiền đề để hội nhập nền kinh tế Việt Nam với kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, trên một số mặt/lĩnh vực và quá trình đổi mới bên trong này chưa thực sự theo kịp yêu cầu của hội nhập. ĐIều này thể hiện qua các mặt sau:
Cơ cấu kinh tế đất nước chậm chuyển đổi thích hợp với điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập.
Toàn cầu hoá và hội nhập làm tăng sự tuỳ thuộc giữa các nền kinh tế và sâu sắc hoá sự phân công lao động quốc tế. Các nước đều tìm cách điều chỉnh cơ cấu kinh tế của mình theo hướng tập trung phát triển những ngành nghề, lĩnh vực có lợi thế nhất để làm cho quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh đưa lại hiệu quả kinh tế tối đa. Thực tế cho thấy việc dịch chuyển cơ cáu kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua diễn ra chậm chạp, thiếu đồng bộ và nhất quán. Việc điều chỉnh này vừa mang tính tự phát, vừa mang tính định hướng kiểu “kế hoạch hoá”, chưa dựa trên một chiến lược cơ cấu kinh tế cho cả một giai đoạn dài đựoc xây dựng trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, dự báo, tính toán một cách hệ thống, cụ thể, đầy đủ các yếu tố, đặc biệt là gắn với điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập của Việt Nam. Vấn đề xây dựng một chiến lược như vậy mới được đặt ra trong vòng 3 trở lại đây và hiện tiếp tục trong quá trình được các cơ quan chức năng nghiên cứu, xem xét). Có thể thấy điểm yếu quan trọng nhất của vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm qua là chưa tập trung khai thác và phát triển nhiều ngành và lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế và có thể làm hiệu quả nhất. Đầu tư của Nhà nước bị dàn trải và sa đà vào nhiều ngành và lĩnh vực không đưa lại hiệu quả kinh tế (đường mía, xi măng, thép, than…). Ngay trong lĩnh vực nông nghiệp mặc dù trong thập niên qua đã đạt được thành tựu lớn, nhưng công nghệ sinh học, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến còn chưa được đầu tư thích đáng để nâng cao hiệu quả sản xuất và giá trị thành phẩm.
Quá trình điều chỉnh bổ sung hệ thống luật pháp, các qui định, chính sách về quản lý hoạt động kinh tế cho thích hợp với điều kiện một nền kinh tế thị trường và hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới cũng như đổi mới cơ cấu kinh tế đất nước còn chậm, chưa kịp thời.
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi hệ thống luật pháp, chính sách về quản lý kinh tế trong các lĩnh vực, đặc biệt là thương mại, đầu tư, quyền kinh doanh, dịch vụ, sở hữu trí tuệ…của Việt Nam phải đuợc điều chỉnh bổ sung, nhằm một mặt đáp ứng những quy tắc và luật chơi của các thể chế kinh tế quốc tế, mặt khác hỗ trợ một cách hiệu quả cho hàng hoá dịch vụ cũng như các doanh nghiệp thâm nhập thị trường quốc tế. Trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển đổi như hiện nay, yêu cầu này thực sự là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Cho đến nay, tuy đã có rất nhiều cố gắng trong công tác xây dựng pháp luật, nhưng hệ thống luật pháp, chính sách của Việt Nam về các vấn đề trên còn chưa hoàn chỉnh và có nhiều bất cập so với các qui định quốc tế, đặc biệt là còn thiếu minh bạch, không nhất quán và còn thiếu tính ổn định. Chẳng hạn như hệ thống quy định về thuế quan và phi thuế quan của Việt Nam rất phức tạp, thường xuyên điều chỉnh, thay đổi thất thường, gây tâm lý thiếu tin tưởng trong giới kinh doanh và các đối tác của Việt Nam. Những biện pháp chính sách tạo lợi thế cho kinh tế và thương mại mà WTO, ASEAN, APEC, ASEM thừa nhận như quy chế MFN và NT, chế độ hạn ngạch thuế quan, quyền tự vệ, chống bán phá giá v.v…thì Việt Nam lại chưa có. Trong khi đó, nhiều biện pháp mà các thể chế liên kết kinh tế trên không thừa nhận thì Việt Nam vẫn áp dụng. Còn nhiều khoảng trống và bất cập trong hệ thống luật pháp, chính sách điều tiết thị trường dịch vụ, tài chính-tiền tệ, chứng khoán, lĩnh vực ngân hàng, cạnh tranh và chống độc quyền, giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh tế v.v…Nhà nước còn duy trì quá lâu các biện pháp mang tính bao cấp như cấp phát vốn, bù lỗ, khoanh nợ và giành nhiều ưu đãi khác hoặc đặc quyền cho các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước. ĐIều này tạo ra tâm lý ỷ lại của các doanh nghiệp thuộc khu vực này và tình trạng không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
2.4 Công tác chuẩn bị cho hội nhập chưa đầy đủ kịp thời
Điều này thể hiện trên các mặt sau:
Mặc dù chủ trương hội nhập, hợp tác kinh tế quốc tế đã được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định và thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng, Việt Nam đã gia nhập và hoạt động đàm phán gia nhập WTO, nhưng trên thực tế vẫn còn tình trạng nhiều ngành, nhiều cấp và các doanh nghiệp chưa thực sự quán triệt về sự cần thiết tất yếu phải chủ động, tích cực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, còn nặng tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bảo hộ của nhà nước. Ngược lại một số lại không thấy hết những khó khăn thách thức do hội nhập mang lại, còn nôn nóng muốn hội nhập càng nhanh càng tốt, không tính toán một cách đầy đủ, không thấy hết được sự hạn chế về sức cạnh tranh của nước ta là một nước còn chậm phát triển, do đó sinh ra tâm lý trông chờ thái quá vào “phép mầu” của hội nhập mà không thấy được yếu tố quyết định của thành công chính là sự cố gắng của bản thân từng doanh nghiệp, từng ngành, từng địa phương. Do còn tồn tại những tư tưởng như vậy nên trong thời gian qua có sự thiếu thống nhất về ý chí và quyết tâm tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu, đánh giá các tác động của hội nhập kinh tế quốc tế một cách có hệ thống và khách quan đối với Việt Nam để làm cơ sở cho các quyết sách chưa thực sự được coi trọng và mới chỉ được tiến hành ở mức rất hạn chế. Các doanh nghiệp còn thờ ơ với công tác này. Trong khi đó, công tác hội nhập mang tính đa dạng và mới mẻ có liên quan tới mọi bộ, ngành, các doanh nghiệp và mọi tầng lớp xã hội lại chủ yếu tập trung ở các cơ quan kinh tế cấp trung ương. Sự tham gia của các ngành giáo dục tư tưởng, tuyên truyền, an ninh quốc phòng tuy đã có nhưng chưa thực sự sâu. Sự phối hợp đồng bộ trong chuẩn bị và triển khai hành động giữa các ngành kinh tế, đối ngoại với các ngành an ninh, quốc phòng, với các địa phương, doanh nghiệp và mở rộng ra tới các đoàn thể quần chúng chính trị chưa được nhiều.
Năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập còn hạn chế về nhiều mặt, chưa thực sự đáp ứng tốt nhất yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện mới. Mặc dù cùng với quá trình hội nhập, năng lực của đội ngũ cán bộ Việt Nam đã nâng lên rõ rệt và đã góp phần đáng kể vào thành tích chung của đất nước, đội ngũ này vẫn cần phải được nâng cao hơn nhiều về trình độ hiểu biết nói chung và năng lực chuyên môn nói riêng, đặc biệt là ngoại ngữ (trước hết là tiếng Anh) và khả năng đóng góp vào việc hoạch định các chính sách kinh tế, xây dựng luật pháp, tham gia đàm phán, xây dựng các cam kết quốc tế cũng như việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể khác của công tác hội nhập.
Hội nhập cũng đòi hỏi đội ngũ quản lý các doanh nghiệp phải hiểu biết về kinh tế quốc tế, đặc biệt là thị trường quốc tế, các qui định của các thể chế liên kết kinh tế quốc tế mà Việt Nam tham gia, các cam kết về mở cửa của Việt Nam cũng như các nước khác, biết quản lý kinh doanh tốt trong điều kiện hội nhập. Đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp Việt Nam nhìn chung chưa đáp ứng được những yêu cầu này.
Vấn đề tổ chức chỉ đạo quá trình hội nhập trong thời gian qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Về bộ máy, mặc dù UBQG/HTKTQT đã được thành lập cùng với hệ thống các cơ quan đầu mối thuộc các Bộ/Ngành và UBND các tỉnh/thành và trong thời gian qua hoạt động khá tích cực và thực hiện khá tốt vai trò chức năng của mình, nhưng việc phối hợp hoạt động, điều kiện và phương tiện hoạt động, trình độ hiểu biết nhiều mặt và năng lực đóng góp của các thành viên tham gia vào các cơ chế này cũng có nhiều giới hạn, do vậy hiệu quả của các hoạt động, nhất là chất lượng của công tác tham mưu cho lãnh đạo Đảng và Chính phủ cũng còn những hạn chế. Hạn chế lớn nhất có lẽ là chưa làm cho lãnh đạo (Bộ chính trị và Ban chấp hành Trung ương) hiểu rõ và nhất trí được về một số vấn đề quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, do vậy chưa tạo ra được ý chí chính trị thống nhất và mạnh mẽ trong lãnh đạo về đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn mới (thể hiện trong việc ký Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ). Có lẽ đây chính là nguồn gốc của tình trạng “do dự” trong việc chỉ đạo và tiến hành hội nhập của ta trong thời gian qua.
Sự phối kết hợp giữa các Bộ/Ngành, địa phương và doanh nghiệp trong quá trình tiến hành hội nhập chưa thật sự chặt chẽ, nhịp nhàng và đồng bộ. Chính phủ tích cực thúc đẩy hội nhập, nhưng doanh nghiệp còn thờ ơ. Thông tin trao đổi giữa trung ương với địa phương về các vấn đề hội nhập chưa đầy đủ và thường xuyên. Việc phối hợp của các Bộ/Ngành trong các loại hình đàm phán quốc tế hoặc tham gia vào các hoạt động cụ thể ở các cấp hội nghị khác nhau còn rời rạc, đôi khi còn chồng chéo gây khó cho nhau. Thực tế những năm qua càng khẳng định cần có cơ chế phối hợp hành động giữa các ngành kinh tế với các ngành ngoại giao, an ninh, quốc phòng và sự hiệp đồng tác chiến của các cơ quan chính trị tư tưởng, văn hoá, tuyên truyền và giáo dục trong quá trình hội nhập.
Đặc biệt quan trọng là Việt Nam còn thiếu một chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế cho cả một giai đoạn dài, làm cơ sở chỉ đạo và điều tiết quá trình hội nhập một cách chủ động và đồng bộ làm cho quá trình này đem lại hiệu quả tốt nhất cho đất nước. Trong những năm qua, Việt Nam vừa tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế vừa nghiên cứu các nội dung cam kết để điều chỉnh chính sách, xây dựng phương án đàm phán, đối phó với đòi hỏi của việc tham gia các thể chế liên kết kinh tế. Việt Nam chưa có một chiến lược tổng thể về hội nhập dựa trên một tầm nhìn dài hạn gắn với chiến lược cơ cấu kinh tế, đồng thời cũng chưa đưa ra được một lộ trình tổng thể các cam kết mở cửa của ta trong các lĩnh vực nhất là thuế quan, phi thuế quan, đầu tư, dịch vụ, sở hữu trí tuệ để có cơ sở đàm phán và giúp các ngành, các cấp, các doanh nghiệp có định hướng đúng trong xây dựng chương trình hành động của mình, có đủ thời gian chuẩn bị chu đáo khi hàng rào bảo hộ bị dần dần xoá bỏ và có biện pháp, có kế hoạch chủ động vươn ra thâm nhập thị trường quốc tế. Do vậy, thời gian qua các Bộ/Ngành, địa phương và các doanh nghiệp một mặt còn lúng túng, bị động nhưng mặt khác lại dựa dẫm trông chờ vào bảo hộ. Thêm nữa, đây cũng là một nguyên nhân của tình trạng thiếu thống nhất và đồng bộ trong việc xây dựng các cam kết cụ thể của Việt Nam trong khuôn khổ các thể chế kinh tế quốc tế khác nhau.
Công tác tuyên truyền, phổ biến về hội nhập và giáo dục đội ngũ lao động chưa được quan tâm thích đáng
Mặc dù trong mấy năm qua, đã có những cố gắng đáng kể trong công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về hội nhập kinh tế quốc tế trong cán bộ, doanh nghiệp và nhân dân, chú trọng bồi dưỡng cho cán bộ và doanh nghiệp, nhưng cũng mới chỉ làm được có mức độ và còn ở diện tương đối hẹp: chủ yếu là diện cán bộ trực tiếp tham gia vào công tác hội nhập ở các Bộ/Ngành và một số ở các tỉnh/thành lớn và một bộ phận nhỏ doanh nghiệp ở một số thành phố lớn. Nhu cầu tăng cường tuyên truyền và phổ biến thông tin về các vấn đề như các luật lệ, quy định của các thể chế kinh tế-thương mại khu vực và thế giới, về các thị trường thành viên và đối tác của Việt Nam, luật lệ và chính sách của Việt Nam…ngày càng tăng.
Các cơ sở giáo dục và đào tạo ở Việt Nam lâu nay cũng còn chưa quan tâm nhiều đến dạy và đào tạo về hội nhập kinh tế quốc tế nhằm chuẩn bị cho xã hội một đội ngũ những người nắm được kiến thức và có đủ năng lực hoạt động trong các lĩnh vực của hội nhập kinh tế quốc tế.
Những khiếm khuyết và tồn tại trên đây của Việt Nam, trong đó đáng nhấn mạnh nhất là ở khả năng cạnh tranh, trong nhận thức và tư tưởng, trong cải cách và đổi mới cơ cấu kinh tế là những thách thức, những trở lực đáng kể đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập. Việc giải quyết những vấn đề trên thành công hay không sẽ tác động trực tiếp (hạn chế hay là thúc đẩy) đến hiệu quả mà quá trình hội nhập mang lại.
Một số vấn đề đặt ra với Việt Nam trong quá trình hội nhập thời gian tới
Về nhận thức, tư tưởng
Trong quá trình hội nhập thời gian tới, cần quán triệt những quan đIểm, nguyên tắc chủ yếu được nêu trong các nghi quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 27-11-2001 của Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Cụ thể là, quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX là : “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Theo đó, hội nhập kinh tế quốc tế là để đáp ứng yêu cầu của bản thân Việt Nam trong quá trình phát triển, nhằm lấy nội lực kết hợp với ngoại lực, đẩy mạnh sự nghiệp CHN-HĐH theo định hướng XHCN, bảo đảm hiệu quả kinh tế-xã hội và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế quốc dân, hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực của những chao đảo, biến động từ bên ngoài.
Hội nhập phải trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu chính trị cao nhất đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập phải tuân thủ các nguyên tắc chung là bảo vệ độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ và phát triển sản xuất, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc của dân tộc.
Ngoài ra, cần quán triệt rằng hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; phải đề phòng tư tưởng ỉ lại, thụ động vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá trình hội nhập, cần phải phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Hội nhập chính là một bộ phận hữu cơ của đường lối đổi mới do Đảng đề ra và để thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội ngắn, trung và dài hạn của Đảng và Nhà nước. Hội nhập là phù hợp với chủ trương “phát triển kinh tế đối ngoại theo hướng xây dựng hệ thống kinh tế mở”, hình thành thị trường đồng bộ, thông suốt trong cả nước, gắn với kinh tế và thị trường thế giới.
Cần kết hợp với nhận thức đẩy đủ các đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam, để từ đó đề ra kế hoạch, lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ của đất nước, vừa đáp ứng các qui định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà Việt Nam đang và sẽ tham gia, tranh thủ những ưu đãi của các tổ chức này cho các nước ĐPT như Việt Nam.
Về sức cạnh tranh
Để đảm bảo lợi ích của đất nước trong quá trình hội nhập, phấn đấu hoàn thành mục tiêu trong 10 năm, tới năm 2010 phải đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, biện pháp có ý nghĩa quan trọng, yếu tố quyết định để chủ động hội nhập thắng lợi là phải khẩn trương nâng cao sức cạnh tranh của từng sản phẩm, từng doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.
Sức cạnh tranh của sản phẩm phải được thể hiện ở chất lượng sản phẩm, giá cả và khả năng tiếp thị. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp phải được thể hiện ở sản phẩm và dịch vụ tiêu thụ trên thị trường trong nước và ngoài nước. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp phải được thể hiện ở sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có lợi nhuận. Sức cạnh tranh của quốc gia một mặt dựa vào sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp đồng thời cũng phải thể hiện qua điều kiện, môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường xã hội, chính trị ổn định, thuận lợi cho đầu tư sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong nước và nước ngoài.
Cụ thể là, để nâng cao sức cạnh tranh, mỗi doanh nghiệp phải chủ động tự chịu trách nhiệm về kinh doanh, phải nghiên cứu thị trường, cải tiến chất lượng và kiểu dáng sản phẩm, biết chọn lựa bạn hàng, đối tác đầu tư; phải làm cho từng người lao động trong doanh nghiệp không chỉ vì thu nhập riêng của họ mà cùng với nhưng nhà quản lý doanh nghiệp cùng làm cho doanh nghiệp ngày càng phát triển. Các doanh nghiệp phải biết và phải được Nhà nước khuyến khích tổ chức quá trình hợp tác theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi tạo thành sức mạnh trong cạnh tranh, cũng như trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình dưới nhiều hình thức tổ chức đa dạng như hiệp hội theo ngành, theo sản phẩm, ở từng địa phương, từng nghề nghiệp. Các chương trình đổi mới và phát triển các doanh nghiệp nhà nước, nhằm hình thành những doanh nghiệp thực sự sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có năng lực cạnh tranh cần được đẩy mạnh để các doanh nghiệp này đóng vai trò nòng cốt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế. Một mặt, nhà nước cần hoàn chỉnh hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động kinh doanh và đầu tư của tất cả các doanh nghiệp và cá nhân; mặt khác, thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh và đầu tư trong khuôn khổ một hệ thống pháp luật phù hợp với nền kinh tế thị trường, không cho phép bất cứ cơ quan và cá nhân nào nhân danh Nhà nước để can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, sách nhiễu, phiền hà dưới mọi phương thức.
Trong những năm tới Nhà nước cần hướng vào giải quyết một số vấn đề như : tạo lập đồng bộ nền kinh tế thị trường trong nước, khuyến khích cạnh tranh và chống độc quyền; gắn bó hữu cơ với hội nhập quốc tế với chiến lược kinh tế-xã hội của đất nước, tạo ra các đột phá chiến lược; tổ chức công tác nghiên cứu khoa học và hệ thống thông tin về thị trường thế giới; hình thành cơ cấu tổ chức hợp lý về kinh tế đối ngoại, chuẩn bị nguồn nhân lực cho tương lai. Trong đó vấn đề cấp bách được nhắc đến trong nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước là vấn đề điều chỉnh cơ cấu kinh tế để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh.
Về phương hướng và giải pháp điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong quá trình hội nhập
Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế trên cơ sở phát huy những tiềm năng, nội lực của mình để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, như vậy nhu cầu gắn kết chặt chẽ giữa hội nhập với đổi mới quản lý và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một tất yếu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần được định hướng theo 2 góc độ: thứ nhất, đó là việc tạo dựng một môi trường vĩ mô chung có tính cạnh tranh cao để thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế và của các ngành, các doanh nghiệp; thứ hai, điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư dưới góc độ ngành và doanh nghiệp căn cứ trên cơ sở sức cạnh tranh của từng ngành với lợi thế so sánh trong sản xuất kinh doanh trong điều kiện Việt Nam sẽ triển khai thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế đối với các tổ chức khu vực như WTO, ASEAN (AFTA), APEC, ASEM, WB, IMF và Hiệp định thương mại Việt-Mỹ.
Dưới góc độ quốc gia, tính cạnh tranh thể hiện ở năng lực tạo dựng môi trường cạnh tranh trong đó vai trò của nhà nước mang tính kiên quyết để đảm bảo cho nền kinh tế phát huy những lợi thế so sánh, phân bổ các nguồn lực có hiệu quả, đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Trong bối cảnh Việt Nam chỉ được đánh giá là nước có môi trường cạnh tranh quốc gia thấp, thì một trong những nội dung của việc xây dựng chiến lược hội nhập là cần tăng cường tính cạnh tranh cấp quốc gia, trong đó các chính sách kinh tế được hoạch định sao cho thực hiện tốt các yếu tố cơ bản sau đây:
Các chỉ số kinh tế vĩ mô (thâm hụt ngân sách, lạm phát, cán cân thanh toán, tỷ giá…) ổn định và ở mức cân bằng.
Nền kinh tế tương đối mở (nhất là về thương mại và các luồng FDI)
Cạnh tranh trong nước được khuyến khích
Điều kiện cạnh tranh bình đẳng được đảm bảo và can thiệp của Nhà nước chủ yếu là trên bình diện vĩ mô (như tạo khung pháp lý, sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô, đầu tư vào hạ tầng cơ sở…)
Dịch vụ công cộng có chất lượng cao
Hệ thống tài chính, ngân hàng tạo nên trung gian tài chính hiệu quả
Các chủ thể thị trường có thể tiếp cận thông tin và công nghệ
Cở sở hạ tầng được nâng cấp và duy trì
Thị trường lao động linh hoạt trong mối quan hệ thích hợp giữa người sử dụng lao động và người lao động
Thể chế luật pháp, xã hội vận hành có hiệu lực và minh bạch
Tiếp tục tiến hành cải cách kinh tế mang tính tổng thể và đồng bộ. Đặc biệt, đó là những cải cách trong các lĩnh vực tài khoá, tài chính tiền tệ, thương mại và khu vực DNNN. Cải cách kinh tế cũng không thể tách rời cải cách khu vực hành chính nhằm hạn chế đáng kể nạn tham nhũng, giảm thiểu tệ quan liêu cũng như các chi phí giao dịch cho các hoạt động kinh doanh.
Dưới góc độ ngành thì phương hướng điều chỉnh cơ cấu ngành được xem xét dựa trên việc nghiên cứu và phân loại các ngành sản xuất và dịch vụ theo 3 nhóm: nhóm có khả năng cạnh tranh cao, nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện (được bảo hộ, hỗ trợ có thời hạn và tích cực nâng cao khả năng cạnh tranh) và nhóm có khả năng cạnh tranh thấp.
Căn cứ theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho tổng số 40 nhóm sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam thì hiện tại có 11 sản phẩm thuộc loại có khả năng cạnh tranh cao là: cà phê, điều, lúa gạo, một số loại trái cây, thuỷ sản, may mặc, giày dép, động cơ đi-ê-zen cỡ nhỏ, sản phẩm của ngành du lịch, dịch vụ xây dựng; ngoài ra 19 sản phẩm dịch vụ khác thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện gồm: chè, cao su, rau, thực phẩm chế biến, lắp ráp điện tử, cơ khí, hoá chất, xi măng, đóng tàu, thịt heo, ngân hàng, viễn thông, vận tải biển, vận tải hàng không, kiểm toán, công nghệ phần mềm, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ y tế và 10 sản phẩm thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh thấp gồm: mía đường, bông, cây có dầu, đỗ tương, ngô, quả có múi, hoa, sữa bò, thịt gà, thép. Theo cơ sở phân chia này, nhà nước cần đưa ra các chính sách về thuế nhập khẩu, phân bổ hạn ngạch phi thuế, chế độ phụ thu xuất khẩu, chính sách thuế trong nước, tín dụng xuất khẩu và cải cách doanh nghiệp phù hợp…đối với từng nhóm và ngành cụ thể.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, rõ ràng lợi thế so sánh của nền nông nghiệp nhiệt đới là đIểm mạnh của Việt Nam có thể cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài trên thị trường nội địa, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu. Muốn vậy, cần nhanh chóng áp dụng các tiến bộ sinh học, hiện đại hoá công nghệ chế biến nâng cao chất lượng vệ sinh thực phẩm, đóng gói bao bì…
Trong lĩnh vực công nghiệp, việc bố trí đầu tư, xây dựng phải căn cứ theo có sở phân chia khả năng cạnh tranh trên để chọn thứ tự ưu tiên. Bên cạnh đó cần phát triển một số ngành công nghiệp nặng, xây dựng các công trình quy mô lớn một có chọn lọc, và dành quan tâm thỏa đáng cho việc phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, có công nghệ tiến tiến để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, tiêu thụ được trên thị trường cả trong nước và thế giới.
Đối với khu vực dịch vụ, đây là lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt song cũng rất nhạy cảm trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. Chấp nhận cạnh tranh, kể cả cạnh tranh trong nước lẫn cạnh tranh quốc tế, coi đó là động lực thúc đẩy sự tiến bộ của các ngành dịch vụ phải đI đôi với việc xem xét các điều kiện, đặc thù của từng ngành dịch vụ.
Mặc dù về lý thuyết điều chỉnh cơ cấu cần tiến hành theo những phương hướng như vậy, song khi khoa học và công nghệ không ngừng phát triển, kinh tế thế giới có nhiều đột biến, thị trường luôn biến động, tính cạnh tranh và lợi thế so sánh của các nước đều rất linh hoạt thì cần phải có sự điều chỉnh kịp thời bộ phận này hay bộ phận khác của các định hướng phát triển, nhằm hợp lý hoá cơ cấu kinh tế, tăng cường hơn nữa năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ, doanh nghiệp và của nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Ngoài vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ, doanh nghiệp và của nền kinh tế Việt Nam, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời gian tới còn đòi hỏi việc xây dựng một lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường.
Về xây dựng lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế
Xây dựng lộ trình các cam kết quốc tế là một trong những trọng tâm của chiến lược hội nhập. Để thích ứng với yêu cầu của hội nhập, đáp ứng các cam kết của nước ta về mở cửa thương mại, đầu tư, dịch vụ, về thuế và phi thuế, việc xây dựng lộ trình cần dựa vững chắc trên các nguyên tắc và nguyên lý căn bản sau:
Giữ vững nguyên tắc độc lập và chủ quyền quốc gia, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển trên cơ sở đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, kiên trì, bền bỉ điều chỉnh lại hệ thống cơ chế chính sách cho phù hợp với những quy tắc và chuẩn mực của WTO, ASEAN, APEC, ASEM. Coi việc điều chỉnh cơ chế chính sách theo định hướng hội nhập là tạo ra động lực bên trong để thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế.
Lộ trình được xây dựng theo hướng hội nhập dần từng bước, mở cửa thị trường với lộ trình hợp lý, được xác định trên cơ sở (1) các cam kết, quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà ta đã và sẽ tham gia (2) thực trạng hiện tại và dự báo phát triển trong tương lai của nền kinh tế Việt Nam. Một lộ trình “quá nóng” về mức độ và thời hạn mở cửa thị trường vượt quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế, sẽ dẫn tới thua thiệt, đổ vỡ hàng loạt doanh nghiệp, vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước, kéo theo nhiều hậu quả khó lường. Vì vậy, điều cực kì quan trọng là cần xem xét tính toán nghiêm túc điều kiện, khả năng cụ thể của từng ngành hàng, từng loại doanh nghiệp về các mặt quản lý, công nghệ, trình độ kinh doanh, có tính đến những quy định chung..., để hoạch định lộ trình hội nhập hợp lý.
Lộ trình được xây dựng theo nguyên tắc Việt Nam thừa nhận mục tiêu thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại của WTO, ASEAN, APEC, ASEM và cam kết thực hiện mục tiêu này bằng các biện pháp và bước đI thích hợp với trình độ phát triển của mình, trong đó các cam kết trong khuôn khổ ASEAN/AFTA là các cam kết có mức độ ưu đãi cao nhất và cần tập trung thực hiện trong lộ trình của ta. Đồng thời xuất phát từ đặc điểm hiện tại của đất nước, trong lộ trình hội nhập Việt Nam cần yêu cầu quyền được hưởng những ưu đãi dành cho các nước có trình độ phát triển thấp và đang trong quá trình chuyển đổi.
Trên cơ sở lộ trình tổng thể hội nhập, cần tiếp tục xây dựng Lộ trình chi tiết, rõ ràng trong từng lĩnh vực, từng loại mặt hàng, từng đối tác đàm phán quốc tế, đồng thời xác định rõ lộ trình, thời gian biểu, cam kết thực hiện nghĩa vụ của WTO, ASEAN, APEC, ASEM, đảm bảo kết hợp cân đối giữa cam kết ở WTO với các cam kết ở các tổ chức khác.
Việc xây dựng lộ trình hội nhập cũng phải tính đến các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc xử lý vấn đề thuế quan trong lộ trình:
Thuế suất phải được thiết kế dựa trên chiến lược hội nhập tổng thể, đề án về chuyển dịch cơ cấu sản xuất, đầu tư, đảm bảo theo hướng lấy các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế làm định hướng cho bảo hộ trong đàm phán hội nhập. Chủ yếu ưu tiên bảo hộ các ngành sử dụng nhiều lao động, các ngành có tiềm năng phát triển, không bảo hộ tràn lan. Các cam kết thuế quan nhằm bảo hộ và thúc đẩy sản xuất trong nước chỉ có giá trị ở mức độ nhất định. Nếu bảo hộ quá mức, quá lâu sẽ gây sức ỳ, tăng mức độ trì trệ và yếu kém của sản xuất trong nước. Do vậy cần khẳng định cụ thể và công khai: bảo hộ ngành nghề gì, bảo hộ trong thời gian bao lâu và bảo hộ ở mức nào.
Để đạt được mục tiêu bảo hộ có chọn lọc này, nhất thiết phải tiến hành việc phân loại các ngành hàng vào các cấp độ bảo hộ khác nhau căn cứ theo triển vọng và khả năng cạnh tranh.
Các định hướng bảo hộ, đặc biệt định hướng bảo hộ thể hiện trong các cam kết ràng buộc thuế quan là có thời hạn. Với cái nhìn tổng thể cho toàn bộ nền kinh tế mà chưa phải là cụ thể cho từng ngành, thì mốc thời gian tương đối rõ trong đó sự bảo hộ bằng thuế cho đa số các ngành hàng của Việt Nam chỉ còn rất hạn chế (năm 2006), khi AFTA được thực hiện đầy đủ. Có thể lấy chuẩn này để làm căn cứ xây dựng lộ trình giảm thuế và đàm phán với các tổ chức quốc tế khác, có sự điều chỉnh cần thiết, bảo đảm lợi ích cao nhất của Việt Nam.
Đồng thời, trong quá trình xác định các cam kết hội nhập phải đảm bảo đúng nguyên tắc của WTO rằng các hàng rào thuế quan là hàng rào bảo hộ cuối cùng và duy nhất được phép cho các doanh nghiệp trong nước. Để thực hiện điều này, các mức độ cam kết thuế quan sẽ bao gồm cả các yếu tố thuế hoá các biện pháp phi thuế. Như vậy, mức cam kết về thuế được xác định sau cùng, sau khi đã giải quyết xong nội dung thuế hoá các rào cản thương mại ngoài thuế như NTB, các qui định về chế độ quản lý giá, trợ cấp…
Nguyên tắc xử lý vấn đề phi thuế trong lộ trình:
Việc xây dựng lộ trình cam kết phi thuế cần dựa vào các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA và Hiệp định thương mại Việt-Mỹ làm chuẩn cơ bản. Ngoài các biện pháp hạn chế định lượng đang sử dụng có thể áp dụng các biện pháp khác như hạn ngạch thuế quan, thuế theo mùa (đối với hàng nông sản)
Khẩn trương xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ tiến tới thực hiện hài hòa các tiêu chuẩn và ký các hiệp định công nhận lẫn nhau.
Nguyên tắc xử lý vấn đề doanh nghiệp và thương quyền
Cần xây dựng và sớm công bố trong phạm vi cần thiết các định hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế và lộ trình cam kết quốc tế, giúp các doanh nghiệp có đủ thông tin để có thể chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với năng lực của mình trong bối cảnh hội nhập.
Nhà nước cần hoạch định xây dựng một môi trường pháp lý thuận lợi, thường xuyên cung cấp thông tin về thị trường, giá cả, xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện công tác xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đầu tư sản xuất và kinh doanh với doanh nghiệp nước ngoài, triển khai mạnh mẽ hơn nữa chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, kiểm soát chặt chẽ được hoạt động của doanh nghiệp, hướng doanh nghiệp triển khai các hoạt động theo đúng luật pháp quy định. Đồng thời cần có biện pháp, chính sách khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng qua đó mà sàng lọc, định hướng phát triển, hình thành các hạt nhân doanh nghiệp ưu tú có sức cạnh tranh đảm bảo hội nhập đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Về công tác xây dựng và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tham gia công tác hội nhập kinh tế quốc tế
Chiến lược về hội nhập cần thiết phải coi trọng yếu tố con người. Vấn đề về đào tạo, sử dụng cán bộ trong công tác hội nhập là cực kì quan trọng. Cần xây dựng những tiêu chuẩn bắt buộc với những cán bộ tham gia xây dựng chính sách và hoạt động trong công tác kinh tế đối ngoại, bao gồm các yêu cầu về phẩm chất đạo đức, về tư tưởng, trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ. Trên cơ sở những yêu cầu đó để xây dựng kế hoạch về đào tạo, chọn lọc sử dụng cán bộ phù hợp với nhu cầu hợp tác quốc tế thời gian tới.
Kết luận
Việt Nam thực hiện đẩy mạnh quá trình CNH và HĐH trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có những biến đổi nhanh chóng và mạnh mẽ. Những biến đổi đó là hệ quả trực tiếp của xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Đến lượt nó, những biến đổi này bao gồm (1) phân công lao động mang tính toàn cầu (2) toàn cầu hoá giao lưu quốc tế về thương mại, đầu tư và thị trường lao động quốc tế và (3) xu hướng hình thành những khối kinh tế mậu dịch khu vực đã gây ảnh hưởng sâu sắc tới tất cả các quốc gia, các nền kinh tế trên thế giới trong đó có Việt Nam. Việt Nam và các nước đang đứng trước những thời cơ mới, những vận hội mới song cũng phải đối mặt với những thách thức cũng to lớn không kém. Bên cạnh cơ hội tham gia hệ thống phân công lao động quốc tế, tiếp cận thị trường thế giới ngày càng rộng mở, các nước đang phát triển và Việt Nam nhìn chung phải đứng trước ba thách thức lớn (về tái cơ cấu nền kinh tế, về cạnh tranh quốc tế, về chính trị-xã hội). Vựot qua được những thách thức này hay không là phụ thuộc vào khả năng của mỗi quốc gia.
Nhận thức được bản chất của toàn cầu hoá kinh tế cũng như các thách thức và cơ hội mà toàn cầu hoá kinh tế tạo ra trên con đường phát triển của nó, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã sớm có những chủ trương và chính sách thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thực chất là nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài, kết hợp với việc phát huy cao độ nội lực, tạo ra sức mạnh tổng hợp nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với chủ trương như vậy, trong giai đoạn từ 1991 trở lại đây, các hoạt động của Việt Nam nhằm hội nhập với khu vực và thế giới được triển khai hết sức nhộn nhịp. Trên cơ sở quan hệ đối ngoại được mở rộng từ giai đoạn trước, hoạt động hội nhập giai đoạn này diễn ra thuận lợi và đưa lại những chuyển biến đáng kể cho nền kinh tế nước nhà. Có thể nói nhờ có chủ trương và chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tận dụng được một cách hiệu quả những cơ hội do toàn cầu hoá kinh tế đem lại. Tuy vậy, quá trình hội nhập vừa qua cũng đã cho thấy những yếu kém và bất cập của nền kinh tế Việt Nam. Những yếu kém này đặt trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa các thị trường, thuận lợi hoá đầu tư…thực sự trở thành những vấn đề cấp bách cần tìm giải pháp. Một vài trong số những vấn đề cấp bách đó là vấn đề thống nhất tư tưởng, các vấn đề liên quan đến khả năng cạnh tranh của Việt Nam, đến điều chỉnh cơ cấu kinh tế và xác định lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Với những thành quả đã đạt được trong hơn 15 năm đổi mới và tiến hành hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, với sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước cùng với sự nỗ lực của các cơ quan ban ngành, các doanh nghiệp, chúng ta có thể tin tưởng vào khả năng giải quyết thành công những vấn đề này.
Với mục đích góp phần nhỏ bé của bản thân vào việc tăng cường nhận thức đúng đắn về toàn cầu hoá kinh tế và quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam trong bối cảnh tiến hành CNH-HĐH đất nước, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Toàn cầu hoá kinh tế và các vấn đề đặt ra với Việt Nam”. Do có nhiều hạn chế về thời gian và tài liệu tham khảo, chắc chắn khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo và sự góp ý của bạn bè. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè đã nhiệt tình giúp đỡ và khích lệ em hoàn thành khoá luận này.
Chú thích