Khóa luận Trang trí nội thất sảnh và cafe của khách sạn Sao Mai

Không gian sảnh và cafe là một công trình tương đối lớn, mới chỉ tồn tại trong trí tưởng tưởng của em. Trong hai không gian này em đã cố gắng áp dụng những yếu tố mầu sắc, ánh sáng và các chất liệu trang trí nhằm tạo nên ấn tượng mạnh mẽ của sự thần bí sang trọng nhưng không kém phần thoải mái dễ chịu. Không gian và cách bầy trí của công trình này nhằm tìm ra một hướng đi mới nhưng không quá xa lạ đối với tất cả mọi người. Mục đích cuối cùng của công trình là thuận tiện và công năng, đạt hiệu quả về thẩm mỹ nhưng không tách rời khỏi thiên nhiên và bản sắc văn hoá chung. Đưa con người lại gần thiên nhiên, hiểu biết thêm về nền văn hoá trên thế giới, vươn tới vẻ đẹp “ Chân – Thiện – Mỹ”.

doc41 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1738 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Trang trí nội thất sảnh và cafe của khách sạn Sao Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng câu chuyện xứ Tuyết với tính giáo dục sự hướng thiện một cách sâu sắc, kết thúc chuyện luôn là một chút buồn đọng lại làm thức dậy ở người đọc chút lòng trắc ẩn, nhắc nhở người ta đừng vô tình trong cuộc sống và đừng ngỡ cuộc sống vốn chỉ là mầu hồng. Tuổi thơ, chẳng biết những câu chuyện cổ tích từ đâu tới, với lại chẳng biết gì hơn ngoài thế giới tuyệt vời mang tên cổ tích ấy. Như vậy, những câu chuyện cổ tích ấy mặc nhiên là tặng phẩm diệu kỳ mang sắc mầu cuộc sống, không của riêng một ai. Mãi sau này mới vỡ lẽ, cổ tích chỉ là tưởng tượng của những người bình thường, không một chút phép mầu. Dù đã khép lại cánh cửa dẫn vào thế giới của sự tưởng tượng, dường như cuộc sống vẫn không mất hết đi sự nhiệm mầu và cổ tích vẫn còn lưu dấu đâu đó, nào có bị mất đi bởi sự phù phép bao giờ… 4. Hiểu biết cá nhân về trang trí nội, ngoại thất Trong những năm gần đây, nhà cao tầng, khách sạn, các khu vui chơi giải trí phát triển mạnh, số tầng và chiều cao ngày càng lớn hơn, hình dáng ngày càng phức tạp và luôn xuất hiện những dạng kết cấu mới, không chỉ ở trong các thành phố lớn mà ở cả trong các thành phố vừa và nhỏ cũng vậy. Việc theo đuổi thiết kế cần phải nắm vững mọi hoạt động trong mối quan hệ không gian và thời gian. Thích ứng được mọi hoạt động muôn hình muôn vẻ của con người, tạo được các ngôn ngữ thiết kế của hình thức không gian riêng, đòi hỏi của ngôn ngữ này phải có chuyên môn kỹ thuật cao, hay nói cách khác là phải có vốn sống, vốn nghề và tài năng. Nhà thiết kế nội thất phải nắm rõ trào lưu chủ yếu có tính xu hướng chung, nghiên cứu sự chuyển mình của xã hội trên đà phát triển gắn với thị hiếu thẩm mỹ của mình để áp dụng vào mỗi cá nhân nói riêng và cộng đồng nói chung. Sau đó mới đề ra phương án thiết kế tổng thể cho phù hợp với thực tế và điều quan trọng là phương án đó phải được tất cả mọi người chấp nhận. Đồng thời phải biết ghi chép chuyên môn, ghi chép tốc tả, ghi lại các tác phẩm mà mình cảm thấy tâm đắc, ghi rõ ý tưởng thiết kế, vật liệu mình muốn làm để thuyết phục khách hàng của mình. Việc hồi cố lịch sử sẽ tạo nên không gian có những nét đặc sắc riêng của từng địa phương, từng miền. Gắn liền với các tác phẩm đó chính là bản sắc dân tộc. Cuộc đối mặt này là tất yếu vì sự thâm nhập của kinh tế thị trường là không thể tránh khỏi, trong khi sự khác biệt giữa văn hoá cổ truyền với kinh tế thị trường lại khá lớn. Nhiều cái hay, cái dở, cái được, cái mất trong cuộc đối mặt ấy đã thấy ngay trước mắt (những khu nhà tập thể bị cơi nới tràn lan, hay những dãy nhà quá mỏng manh,…). Đó cũng chính là nhiệm vụ của những nhà thiết kế nội thất, những kiến trúc sư tài ba. 5. ý nghĩa, tầm quan trọng của Design Để có cái nhìn tổng thể ta có thể khái quát 3 chức năng chính của Design, đó chính là: kỹ thuật thực hiện, chức năng thẩm mỹ và chức năng biểu tượng. Các sản phẩm được định giá bởi tiêu chí xã hội - công năng, công thái học egonomic và sinh thái học ecologic và thẩm mỹ. Chính vì thế sản phẩm cao hay thấp chính là phụ thuộc vào Design. Sự tạo dáng và công năng sử dụng linh hoạt hấp dẫn cộng với giá thành hợp lý sẽ là tiền đề dẫn đến sự thành công chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm. 6. Design là bước đầu thực hiện ý tưởng, ý tưởng thoả mãn 5 tiêu chí: when(khi nào?), who(ai?), where(ở đâu?), what(cái gì?), và how(như thế nào?). b- Kiến trúc 1. Khái quát truyện cổ tích Nàng Tiên Cá trong truyện cổ của Andersen. ý tưởng - phương pháp luận sáng tác 1.1. Khái quát truyện cổ tích Nàng Tiên Cá Nhà văn Hans Christian Andersen (1805-1875) có lẽ là một hiện tượng văn học hiếm có trên thế giới. Thường thì các quốc gia đều chọn các công trình xây dựng đồ sộ, những chính trị gia xuất sắc, hoặc những vị tướng tài ba…để làm biểu trưng. Riêng Đan Mạch lại chọn đại diện cho mình là nhà văn – Andersen. Đan Mạch tự gọi là đất nước của Andersen, của Nàng tiên cá bé nhỏ. Một nước chỉ có hơn năm triệu dân, tự hào có một nhà văn mà các quốc gia có dân số hàng trăm triệu người không có vinh dự có được Andersen. Andersen viết du ký, kịch, tiểu thuyết, làm thơ, nhưng nổi nhất là truyện. Truyện của ông dựa vào truyện dân gian, truyền thuyết, lịch sử, đời sống hàng ngày và cả cuộc đời riêng của tác giả. Ông kể chuyện đời mình như kể chuyện hư cấu trong truyện đời tôi. Truyện cổ Nàng tiên cá là một tác phẩm nổi tiếng của Andersen. Truyện kể rằng: Ngoài biển khơi thăm thẳm kia, nước trong vắt như pha lê. Nơi sâu nhất sừng sững một lâu đài tráng lệ của vua Thuỷ Tề. Tường bằng san hô, cửa sổ bằng hổ phách trong suốt. Mái lợp toàn bằng sò. Mỗi con sò đều mang trong mình một viên ngọc trai, chỉ cần một hạt thôi cũng đủ trang sức làm vương niệm cho một hoàng hậu. Vua thuỷ tề đã goá vợ từ lâu. Hoàng thái hậu là người cai quản mọi việc trong cung. Bà thương yêu hết mực các cô cháu gái, những nàng công chúa bé nhỏ. Trước lâu đài là một khu vườn rộng. Nơi đây các nàng công chúa thường hay tới dạo chơi và ngồi tâm sự. Có cả thẩy sáu nàng công chúa, nhưng nàng út là người đẹp hơn cả. Nàng có mái tóc dài vàng óng, làn da mịn màng như cánh hồng, đôi mắt xanh thẳm như nước biển. Đặc biệt nàng có một giọng hát rất hay. Tuy vậy cũng giống như các chị, nàng không có chân mà chỉ có đuôi cá. Nàng út là một cô bé đặc biệt, tính tình trầm nặng và đoan trang. Bởi vậy những người bạn luôn luôn bên nàng. Họ cùng nhau trò chuyện và dạo chơi. Niềm vui lớn nhất của nàng là được nghe bà kể chuyện về thế giới loài người. Về những con tầu, về những thành phố tráng lệ, về cuộc sống của con người… Bà còn bảo: - Khi cháu mười lăm tuổi, cháu sẽ được phép lên mặt biển. Khi đó cháu được ngồi dưới ánh trăng ngắm nhìn tầu bè qua lại… Đến tuổi, các cô chị lần lượt lên mặt biển. Khi trở về, họ kể biết bao chuyện mới lạ cho công chúa út nghe. Nàng nôn nóng lắm. Nàng cũng muốn lên ngay trên đó. Và rồi công chúa út cũng đến tuổi mười lăm, nàng được phép lên mặt biển. Trước khi đi, sáu chị em ngồi lại bên nhau. Năm người chị căn dặn nàng út biết bao điều. Nghe xong nàng út vẫy đuôi rồi nói: - Chào các chị! Em đi đây. Nói rồi, nàng lao mình lên mặt biển, nhẹ nhàng như bọt nước. Lên đến nơi thì mặt trời vừa lặn, không khí trong mát, biển phẳng lặng như tờ. Xa xa, một con tầu đang dập dềnh trên sóng. Hàng trăm ngọn đèn đủ mầu sắc được thắp sáng trên đó. Hôm nay là ngày hội mừng sinh nhật của hoàng tử. Khi chàng bước ra, hàng trăm pháo hoa được bắn lên bầu trời, rực sáng cả một vùng. Nàng tiên cá hoảng sợ lặn xuống dưới nước, nhưng rồi nàng lại nhô đầu lên. Trên tầu rực sáng nhìn rõ cảnh vật, nhìn người lại càng rõ hơn. Hoàng tử mới đẹp làm sao! Chàng tươi cười bắt tay với mọi người. Thấy lạ quá, nàng tiên cá bơi lại sát mạn tầu. Trời về khuya, nhưng nàng tiên cá vẫn không dời mắt khỏi con tầu và chàng hoàng tử đep trai. Trời bỗng nổi gió. Mặt biển quận sóng, chớp ngoằn nghoèo ở chân trời. Chàng hoàng tử đứng trên tầu mặt đầy lo lắng. Con tầu bồng bềnh trên mặt biển dậy sóng. Những đợt sóng cao như núi chồm lên như muốn nuốt chửng con tàu. Nó nhấp nhô như con thiên nga vùng vẫy giữa biển cả trong cơn bão tố. Sóng đập liên hồi vào thành tàu. Những tấm ván dầy gẫy gập, cột buồm gẫy đôi. Con tầu ngả nghiêng, rồi nước tràn vào khoang. Lúc này nàng tiên cá mới biết tàu đang lâm nguy. Bầu trời tối đen, nàng không thấy gì hết. Rồi thình lình chớp loé lên, nàng chỉ chăm chú nhìn theo chàng hoàng tử. Khi chiếc tàu vỡ ra, nàng thấy chàng chìm dần xuống đáy biển. - Không! Không thể để cho chàng chết được! –Nàng tiên cá thét lên. Quên cả nguy hiểm, nàng bơi giữa đống đổ nát trên tàu văng xuống, những thứ có thể giết chết nàng. Nàng bơi lên, lặn xuống. Cuối cùng nàng đến được bên hoàng tử. Chàng đã kiệt sức không thể bơi được nữa, tay chân đã cứng đờ, hai mắt nhắm nghiền. Nàng nâng đầu chàng lên mặt nước và cùng chàng phó mặc cho gió cuốn. Đến sáng, cơn bão đi qua, không còn lại dấu vết con tàu đêm qua. Mặt trời đỏ rực trên mặt biển. Hoàng tử như còn sống nhưng người lạnh toát, đôi mắt vẫn nhắm nghiền. Nàng tiên cá hôn lên trán chàng, hôn mãi, lòng thiết tha mong chàng sống lại. Thế rồi nàng nhìn thấy đất liền trước mặt. Những dãy núi trải dài trên biển. Dưới chân núi, gần bờ biển là khu rừng xanh mướt. Một giáo đường, một toà nhà… nổi lên ở đó. Nàng tiên cá không biết chắc là cái gì. Nàng đưa hoàng tử về phía đó, đặt chàng lên bãi cát trắng mịn, rồi nhẹ nhàng nâng đầu chàng lên. Chuông đổ một hồi lâu từ ngôi nhà mái đỏ kia. Nghe thấy vậy nàng tiên cá vội bơi xa bờ, nấp sau một tảng đá nhô lên trên mặt nước. Nàng lấy bọt biển che kín tóc và cổ để khỏi bị ai trông thấy. Nàng đưa mắt ra nơi hoàng tử đang nằm xem sự thể ra sao. Chẳng bao lâu sau, có một cô gái đi tới. Thấy người nằm trên cát, cô tự nhủ: - Ai thế nhỉ? Ai lại nằm ở đây thế này! Lại gần, cô ngạc nhiên, thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang nằm bất động. Cô gọi to: - Chàng ơi! Chàng sao vậy? Chàng hãy tỉnh dậy đi. Không thấy động tĩnh gì, cô sợ quá, chạy quanh lại ngôi nhà đằng xa kia. Sau đó cô đi ra cùng một người đàn ông có tuổi, ăn mặc rất sang trọng. Họ lại gần bên hoàng tử. Chàng đã hồi tỉnh và mỉm cười với người thiếu nữ. Chàng đâu biết chính nàng tiên cá mới là người cứu chàng thoát nạn. Khi mọi người quay lại ngôi nhà kia, nàng tiên cá thất vọng lặn xuống nước, quay về lâu đài của vua cha. Ngày qua ngày, nàng vẫn bơi đến chỗ hoàng tử nằm, nhưng vẫn không thấy chàng đâu. Nàng lại quay về, lòng nặng trĩu một nỗi buồn. Thế rồi nàng cũng biết nơi ở của chàng hoàng tử. Nàng bơi dọc bờ biển để tới nơi đó. Một toà lâu đài nguy nga được xây dựng bên bờ biển. Ngày ngày, nàng tới đây vào mỗi buổi chiều tối. Nàng ngồi đấy để ngắm nhìn chàng hoàng tử, nhìn bóng dáng chàng dưới ánh trăng. Đêm đến, nàng còn nghe thấy những ngư ông ca ngợi hoàng tử. Càng ngày nàng càng cảm thấy yêu mến loài người. Nàng ao ước được sống với họ, hoà nhập vào thế giới của họ. Một hôm, cả sáu nàng tiên cá dạo chơi trong khu vườn trước lâu đài. Nàng út muốn biết nhiều hơn những chuyện trên mặt biển. Nàng hỏi: - Các chị ơi! Nếu loài người không chết đuối thì họ có sống mãi được không? Người chị cả đáp lại: - Có chứ! Bà kể với chị rằng: vòng đời của họ ngắn hơn so với chúng ta. Chúng ta có thể sống tới ba trăm năm nhưng khi chết đi, chúng ta biến thành bọt biển. Chúng ta không có linh hồn. Loài người thì trái lại, họ có linh hồn vĩnh cửu. Linh hồn sống mãi khi thể xác đã biến thành tro bụi. Nàng tiên cá thầm nói: - Ước gì em cũng có linh hồn bất tử ấy! Rồi nàng lại hỏi : - Em phải làm gì để đạt được điều ấy! Người chị cả bảo rằng: - Nếu chúng ta được ai đó yêu thương thì trong lễ cưới, khi đức cha cầm tay ta đặt vào tay người ấy, linh hồn người ấy sẽ nhập vào chúng ta. Lúc đó chúng ta có một phần linh hồn của loài người. Nhưng điều đó không bao giờ xẩy ra. Chị cả đưa mắt nhìn cái đuôi. Nàng tiên cá buồn rầu thất vọng. Nàng nghĩ; - Ta phải lên trên ấy, lên với người mà ta thương mến. Ta sẽ hy sinh tất cả để được gần chàng và có linh hồn bất tử. Lúc này, nàng nghĩ ngay đến mụ phù thuỷ. Nàng đến một vùng nước bầy nhầy, ở đó lúc nhúc những con rắn gớm ghếch. Nàng phải lách qua những hàng rau câu mềm nhũn và quờ quạng trong nước. Nhà mụ ta ở đó. Mụ phù thuỷ đang ngồi cho cóc ăn, xung quanh đó – những con quái vật biển đang há mồm, để lộ những hàm răng sắc nhọn. Nàng tiên cá vội quỳ xuống, chắo tay cầu xin nhưng mụ phù thuỷ đã nói: - Ta biết ngươi muốn gì rồi! Hỡi nàng công chúa xinh đẹp. Ngươi thật là điên rồ. Ngươi sẽ bị đau khổ, nhưng ta sẽ giúp ngươi để thoả mãn niềm mong ước. Mụ nói tiếp: - Muốn được hoàng tử chia sẻ linh hồn, ngươi phải vứt bỏ cái đuôi, thay vào đó là đôi chân của con người. Ta sẽ chế cho ngươi một liều thuốc. Uống xong nó, ngươi sẽ biến thành một người con gái đẹp tuyệt trần. Dáng đi của ngươi sẽ uyển chuyển. Nhưng mỗi bước đi, ngươi sẽ phải chịu cảnh kim châm và ứa máu. Ngừng một lát, mụ nói: - Ngươi phải nhớ là khi đã biến thành người, ngươi sẽ không bao giờ được quay về thuỷ cung, không được gặp lại bà, vua cha và các chị nữa. Nếu ngươi không lấy được hoàng tử, ngươi sẽ không bao giờ có được linh hồn bất tử. Khi hoàng tử đã lấy người khác làm vợ, ngươi sẽ tan thành bọt biển. Ta sẽ cắt máu ta để chế thuốc cho ngươi. Để trả công ta, ngươi phải trao cho ta giọng hát của ngươi. Nàng tiên cá chấp nhận tất cả. Giọng run run: - Được rồi… Mụ phù thuỷ liền cắt lưỡi nàng tiên cá, rồi chế một lọ thuốc và đưa cho nàng. Nàng đau đớn tưởng chừng như ngất đi. Thấy vậy, mụ phù thuỷ cười lên man dợ: - Haha… Thế là hết đời một nàng tiên cá. Nàng quay lại lâu đài của vua cha. ánh sáng đã tắt. Nàng sắp phải lìa xa thuỷ cung. Lòng thắt lại vì đau buồn. Nàng bơi qua làn nước xanh thẳm lên mặt biển. Mặt trời chưa mọc, ánh sáng mờ mờ. Nàng tiên cá uống liều thuốc cay nồng. Toàn thân đau đớn như bị thanh kiếm xuyên qua. Nàng ngất đi. Khi mặt trời toả sáng, nàng tỉnh dậy. Hoàng tử đang đứng trước mặt, đôi mắt đen thăm thẳm nhìn nàng. Nhìn xuống, nàng thấy cái đuôi đã biến mất. Thay vào đó là một đôi chân dài, trắng muốt. Hoàng tử hỏi nàng là ai, làm sao đến được đây. Nàng nhìn hoàng tử với đôi mắt trìu mến nhưng không nói được gì cả. Nàng đã bị câm. Thế rồi, hoàng tử cầm tay dắt nàng tiên cá về lâu đài. Mỗi bước đi là một lần nàng phải chịu đau đớn. Nàng đi bên chàng nhẹ nhàng, nhẹ nhàng. Người ta mặc cho nàng toàn lụa là gấm vóc. Trong hoàng cung, nàng là người xinh đẹp nhất. Khi nàng nhẩy, hai cánh tay giơ cao, trắng ngần. Nàng nhấc gót lên, mũi chân lướt nhẹ trên mặt sàn. Mỗi cử chỉ đều làm tôn vẻ đẹp của nàng lên và đôi mắt nàng làm xúc động tâm hồn mọi người. Mọi người trầm trồ thán phục: - Đẹp quá! Đẹp quá ! Mỗi bước nhẩy, nàng cảm thấy đau đớn như dẫm vào thảm gai, vậy mà nàng vẫn tiếp tục nhẩy, hoàng tử ngây ngất trước những bước nhẩy đó. Hoàng tử muốn lúc nào cũng có nàng bên cạnh. Hoàng tử và nàng tiên cá thường đi dạo chơi trong những cánh rừng thơm ngát, hoa lá xanh tươi rũ xuống vuốt ve vai họ, trên cành cây chim hót líu lo. Khi đã mệt, họ ngồi lại bên nhau, hoàng tử kể cho nàng tiên cà nghe biết bao điều mới lạ. Đêm xuống, khi mọi người đã ngủ yên, nàng tiên cá lại chạnh lòng nhớ về biển cả. Nàng thường ngồi rất lâu để ngắm nhìn ra biển… Mỗi ngày, nàng càng yêu hoàng tử hơn. Nhưng hoàng tử chỉ yêu nàng như một người em gái dễ thương hiền hậu: - Ta yêu em bởi em có một tấm lòng cao cả! Rồi hoàng tử kể cho nàng tiên cá nghe về người mà chàng muốn gặp mặt – người đã cứu chàng thoát chết. Nghe nói vậy nàng tiên cá buồn lắm, nàng nghĩ thầm: - Trời ơi! Chàng không biết chính ta đã cứu chàng thoát chết hay sao? Chàng chẳng hề hay biết nếu chàng không lấy nàng, mà lấy một người khác, thì trái tim nhỏ bé của nàng sẽ tan thành bọt biển. Trong cung, mọi người đang sửa soạn để hoàng tử lên tầu. Chàng sẽ cưới công chúa – cô gái xinh đẹp của ông vua láng giềng. Nàng tiên cá quá đỗi kinh ngạc trước sắc đẹp của công chúa. - Chính em! Chính em đã cứu ta khi ta mê man trên mặt biển. Hoàng tử reo lên – ta đã tìm thấy em rồi. Rồi chàng ôm lấy người vợ chưa cưới và nói với nàng tiên cá: - Hạnh phúc quá! Điều mơ ước tha thiết nhất đời ta đã thành hiện thực – Em hãy chia sẻ niềm hạnh phúc này với ta. Nàng tiên cá nghe vậy mà lòng đau đớn khôn nguôi. Ngày cưới hoàng tử cũng là ngày nàng từ giã cõi trần. Đám cưới của hoàng tử được cử hành. Đêm đó cặp vợ chồng lên tàu trở về hoàng cung. Đêm nay là đêm cuối cùng nàng tiên cá được thở chung không khí với loài người, được nhìn thấy biển xanh, được thấy ánh trăng sáng vằng vặc. Nàng buồn quá dựa vào cột buồm. Bỗng nhiên nàng thấy các chị mình nổi lên. Họ buồn bã như nàng, mái tóc dài của các chi nàng đã bị cắt ngắn. - Các chị đã hiến mái tóc cho mụ phù thuỷ để cứu em. Một người chị nói. Lúc này, người chị cả lên tiếng: - Mụ phù thuỷ đưa chị con dao này. Mụ dặn: “ Trước khi mặt trời mọc, em phải cắm nó vào tim hoàng tử. Khi đó, em sẽ trở lại là nàng tiên cá”. - Mau lên em! Chàng hay em, một trong hai người sẽ chết trước lúc mặt trời mọc. Em hãy giết hoàng tử đi và về với các chị. Nhanh lên đi! Các chị vẫn không ngừng thúc giục: - Em có thấy ánh sáng đang le lói ở chân trời kia không? Trong giây lát nữa thôi, mặt trời sẽ mọc và em sẽ phải chết đấy! Nói xong, các chị thở dài, rồi quay đầu lặn xuống biển. Cầm dao trong tay, nàng tiên cá hoảng sợ: - Mình sẽ phải làm gì đây? Bất chợt, hình ảnh mụ phù thuỷ hiện lên trong đầu nàng. Mắt mụ trợn ngược, những móng vuốt sắc nhọn đưa lên, trông khiếp sợ như đang thúc dục nàng. Tiếng mụ rít lên văng vẳng bên tai nàng: - Nhanh tay lên! Trời sắp sáng rồi đấy. Nàng tiên cá cố quên đi hình ảnh ghê gớm ấy. Nàng bình tĩnh trở lại, rồi nhìn về phía chân trời, nơi bình minh đang lên. Nàng tiên cá đi tới nơi hoàng tử đang ngủ. Nàng cúi xuống hôn lên vầng trán chàng, lòng đau thắt lại, nước mắt trào ra. Tay nàng run lên bần bật, con dao tuột khỏi tay, văng xuống sàn. - Không! Ta không thể giết chàng! Vì yêu chàng, ta sẽ hy sinh bản thân mình. Nàng tiên cá đứng lặng người, đôi mắt nhoà lệ nhìn hoàng tử lần cuối. Rồi nàng bỏ chạy ra khỏi nơi ấy. Chạy đến bên thành tầu, nàng reo mình xuống biển. Nàng cảm thấy thân thể tan ra thành bọt biển. Mặt trời mọc rực sáng trên biển. Những tia nắng ấm áp chiếu trên những đám bọt giá lạnh. Nàng tiên cá cảm thấy mình chưa chết. Xung quanh nàng, hàng trăm sinh vật trong suốt đang bay lượn, ca hát. Nàng từ từ bay lên khỏi đám bọt biển ấy. Nàng tự hỏi: - Ta đang ở đâu thế này? - Nàng đang lên với các thiếu nữ của không trung ở đâu đó một lời đáp vọng tới. Cùng với đám tiên nữ, nàng tiên cá bay về phía những đám mây hồng, bay bổng trên trời. 1.2. ý nghĩa Các nàng tiên cá không có một linh hồn bất tử, nếu không có được tình yêu của con người. Chúng ta cũng vậy – không có một linh hồn bất tử nhưng chúng ta có thể tạo ra linh hồn ấy. Bằng những việc làm nhân từ chúng ta sẽ tạo ra một linh hồn bất tử. Còn nàng tiên cá đáng thương! Nàng đã hy sinh và chịu mất mát quá nhiều cho nên nàng được hoà nhập vào thế giới tiên nữ của không trung. Câu chuyện đã cho chúng ta thấy được sức mạnh của tình yêu con người. Dù có phải mất mát hy sinh nhưng chúng ta hãy vươn tới những tình cảm cao đẹp đó. Hãy trân trọng những phẩm chất cao quý này. 3. ý tưởng, phương pháp luận sáng tác Đưa truyện cổ vào kiến trúc, nội thất là một ý tưởng táo bạo. Không nói đến thời gian hay không gian, câu chuyện đã được xẩy ra bao lâu. Nhưng cũng giống như bao truyện cổ Việt Nam khác. Truyện cổ Nàng Tiên Cá cũng để lại bài học quý báu răn dậy con cháu đạo lý làm người, tình thương yêu giữa con người với con người. Khi bàn về bản sắc dân tộc trong kiến trúc-nội thất, có lẽ từ rất xa xưa con người cũng đã ý thức được tầm quan trọng của kiến trúc-nội thất trong văn chương. Đọc cốt truyện, chúng ta cũng hình dung ra được điều đó: “Ngoài biển khơi xa thăm thẳm kia, nước trong vắt như pha lê. Nơi sâu nhất sừng sững một toà lâu đài tráng lệ của vua Thuỷ tề. Tường bằng san hô, cửa sổ bằng hổ phách trong suốt. Mái lợp toàn bằng sò. Mỗi con sò mang trong mình một viên ngọc trai, chỉ cần một hạt thôi cũng đủ làm vương niệm cho một hoàng hậu”. Chỉ trong trí tưởng tượng thôi nhưng toà lâu đài ấy đã được xây dựng thật nguy nga tráng lệ với một ý tưởng táo bạo. Một kiểu kiến trúc độc đáo với tường bằng san hô và mái lợp bằng sò, cửa sổ lại bằng hổ phách trong suốt. San hô là một loại thực vật cứng và trong cái cứng ấy lại thấy được sự mềm mại khi lấp lánh qua từng lớp nước. Tác giả đã dùng san hô để xây lên những bức tường lâu đài vững chắc. Sò là một trong những loại sinh vật có những đường vân đẹp và lạ mắt, hình dáng úp xuống khiến người ta liên tưởng đến những viên ngói? Hổ phách trong suốt phải chăng là những tấm kính nhiều mầu sắc phủ lên những ô cửa sổ huyền ảo?!?! Bản sắc dân tộc trong thiết kế nội ngoại thất không đơn thuần là một vấn đề học thuật mà còn là vấn đề tư tưởng. Nghệ thuật hình khối Việt Nam khác với nghệ thuật hình khối phương Tây ở chỗ: trong khi Việt Nam đi theo con đường biểu trưng thì truyền thống phương Tây lại đi theo con đường tả thực với sự thống trị trong suốt lịch sử của chủ nghĩa tự nhiên(naturalisme). ở truyền thống phương Tây ngay cả khi vẽ tranh về những đề tài tưởng tượng như thiên thần bay lượn, thiên nga giáng trần…người ta cũng vẽ rất thực. Còn ở truyền thống Việt Nam, ngay cả khi vẽ cái có thực, cái rất đơn giản xung quanh mình, người ta cũng vẽ một cách ước lệ, biểu trưng. Nguyên lý và mục đích của tính biểu trưng trong nghệ thuật hình khối là gợi nhiều hơn tả, hướng sự chú ý của mình xen vào nội dung tư tưởng hơn là hình thức đẹp-xấu, đúng-sai. Biển khơi với lâu đài tráng lệ, với Nàng tiên cá xinh đẹp sẽ được tái hiện lại trong tác phẩm thiết kế nội thất sảnh-cà phê( khách sạn Sao Mai). Thực ra, vốn là một câu chuyện cổ tích với trí tưởng tượng bay bổng nên Nàng tiên cá khác với con người ở chỗ nàng không có chân và cuộc sống sinh hoạt diễn ra ở dưới nước, còn tất cả tâm tư tình cảm đều giống như con người. Nhưng cái mong muốn của người xưa để lại đó là sự hoà đồng, mang tính cộng đồng giữa con người với con người, không phân biệt đó là người hay cá…Bàn về hình tượng nàng tiên cá, chính sự khác biệt giữa một đôi chân và đuôi cá mới là cái độc đáo ấn tượng. Những đường cong tuyệt mỹ của người thiếu nữ, sự mềm mại và uyển chuyển của đuôi cá, cộng lại là một sự kết hợp hài hoà làm tôn thêm vẻ đẹp huyền thoại. Mái tóc vàng óng ả, bờ vai thon kết hợp với khuân mặt xinh đẹp. Đặc biệt là lớp vây cá vàng óng. Mỗi khi nàng tiên cá chuyển mính, từng đợt vây cá ánh lên lấp lánh những tia vàng gợi cảm. Tất cả cộng lại thành một tác phẩm hoàn mỹ. Như vậy thì đâu là sự khác biệt giữa con người và một sinh vật sống? Chúng ta được chiêm ngưỡng một sinh vật có tâm hồn, có suy nghĩ, có sự nhí nhảnh vui tươi của tuổi trẻ, có tấm lòng cao cả nhân hậu… “ Nàng có mái tóc vàng óng, làn da mịn màng như cánh hồng, đôi mắt xanh thẳm như nước biển. Đặc biệt, nàng có một dọng hát rất hay. Tuy vậy, cũng giống như các chị, nàng không có chân mà chỉ có đuôi cá…” Tất cả điều đó đã được tái hiện lại nơi bục biểu diễn của quán Cafe. Với vách ngăn giữa lối đi và bục biểu diễn, tôi muốn thu hút ánh mắt nhìn của các vị khách. Bức tường giả cộng với những thanh sắt dài uốn lượn từ sàn lên trần với hình tượng nàng tiên cá uyển chuyển trong nước và bọt biển. Phun sơn tạo chất liệu nước biển và những quả tròn inox bay lên như bong bóng. Điều đặc biệt là quả tròn inox không để nguyên màu inox mà được phun với mầu vàng óng, bong bóng biển màu váng óng? Một ý tưởng độc đáo làm điểm nhấn nổi bật bên cạnh mầu đen của các bức vách ngăn sắt. Hạt tròn kết hợp song sắt nằm nghiêng sẽ khiến người ta liên tưởng đến những bản nhạc. Giống như một sự giao thoa, Nàng tiên cá uốn mình ca hát trong một bản nhạc êm dịu, lãng mạn và quyến rũ… Bản nhạc còn được tái hiện lại nơi quầy bar chính, chỉ có điều không phải là thanh sắt mà là những thanh inox- một sự khác biệt giữa quầy bar và bục biểu diễn. Những thanh inox khoẻ khoắn chạy dài theo sát bức tườmg rồi chuyển mình quấn quanh cột-là trụ chính của quầy bar một sự chuyển mình mềm mại như những bản nhạc tình… Quầy bar và bục biểu diễn được chia thành hai không gian với sự lên bậc của mặt sàn. Hai chất liệu sàn khác nhau. Một bên là lát đá granite với những đường vân như nước biển, một bên cũng lát đá granite nhưng vân đá mầu trắng khiến các vị khách cảm tưởng lúc thì mình đang thư giãn trên bờ lúc lại thấy mình đang ngồi trên biển, một cảm giác thật thú vị. Hệ thống cột được dựa theo ý tưởng từ những con ốc thân dài, tạo chất liệu mầu rêu. Những cây san hô đủ mầu sắc lấp ló trong những góc nhìn, kết hợp với màu của bàn ghế, ghế sofa với mầu xanh ngọc giả vân sò. Ghế bar với ý tưởng ốc biển. Rồi những bức tường được phun sơn tạo chất liệu nước biển, những bức tranh khổ to về biển và sinh vật biển. Tất cả kết hợp làm tái hiện lại một thuỷ cung trong trí tưởng tượng với ý tưởng Nàng tiên cá. 4. Vài nét về bản sắc dân tộc và ngành Mỹ thuật công nghiệp ở Việt Nam. 4.1. Phương Tây với văn hoá Việt nam Lớp giao lưu với văn hoá phương Tây của Việt Nam hình thành từ khoảng thế kỷ XVI-XVII và bao gồm hai giai đoạn: giai đoạn văn hoá Đại Nam và giai đoạn văn hoá hiện đại. Giai đoạn văn hoá Đại Nam khởi đầu bằng thời kỳ thâm nhập của Kitô giáo, rồi sau đó là thời kỳ xâm lược của thực dân Pháp và giao lưu với văn hoá Pháp và phương Tây. Giai đoạn văn hoá hiện đại khởi đầu bằng thời kỳ giao lưu văn hoá của các nước khối xã hội chủ nghĩa và hiện nay là thời kỳ hội nhập tương đối toàn diện vào nền văn minh nhân loại. Những người phương Tây đầu tiên đã tới Việt Nam và Đông Nam á vào khoảng đầu công nguyên, họ mang đến những đồ trang sức, bộ pha lê, vũ khí và áo giáp…Đổi lấy các thứ hàng quý hiếm của Đông Nam á mà giới quý tộc phương Tây ưa thích như trầm hương, kỳ nam, vàng, đá quý, yến sào, đồi mồi, ngà voi, sừng tê giác…Những sản phẩm của Đông Nam á mà người phương Tây thời đó đặc biệt cần hơn cả là các loại gia vị (như hồ tiêu) để chế biến và bảo quản thịt. Không phải ngẫu nhiên mà giới nghiên cứu đã gọi đường biển từ Địa Trung Hải đến Việt Nam và Đông Nam á thời đó là đường hồ tiêu(tiếng Pháp: chemin des epices). Đông Nam á không chỉ là đích, mà còn là một trong những chặng dừng chân quan trọng trên con đường biển từ phương Tây đến Trung Hoa. Trong mấy thế kỷ Việt Nam tiếp xúc và giao lưu với phương Tây, bên cạnh Kitô giáo, ảnh hưởng của nền văn hoá phương Tây đã tác động một cách khá sâu rộng vào nhiều lĩnh vực văn hoá vật chất và tinh thần Việt Nam. Tuy tuỳ lúc tuỳ nơi, thái độ người Việt Nam có thể khác nhau – chấp nhận hay chống đối – nhưng rồi cuối cùng bao giờ cũng là sự thâu hoá linh hoạt, tiếp nhận những gì có ích và biến đổi cho phù hợp với tính cách của Việt Nam. Trên bình diện văn hoá tinh thần, ngoài sự thâm nhập của KiTô giáo, còn có những hiện tượng quan trọng khác trong các lĩnh vực văn tự, ngôn ngữ, báo chí, văn học-nghệ thuật, giáo dục-khoa học, tư tưởng đã để lại dấu ấn đáng kể. Trên bình diện văn hoá vật chất, ảnh hưởng đáng kể nhất của văn hoá phương Tây đối với văn hoá Việt Nam là trong các lĩnh vực phát triển đô thị , công nghiệp và giao thông. Đó đều là những thế mạnh của nền văn hoá phương Tây hiện đại mà ngay từ đầu, thực dân Pháp đã triển khai nhằm mục đích rất rõ ràng là khai thác thuộc địa. Ngoài ra trong các lĩnh vực nhà cửa – kiến trúc – trang phục…cũng thấy rõ dấu ấn ảnh hưởng của sự giao lưu này. Trên lĩnh vực phát triển đô thị, từ cuối thế kỷ XIX, đô thị Việt Nam từ mô hình đô thị cổ truyền với chức năng làm trung tâm chính trị là chính đã chuyển dần sang đô thị theo kiểu phương Tây với chức năng kinh tế là chủ đạo (đô thị công thương nghiệp). ở các thành phố lớn như Sài Gòn – Chợ Lớn, Hà Nội, Hải Phòng dần dần hình thành một tầng lớp tư sản dân tộc với các nhà buôn, chủ xưởng và nhà thầu khoán. Một số đã hùn vốn lại thành lập những công ty riêng để cạnh tranh với tư bản Pháp và ngoại kiều. Hàng loạt ngành công nghiệp được hình thành, nhất là những ngành mang tính chất khai thác và chế biến như khai mỏ, đồn điền, chế biến nông-lâm sản…Mạng lưới các đô thị nhỏ, thị trấn, thị tứ…như Nam Định, Hải Dương, Hòn Gai, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Biên Hoà, Mỹ Tho…cũng nhanh chóng hình thành và phát triển. Trên lĩnh vực giao thông, hàng chục vạn dân đinh đã được huy động để xây dựng hệ thống đường bộ đến các đồn điền, hầm mỏ, các tỉnh và các vùng xa xôi. Hệ thống đường sắt và các đường hầm xuyên núi, những cây cầu lớn ngày càng được kéo dài… Trong lĩnh vực nhà cửa - kiến trúc, các toà nhà kiểu phương Tây mọc dần lên. Song, điều đáng chú ý là phần lớn các công trình này đều không dập khuân theo lối kiến trúc phương Tây thích hợp cho xứ lạnh. Mà đã biến đổi rất linh hoạt để phù hợp với môi trường khí hậu và thời tiết Việt Nam, do vậy mà dấu ấn Việt Nam hoá đã để lại rất rõ. Chẳng hạn, các toà nhà ở Hà Nội của trường Đại Học Đông Dương (nay thuộc Đại Học Quốc Gia Hà Nội), Bộ Ngoại Giao, Viện Viễn Đông Bác Cổ (nay là Bảo tàng Lịch sử)…đều có một loạt đặc tính chung: toàn bộ toà nhà không làm cao như nhà phương Tây mà chiều cao tối đa chỉ giới hạn ở hai tầng để ngôi nhà hoà mình vào thiên nhiên. Các phòng ốc trong nhà thì không thấp và kín để giữ hơi ấm như nhà phương Tây, mà ngược lại, đều cao ráo và thoáng mát. Cửa sổ được mở nhiều theo lối ở Việt Nam. Các mái hiên, mái che cửa sổ được làm rộng, đưa ra xa để tránh nắng chiếu và mưa hắt. Các kiến trúc sư còn chú ý sử dụng hệ thống mái ngói, bố cục kiểu tam quan, lầu hình bát giác…để làm nổi bật tính dân tộc… Trong cái mặc (trang phục), lối mặc kiểu phương Tây (gọi là âu phục) đã sớm chinh phục được giới đàn ông đô thị (công chức, tri thức…). Với phụ nữ thì ảnh hưởng của phương Tây chỉ diễn ra một cách từ từ. Sự kết hợp giữa ảnh hưởng phương Tây với truyền thống Việt Nam đã làm nảy sinh ra bộ áo dài tân thời nổi tiếng của phụ nữ, bộ áo dài mà chỉ sau thời gian ngắn đã trở thành biểu tượng của hình ảnh con người Việt Nam. 4.2. Bản sắc dân tộc trong nội thất-kiến trúc Có rất nhiều ý kiến, cách lý giải khác nhau, thậm chí trái ngược nhau cũng như thống nhất rằng: kiến trúc và nội thất Việt nam có bản sắc dân tộc không? Phải chăng bản sắc dân tộc chỉ có trong các công trình truyền thống? Có phải chỉ cần thể hiện bản sắc dân tộc ở hình thức của công trình? Sắc thái dân tộc và sắc thái địa phương thường có những nội dung tương đồng. Với một dân tộc có một vùng lãnh thổ hoặc một cộng đồng dân tộc có một đất nước, thì bản sắc dân tộc cũng có thể hiểu là bản sắc địa phương của một vùng hoặc một quốc gia. Hầu như trên thế giới, mọi dân tộc ít nhiều đều có bản sắc riêng của mình, giá trị của bản sắc không phụ thuộc vào dân tộc đó lớn hay nhỏ, giầu hay nghèo, hiện đại hay lạc hậu, phát triển hay không phát triển. Nó thể hiện trong tất cả các lĩnh vực đời sống như ý thức về dân tộc, cách tư duy, lối sống, cách dựng nước và giữ nước, cách sáng tạo trong sản xuất khoa học kỹ thuật và văn hoá… Điều đó chứng tỏ bản sắc dân tộc không phải chỉ là các vấn đề của các lĩnh vực văn hoá nghệ thuật mà là vấn đề của tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội. Tuy nhiên bản sắc dân tộc thường dùng để mô tả thượng tầng kiến trúc của xã hội mà các phạm trù ý thức hệ tồn tại lâu đời, biểu hiện thông qua các loại hình văn hoá nghệ thuật trong đó có ngành trang trí nội thất. Giữ gìn bản sắc dân tộc trong trang trí nội, ngoại thất hiện đại không có nghĩa là sao chép, bắt chước theo kiểu nhại cổ, hoài cổ mà tính chất bản sắc dân tộc của một công trình trang trí nội thất phải được biểu hiện ở các đặc trưng sau: - Phù hợp với điều kiện thiên nhiên, khí hậu Việt Nam: nhiệt đới nóng ẩm, gió mùa, có nhiều mưa, bão lớn, nhiều cây xanh, ánh nắng và có bốn mùa. - Phù hợp với con người Việt Nam: kích thước, tâm sinh lý, tâm hồn, tình cảm, đạo lý, truyền thống văn hoá, trình độ hiểu biết, lao động, phong tục, tập quán sinh hoạt. - Phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ khoa học kĩ thuật của Việt Nam. - Phù hợp với các quy luật, nguyên tắc thẩm mỹ nói chung cũng như quan điểm và tâm lý thẩm mỹ dân tộc và truyền thống của người Việt Nam biểu hiện ở hình dáng, kích thước, không gian, bố cục, tỉ lệ, hình thức trang trí (mầu sắc, nghệ thuật tạo hình…). Đó là giản dị, thiết thực, xinh xắn, nhẹ nhàng, gần gũi với con người, với thiên nhiên, không phô trương, kênh kiệu, không “nạt nộ”, áp đảo con người. Như vậy, giá trị bản sắc dân tộc trong trang trí nội ngoại thất được thể hiện không chỉ qua hình thức mà qua cả nội dung( quy mô, cơ cấu sử dụng, bố cục không gian…) mà mối quan hệ với môi trường cảnh quan chung quanh vì chính nội dung và bố cục công trình mới gắn bó trực tiếp với các hoạt động của con người sống và làm việc trong đó. Công trình trang trí nội, ngoại thất thể hiện đồng thời các đặc trưng trên là một công trình có bản sắc dân tộc, hoàn chỉnh, sâu sắc và đương nhiên là công trình có chất lượng cao. Tuy vậy, bản sắc dân tộc trong trang trí nội, ngoại thất luôn biến hoá, thay đổi và phát triển theo không gian và thời gian. Theo không gian, bản sắc nội thất thay đổi theo các địa phương, các vùng với thiên nhiên và đặc điểm khí hậu khác nhau. Theo thời gian, bản sắc dân tộc trong nội thất thay đổi theo các giai đoạn lịch sử với sự biến đổi về các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội…thể hiện ở quy mô, cơ cấu sử dụng, sự hoàn thiện kết cấu, vật liệu, chất lượng, môi trường…Theo sự biến đổi của nhu cầu và trình độ văn hoá của con người, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp lên cao, từ thô sơ đến hoàn thiện và theo quá trình thâm nhập từ văn hoá bên ngoài vào. Giá trị của bản sắc dân tộc không hoàn toàn đồng nghĩa với chất lượng sử dụng, chất lượng thẩm mỹ của công trình nội thất. Giá trị bản sắc dân tộc và giá trị sử dụng, giá trị thẩm mỹ của một công trình nội thất phải được xem xét theo quan điểm duy vật biện chứng. Một công trình kiến trúc nội thất cổ có đầy đủ đặc trưng của bản sắc dân tộc đương nhiên là quý giá, là đáng giữ gìn nhưng không có nghĩa đương nhiên là có chất lượng sử dụng cao trong thời đại công nghiệp. Ngược lại một công trình nội thất hiện đại có không gian hợp lý, linh hoạt với kết cấu và vật liệu mới, hình thức trang trí mới, đáp ứng yêu cầu sử dụng cao và có tác dụng giáo dục thẩm mỹ tích cực, hoà quyện với thiên nhiên, gần gũi với con người Việt Nam hiện đại vẫn có thể coi là có bản sắc dân tộc. Như vậy bản sắc dân tộc trong một công trình nội thất có thể biểu hiện trong toàn bộ công trình từ nội dung đến hình thức nhưng cũng có thể biểu hiện ở từng mặt, từng bộ phận của công trình. Một công trình trang trí nội ngoại thất có thể không thể hiện hình thức truyền thống quen thuộc nhưng vẫn có thể có giá trị thẩm mỹ và giá trị sử dụng cao. Trong thực tế có một số người hiểu bản sắc dân tộc theo một cách cứng nhắc, nông cạn nên thường chú ý đến hình thức khi sáng tạo hoặc phê phán giá trị bản sắc dân tộc của công trình. Nếu quan niệm chỉ dùng trang trí hình thức để thể hiện tính dân tộc thì không phải là biện chứng vì bản chất của nội thất là phải thoả mãn không gian sử dụng thực tế của con người và xã hội, thích ứng với điều kiện của thiên nhiên, khí hậu, phù hợp với trình độ phát triển khoa học, kỹ thuật của thời đại. Kinh nghiệm cho thấy, nếu chỉ chú ý đến hình thức mà xem nhẹ bản chất thì nội thất không thể phát triển được cả về lý luận lẫn thực tế và không thể đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Tóm lại, bản sắc dân tộc là một vấn đề có liên quan tới nhiều lĩnh vực khoa học: triết học, xã hội nhân văn, kinh tế, khoa học kỹ thuật…Bản sắc dân tộc trong thiết kế nội, ngoại thất không đơn thuần là một vấn đề học thuật mà còn là một vấn đề tư tưởng. Bản sắc dân tộc trong thiết kế nội, ngoại thất thể hiện muôn hình muôn vẻ, vô cùng phong phú và sinh động, không những về hình thức mà cả về nội dung, không những trong quá khứ mà trong cả hiện tại và tương lai. Sự tồn tại của bản sắc dân tộc biểu hiện sự hưng thịnh và phát triển bền vững của một dân tộc, một cộng đồng. Đó chính là lý do khiến chúng ta quan tâm nghiên cứu và giải quyết trong các công trình trang trí nội, ngoại thất. Tính hiện đại trong trang trí nội ngoại thất luôn dựa vào cơ sở khoa học tiên tiến của thời đại. Chính vì thế mỗi hoàn cảnh lịch sử khác nhau về tính hiện đại. Thời kỳ xa xưa khi trình độ khoa học còn chưa phát triển, lao động phổ thông còn chiếm một vị trí chủ yếu thì các hình thức điêu khắc, chạm trổ, mang lại cho thời đó tính hiện đại của riêng mình. Đến thời kỳ phục hưng, trình độ khoa học đã có những thành tựu nhất định thì tính hiện đại trong những công trình lại là những hàng cột đồ sộ, những mái vòm cao vời vợi…Còn ngày nay, những thành tựu khoa học kỹ thuật đã cho phép những nhà thiết kế thực hiện những không gian rộng tới hàng trăm mét mà không cần có các hàng cột chống đỡ, một sức mạnh khổng lồ có thể đặt lên một khối vật chất dường như nhỏ bé mong manh. Cũng nhờ trình độ khoa học phát triển vượt bậc trên thế giới mà việc chọ lựa vật liệu trang trí, phương tiện chiếu sáng…cho công việc thiết kế nội thất được thực hiện một cách rõ ràng hơn, tiện lợi hơn. Không gian biến ảo, mặt bằng tự do, kỹ thuật, ánh sáng chất liệu và mầu sắc trong không gian nội, ngoại thất luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Và trong thời đại công nghiệp ngày nay thì việc đơn giản hoá về mặt hình thức, phát huy tối đa công năng sử dụng nhằm đáp ứng một cách tối ưu nhất các tiện nghi phục vụ đời sống của con người đang là một xu thế mà các nhà nội thất hướng tới. PHầN ii Phân tích các phương án kiến trúc, giải pháp xây dựng, kiến thiết sơ bộ phương án chọn Quy định về tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn du lịch từ 1 sao đến 5 sao Khách sạn được chia làm 2 loại: 1. Loại được xếp hạng: Loại khách sạn có chất lượng phục vụ cao, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, được phân thành 5 hạng( 1 sao, 2 sao, 3 sao, 4 sao và 5 sao) dựa trên các tiêu chuẩn sau: Vị trí kiến trúc Trang thiết bị, tiện nghi sử dụng Các dịch vụ và mức độ phục vụ Nhân viên phục vụ Vệ sinh 2. Loại không được xếp hạng: khách sạn có chất lượng phục vụ thấp, không đạt tiêu chuẩn 1 sao. A. Yêu cấu tối thiểu chung Vị trí, kiến trúc: Dây chuyền công nghệ Bảng tên Cửa ra vào khách sạn Chỗ đỗ xe Buồng - diện tích tối thiểu buồng ngủ và phòng vệ sinh Sảnh Phòng vệ sinh khu vực Trang thiết bị tiện nghi: Hệ thống điện Hệ thống nước Trang thiết bị phòng cháy Vệ sinh công cộng Dịch vụ và mức độ phục vụ. Nhân viên phục vụ: Nghiệp vụ Sức khoẻ Trang phục Vệ sinh: Đảm bảo tốt các mặt sau: Biện pháp để đảm bảo vệ sinh Đảm bảo vệ sinh thực phẩm Vệ sinh cá nhân B. Yêu cầu tối thiểu đối với từng hạng khách sạn từ 1 đến 5 sao Yêu cầu về vị trí kiến trúc (cho từng loại khách sạn từ 1 đến 5 sao): Vị trí Thiết kế kiến trúc Quy mô khách sạn Không gian xanh Khu vực đỗ xe Các loại phòng ăn uống Khu vực hành chính Yêu cầu về trang thiết bị tiện nghi (cho từng loại khách sạn từ 1 đến 5 sao): Yêu cầu về chất lượng mỹ thuật và các trang thiết bị Yêu cầu về thảm Thiết bị điêù hoà thông thoáng khu vực Hệ thống lọc nước Thang máy Trang thiết bị phòng ngủ Trang thiết bị vệ sinh Yêu cầu các dịch vụ trong khách sạn và mức độ phục vụ Phục vụ buồng Phục vụ ăn uống Các dịch vụ bổ xung khác Yêu cầu về nhân viên phục vụ Chuyên môn Nghiệp vụ Hình thức Từ nội dung yêu cầu và quy mô đề nghị lựa chọn là từ khoảng 200 đến 500 giường ngủ cho khoảng từ 100 đến 300 phòng ngủ tiêu chuẩn khách sạn 5 sao thì nội dung khách sạn bao gồm các chức năng sau: 1. Nhóm sảnh Sảnh đón tiếp. Khu vực khách đợi. Quầy lễ tân. Gửi tiền, đồ vật quý, gửi đồ. Quầy bar, đồ lưu niệm, bách hoá. Trung tâm thương mai với các dịch vụ bưu điện, du lịch, vé máy bay, tầu hoả… WC 2. Khối hành chính quản lý Giám đốc Phó giám đốc Các phòng trực Tài chính - Kế toán Hành chính - Quản trị Tổ chức Đoàn thể Y tế Kỹ thuật nghiệp vụ 3. Nhóm ăn uống Phòng ăn lớn và khách vãng lai Phòng tiệc lớn, ăn Âu- á Bar, fastfood. 4. Nhóm giải trí phục vụ công cộng Phòng họp lớn từ 500 đến 1000 chỗ Các phòng hội thảo Các phòng vật lý trị liệu Cắt gội Dịch vụ giặt là Karaoke, sàn nhẩy, bar - cafe 5. Nhóm kho bếp phục vụ Kho đồ sứ thuỷ tinh Kho chăn, màn, ga, gối, đệm Kho bát đĩa Kho bánh kẹo, rượu bia, thuốc lá. Bếp soạn chia Vệ sinh nhân viên 6. Khối ngủ Phòng ngủ cao cấp Phòng ngủ hạng sang Phòng ngủ hạng thường Giới thiệu công trình Thanh hoá là một trong những tỉnh lớn của Việt Nam, nằm ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung bộ và Nam bộ. Với diện tích 11.168 km2. Phía Bắc giáp tỉnh Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình. Phía nam giáp Nghệ An, phía đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Lào. Thành phố Thanh Hoá cách Hà Nội 150 km. Địa hình tương đối phức tạp, đa dạng thấp dần từ Tây sang Đông có vùng núi, trung du, đồng bằng, vùng ven biển. Khí hậu thuộc vùng chuyển tiếp giữa Bắc bộ và Trung bộ. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23-24 độ C. Nằm ở độ cao không lớn lại nằm kề biển nên mùa đông không lạnh lắm, mùa hè dịu mát hơn. Giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ đều thuận lợi. Thanh Hoá là một tỉnh có tiềm năng du lịch rất lớn. Những thắng cảnh đặc sắc như bãi biển Sầm Sơn, động Hồ Công, núi Hàm Rồng… Thanh Hoá đều có di tích gắn với lịch sử của dân tộc như Lam Kinh, thành nhà Hồ,… Đồng thời đây là một trong những địa bàn cư trú của người Việt cổ, nơi có nền văn hoá Đông Sơn rực rỡ với trống đồng Đông Sơn là di vật độc đáo của nền văn hoá này… Đến thăm các di tích lịch sử này, du khách sẽ hiểu được một giai đoạn hào hùng, đầy biến động của dân tộc. Ngoài ra với hàng trăm đền, chùa, với những cảnh núi non, sông ngòi tươi đẹp. Thanh Hoá có điều kiện để phát triển du lịch. Công trình khách sạn Sao Mai được xây dựng tại vị trí đẹp, giao thông thuận tiện ở vị trí trên đồi cao của thành phố biển. Chính vì thế công trình phải là điểm nhấn để thu hút khách du lịch nên chọn giải pháp công trình có số tầng cao là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với quy hoạch và cảnh quan chung của khu vực và thành phố. Được nhìn từ nhiều phía cho nên kiến trúc được thiết kế cả 4 mặt đều phải đẹp, hấp dẫn thu hút tầm nhìn của du khách nên kiến trúc mang tính chất hiện đại hoành tráng. - Về vật liệu xây dựng: Chủ yếu là vật liệu trong nước và địa phương. - Vật liệu hoàn thiện: Bên trong nhà chủ yếu dùng bả matít và sơn Joton. Bên ngoài công trình công cộng ( đế công trình) ốp vật liệu granit nhân tạo và granit tự nhiên. Nền các tầng công cộng lát granit Thạch Bàn, khu vực sảnh, càfê và thang máy lát gạch granit tự nhiên. Thang máy sử dụng loại thang máy Misumitshi. Cửa khối công cộng và cả mặt ngoài công trình sử dụng nhôm liên doanh Tungzang, kính Đáp Cầu hoặc liên doanh Việt Nhật. Phần kinh tế Dự toán kinh tế cho công trình trang trí nội thất sảnh – cafe khách sạn Sao Mai “ Phú quý sinh lễ nghĩa”. Ngay từ xa xưa ông cha ta đã có câu đó truyền đạt cho con cháu đời sau. Nó đã thể hiện một phần nào đó quan niệm về cuộc sống của nhân dân ta đồng thời đó còn là một quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, khi cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn. Trình độ học vấn chưa được nâng cao. Trong sự đối đầu với cuộc sống đó, nhu cầu của con người đơn giản chỉ là “ăn no mặc ấm”. Đứng trước nền kinh tế thị trường phát triển theo lối Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá, cuộc sống của người dân ngày càng được nâng cao. Khi cái ăn cái mặc đã được đáp ứng đầy đủ, người ta bắt đầu tìm đến cái đẹp, cái thẩm mỹ theo phương châm “ăn ngon mặc đẹp và ăn ở sang trọng”. Cái đẹp được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu. Đó là điều kiện thuận lợi cho ngành Mỹ thuật công nghiệp phát triển, đồng thời nó cũng đặt ra nhiều thử thách cho những nhà thiết kế hiện tại và trong tương lai. Để có một công trình hoàn thiện, những nhà thiết kế không ngừng tìm tòi sáng tạo, để có thể tạo dáng những không gian đẹp và những đồ vật tiện dụng với giá cả hợp lý. Một công trình có thể đạt được giá trị thẩm mỹ cao nhưng giá trị công trình quá cao sẽ gây lãng phí, hoặc quá thấp sẽ không tương ứng với hiệu quả thẩm mỹ mà công trình đó được tạo ra. Do đó người thiết kế phải nắm được một số phương thức tính toán về kinh tế sao cho hợp lý để làm hài lòng khách hàng của mình về mặt giá cả. Qua quá trình học tập và được sự chỉ bảo hướng dẫn trực tiếp của thầy Nguyễn Văn Vĩnh, em đã có được những kiến thức cơ bản về kinh tế, cho phép áp dụng trực tiếp vào đồ án tốt nghiệp của mình. a. Cơ sở tính toán 1. Tính lợi nhuận ( L): áp dụng công thức tính kinh tế: L = D - C Trong đó: L: Lợi nhuận D: Doanh thu C : Tổng chi phí 2. Tính chi phí ( C): Công thức tính tổng chi phí C: C = C1 + C2 + C3 + C4 + C5 Trong đó C1: Chi phí cố định (nhà xưởng, trang thiết bị vật tư…). C1 = 0 C2: Chi phí nguyên vật liệu C3: Chi phí nhân công C4: Các chi phí khác (điện nước, cơ sở hạ tầng, Marketing : Giao tiếp, quảng cáo, tiếp thị, giới thiệu sản phẩm…) C5: Lãi suất ngân hàng C5 = (C1+ C2+ C3+ C4) x 1,2%/tháng x 6 tháng 3. Tính doanh thu( D): Công thức tính doanh thu: Từ công thức tính lợi nhuận: L = D – C ta có: D = L - C B. Bảng tính chi phí 1. Bảng tính chi phí nguyên vật liệu (C2)(VNĐ) Không gian sảnh STT Tên sản phẩm Đơn vị Số lượng Đơn giá Thành tiền 1 Thảm M2 248 100.000 24.800.000 2 Trần thạch cao M2 268 150.00 40.200.000 3 Bả Matít-sơn tường M2 355.4 20.000 7.108.000 4 Hệ thống đèn trang trí loại 1 Chiếc 05 1.550.000 7.750.000 5 Hệ thống đèn trang trí loại 2 Chiếc 12 980.000 11.760.000 6 Đèn trần Halogen Chiếc 36 50.000 1.800.000 7 Đèn Neon Chiếc 48 60.000 2.880.000 8 Kệ Reception Bộ 01 27.000.000 27.000.000 9 Ghế mềm sofa Bộ 06 3.000.000 18.000.000 10 Bàn nước vuông Chiếc 03 350.000 1.050.000 11 Bàn nước tròn Chiếc 03 280.000 840.000 12 Gỗ ốp chân tường M2 25 35.000 875.000 13 Kính M2 862,8 240.000 20.707.200 14 Tranh treo tường Bộ 05 1.200.000 6.000.000 15 Chậu cây cảnh Chiếc 08 1.500.000 12.000.000 16 Cửa ra vào khối hành chính+WC Bộ 06 2.500.000 15.000.000 17 Cửa lớn tự động Bộ 01 650.000.000 650.000.000 18 Cây + đá dựng tiểu cảnh Bộ 02 3.200.000 6.400.000 19 Gạch granite M2 479 95.000 45.505.000 19 Hoa trồng Cây 20 25.000 500.000 20 Thảm vuông Chiếc 01 1.800.000 1.800.000 21 Thảm tròn Bộ 01 4.500.000 4.500.000 18 Tổng cộng 906.468.200 Tổng số là: Chín trăm linh sáu triệu, bốn trăm sáu mươi tám nghìn, hai trăm đồng chẵn Không gian Cafe STT Tên sản phẩm Đơn vị Số lượng Đơn giá Thành tiền 1 Thảm M2 612 100.000 61.200.000 2 Trần thạch cao M2 612 150.00 91.800.000 3 Bả Matít-sơn tường M2 742 20.000 14.840.000 4 Hệ thống đèn trang trí loại 1 Chiếc 04 1.550.000 6.200.000 5 Hệ thống đèn trang trí loại 2 Chiếc 12 980.000 11.760.000 6 Đèn trần Halogen Chiếc 42 50.000 2.100.000 7 Đèn Neon Chiếc 32 60.000 1.920.000 8 Quầy bar – tủ rượu Bộ 01 17.200.000 17.200.000 9 Tranh treo tường khổ to Bộ 02 5.200.000 10.400.000 10 Tranh treo tường khổ nhỏ Bộ 03 1.200.000 3.600.000 11 ô kính trang trí Bộ 04 1.500.000 6.000.000 12 Cửa ra vào(kính) Bộ 01 7.800.000 7.800.000 13 Hệ thống điều hoà Bộ 01 45.000.000 45.000.000 14 Hệ thống âm thanh Bộ 01 250.000.000 250.000.000 15 Đá chất liệu M2 17.58 2.000.000 35.160.000 16 Ghế bar Chiếc 33 250.000 8.250.000 17 Ghế mềm Chiếc 89 320.000 28.480.000 18 Ghế sofa Bộ 07 3.000.000 21.000.000 19 Bàn tròn Chiếc 21 350.000 7.350.000 20 Bàn vuông Chiếc 11 450.000 4.950.000 21 Gỗ ốp chân tường M2 23.5 35.000 822.500 22 Chậu cây cảnh Chiếc 11 1.500.000 16.500.000 23 Bar phụ + tủ Bộ 01 7.800.000 7.800.000 24 Đá (mặt kệ) M2 02 500.000 1.000.000 25 Thanh inox M2 65 70.000 4.550.000 26 Vách ngăn sắt Bộ 04 420.000 1.680.000 27 Vách ngăn Nàng tiên cá Bộ 01 2.400.000 2.400.000 28 Đá ốp cột + tường M2 42 620.000 26.040.000 29 Gạch granite M2 376 95.000 35.625.000 29 Tổng cộng 731.427.500 Tổng số là: Bẩy trăm ba mươi mốt triệu, bốn trăm hai mươi bẩy nghìn, năm trăm đồng chẵn. 2. Bảng chi phí nhân công(C3)(VNĐ) STT Tên công việc Số công Đơn giá Thành tiền 1 Công sáng tác 20.00.000 2 Lắp đặt thiết bị đIện 150 50.000 7.500.000 3 Thi công ốp chân tường và ghép đá 80 50.000 4.000.000 4 Thi công trần 150 50.000 7.500.000 5 Gia công gỗ + chi tiết 60 80.000 4.800.000 6 Giám sát thi công + KT 80 60.000 4.800.000 7 Công kỹ thuật 30.000.000 8 Tổng cộng 78.600.000 Tổng số là: Bẩy mươi tám triệu, sáu trăm nghìn đồng chẵn. 3. Bảng tính chi phí khác (C4)(VNĐ) STT Tên công việc Số lượng Đơn giá Thành tiền 1 Chi phí môi giới 20.000.000 2 Chi phí Marketing (giao tiếp, khuyếch chương…) 50.000.000 3 Chi phí bảo vệ 10.000.000 4 Chi phí vận chuyển, bốc xếp, kho tàng… 5.000.000 5 Chi phí điện nước 10.000.000 5 Tổng cộng 95.000.000 Tổng số là: Chín mươi năm triệu chẵn. 4. Tính chi phí lãi suốt ngân hàng (C5) (VNĐ) Theo công thức: C5 = (C1 + C2 + C3 + C4) x % lãi suất ngân hàng x số tháng vay -> C5 = ( 0 + 1.621.702.700 + 78.600.000 + 95.000.000) x 1.25% x 6 tháng C5 = 1.795.302.700 x 1.25% x 6 tháng. C5 = 134.477.025 ( Nhân theo lãi suất của Ngân Hàng Đầu Tư ngày 15/06/2006). 5. Tính tổng chi phí C (VNĐ): Theo công thức: C = C1 + C2 + C3 + C4 + C5 => C = O + 1.621.702.700 + 78.600.000 + 95.000.000 + 134.477.025 Như vậy ta được: C = 1.929.779.725 C. xác định D (vnđ) Ta có Tổng giá trị hợp đồng: D = 2.500.000.000 (D: doanh thu). Tính theo chi phí d. tính lợi nhuận (vnđ) Từ công thức tính lợi nhuận công trình: L = D – C => L = 2.000.000.000 – 1.929.779.725 => L = 70.220.275 ( Tổng số là: Bẩy mươi triệu, hai trăm hai mươi nghìn, hai trăm bẩy mươi năm nghìn đồng chẵn.) Vậy lãi suất của công trình là: L =70.220.275 ( Tổng số là: Bẩy mươi triệu, hai trăm hai mươi nghìn, hai trăm bẩy mươi năm nghìn đồng chẵn.) Phần iv Kết luận Không gian sảnh và cafe là một công trình tương đối lớn, mới chỉ tồn tại trong trí tưởng tưởng của em. Trong hai không gian này em đã cố gắng áp dụng những yếu tố mầu sắc, ánh sáng và các chất liệu trang trí nhằm tạo nên ấn tượng mạnh mẽ của sự thần bí sang trọng nhưng không kém phần thoải mái dễ chịu. Không gian và cách bầy trí của công trình này nhằm tìm ra một hướng đi mới nhưng không quá xa lạ đối với tất cả mọi người. Mục đích cuối cùng của công trình là thuận tiện và công năng, đạt hiệu quả về thẩm mỹ nhưng không tách rời khỏi thiên nhiên và bản sắc văn hoá chung. Đưa con người lại gần thiên nhiên, hiểu biết thêm về nền văn hoá trên thế giới, vươn tới vẻ đẹp “ Chân – Thiện – Mỹ”. Qua quá trình tham khảo để thể hiện đồ án, em đã cố gắng tìm tòi và sáng tạo bằng tất cả khả năng của mình nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót do kinh nghiệm non kém, thiếu sự từng trải thực tế cũng như kinh nghiệm thể hiện. Em rất mong được sự góp ý chỉ bảo của các thầy cô cũng như các bạn đồng nghiệp. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo: TS.HS. Nguyễn Lan Hương; GS. Nguyễn Ngọc Dũng; TS. Nguyễn Văn Vĩnh; GS. Lê Thanh; thầy Ngô Bá Quang; thầy Trần Lê An; HS. Nguyễn Mai Châu cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Tạo Dáng Công Nghiệp đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành đồ án của mình. Hà nội, ngày 15 tháng 06 năm 2006 Sinh viên Trần Thị Hồng Phượng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32740.doc