Hoạt động thương mại quốc tế bằng thư tín dụng đang ngày càng phát triển đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về bản thân thư tín dụng cũng như các quy tắc, tập quán quốc tế đang được áp dụng. Trong bối cảnh thương mại quốc tế phát triển nhờ vào sự hỗ trợ cua khoa học công nghệ và công nghệ thông tin, Bản Quy Tắc và thực hành về tín dụng chứng từ hiện hành UCP 500 và Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế đê kiểm tra chứng từ theo thư tín dụng ISBP 681 trở nên không còn phù hợp. Trước thực tế đó, ICC đã ban hành bộ tập quán mới: UCP600 thay thế cho UCP500; ISBP 681 thay thế cho ISBP 645 để giúp cho hoạt động thanh toán bằng tín dụng chứng từ kịp thời phù hợp với hoạt động thanh toán quốc tế. Do vậy, việc tìm hiểu những điểm khác biệt giữa UCP500-UCP600; ISBP645-ISBP681 là vô cùng cần thiết. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà rất nhiều ngân hàng thương mại đã tuyên bố chính thức áp dụng UCP 600, ISBP 681 vào hoạt động thanh toán quốc tế. Điều đó không chỉ cần thiết đối với ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực thanh toán quốc tế mà còn vô cùng cần thiết đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu để có thể thành công trong thương mại quốc tế.
Thông qua nghiên cứu ứng dụng của bộ tập quán mới này vào hoạt động thanh toán quốc tế tại một số ngân hàng thương mại hiện nay như thế nào, khoá luận đã chỉ ra được một số những hạn chế và bất cập của ngân hàng thương mại khi ứng dụng UCP600 và ISBP 681. Từ đó khoá luận mạnh dạn đề xuất một số giải pháp mang tính chất vĩ mô và vi mô nhằm cải thiện hoạt động thanh toán tại một số ngân hàng thương mại hiện nay, cũng như cải thiện tình hình bị từ chối thanh toán theo phương thức tín dụng thư trong hoạt thương mại quốc tế của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
85 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2257 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Ứng dụng thực tế của UCP 600 và ISBP 681 trong việc tạo lập và kiểm tra bộ chứng từ thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại một số ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất phí xác nhận, mức ký quỹ đối với ngân hàng phát hành( nếu cần thiết), trình Tổng Giám Đốc phê duyệt xác nhận L/C do ngân hàng phát hành.
+ Nếu Tổng giám đốc đồng ý xác nhận L/C do ngân hàng khác phát hành, khi chuyển L/C cho chi nhánh, Sở quản lý phải gửi kèm theo văn bản uỷ quyền xác nhận để chi nhánh thông báo cho khách hàng và ngân hàng phát hành.
+ Trong trường hợp Tổng giám đốc không đồng ý xác nhận, Sở Quản Lý phải thông báo cho chi nhánh bằng văn bản đồng thời chuyển tiếp điện để chi nhánh thực hiện thông báo L/C không kèm xác nhận của NHNo.
Vậy ta thấy rõ ràng là trong nghiệp vụ xác nhận thư tín dụng của mình, NHNo đã tuân thủ chặt chẽ quy định của UCP 600 mà cụ thể ở đây đó là Điều 8d: Nếu một ngân hàng được ngân hàng phát hành uỷ quyền hoặc yêu cầu xác nhận thư tín dụng nhưng ngân hàng này không sẵn sàng làm việc đó, thì nó phải thông báo không chậm trễ cho ngân hàng và nó có thể thông báo tín dụng mà không có xác nhận. Đặc biệt hơn nữa, NHNo đã áp dụng UCP một cách linh hoạt theo quy trình nghiệp vụ riêng của mình (khách hàng phải là người có tín nhiệm, có quan hệ thanh toán tốt với NHNo, quy định về mặt hàng xuất khẩu…) từ đó có thể tránh được rủi ro khi thực hiện dịch vụ xác nhận thư tín dụng.
♣ Đối với ngân hàng TMCP:
Ngân Hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) cung cấp dịch vụ xác nhận L/C như sau: Vietcombank cam kết thanh toán (hoặc chấp nhận thanh toán và thanh toán khi đến hạn) cho BCT xuất trình phù hợp với các điều khoản, điều kiện của L/C do ngân hàng nước ngoài phát hành cho khách hàng. Khi sử dụng dịch vụ xác nhận L/C của Vietcombank, khách hàng được Vietcombank đảm bảo, do vậy sẽ loại trừ được rủi ro từ phía người nước ngoài.
Điều kiện để sử dụng sản phẩm: khách hàng yêu cầu đối tác nhập khẩu phát hành L/C có các điều khoản sau:
L/C cho phép xác nhận (with confirmation hoặc may add confirmation)
Chỉ định Vietcombank là ngân hàng xác nhận và ngân hàng thanh toán.
Cho phép đòi tiền bằng điện hoặc đòi tiền ngân hàng hoàn trả theo cam kết hoàn trả hoặc cho phép ghi nợ tài khoản ngân hàng phát hành tại Vietcombank.
Khách hàng nên tham khảo ý kiến của Vietcombank trước khi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu sử dụng L/C xác nhận qua Vietcombank.
Khi thực hiện xác nhận thư tín dụng, như đã đề cập ở trên, các ngân hàng cần phải quan tâm đến vấn đề phí xác nhận do ai trả? NHPH, người yêu cầu phát hành thư tín dụng hay là ngưòi hưởng lợi L/C? Để từ đó có kế hoạch thu phí xác nhận. Và mỗi ngân hàng có một mức phí cụ thể.
Sau đây là biểu phí xác nhận của một số ngân hàng khi xác nhận thư tín dụng của ngân hàng đại lý phát hành:
Bảng 2: biểu phí xác nhận của một số ngân hàng.
Ngân hàng
Mức phí xác nhận
NHNo&PTNT
0,2% trị giá L/C, tối thiều 10USD, tối đa 150 USD
Maritimebank
1,2-1,5%/Năm, tối thiểu là 45USD, thời gian tối thiểu tính phí là 30 ngày.
Hdbank
0,25%/ quý, tối thiểu là 25USD
Eximbank
0,083%/tháng( tính theo ngày), tối thiểu 25 USD.
southernbank
Tối thiểu là 40 USD, theo thoả thuận
HNVCbank
Thu theo biểu phí áp dụng cho các ngân hàng đại lý
VRbank
Tỷ lệ thoả thuận tính trên trị giá thư tín dụng tính từ ngày xác nhận đến ngày hết hạn
Nguồn: Tổng hợp
4. Khi ngân hàng thương mại là ngân hàng thương lượng thanh toán.
UCP 600 quy định về thương lượng thanh toán như sau: thương lượng thanh toán là việc ngân hàng chỉ định mua các hối phiếu (ký phát đòi tiền ngân hàng khác, trừ ngân hàng chỉ định) và/ hoặc các chứng từ khi xuất trình phù hợp bằng cách trả tiền trước hoặc ứng tiền trước cho người thụ hưởng vào hoặc trước ngày làm việc ngân hàng mà vào ngày đó ngân hàng chỉ định được hoàn trả tiền. Ở đây trả tiền trước (advancing) được hiểu là ngân hàng thương lượng sẽ mua trả tiền ngay hối phiếu và/ hoặc bộ chứng từ với một giá thoả thuận, thường gọi là chiết khấu hối phiếu. Có hai loại chiết khấu hối phiếu là chiết khấu truy đòi (nếu bộ chứng từ bị NHPH từ chối thanh toán thì ngân hàng đã chiết khấu có quyền truy đòi người đã chiết khấu BCT) và chiết khấu miễn truy đòi (trong trường hợp BCT bị NHPH từ chối thanh toán thì ngân hàng đã mua lại BCT không có quyền truy đòi người đã chiết khấu BCT). Do vậy khi quyết định thực hiện chiết khấu miễn truy đòi, ngân hàng thực hiện chiết khấu phải chắc chắn rằng BCT là hợp lệ và được thanh toán bởi NHPH nhằm tránh rủi ro BCT không được thanh toán. Còn ứng tiền trước được hiểu trong hai trường hợp: không dùngt hối phiếu làm phương tiện đòi tiền và cho vay BCT trên đường đi cho phép ngân hàng và người thụ hưởng sẽ xác định điều kiện của thương lượng thanh toán: Khi nào thanh toán, số tiền bao nhiêu. Cùng với quy định tại Điều 12 (c), UCP600 đã kiên quyết ngăn chặn xu hướng coi việc kiểm tra chứng từ và gửi chứng từ đi như là hành động “thương lượng thanh toán”
UCP600 cũng đã có sự phân biệt giữa thanh toán và thương lượng thanh toán. Theo đó, nếu ngân hàng chỉ định mua lại hối phiếu/ bộ chứng từ đòi tiền ngân hàng khác thì đó là thương lượng thanh toán, còn việc mua hối phiếu, bộ chứng từ đòi tiền chính mình thì được hiểu là thanh toán (trả tiền ngay, chấp nhận hoặc cam kết trả chậm).
Vậy ta sẽ nghiên cứu quy trình của ngân hàng thương mại trên hai khía cạnh: chiết khấu bộ chứng từ và ứng tiền trước bộ chứng từ.
♣ Chiết khấu bộ chứng từ: các ngân hàng chiết khấu (mua đứt) BCT hàng xuất được các doanh nghiệp xuất trình đến ngân hàng. Hầu hết các ngân hàng về nghiệp vụ chiết khấu BCT hàng xuất đều có quy định tương tự nhau. Đó là tuân theo UCP600 và Bộ Tập Quán Ngân Hàng Tiêu Chuẩn Quốc Tế ISBP681.Khi mua đứt BCT thì đương nhiên ngân hàng đã trở thành chủ sở hữu của lô hàng. Khi ấy nhà nhập khẩu muốn có BCT để đi nhận hàng thì phải trả tiền cho ngân hàng (chứ không phải người xuất khẩu). Nếu nhà nhập khẩu từ chối không trả tiền thì ngân hàng có quyền phát mãi lô hàng và thu tiền về.
♣ Đối với ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước:
NHNo &PTNT có quy định như sau:
- Chiết khấu miễn truy đòi: NHNo quy định rõ chiết khấu miễn truy đòi là việc NHNo mua đứt BCT và chịu rủi ro khi ngân hàng phát hành L/C từ chối thanh toán hoặc không có khả năng thanh toán NHNo sẽ chiết khấu miễn truy đòi BCT trong trường hợp: L/C đã được NHNo xác nhận và bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với những điều kiện và điều khoản của L/C. Trong trường hợp chiết khấu miễn truy đòi, TTV sẽ căn cứ vào điều kiện chiết khấu và tình trạng BCT để đề xuất ý kiến về việc chấp nhận chiết khấu miễn truy đòi, tỷ lệ chiết khấu là bao nhiêu. Nếu từ chối chiết khấu miễn truy đòi thì nêu rõ lý do từ chối. Nếu BCT được chấp nhận chiết khấu, nhưng tỷ lệ chiết khấu khác với đề nghị của khách hàng, chi nhánh cần phải thông báo để khách hàng xác nhận lại.
- Chiết khấu có truy đòi:
+ NHNo thực hiện chiết khấu chứng từ được quyền truy đòi khách hàng nếu NHPH từ chối thanh toán và không có khả năng thanh toán.
+ Điều kiện để NHNo thực hiện chiết khấu có truy đòi: NHPH là ngân hàng có uy tín lớn; thị trường truyền thống, mặt hàng được phép xuất khẩu tại Việt Nam; khách hàng có hoạt động giao dịch thường xuyên tại NHNo, vay, trả sòng phẳng, hoạt động kinh doanh tốt, tình hình tài chính lành mạnh.
NHNo cũng quy định tỷ lệ chiết khấu tối đa là 95% giá trị BCT và thời hạn chiết khấu là không quá 60 ngày đối với L/C trả ngay và tối đa bằng thời hạn trả chậm cộng thêm 10 ngày đối với L/C trả chậm.
Ngân Hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam BIDV:
- Chiết khấu miễn truy đòi: BIDV sẽ mua đứt bộ chứng từ và chịu rủi ro khi khách hàng không trả tiền.
- Chiết khấu có truy đòi: BIDV sẽ chiết khấu chứng từ và được quyền truy đòi nếu khách hàng nước ngoài từ chối thanh toán bộ chứng từ.
♣ Đối với ngân hàng TMCP:
Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quốc Tế Việt Nam (VIBank) quy định như sau: các doanh nghiệp có thể chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất tại VIB trong trường hợp:
- L/C trả tiền ngay, không huỷ ngang, cho phép đòi tiền bằng điện hoặc bằng chứng từ. Nếu là L/C trả chậm thì phải có điện hoặc thư chấp nhận thanh toán của ngân hàng nước ngoài.
- Ngân hàng phát hành, thanh toán L/C phải là ngân hàng có uy tín trên thị trường quốc tế.
- Chứng từ xuất trình phù hợp với các điều khoản và điều kiện của L/C, tuân thủ UCP600 và ISBP681. Trong trường hợp chứng từ có sai sót thì ngân hàng nước ngoài đã đồng ý bỏ qua sai sót và chấp nhận.
- Doanh nghiệp phải có tình hình tài chính tốt, có kinh nghiệm, uy tín trong hoạt động xuất nhập khẩu, thị trường quen thuộc và có quan hệ giao dịch thường xuyên với VIBank.
- VIBank sẽ căn cứ vào các yếu tố trên đề đưa ra quy định về tỷ lệ chiết khấu, hình thức chiết khấu( truy đòi hay là miễn truy đòi). Tuy nhiên trong mọi trường hợp, tỷ lệ chiết khấu đều không vượt quá 95% giá trị BCT.
- Ngân Hàng Phương Đông quy định chiết khấu (mua đứt) BCT như sau: OCB thực hiện chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu nhằm hỗ trợ quý khách nhanh quay vòng vốn, tỷ lệ chiết khấu tuỳ thuộc điều kiện cụ thể của bộ chứng từ.
- Nếu bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với L/C hoặc tu chỉnh L/C( nếu có):
+ Đối với L/C trả ngay: tỷ lệ tối đa là 95% trị giá hối phiếu
+ Đối với L/C trả chậm: tỷ lệ tối đa là 80% trị giá hối phiếu.
- Nếu bộ chứng từ bất hợp lệ với những đìều kiện, điều khoản của L/C hoặc tu chỉnh L/C( nếu có) thì tỷ lệ cụ thể tuỳ thuộc vào mức độ bất hợp lệ của BCT (Trích: Dịch vụ thanh toán quốc tế- OCB)
Ngân hàng MHB cũng quy định tương tự như NHNo đó là tối đa là 60 ngày đối với BCT trả ngay và tối đa bằng thời hạn thanh toán trả chậm cộng thêm 10 ngày đối với L/C trả chậm. Tỷ lệ chiết khấu cũng không vượt quá 95% giá trị BCT.
Ta có thể thấy rằng trong thực tế một số ngân hàng đã ứng dụng quy định của UCP600 và ISBP681 khi chiết khấu BCT khá linh hoạt và phù hợp với tình hình hiện nay của các ngân hàng Việt Nam: Khả năng tài chính còn hạn chế, khả năng hiểu biết và mối quan hệ với các ngân hàng lớn trên thế giới cũng còn nhiều hạn chế…do vậy các ngân hàng đã lựa chọn giải pháp an toàn cho mình. Đó là phải đáp ứng được những quy định nhất định thì mới thực hiện nghiệp vụ chiết khấu BCT.
♣ Ứng tiền trước bộ chứng từ:
Nghiệp vụ ứng tiền trước cho BCT theo L/C đem lại lợi ích cho nhà xuất khẩu. Trong trường hợp sau khi giao hàng và lập BCT thanh toán xuất trình đòi tiền mà chưa nhận được tiền từ phía ngân hàng nước ngoài trong khi đó nhà xuất khẩu lại đang cần tiền để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì nhà xuất khẩu có thể mang BCT đến ngân hàng xin ứng tiền trước. Tuỳ theo nhu cầu sử dụng vốn của mình mà khách hàng xin ứng trước bao nhiêu tiền (bao nhiều phần trăm giá trị của BCT). UCP có quy định về nghiệp vụ này trong Điều 2 (thương lượng thanh toán) tuy nhiên không có một chỉ dẫn cụ thể nào về các bước quy trình nghiệp vụ. Do vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình mỗi ngân hàng đều tự đề ra cho mình một quy trình thực hiện riêng nhưng vẫn tuân thủ theo đúng quy định của ICC. Ta có thể kể đến ở đây đó là Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Hàng Hải Việt Nam và HSBC Việt Nam. Hai ngân hàng này đã có quy định khá rõ ràng và chi tiết về vấn đề ứng tiền trước bộ chứng từ.
Ngân Hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (maritimebank) quy định về nghiệp vụ này như sau: Ngân Hàng Hàng Hải thực hiện chiết khấu có truy đòi hối phiếu kèm theo các chứng từ L/C dưới hình thức ứng trước cho khách hàng. số tiền ứng trước tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể nhưng tối đa không vượt quá 95% giá trị hối phiếu. Khi nhận được số tiền thanh toán từ ngân hàng nước ngoài, Ngân Hàng Hàng Hải thu hồi đủ khoản tiền đã ứng trước cho khách hàng và thu các khoản phí có liên quan, trước khi thanh toán phần còn lại cho khách hàng. Ngân Hàng Hàng Hải thực hiện truy đòi số tiền đã ứng trước, lãi và các chi phí có liên quan trong trường hợp ngân hàng nước ngoài từ chối thanh toán.
(Trích: Dịch vụ thanh toán quốc tế- NHTMCP Hàng Hải Việt Nam)
Vậy bằng việc thương lượng thanh toán bộ chứng từ hàng xuất, ngân hàng thương mại đã giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu có vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. Điều đó thực sự đóng vai trò không nhỏ trong việc thúc đẩy thương mại quốc tế đặc biệt là hoạt động xuất khẩu phát triển.
Có một câu hỏi được đặt ra là: Ngân hàng có thương lượng thanh toán bộ chứng từ hàng nhập không? Và khi thương lượng bộ chứng từ hàng nhập, quy trình đó như thế nào?
Ngân Hàng HSBC thực hiện quy trình thương lượng bộ chứng từ hàng nhập như sau: Khi doanh nghiệp Việt Nam là bên nhập khẩu, muốn có BCT để đi nhận hàng thì doanh nghiệp phải thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Khi BCT về đến HSBC và sau khi kiểm tra HSBC thấy rằng BCT hoàn toàn phù hợp với thư tín dụng, với UCP 600 và ISBP 681. Khi ấy HSBC sẽ thanh toán cho người xuất khẩu bằng nguồn vốn của mình. Như vậy BCT đã thuộc về HSBC và HSBC là chủ sở hữu của hàng hoá. Nếu doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam muốn có BCT để đi nhận hàng thì phải thanh toán cho HSBC. Trong trường hợp doanh nghiệp không nhận BCT thì HSBC sẽ phát mại lô hàng để thu tiền về.
Trong thực tế hoạt động của mình, cũng có trường hợp HSBC thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu trước khi nhận được BCT. Trong trường hợp này rủi ro hoàn toàn thuộc về HSBC nếu người xuất khẩu không chuyển giao chứng từ thì HSBC cũng không thể đòi tiền của người nhập khẩu Việt Nam. Tuy nhiên trường hợp này rất hiếm khi xảy ra vì HSBC chỉ chấp nhận thanh toán tiền hàng trước cho người nhập khẩu khi người đó có quan hệ thân thiết với HSBC, có uy tín và HSBC thực sự tin tưởng. Hoặc trong trường hợp ngân hàng thông báo ở nước người xuất khẩu là ngân hàng đại lý của HSBC và BCT đã được chuyển đên ngân hàng thông báo và HSBC đã nhận được điện từ phía ngân hàng thông báo là BCT hoàn toàn phù hợp. Khi ấy HSBC sẽ chuyển tiền thanh toán đến phía ngân hàng thông báo trước khi nhận được BCT ngân hàng này chuyển đến.
(Theo HSBC Việt Nam)
Rõ ràng là khi thực hiện nghiệp vụ chiết khấu BCT (mua đứt) như trên, HSBC đã cung cấp một khoản tín dụng cho bên xuất khẩu (bằng việc trả tiền trước). Đối với bộ chứng từ hàng xuất khi mà doanh nghiệp Việt Nam là bên xuất khẩu, khoản tín dụng ấy là vô cùng cần thiết đối với các doanh nghiệp của chúng ta. Bởi vì các doanh nghiệp của chúng ta tiềm năng tài chính còn hạn hep, thiếu vốn. Do vậy sẽ giúp các doanh nghiệp luân chuyển vốn nhanh, đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng nhiều.
II. Đánh giá chung về tình hình ứng dụng UCP 600 và ISBP 681.
Mặc dù UCP 600 chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2007 nhưng trước khi UCP 600 có hiệu lực, hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đều đã chuẩn bị tinh thần làm quen và ứng dụng UCP ngay khi UCP 600 có hiệu lực. Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quốc Tế Việt Nam (VIBank) đã mở lớp đào tạo cán bộ về UCP mới, hướng dẫn quy trình nghiệp vụ theo bản sửa đổi lần thứ 6 của ICC. Và thực tế là ngay sau khi UCP 600 có hiệu lực, VIBank đã thông báo đến khách hàng của mình là VIBank chính thức áp dụng UCP 600 và phòng dịch vụ khách hàng của VIBank sẵn sàng tư vấn cho khách hàng về bản UCP mới và những điểm doanh nghiệp cần lưu ý khi áp dụng UCP 600. Bên cạnh đó VIBank cũng tổ chức một buổi hội thảo giới thiệu bộ tập quán quốc tế mới (UCP 600) đến các doanh nghiệp. Trong cuộc hội thảo VIBank đã cố gắng giới thiệu một cách ngắn gọn, hàm súc và dễ hiểu nhất về bộ tập quán mới đến doanh nghiêp. Hội thảo của VIB có mặt hơn 200 doanh nghiệp là bạn hàng quen thuộc của VIB diễn ra vào ngày 15/11/2007.
Sau Khi UCP 600 bắt đầu có hiệu lực, NHTMCP Quân Đội (Military Bank) cũng bắt đầu hướng khách hàng sử dụng UCP 600 thay cho UCP 500. Nhiều doanh nghiệp nhập khẩu ban đầu muốn sử dụng UCP 500 vì đã quen thuộc với bản điều lệ này, lại chưa có thời gian để tìm hiểu kỹ về UCP 600 chỉ thấy duy nhất điểm khác biệt là phải thanh toán sớm hơn cho nhà xuất khẩu, tuy nhiên sau khi các TTV tư vấn đều dần dần chuyển sang sử dụng UCP 600. Tính đến tháng 9/2007 hầu như tất cả các thư tín dụng phát hành qua Ngân Hàng Quân Đội đều sử dụng UCP 600. Trong thời gian này, Ngân Hàng Quân Đội vẫn tiếp tục triển khai kế hoạch đào tạo của mình. Tính đến thời điểm tháng 9 năm 2007, Ngân Hàng Quân Đội đã tổ chức được 3 khoá học cho TTV tại Đại Học Ngoại Thương Hà Nội và Học Viện Ngân Hàng, tham gia khoảng 10 buổi hội thảo cùng các ngân hàng nước ngoài, tổ chức đào tạo cho TTV và cán bộ quan hệ khách hàng về UCP 600, ISBP 600, tổ chức nhiều hội thảo UCP 600 cho các doanh nghiệp Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng
Cho đến thời điểm này, khi mà UCP 600 và ISBP 681 đã chính thức có hiệu lực được gần một năm, hầu hết các ngân hàng thương mại đều đã áp dụng bản quy tắc mới và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng đã bước đầu làm quen được với bản quy tắc mà từ trước đến nay được coi là “khó hiểu” của ICC. Từ tình hình áp dụng UCP 600 và ISBP 681 của một số ngân hàng thương mại ở trên, ta có thể đưa ra một vài đánh giá chung nhất như sau:
1. Ưu điểm:
- Trước khi UCP 600 và ISBP 681 có hiệu lực các ngân hàng thương mại đã dành thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, triển khai bồi dưỡng, trang bị kiến thức cho cán bộ về bộ tập quán quốc tế mới (VIBank, MB…). Đồng thời cũng giới thiệu, tư vấn giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hiểu và làm quen để khỏi bỡ ngỡ khi ngân hàng chính thức áp dụng vào hoạt động thanh toán.
- Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đều đã nghiên cứu tìm hiểu và ứng dụng bộ tập quán quốc tế mới. Mặc dù bộ tập quán quốc tế mới vẫn còn một số điều khó hiểu và chưa quy định cụ thể song các ngân hàng thương mại đã biết cụ thể hoá trong quy trình nghiệp vụ của mình (UCP chỉ quy định thời gian kiểm tra BCT cho mỗi ngân hàng là 5 ngày làm việc ngân hàng. Tuy nhiên các ngân hàng đã phân chia thời gian ấy cho phù hợp với quy trình nghiệp vụ thực tế của mình: 2 ngày để TTV kiểm tra, thời gian còn lại để KSV kiểm tra (Quy định của Techcombank); 3 ngày cho TTV kiểm tra (NHNo&PTNT)…)
- Một điểm đáng khích lệ ở đây đó là mặc dù UCP600 chưa có quy định cụ thể về ngày tiếp nhận chứng từ, song để tạo điều kiện thuận lợi cho các thanh toán viên trong quá trình kiểm tra, một số ngân hàng thương mại đã quy định về ngày tiếp nhận chứng từ (NHNo&PTNT, Techcombank)
2. Hạn chế:
Mặc dù một số ngân hàng thương mại đã có sự chuẩn bị kỹ càng về nhân lực, nghiệp vụ để phù hợp với những thay đổi của UCP. Tuy nhiên, khi chính thức áp dụng UCP vẫn còn một số hạn chế như sau:
- Do thời gian chuẩn bị bị hạn chế nên mặc dù đã có sự chuẩn bị trước song một số ngân hàng thương mại vẫn chưa kịp có những điều chỉnh quy trình nghiệp vụ của mình theo UCP mới (Ngân Hàng Công Thương Việt Nam Vietinbank…)
- Mặc dù đã tổ chức và mở rất nhiều khoá đào tạo cho nhân viên về UCP600 và ISBP681, tuy nhiên chất lượng đào tạo còn chưa cao, các thanh toán viên vẫn chưa hoàn toàn nắm được bộ tập quán mới để vận dụng nó vào quy trình nghiệp vụ thường ngày của mình.
- Bản thân ISBP681 và UCP600 vẫn còn có một số bất đồng, có thể kể đến ở đây như là Đ21 ISBP681 và Điều 14UCP600. Theo điều 14c UCP600 việc xuất trình một hoặc nhiều bản gốc các chứng từ vận tải theo các điều 19, 20, 21, 22, 23, 24 và 25 phải do người thụ hưởng hoặc người thay mặt thực hiện nhưng không được muộn hơn 21 ngày dương lịch sau ngày giao hàng quy định trong các quy tắc này, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được muộn hơn ngày hết hạn của tín dụng. Nhưng theo điều 21 ISBP681 thì ta có thể hiểu là xuất trình sau 21 ngày dương lịch kể từ ngày giao hàng, nhưng không muộn hơn ngày hết hạn xuất trình. Do vậy, nếu các ngân hàng chỉ quy đinh chung chung rằng: việc kiểm tra tuân thủ UCP600 và ISBP681 sẽ rất dễ xảy ra sai sót khi kiểm tra BCT thanh toán vẫn còn sự không tương thích giữa UCP600 và ISBP681.
- Những ngân hàng đã áp dụng UCP mới thì mới chỉ điều chỉnh được quy trình theo UCP 600 ở một số loại thư tín dụng: Tín dụng không huỷ ngang, tín dụng không huỷ ngang có xác nhận. Còn với một số loại thư tín dụng đặc biệt như: Thư tín dụng chuyển nhượng, thư tín dụng giáp lưng…thì chưa cập nhật được những nội dung mới trong quy trình để phù hợp với UCP 600.
III. Một số khó khăn và bất cập khi áp dụng
Mặc dù đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trươc khi áp dụng UCP 600 và ISBP 681 vào hoạt động thanh toán quốc tế, song các ngân hàng Việt Nam vẫn gặp phải một số khó khăn và bất cập khi áp dụng bản quy tắc mới này của ICC.
1. Bất cập đến từ phía bộ tập quán:
Mặc dù so với UCP500, UCP600 đã hạn chế được một số những bất cập nhất định (Quy định cụ thể hơn trách nhiệm của hai bên mua bán, của ngân hàng, tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ rõ ràng hơn…), tuy nhiên UCP600 và cùng với nó là ISBP681 vẫn không phải là hoàn hảo, và vẫn còn một số điểm mà 2 văn bản mới này chưa giải quyết được.
♣ Điều 7 (b) UCP600
Điều 7 (b) UCP600 chỉ ra thời điểm cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành có hiệu lực đó là từ thời điểm ngân hàng phát hành tín dụng. Tuy nhiên lại chưa định nghĩa thế nào là phát hành tín dụng và thời điểm nào được coi là tín dụng đã được phát đi. Điều này đặc biệt có ý nghĩa bởi vì đó chính là thời điểm mà ngân hàng phát hành bị ràng buộc bởi cam kết thanh toán cho tín dụng thư.
♣ Điều khoản về tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ:
Khi làm nhiệm vụ kiểm tra chứng từ, các TTV phải tuân theo quy định của UCP600. Quy định càng cụ thể thì việc kiểm tra chứng từ càng nhanh chóng và sẽ hạn chế được những sai sót xảy ra từ việc kiểm tra chứng từ. Thế nhưng trong Điều14(d) UCP600 quy định như sau: “ Dữ liệu trong một chứng từ không nhất thiết phải giống hệt như khi đọc lời văn của tín dụng, của bản thân chứng từ và của tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế, nhưng không được mâu thuẫn với dữ liệu trong chứng từ đó, với bất cứ quy định nào khác hoặc với tín dụng.”
Quy định này thực sự mơ hồ và khó hiểu. Thực sự rất khó để xác định các chứng từ có mâu thuẫn nhau hay không. Và nhiều khi việc quyết định xem các dữ liệu, các thông số có mâu thuẫn với nhau hay không lại phụ thuộc vào sự nhạy cảm của người kiểm tra chứng từ
♣ Trách nhiệm của ngân hàng thông báo.
Điều 9 UCP600 quy định về việc thông báo thư tín dụng và các sửa đổi, theo đó “bằng việc thông báo thư tín dụng hoặc sửa đổi thư tín dụng, ngân hàng thông báo phải thể hiện là nó đã kiểm tra tính chân thực của thư tín dụng hoặc sửa đổi đó và thông báo đó phải phản ánh chính xác các điều khoản của thư tín dụng hoặc sửa đổi mà ngân hàng thông báo đó đã nhận được. Nghĩa vụ của ngân hàng thông báo thứ hai cũng giống như ngân hàng thông báo thứ 1”.Trong trường hợp bình thường, nếu một ngân hàng thông báo trực tiếp cho người hưởng về thư tín dụng, ngân hàng đó chỉ việc làm một tờ thông báo về thư tín dụng (notification of letter of credit) và kèm theo đó là bức điện MT700 (chính là toàn bộ thư tín dụng) mà nó nhận được từ ngân hàng phát hành và gửi cho người hưởng lợi. Như vậy, ngân hàng hoàn toàn có thể thực hiện được các yêu cầu của Điều 9. Tuy nhiên, trong trường hợp ngân hàng không thông báo trực tiếp thư tín dụng cho người hưởng mà thông báo qua ngân hàng thông báo thứ hai thì rất khó có thể thực hiện được quy trình “ phản ánh chính xác các điều khoản”. Trong thực tế ngân hàng phát hành sẽ gửi điện MT700 đến cho ngân hàng thông báo thứ nhất và yêu cầu thông báo qua một ngân hàng thông báo thứ hai. Ngân hàng thông báo thứ nhất sẽ phải lập một điện MT710 (có đầy đủ các trường như của MT700). Tuy nhiên có những điều khoản trong MT700 lại bao gồm những thông tin mà ngân hàng phát hành chỉ gửi cho ngân hàng thông báo thứ nhất, không phải ngân hàng thông báo thứ hai. Trong trường hợp đó, ngân hàng thông báo thứ nhất sẽ cắt bỏ điều khoản đó, không đưa vào nội dung của MT700 gửi cho ngân hàng thông báo thứ hai. Tuy nhiên, nếu làm như vậy sẽ không thực hiện đúng như yêu cầu của Điều 9. Trong trường hợp đó ngân hàng thông báo thứ nhất sẽ phải làm gì? Đây chính là một vấn đề mà UCP 600 vẫn chưa giải quyết được để hỗ trợ cho hoạt động của các ngân hàng.
♣ Chứng từ vận tải đa phương thức: Điều 19 UCP600
Theo tên gọi của loại chứng từ nay: “chứng từ vận tải đa phương thức đối với hành trình ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau”. Song trên thực tế hiện nay thì chứng từ vận tải đa phương thức vẫn được áp dụng đối với hành trình chỉ sử dụng phương thức vận chuyển đường bộ. Vậy trong trường hợp đó, nó có thuộc đối tượng điều chỉnh của UCP600 không? Đây thực sự là một bất cập mà UCP600 vẫn chưa giải quyết được cho phù hợp với ngành vận tải và bảo hiểm hiện nay.
♣ Vận đơn của người giao nhận
Ta có thể thấy rằng trong UCP600 không có một điều khoản riêng nào về forwarder B/L. vậy trong trường hợp người xuất khẩu tiến hành gửi hàng cho người giao nhận thì vận đơn của người giao nhận có được ngân hàng chấp nhận không?
2. Bất cập đến từ phía các doanh nghiệp
Khi áp dụng bản UCP600 và bộ tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế mới ISBP 681 vào hoạt động thanh toán của mình, bên cạnh những khó khan đến từ phía bộ tập quán, các ngân hàng còn phải đối mặt với những khó khăn mà chính các khách hàng của họ gây ra: các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Đại đa số các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam uỷ thác hoàn toàn cho ngân hàng thực hiện khâu thanh toán. Điều này thực sự gây ra nhiều khó khăn cho các ngân hàng. Bởi vì muốn thành công thì phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Nếu không uỷ thác hoàn toàn cho ngân hàng thì do sự hiểu biết về tập quán quốc tế,sự hiểu biết về UCP còn hạn chế nên các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia thương mại quốc tế gặp phải không ít thiệt thòi. Thực tế là có đến 80% bộ chứng từ xuất trình thanh toán lần đầu bị từ chối thanh toán do có sai sót (số liệu nghiên cứu của VIBank, uỷ ban quốc tế ngân hàng phối hợp cùng ICC).
Hiện nay UCP600 đã được đa số các ngân hàng áp dụng trong quy trình thanh toán quốc tế. Thế nhưng khi được hỏi về UCP600, đại đa số các doanh nghiệp tỏ ra khó hiểu và thực sự chưa trang bị cho mình tầm hiểu biết nhất định về bộ tập quán quốc tế mới này. Và các doanh nghiệp cũng bày tỏ sự ngần ngại khi các ngân hàng áp dụng UCP600 với lý do là đã quen với UCP500. Điều này gây ra không ít khó khăn cho ngân hàng khi áp dụng bộ tập quán mới của ICC. “khi đã tham gia vào cuộc chơi tức là đã chọn phương thức thức thanh toán bằng chứng từ thì phải hiểu rõ những thông lệ đã được quốc tế ban hành. Từ đó mới có thể vận dụng đúng đắn và linh hoạt (Theo bà Nguyễn Thị Phương Diễm- Giám đốc tài trợ thương mại VIBank). Và trong bối cảnh hiện nay khi UCP600 đã có hiệu lực được gần một năm, khi mà hầu hết các ngân hàng thương mại đã áp dụng nó thì việc các doanh nghiệp hiểu về UCP là vô cùng cần thiết để có thể thành công trong thương mại quốc tế.
3. Bất cập đến từ phía ngân hàng:
- Hiệu quả về đào tạo UCP chưa cao: Mặc dù các ngân hàng đã có sự chuẩn bị khá kỹ lưỡng trước khi chính thức áp dụng bộ tập quán mới: đào tạo nhân lực, tổ chức các buổi hội thảo giới thiệu và giúp các thanh toán viên làm quen với UCP600 và ISBP681 (MB, VIBank…) thế nhưng hiệu quả đào tạo thực sự vẫn chưa cao. Nguyên nhân là do việc đào tạo về UCP mới chỉ tập trung ở trụ sở chính mà chưa triển khai đến toàn bộ các chi nhánh cấp I và cấp II, chất lượng đào tạo cũng chưa sâu do còn bị hạn chế về mặt thời gian, địa điểm, nguồn lực.
- Quy trình nghiệp vụ còn nhiều bất cập:
Như đã nói ở trên, khi áp dụng UCP600 và ISBP681 các ngân hàng đã thay đổi quy trình nghiệp vụ của mình cho phù hợp với bản quy tắc mới này. Tuy nhiên đối với một số loại L/C đặc biệt như là: L/C xác nhận, L/C giáp lưng, L/C chuyển nhượng…thì rất ít ngân hàng đã có một quy trình nghiệp vụ cụ thể tuân theo đúng tinh thần của UCP600 và ISBP681
- Đối với những bất cập đến từ phía UCP600, các ngân hàng cũng chưa có những điều chỉnh và quy định cụ thể. Ví dụ UCP600 không có một điều khoản nào quy định có chấp nhận vận đơn của người giao nhận hay không? Các ngân hàng cũng chỉ dừng lại ở việc tuân thủ UCP600 mà cũng chưa có quy định cụ thể hơn? Vậy nếu người xuất khẩu xuất trình vận đơn của người giao nhận (forwader B/L) thì có thanh toán không? Và khi ấy BCT xuất trình có được coi là hợp lệ không?
- Chưa có quy định cụ thể về việc kiểm tra chứng từ theo ISBP: Mặc dù trong quy trình nghiệp vụ kiểm tra bộ chứng từ, đa số các ngân hàng đều quy định “tuân theo ISBP 681” song lại chưa nêu rõ bước quy trình nghiệp vụ cụ thể cho quá trình kiểm tra. Điều này tạo ra không ít khó khăn cho các thanh toán viên trong quá trình kiểm tra bộ chứng từ thanh toán bởi vì bộ chứng từ thanh toán bao gồm rất nhiều các chứng từ như là vận đơn, hối phiếu, hóa đơn, giấy chứng nhận xuất xứ,… và nếu không có quy định rõ ràng về việc kiểm tra những chứng từ đó thì sẽ mất rất nhiều thời gian để xem xét tính phù hợp của các chứng từ với UCP600 và với ISBP681. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những điểm chưa tương thích giữa 2 văn bản pháp lý trên (điều 14c UCP600 và điều 21 ISBP681), do đó việc có một quy định cụ thể, rõ ràng về tiêu chuẩn kiểm tra càng cần thiết hơn bao giờ hết nhằm tránh những sai sót trong quá trình kiểm tra bộ chứng từ thanh toán
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG BẤT CẬP VÀ KHÓ KHĂN KHI ÁP DỤNG
I. Xu hướng áp dụng UCP600 và ISBP tại các ngân hàng thương mại:
Như đã nói ở trên, phương thức tín dụng chứng từ là phương thức phổ biến nhất, được sử dụng nhiều nhất trong thương mại quốc tế.
Trong số các phương thức thanh toán quốc tế thì phương thức tín dụng chứng từ chiếm tỷ trọng cao nhất.
Và cũng như đã nói ở trên, khi chấp nhận tham gia vào cuộc chơi, hay nói cách khác là khi đã sử dụng phương thức tín dụng chứng từ, các doanh nghiệp cần phải tuân thủ và hiểu những thông lệ đã được quốc tế ban hành. Và khi UCP600 có hiệu lực, thì không chỉ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam mà cả các ngân hàng Việt Nam cũng phải hiểu và vận dụng nó. UCP600 đã chính thức có hiệu được gần 1 năm. Ban đầu, có rất ít ngân hàng thương mại áp dụng bộ tập quán mới (tính đến tháng 9/2007 mới chỉ có 2 ngân hàng áp dụng đó là Ngân Hàng Quân Đội MB và Ngân Hàng TMCP Quốc Tế VIBank) nhưng cho đến nay hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đã áp dụng bộ tập quán quốc tế mới.
1. Tuân theo những quy định của UCP600 và ISBP681
- Khi áp dụng bộ tập quán quốc tế mới, hầu hết các ngân hàng đều đã tuân theo tinh thần mới: Thời gian kiểm tra bộ chứng từ là 5 ngày làm việc, khi bộ chứng từ có sai sót thì cần xin bỏ qua sai sót từ người yêu cầu mở thư tín dụng....
- Thay đổi quy trình nghiệp vụ để phù hợp với bộ tập quán mới: quy trình kiểm tra thay đổi để đáp ứng đúng theo yêu cầu về thời gian kiểm tra chứng từ là 5 ngày làm việc. Do UCP600 có một số thay đổi so với UCP500 nên các mẫu dịch vụ của ngân hàng cũng có những điều chỉnh để phù hợp với những thay đổi đó: Đơn đề nghị phát hành L/C, Giấy thông báo bộ chứng từ về….
2. Một số điều chỉnh:
Mặc dù tuân thủ những quy định trong UCP600 và ISBP681 song khi áp dụng vào quy trình nghiệp vụ thanh toán cụ thể các ngân hàng thương mại đã có một số thay đổi, điều chỉnh cần thiết trong khâu nghiệp vụ để việc áp dụng ấy càng rõ ràng, cụ thể hơn, quy trách nhiệm và quyền hạn trong từng phòng ban cụ thể. Ví dụ như cũng trong quy trình kiểm tra bộ chứng từ hàng nhập ấy, UCP600 quy định các ngân hàng có 5 ngày làm việc ngân hàng để kiểm tra bộ chứng từ. Tuy nhiên với khoảng thời gian 5 ngày ấy, Ngân Hàng Đầu Từ Và Phát Triển Việt Nam dành 3 ngày cho TTV, 2 ngày còn lại để KSV và lãnh đạo các cấp kiểm tra lại kết quả kiểm tra của TTV, Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Kỹ Thương Việt Nam Techcombank dành cho TTV 2 ngày…Rõ ràng là với một quy trình và lịch trình cụ thể như vậy, việc kiểm tra sẽ đảm bảo đúng thời gian yêu cầu, kết quả kiểm tra cũng được tra soát lại (sau khi TTV kiểm tra thì KSV sẽ kiểm tra lại) từ đó đảm bảo những sai sót sẽ được hạn chế ở mức tối thiểu.
Theo UCP600, mỗi ngân hàng chỉ có tối đa là 5 ngày làm việc ngân hàng để kiểm tra tính phù hợp của BCT thanh toán, từ đó quyết định xem việc chấp nhận hay từ chối thanh toán cho người xuất khẩu. Song UCP600 lại chưa quy định về ngày tiếp nhận BCT là ngày nào? Vậy thời điểm bắt đầu cho thời hạn 5 ngày của ngân hàng là ngày nào? Một số ngân hàng thương mại đã quy định cụ thể về vấn đề này (NHNo&PTNT, Techcombank)
II. Một số giải pháp nhằm khắc phục những bất cập và khó khăn khi áp dụng:
Như đã đề cập ở trên, UCP600 ra đời hết sức tiến bộ và đã loại trừ được rất nhiều điều khoản mơ hồ, gây tranh cãi khi ứng dụng. Tuy nhiên bên cạnh đó, UCP600 cũng còn một số những khó khăn và bất cập khi ứng dụng. Đó là những bất cập đến từ phía bản thân bộ tập quán, từ phía khách hàng và đến từ phía chính các ngân hàng. Ở đây, khoá luận xin đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những bất cập và khó khăn trên.
1. Một số giải pháp mang tính chất vĩ mô:
1.1. Đối với Uỷ ban ngân hàng thuộc ICC:
UCP 600 đã chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2007 và cho đến nay nó đã được sử dụng khá rộng rãi. Mặc dù UCP600 ra đời hết sức tiến bộ, tuy nhiên nó cũng không tránh khỏi những mặt hạn chế nhất định. Do vậy Uỷ ban ngân hàng thuộc ICC nên thường xuyên trao đổi, lắng nghe ý kiến của những chuyên gia trong các lĩnh vực như: vận tải, bảo hiểm, ngân hàng để có những văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể, tránh những sai sót từ sự hiểu không đúng các hướng dẫn từ UCP. Tất nhiên, hiện nay khi UCP600 đã chính thức có hiệu lực thì sự thay đổi các điều khoản của nó là không thể song nếu có những văn bản hướng dẫn thực hành một cách cụ thể, chi tiết rõ ràng thì sẽ hạn chế được một phần rất lớn những sai sót có thể xảy ra. Bên cạnh đó, việc thường xuyên trao đổi, lắng nghe ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực vận tải, giao nhận, ngân hàng sẽ còn giúp cho ICC tiếp thu được những ý kiến để bản UCP sau này (khi mà UCP600 không còn phù hợp với thực tiễn hoạt động của ngành vận tải, bảo hiểm, ngân hàng nữa) sẽ hoàn thiện hơn, theo kịp với xu hướng phát triển chung.
1.2. Đối với các cơ quan chức năng, ngân hàng nhà nước Việt Nam
♣ Các cơ quan chức năng:
Hoạt động thương mại quốc tế có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào định hướng, tư vấn và hướng dẫn của các cấp có thẩm quyền. Ví dụ khi doanh nghiệp muốn xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ thì việc cung cấp những tài liệu về thị trường Hoa Kỳ, định hướng và lưu ý doanh nghiệp những vấn đề tiêu biểu của thị trường hàng đầu thế giới này tỏ ra thực sự cần thiết, góp phần không nhỏ vào sự thành công của doanh nghiệp trên thị trường đó. Không chỉ có vậy, sự hiểu biết về tập quán quốc tế, những quy định và thông lệ đang được bạn bè thế giới sử dụng cũng góp phần không nhỏ vào thành công ấy.
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà UCP600 và ISBP 681 đã có hiệu lực được gần 1 năm thì sự hiểu biết của các doanh nghiệp Việt Nam về hai bản quy tắc mới này còn rất nhiều hạn chế. Điều này sẽ gây ra khá nhiều thiệt thòi cho doanh nghiệp chúng ta khi làm ăn buôn bán với các đối tác nhiều kinh nghiệm, có tiềm lực kinh tế mạnh. Do vậy, việc định hướng, giúp doanh nghiệp tìm hiểu, hiểu đúng và vận dụng đúng tỏ ra vô cùng cần thiết. Bởi vì chỉ khi thực sự hiểu thì mới có thể áp dụng đúng, và chỉ có áp dụng đúng mới có thể tránh đuơc những sai sót, rủi ro trong thương mại quốc tế. Đặc biệt liên quan đến hai bản pháp lý này đó là những sai sót của bộ chứng từ thanh toán dẫn đến việc bị ngân hàng nước ngoài từ chối thanh toán theo tín dụng thư. Do vậy, các cơ quan chức năng đặc biệt là Cục Xúc Tiến Thương Mại, Trung Tâm Hỗ Trợ Doanh Nghiệp, phòng thương mại và công nghiệp nên tổ chức các khoá đào tạo, hướng dẫn về tín dụng chứng từ và UCP600 cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng cần thường xuyên tổ chức những buổi hội thảo giới thiệu về bộ tập quán mới, giúp doanh nghiệp hiểu và lưu ý doanh nghiệp về sự khác biệt so với bộ tập quán cũ. Chỉ có như vậy thì các doanh nghiệp của chúng ta mới có thể tự tin khi áp dụng, từ đó sẽ giảm thiểu được những rủi ro bộ chứng từ bị từ chối thanh toán. Và từ đó mới có thể nâng cao được hiệu quả của hoạt động ngoại thương (vì theo ước tính của VIB mỗi lần bộ chứng từ bị từ chối thanh toán, các doanh nghiệp của chúng ta sẽ phải chịu chi phí sửa chữa bộ chứng từ là 50-2500USD)
♣ Ngân hàng nhà nước Việt Nam:
Một trong những chức năng nhiệm vụ của ngân hàng nhà nước đó là chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm soát hoạt động của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên trong quy trình nghiệp vụ thanh toán quốc tế thì ngân hàng nhà nước chưa có một đơn vị chuyên về thanh toán quốc tế để hướng dẫn nghiệp vụ thanh toán quốc tế của doanh nghiệp. Do vậy, ngân hàng nhà nước Việt Nam nên thành lập một ban chuyên về thanh toán quốc tế để chỉ đạo hướng dẫn hoạt động này của các ngân hàng thương mại đồng thời có thể tư vấn cho các ngân hàng thương mại khi có các tranh chấp liên quan đến vấn đề thanh toán quốc tế.
2.Một số giải pháp mang tính chất vi mô:
2.1.Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu:
Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thương mại quốc tế ngày càng nhiều. Đặc biệt là từ sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Quốc Tế (7/11/2006). Khi tham gia thương mại quốc tế, các doanh nghiệp của chúng ta tất nhiên phải chấp nhận các luật chơi quốc tế. Và một điều đương nhiên là khi lựa chọn phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, các doanh nghiệp cũng cần phải hiểu biết về phương thức tín dụng chứng từ cũng như các tập quán đang được sử dụng đối với phương thức đó.Tuy nhiên, về vấn đề này các doanh nghiệp của chúng ta thực sự còn nhiều hạn chế. Trong các doanh nghiệp của chúng ta, số cán bộ sử dụng thành thạo ngoại ngữ và am hiểu quy tắc tín dụng chứng từ chưa nhiều. Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay khi mà hầu hết các đối tác khi tham gia hoạt động ngoại thương đều sử dụng UCP600 trong phương thức tín dụng chứng từ. Trong khi đó, UCP600 còn là một cái gì đó khá lạ lẫm đối với doanh nghiệp của chúng ta. Điều này sẽ dẫn đến thiệt thòi cho các doanh nghiệp khi tham gia vào thương mại quốc tế. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải chủ động cử cán bộ đi tham gia các khoá đào tạo, hướng dẫn về tín dụng chứng từ và UCP600 do phòng thương mại và công nghiệp cũng như các cơ sở của Việt Nam tổ chức. Bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải tự cập nhật kiến thức cơ bản, các quy tắc, luật pháp có liên quan tới lĩnh vực này để có thể tự bảo vệ mình và thành công khi tham gia vào thương mại quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh lừa đảo, gian lận thương mại quốc tế có xu hướng gia tăng. Một điều cần lưu ý các doanh nghiệp là khi tham gia ký kết hợp đồng và lựa chọn phương thức thanh toán, nên hỏi ý kiến tư vấn của ngân hàng. Đặc biệt là khi sử dụng phương thức tín dụng chứng từ tuân theo UCP600.
2.2.Đối với các ngân hàng thương mại:
Như đã nói ở trên, thanh toán bằng tín dụng thư chiếm tỷ trọng lớn nhất trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại (khoảng 60%). Việc có một quy trình thanh toán rõ ràng cụ thể sẽ giúp cho các thanh toán viên tránh được nhiều sai sót liên quan đến việc kiểm tra bộ chứng từ thanh toán. Nhất là trong thời điểm hiện nay khi mà UCP600 đã có hiệu lực và bản thân UCP cũng tồn tại một vài những bất cập. Vậy để có thể tham gia vào hệ thống ngân hàngt quốc tế, để có thể ứng dụng thành công UCP600 cũng như ISBP681 và có thể tư vấn cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu khi cần thiết, các ngân hàng cần làm những gì?
♣ Những giải pháp chung:
Thứ nhất: Cần phải nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ thanh toán viên. Mặc dù trước khi chính thức áp dụng UCP600 và ISBP681 rất nhiều ngân hàng thương mại đã mở lớp đào tạo cán bộ về bộ tập quán mới. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo vẫn thực sự chưa cao và việc đào tạo vẫn chủ yếu diễn ra ở hội sở chính, chưa được triển khai đồng bộ đến các chi nhánh cấp I và cấp II. Các ngân hàng nên tập trung đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho thanh toán viên đồng bộ hơn, triển khai từ hội sở chính đến các chi nhánh.
Ngân hàng nên cử cán bộ đi tham dự các buổi hội thảo do các chuyên gia nước ngoài tổ chức tại Việt Nam. Thông qua các buổi hội thảo đó sẽ giúp các thanh toán viên hiểu biết hơn nữa về bộ tập quán mới, đồng thời ứng dụng quy trình nghiệp vụ thanh toán tiên tiến của các ngân hàng nước ngoài vào quy trình nghiệp vụ thanh toán hàng ngày của mình.
Thứ hai: Trong quy trình nghiệp vụ thanh toán thư tín dụng, ngân hàng nên quy định cụ thể và rõ ràng hơn nữa. Bởi vì quy định càng cụ thể rõ ràng bao nhiêu càng giúp cho cán bộ tránh sai sót bấy nhiêu (ví dụ như về vấn đề kiểm tra L/C theo ISBP681 nên quy định rõ ràng và cụ thể hơn).
Thứ ba: Các ngân hàng thương mại nên thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo hướng dẫn về UCP600, những thay đổi của UCP600 so với UCP500 cho khách hàng của mình. Bởi vì chính những nhà xuất nhập khẩu mới là những đối tượng chính sử dụng phương thức tín dụng chứng từ trong thương mại quốc tế. Họ cần phải nắm vững các quy định điều chỉnh phương thức này để có thể vận dụng nó một cách nhanh chóng, chính xác. Việc các doanh nghiệp có thể vận dụng thành thạo và chính xác UCP600 không chỉ giúp đẩy nhanh việc giao dịch thanh toán của họ mà còn giảm một phần gánh nặng cho các ngân hàng trong việc xử lý các giao dịch chứng từ cũng như hạn chế được rủi ro cho bản thân ngân hàng và khách hàng. Chính vì những lý do đó, công tác tuyên truyền, giới thiệu và hướng dẫn sử dụng UCP600 cho các khách hàng cần nhận được sự quan tâm thoả đáng của các ngân hàng thương mại
♣ Những giải pháp cụ thể:
- Khi là ngân hàng phát hành:
+ Khi nhận được đơn đề nghị phát hành L/C: Cần tìm hiểu kỹ về khách hàng (tiềm lực tài chính, uy tín của khách hàng, hợp đồng ngoại thương) để từ đó đề ra mức ký quỹ thích hợp. Đặc biệt lưu ý trong trường hợp khách hàng là bạn hàng mới, tiềm lực kinh tế kém, uy tín trên thị trường không cao, để tránh rủi ro cho ngân hàng nên yêu cầu ký quỹ 100%.
+ Khi phát hành thư tín dụng: Cần tư vấn cho khách hàng phát hành một thư tín dụng sao cho có lợi nhất cho khách hàng. Đặc biệt cần lưu ý về những vấn đề mà UCP600 vẫn chưa đề cập, ví dụ như vận đơn của người giao nhận có được chấp nhận không? Điều này cần quy định cụ thể và rõ ràng trong thư tín dụng.
+ Cần phải quy định cụ thể về việc thế nào là phát hành tín dụng và thời điểm nào được coi là tín dụng đã được phát đi. Vì điều này ràng buộc cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành khi BCT được xuất trình phù hợp.
+ Khi kiểm tra BCT: Tiến hành kiểm tra cẩn thận theo đúng tinh thần của UCP600 và ISBP681 đồng thời đảm bảo đúng thời hạn quy định (5 ngày làm việc). Đối với những BCT có giá trị lớn, phức tạp nên giao cho những thanh toán viên có nhiều kinh nghiệm kiểm tra, hoặc sau khi TTV đã kiểm tra nên giao lại cho KSV kiểm tra lại.
- Khi là ngân hàng thông báo: Trong nhiều trường hợp, ngân hàng phát hành L/C bị đánh giá là có khả năng thanh toán quá thấp hoặc có vị trí địa lý ở vùng cấm vận, chính trị không ổn định. Khi người hưởng lợi xuất trình bộ chứng từ đòi tiền ngân hàng phát hành thì có thể không đòi được tiền hoặc phải mất nhiều công sức mới đòi được tiền từ ngân hàng phát hành. Điều này kéo theo thời gian giao dịch và có thể không hiệu quả.
+ Khi nhận được đơn yêu cầu thông báo thư tín dụng của ngân hàng nước ngoài gửi đến: Tìm hiểu khả năng thanh toán của ngân hàng phát hành trước khi tiến hành thông báo thư tín dụng cho người hưởng lợi. Nếu từ chối thông báo thư tín dụng thì phải gửi thông báo từ chối đến ngân hàng phát hành.
+ Khi tiến hành thông báo thư tín dụng: Tiến hành kiểm tra kỹ các điều khoản của thư tín dụng để kịp thời lưu ý khách hàng về những bất lợi, khách hàng có thể yêu cầu người nhập khẩu sửa lại, tu chỉnh L/C cho phù hợp.
- Khi là ngân hàng xác nhận: Khả năng ngân hàng phát hành không thể thanh toán bộ chứng từ là rất cao (Do vậy người hưởng lợi mới yêu cầu xác nhận thư tín dụng) Do vậy cần lưu ý:
+ Tìm hiểu ngân hàng phát hành trước khi tiến hành xác nhận thư tín dụng
+ Trong trường hợp có nhiều rủi ro thì nên từ chối xác nhận thư tín dụng
- Khi là ngân hàng thương lượng thanh toán: Quá trình kiểm tra bộ chứng từ chiết khấu phải thật chính xác để từ đó đề ra hạn mức và thời hạn chiết khấu thích hợp.
2.3. Đối với các cơ sở đào tạo nghiệp vụ ngân hàng nói chung và thanh toán quốc tế nói riêng
Những học viên của những cơ sở này sẽ là những cán bộ nòng cốt tại các ngân hàng thương mại sau này. Do vậy, các cơ sở đào tạo (Như các trường đại học đào tạo nghiệp vụ ngân hàng) cần phải kết hợp việc giảng dạy lý thuyết với thực hành. Cụ thể hơn, khi giảng dạy về quy trình thanh toán tại ngân hàng nên lấy một quy trình cụ thể tại một ngân hàng cụ thể. Từ đó sẽ giúp học viên khỏi bỡ ngỡ khi áp dụng vào thực tế. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mà UCP600 và ISBP681 có hiệu lực và đã được các ngân hàng thương mại Việt Nam ứng dụng tương đối rộng rãi, thì các cơ sở đào tạo trong và ngoài trường đại học nên chú trọng việc giảng dạy bộ tập quán mới, kết hợp với việc phân tích những điểm khác biệt giữa UCP600 với UCP500, giữa ISBP681 so với ISBP645. Đồng thời lưu ý sinh viên và cán bộ nghiệp vụ những sai sót có thể xảy ra trong thực tiễn và từ những bất cập và cách hiểu sai khác về bộ tập quán.
Như vậy, để có thể thành công khi ứng dụng UCP600 và ISBP 681 khi thực hiện thanh toán theo tín dụng thư đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa ngân hàng và các doanh nghiệp đó. Để thực hiện được điều đó, ngân hàng cũng như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cần sự hỗ trợ tích cực từ phía các cơ quan chức năng cũng như từ phía ngân hàng nhà nước Việt Nam. Bản thân ngân hàng cũng cần phải tự cải tiến, thay đổi quy trình nghiệp vụ cho phù hợp với bộ tập quán mới, doanh nghiệp cũng cần phải cập nhật kiến thức cho mình. Và điều quan trọng hơn cả là doanh nghiệp nên tham khảo ý kiến của ngân hàng mình khi sử dụng phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán xuất nhập khẩu.
KẾT LUẬN
Hoạt động thương mại quốc tế bằng thư tín dụng đang ngày càng phát triển đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về bản thân thư tín dụng cũng như các quy tắc, tập quán quốc tế đang được áp dụng. Trong bối cảnh thương mại quốc tế phát triển nhờ vào sự hỗ trợ cua khoa học công nghệ và công nghệ thông tin, Bản Quy Tắc và thực hành về tín dụng chứng từ hiện hành UCP 500 và Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế đê kiểm tra chứng từ theo thư tín dụng ISBP 681 trở nên không còn phù hợp. Trước thực tế đó, ICC đã ban hành bộ tập quán mới: UCP600 thay thế cho UCP500; ISBP 681 thay thế cho ISBP 645 để giúp cho hoạt động thanh toán bằng tín dụng chứng từ kịp thời phù hợp với hoạt động thanh toán quốc tế. Do vậy, việc tìm hiểu những điểm khác biệt giữa UCP500-UCP600; ISBP645-ISBP681 là vô cùng cần thiết. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà rất nhiều ngân hàng thương mại đã tuyên bố chính thức áp dụng UCP 600, ISBP 681 vào hoạt động thanh toán quốc tế. Điều đó không chỉ cần thiết đối với ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực thanh toán quốc tế mà còn vô cùng cần thiết đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu để có thể thành công trong thương mại quốc tế.
Thông qua nghiên cứu ứng dụng của bộ tập quán mới này vào hoạt động thanh toán quốc tế tại một số ngân hàng thương mại hiện nay như thế nào, khoá luận đã chỉ ra được một số những hạn chế và bất cập của ngân hàng thương mại khi ứng dụng UCP600 và ISBP 681. Từ đó khoá luận mạnh dạn đề xuất một số giải pháp mang tính chất vĩ mô và vi mô nhằm cải thiện hoạt động thanh toán tại một số ngân hàng thương mại hiện nay, cũng như cải thiện tình hình bị từ chối thanh toán theo phương thức tín dụng thư trong hoạt thương mại quốc tế của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Hy vọng rằng trong khuôn khổ nhất định của luận văn, dù thời gian nghiên cứu và sự hiểu biết còn hạn chế, những đề xuất của mình sẽ góp phần hỗ trợ các cán bộ ngân hàng, các cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế có thể áp dụng một cách có hiệu quả UCP600 và ISBP681 trong công việc, qua đó thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài Liệu Tiếng Việt:
Đinh Xuân Trình (2006), giáo trình thanh toán quốc tế, Nhà xuất bản lao động- xã hội , Hà Nội
Đinh Xuân Trình (2007) Bộ tập quán quốc tế về L/C (bản dịch) Nhà xuất bản thống kê.
Quy Trình TTQT- NHTMCP Kỹ Thương Việt Nam
Quy Trình TTQT – NH Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam
Quy Trình TTQT- NHNo & PTNT
Quy Trình TTQT- HSBC Việt Nam
Nguyễn Thị Quy (2006)- Cẩm nang giải quyết tranh chấp trong thanh toán quốc tế bằng L/C ( theo UCP500- ICC 1993; ISBP 645 và e. UCP1.0) Nhà xuất bản lý luận chính trị Hà Nội
Nguyễn Trọng Thuỳ, Hướng dẫn áp dụng điều lệ và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (bản sửa đổi 1993, số xuất bản 500 phòng thương mại quốc tế) Nhà xuất bản thống kê.
Nguyễn Văn Tiến (2007), Giáo trình thanh toán quốc tế- Cập nhật UCP600, Nhà xuất bản thống kê.
Website Ngân Hàng Phương Đông (www.ocb.com.vn)
Website Ngân Hàng TMCP Hàng Hải (www.maritimebank.com.vn)
Website Ngân Hàng Quốc Tế (www.vib.com.vn)
Website Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam
Website Hiệp Hội Ngân Hàng Việt Nam
Website NHNo&PTNT Chi Nhánh Láng Hạ
Tài liệu tiếng Anh:
Beverly wess manne (2007), the new UCP: Changes from UCP 500, (07/08/2007)
Citibank (2007), material for UCP 600 workshop
Commission on banking technique and practice ( 1994), position paper No.1,2,3,4 on UCP 500, Http:///iccwbo.org/id357/index.html (30/8/2007)
Documentary credit world (2005- 2007), Letter of credit survey
International Chamber of Commerce (1997-2003) international standard banking practice for the examination of documents under documentary credits. 2007 Revision for UCP 600, ICC publication No.681
Jia Hao (2007) Comparing UCP500- UCP600, LC views Newsletter No.90, January 2007.
Roberto Bergami (2007), will the UCP600 provide solutions to Letter of Credit Transactions, International Review of business research papers, Vol 3 No2.
International Chamber of Commerce (2007), international standard banking practice for the examination of documents under documentary credits, 2007 revision for UCP 600, ICC publication No.681.
BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT
TTV : Thanh Toán Viên
KSV : Kiểm Soát Viên
NH : Ngân Hàng
NHTM : Ngân Hàng Thương Mại
NHPPH : Ngân Hàng Phát Hành
NHXN : Ngân Hàng Xác Nhận
BCT : Bộ Chứng Từ
NHNo&PTNT : Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
BIDV : Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam
OCB : Ngân Hàng Phương Đông.
MB : Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội
MSB : Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Hàng Hải
Vietcombank : Ngân Hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam
HanoiVCB : Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội
VPbank : Ngân Hàng Ngoài Quốc Doanh.
VIB : Ngân Hàng Quốc Tế
GPbank : Ngân Hàng Dầu Khí Toàn Cầu
Techcombank : Ngân Hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam.
MỤC LỤC
PHỤ LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10308.doc