Khóa luận Vấn đề tiêu chuẩn chất lượng, môi trường và xã hội đối với hàng hóa xuất khẩu sang EU

Số lượng hàng rào kỹ thuật trong thương mại đang tăng lên được coi là mối đe dọa chủ yếu đối với nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển. Nhiều doanh nghiệp đang bị mất cơ hội kinh doanh do những đòi hỏi ngày càng tăng về lượng, môi trường và trách nhiệm xã hội từ phía đối tác nước ngoài. Vụ việc các lô hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam trong hai năm 2001, 2002 liên tiếp bị phát hiện vi phạm quy định của EU về dư lượng kháng sinh, dẫn đến bị tiêu huỷ và phải chịu chế độ kiểm tra 100% khiến ngành thuỷ sản gặp không ít khó khăn, đồng thời ảnh hưởng đến uy tín tại các khu vực thị trường khác có thể coi là một bài học đắt giá. Do đó, đáp ứng các tiêu chuẩn là điều kiện sống còn cho các doanh nghiệp Việt Nam để trụ vững và thành công trên thị trường châu Âu. Với quy mô giới hạn, khoá luận đã giải quyết được một số vấn đề sau: Trình bày tóm gọn những quy định chung nhất (bắt buộc hoặc không bắt buộc) về chất lượng, môi trường và xã hội mà EU hiện đang áp dụng cho hàng hoá lưu thông trên thị trường, và do đó cho cả hàng hoá nhập khẩu Đánh giá khái quát năng lực của Việt Nam đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn đó như: mức độ hài hoà tiêu chuẩn của Việt Nam với EU nói riêng và quốc tế nói chung, tình hình áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và môi trường ISO 14000, thực tế áp dụng các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng trong sản xuất hàng công nghiệp chế tạo, nông thuỷ sản và thực phẩm. Đồng thời khoá luận cũng đi sâu vào phân tích khả năng đáp ứng các quy định đó của 4 ngành hàng xuất khẩu chính: da giày, dệt may, nông sản, và thuỷ sản Đề xuất một số giải pháp khắc phục tình trạng yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn của EU, như: thu phí môi trường, đặt cọc phí tái chế đối với một số loại sản phẩm; áp dụng phương pháp quản lý chất lượng tổng thể TQM; nuôi gia công nông, thuỷ sản cho các đối tác EU.

doc116 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1866 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Vấn đề tiêu chuẩn chất lượng, môi trường và xã hội đối với hàng hóa xuất khẩu sang EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó nhu cầu rất lớn về gốm sứ, dụng cụ thể thao, nhiên liệu khoáng, cà phê, sản phẩm da thuộc, giày dép và đồ gỗ gia dụng Việt Nam. Thị trường Hà Lan: là thị trường xuất khẩu lớn thứ tư của Việt Nam trong khối với những sản phẩm như: hàng điện máy; thực phẩm chế biến; rau, quả và hạt đã qua chế biến; sợi dệt; nhựa và các sản phẩm nhựa; các sản phẩm gỗ nội thất... Đặc biệt mấy năm gần đây, Hà Lan có nhu cầu rất lớn về các sản phẩm sữa, trứng chim và mật ong; thực phẩm chế biến; đồ gỗ gia dụng, các sản phẩm gốm của Việt Nam. Các thị trường còn lại cũng cần phải phân tích cơ cấu để có những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hợp lý. Thêm vào đó, với kế hoạch mở rộng sang phía Đông của Liên minh châu Âu (ngày 1/5/2004, EU sẽ chính thức kết nạp thêm 10 nước Trung và Đông Âu - gọi tắt là CEEC, trở thành EU25), định hướng phát triển đối với các thị trường mới này ngay từ bây giờ là rất cần thiết. Thuế suất của các mặt hàng cà phê, chè, gia vị ở dạng thô của EU15 rất thấp (0%), nhưng thuế suất với CEEC là 10%. Như vậy, CEEC trở thành thành viên EU sẽ là thuận lợi lớn với các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm này của Việt Nam. Linh kiện điện tử và máy tính có rất nhiều triển vọng bởi các nước CEEC có tiềm năng tiêu thụ lớn để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế khi gia nhập vào EU. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU Những nhân tố tác động tới khả năng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào EU Xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế: Tác động tích cực của xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế là tạo ra cơ hội lớn cho tất cả các nước, nhất là những nước đang phát triển đẩy mạnh công nghiệp hoá trên cơ sở ứng dụng thành quả của cách mạng khoa học công nghệ và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, tăng doanh thu ngoại tệ làm tiền đề phát triển kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh những tác động tích cực, xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nước này như: làm tăng sức ép cạnh tranh, dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng nhiều của các nước đang phát triển vào sự ổn định của nền kinh tế thế giới và dần dần rơi vào tầm ảnh hưởng của các nước phát triển, cả về kinh tế và chính trị... Chính vì vậy, xu thế này sẽ tạo thuận lợi cho ta mở rộng thị trường xuất khẩu sang EU nơi thuế suất thấp và đỡ bị các hàng rào phi quan thuế ngăn cản, đồng thời hàng xuất khẩu của ta sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường EU. Sự phát triển của Diễn đàn Hợp tác á -  u (ASEM): Diễn đàn Hợp tác á-Âu (ASEM) là cơ chế đối thoại và hợp tác cấp cao giữa Châu Âu và Châu á, với sự tham dự của 10 nước Châu á (là Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Philippines, Bruney, Malaysia, Indonesia, Singapore, Việt Nam) và 15 nước thành viên của EU. Diễn đàn Hợp tác á-Âu đã được tổ chức 4 lần vào những năm 1996, 1998, 2000, 2002. Trong Hội nghị ASEM II, III và IV, các nước EU đã đưa ra cam kết về thương mại và đầu tư nhằm hỗ trợ các nước Đông Nam á, trong đó có Việt Nam. Riêng về thương mại, các nước EU đã cam kết nâng mức hạn ngạch cho hàng xuất khẩu của các nước ASEAN vào EU và giảm các loại hàng chịu giới hạn quota. Do vậy có thể nói rằng sự phát triển của ASEM góp phần không nhỏ làm tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU. Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU: Sau 5 năm thực hiện Hiệp định Hợp tác Việt Nam-EU (1997-2000) đạt được kết quả sau: EU đã trở thành một trong những đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam, là bạn hàng thương mại lớn thứ hai, chiếm khoảng 14% kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Cơ sở để phát triển quan hệ hợp tác giữa hai bên là: Thứ nhất, chính sách đổi mới cho đến nay đã cho phép Việt Nam thu được nhiều thành quả trong các lĩnh vực kinh tế và ngoại giao. Tỷ lệ tăng trưởng và trao đổi thương mại đã tăng lên, lạm phát đã giảm, đất nước đang hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế, xã hội phát triển và đời sống nhân dân được nâng lên. Thứ hai, với nhu cầu đòi hỏi từ quá trình phát triển kinh tế cao, EU rất cần những thị trường đang phát triển và giàu tiềm năng như Việt Nam. Ngược lại, EU lại có tiềm lực rất mạnh về vốn và công nghệ- cái mà Việt Nam đang rất cần để phát triển kinh tế. Thứ ba, cơ cấu kinh tế của Việt Nam và các nước thành viên EU hoàn toàn bổ sung cho nhau. Do vậy, những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam lại là những mặt hàng mà EU có nhu cầu nhập khẩu lớn và ngược lại. Thứ tư, Việt Nam tự mình đang dần dần hoàn thiện cơ chế và chính sách quản lý kinh tế, mở cửa thị trường nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước để hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Đây chính là cơ sở bền vững cho quá trình đẩy mạnh hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và EU. Trung Quốc gia nhập WTO và sức ép cạnh tranh: Kể từ 9/5/2000, EU ký Hiệp định Thương mại song phương với Trung Quốc, hàng Trung Quốc vào thị trường này được hưởng nhiều ưu đãi hơn là do EU giảm thuế từ 8%-10% cho khoảng 100 mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc. Đồng thời, Trung Quốc đã chính thức gia nhập WTO vào tháng 12/2001 khiến cho sức ép cạnh tranh từ hàng hoá Trung Quốc lại càng thêm khốc liệt. Tại thời điểm này, hàng Trung Quốc không những được hưởng ưu đãi hơn hàng của ta về thuế mà khả năng cạnh tranh mạnh hơn (hàng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng tốt, giá lại rẻ, nguồn cung cấp lớn và rất ổn định, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường EU. Chiến lược mở rộng EU: Kể từ ngày1/5/2004, 10 nước Hungary, Ba Lan, Czech, Slovakia, Slovenia, Cyprus, Estonia, Latvia, Litva và quốc đảo Manta (gọi tắt là CEEC) sẽ chính thức trở thành thành viên của Liên minh Châu Âu. Việc mở rộng này trước hết sẽ đem lại những thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Nếu tính gộp cả 10 nước thành viên mới thì EU sẽ trở thành thị trường thống nhất lớn nhất thế giới với sức mua của gần 500 triệu dân, GDP sẽ đạt hơn 10.000 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ cũng sẽ lên tới 1.800 tỷ USD/năm, chiếm 21,9% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ trên toàn thế giới [31]. Tại thị trường này, tầng lớp giàu nghèo đa dạng hơn nên nhu cầu tiêu dùng sẽ phong phú hơn. Ngoài việc hầu hết các nước CEEC đều là bạn hàng truyền thống của Việt Nam thời bao cấp, có thể sử dụng như một khu vực kết nối để tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu sang EU, thì mức thuế nhập khẩu của các nước CEEC sau khi gia nhập EU sẽ thấp hơn mức thuế hiện tại cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu của ta. Song, bên cạnh những thuận lợi còn có nhiều thách thức. Khi là thành viên chính thức của EU, các nước CEEC buộc phải thực hiện theo cơ chế chính sách thương mại của EU nên những hình thức buôn bán tiểu ngạch sẽ không thể tồn tại. Đồng thời, toàn bộ các cam kết song phương giữa Việt Nam với những nước này sẽ bị huỷ bỏ có thể gây nhiều lúng túng cho những DN Việt Nam bấy lâu nay chỉ quen quan hệ với khu vực này mà chưa có kinh nghiệm và hiểu biết luật lệ của EU. Hàng hoá của Việt Nam vào Trung, Đông Âu trước không bị đòi hỏi quá cao về chất lượng, không gặp các hàng rào phi thuế quan nghiêm ngặt như tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, các tiêu chuẩn môi trường, lao động... tới đây sẽ phải tuân thủ các tiêu chuẩn thống nhất của EU. Một số loại hàng vào thị trường 10 nước CEEC trước đây không bị ấn định hạn ngạch thì nay sẽ bị quản lý theo hạn ngạch như dệt may, hoặc áp dụng hạn ngạch thuế quan cao như gạo, đường... Chương trình mở rộng hàng hoá của EU: EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá với nội dung là đẩy mạnh tự do hoá thương mại thông qua việc giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu, xoá bỏ chế độ hạn ngạch vào cuối năm 2004 và tiến tới bãi bỏ GSP. Đến cuối năm 2004, EU sẽ chấm dứt giai đoạn 2 thực hiện GSP và tới nay EU vẫn chưa có chương trình cụ thể thực hiện GSP cho giai đoạn sau, nhưng GSP của EU dành cho các nước đang phát triển có xu hướng giảm dần. Do vậy, nếu các doanh nghiệp Việt Nam không có chính sách cụ thể để cải tiến, đa dạng hoá, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu và có chiến lược thâm nhập thị trường EU một cách thấu đáo ngay từ bây giờ thì hàng xuất khẩu Việt Nam khó có thể đứng vững và có cơ hội xâm nhập sâu hơn vào thị trường này. Nền kinh tế Việt Nam đổi mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới, trong đó chủ trương là thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu. Với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu, hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ được cải thiện về chất lượng và mẫu mã. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể cung cấp ra thị trường thế giới một khối lượng lớn hàng hoá và tương đối ổn định. Quá trình này sẽ giúp cho hàng Việt Nam khắc phục được những nhược điểm về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng và đáp ứng được nhu cầu thị hiếu khắt khe của thị trường EU, do đó làm tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn tới. Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế: Hiện nay, Việt Nam đã tham gia vào các Diễn đàn Quốc tế như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác á-Âu (ASEM), và đang đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ làm tăng sự cạnh tranh, cọ sát giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp ASEAN, APEC, ASEM, từ đó tạo cơ hội để các doanh nghiệp nước ta vươn lên và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế. Đồng thời, những lợi thế hiện có của Việt Nam do quá trình hội nhập quốc tế mang lại sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp của ta và các doanh nghiệp nước ngoài gia tăng mạnh đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng mạnh và khả năng xuất khẩu là khá lớn. Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ: Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại song phương với Mỹ vào ngày 14/7/2000. Hiệp định này mở ra một chương mới trong quan hệ thương mại song phương và từ nay hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ được hưởng chế độ ưu đãi tối huệ quốc. Theo Hiệp định, thuế suất đánh vào hàng hóa của Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ sẽ giảm rất đáng kể, từ mức 40% hiện nay xuống còn 3% và do đó nhiều doanh nghiệp Việt Nam sẽ chĩa mũi nhọn sang thị trường Mỹ. Việc tập trung lực đẩy mạnh xuất khẩu sang EU khi đó bị phân tán, lực bị chia sẻ nên có ảnh hưởng ít nhiều đến xuất khẩu sang EU. Đánh giá triển vọng phát triển xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2005 - 2010 Từ nay đến năm 2004 (năm cuối cùng của giai đoạn 2000 - 2004), hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU tiếp tục được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan (GSP) và chỉ riêng hàng dệt may bị quản lý bằng hạn ngạch. Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này hàng năm gần như phụ thuộc hoàn toàn vào hạn ngạch do phía EU ấn định. Tuy nhiên, theo Hiệp định bổ sung hàng dệt may với EU được chính thức ký kết tại Hà Nội vào tháng 9/2003, EU đã đồng ý tăng hạn ngạch dệt may cho Việt Nam từ 55% đối với các hạng mục nhạy cảm nhất (như quần âu, áo sơ mi) đến 70% [32]. Ngoài ra, trong những tới đây, Việt Nam có khả năng tiếp tục xin được hạn ngạch dệt may của Singapore và Indonesia trị giá 6%-10% hạn ngạch của Việt Nam. Hiện nay, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU như giày dép, dệt may và thủy hải sản đang có ưu thế hơn so với các mặt hàng cùng loại của các nước ASEAN khác có trình độ phát triển kinh tế cao hơn Việt Nam như Thái Lan, Indonesia,v.v... vì những mặt hàng của họ đã bị loại khỏi danh sách được hưởng GSP. Thế nhưng nguy cơ đe dọa đối với hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường EU lúc này là cực kỳ lớn bởi đối thủ “nặng ký”nhất của ta lại là Trung Quốc và sự quay trở lại của các nước ASEAN sau thời kỳ khủng hoảng. Tuy có lợi thế về thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu vào EU, nhưng chúng ta lại đang ở vào tình trạng không mấy thuận lợi trong cạnh tranh. Đến cuối năm 2004, EU sẽ chấm dứt thực hiện giai đoạn 2 của chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và xoá bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may của các nước là thành viên WTO, còn đối với những nước không phải là thành viên WTO như Việt Nam thì chưa có chính sách cụ thể. Cho đến nay, EU vẫn chưa đưa ra chương trình thực hiện GSP cho thời kỳ từ 2005 trở đi, nhưng họ đang tiến dần từng bước giảm thuế quan và giảm ưu đãi GSP. Tới một thời điểm nhất định, hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển khi xâm nhập vào thị trường EU sẽ không được hưởng GSP nữa và phải cạnh tranh bình đẳng với hàng của các nước phát triển, chịu cùng một mức thuế như hàng của những nước này và không được hưởng các ưu đãi khác. Như vậy, thời kỳ 2005 - 2010 có thể xảy ra hai trường hợp: (1) Việt Nam tiếp tục được hưởng GSP và riêng hàng dệt may vẫn chịu sự quản lý bằng hạn ngạch của EU; (2) Hàng Việt Nam không được hưởng GSP nữa và hàng dệt may cũng không bị quản lý bằng hạn ngạch. Nếu xảy ra trường hợp (1) thì theo chương trình mở rộng hàng hoá của EU, ưu đãi thuế quan dành cho các nước đang phát triển sẽ ngày càng giảm và tiến tới chấm dứt. Do đó, được hưởng GSP hay không được hưởng GSP và hàng dệt may vẫn bị quản lý bằng hạn ngạch thì những năm này cũng chẳng dễ dàng gì đối với xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU. Thời kỳ 2005-2010, hàng xuất khẩu của Việt Nam khi thâm nhập vào EU sẽ gặp khó khăn hơn nhiều so với thời kỳ 2000-2004. Nếu Việt Nam gia nhập WTO trong thời kỳ này thì hàng xuất khẩu của ta sẽ thuận lợi hơn khi thâm nhập vào EU so với thời kỳ 2000-2004. EU là thị trường lớn, sức tiêu thụ ổn định, lại hứa hẹn có những khởi sắc về kinh tế trong thời kỳ 2004-2010 nên việc đẩy mạnh xuất khẩu vào EU đang là một trong những trọng điểm của chính sách thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh những nỗ lực của Chính phủ, các ngành chủ đạo như da giày, dệt may và thủy sản đang có những chương trình cụ thể để phát triển sản xuất và tăng cường xuất khẩu sang EU. Còn các doanh nghiệp là nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của xuất khẩu cũng đang nỗ lực vươn lên để thâm nhập và đứng vững trên thị trường EU (cải tiến sản xuất: đẩy mạnh việc áp dụng tiêu chuẩn HACCP, ISO 9000, ISO 14000 để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm và môi trường; phát huy tính năng động..v.v...). Giai đoạn 2004-2010 tuy không mấy thuận lợi, nhưng với những cố gắng của Chính phủ và các doanh nghiệp, xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ vẫn trên đà phát triển, quy mô buôn bán không ngừng gia tăng, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng có thể sẽ giảm chút ít (tăng 30%/năm) so với thời kỳ 1995-2003 (tăng 36,6%/năm). Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam-EU sẽ chuyển biến theo hướng tích cực: tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến lên 90% (có nhiều mặt hàng xuất khẩu chế biến sâu và tinh) và giảm mạnh hàng nguyên liệu thô xuống 10%. Trong nhóm hàng công nghệ phẩm, sẽ giảm mạnh tỷ lệ hàng gia công và tăng tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp (mua nguyên liệu của nước ngoài về sản xuất và xuất khẩu), và tăng tỷ lệ sản phẩm sản xuất bằng nguyên liệu nội địa. Cụ thể với ba nhóm hàng xuất khẩu truyền thống: giày dép, dệt may và nông sản, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng trưởng chậm lại. Riêng thủy hải sản sẽ có tốc độ tăng trưởng kim ngạch cao hơn so với thời kỳ 1995-2003 vì mặt hàng này đang có cơ hội thuận lợi để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường EU (Mới đây, EU đã công nhận 100 doanh nghiệp chế biến thủy hải sản của ta đạt tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh, được xuất khẩu sang EU). Trong nhóm hàng nông sản xuất khẩu sang EU, hạt điều sẽ có tốc độ tăng trưởng cao vì vùng nguyên liệu đang được phát triển mạnh; còn chè, cà phê và một số mặt hàng khác sẽ tăng trưởng chậm hơn so với những năm trước. Hai mặt hàng giày dép và dệt may sẽ có tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp tăng lên và tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm tăng nhanh. Với cơ cấu kinh tế hoàn toàn bổ sung cho nhau, môi trường quốc tế thuận lợi, xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế và nỗ lực của Việt Nam, hoạt động xuất khẩu hàng hoá của ta vào thị trường EU sẽ có bước chuyển biến vượt bậc và phát triển mạnh mẽ hơn trong những năm đầu thế kỷ mới. Quy mô xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này sẽ được mở rộng tương xứng với tiềm lực kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của EU. Thị trường EU có thể sẽ chiếm tỷ trọng 21%-25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2004-2010. Những giải pháp chủ yếu nhằm đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã hội Giải pháp về phía Nhà nước Tổ chức xây dựng và củng cố lại hệ thống tiêu chuẩn quốc gia Đổi mới hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam là một nhiệm vụ trọng tâm trong hội nhập với quốc tế nhằm đẩy chất lượng hàng hoá trong nước lên mức ngang tầm với các nước khác. Trước hết là việc loại bỏ các tiêu chuẩn Việt Nam đã quá lạc hậu hay không phù hợp với đối tượng của tiêu chuẩn hoá theo yêu cầu mới. Mặc dù trong thời gian qua, đến 80% TCVN mới được ban hành là hoàn toàn tương đương với tiêu chuẩn Quốc tế, nâng tỷ lệ TCVN được hài hoà từ 15% năm 1995 đến 24% năm 2003. Tuy nhiên con số này vẫn còn khiêm tốn nếu so sánh với mức độ hài hoà tiêu chuẩn của các nước phát triển, đặc biệt là với Liên minh châu Âu. Để thực hiện được mục tiêu này, Nhà nước cần tổ chức, xây dựng các ban Kỹ thuật, cấp kinh phí đào tạo và hỗ trợ cho các nhà khoa học, các chuyên gia từ các Viện nghiên cứu, các trường Đại học, các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp tiến hành triển khai những đề tài về hài hoà tiêu chuẩn Việt nam với tiêu chuẩn Quốc tế. Bên cạnh công tác xây dựng và củng cố hệ thống TCVN, công tác phổ biến, khuyến khích và quản lý việc áp dụng các tiêu chuẩn cũng không kém phần quan trọng. Nếu như hoạt động hô hào kêu gọi sự hưởng ứng của các ngành, các doanh nghiệp không đem lại nhiều hiệu quả thì nên sử dụng các biện pháp thiết thực hơn như: đẩy mạnh hoạt động trao giải thưởng chất lượng cho các doanh nghiệp; kiểm soát chặt chẽ, thẩm định chất lượng và áp dụng chế tài nghiêm ngặt đối với các doanh nghiệp không đáp ứng các tiêu chuẩn mang tính bắt buộc... Hoạt động kiểm tra chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu cũng phải cải tiến (trước đây chỉ chú trọng kiểm tra chất lượng hàng nhập khẩu) để đảm bảo ốn định và nâng cao uy tín của hàng Việt Nam trên trường Quốc tế. Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về chất lượng, môi trường và xã hội Quản lý Nhà nước về chất lượng đã được thể chế hoá trong Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá được Quốc hội thông qua năm 1999 và có hiệu lực thi hành từ năm 2000. Năm 2000, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng đã thông qua Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đồng thời, tại những thời điểm thích hợp, Chính phủ cũng ban hành hàng loạt các Chỉ thị, Quyết định nhằm khắc phục tình trạng vi phạm quy định về chất lượng của đối với hàng xuất khẩu của ta. Sự ra đời của các văn bản pháp quy này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đổi mới công tác quản lý chất lượng trên toàn quốc, từ đó có thể nâng cao ý thức của các doanh nghiệp xuất khẩu để cung cấp các sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao. Tuy nhiên, việc đưa các quy định này vào thực tiễn vẫn còn là một điều khó khăn, và thường là chỉ có tác dụng trong ngày một ngày hai. Chính vì vậy mà tình trạng hàng hoá không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vẫn còn phổ biến. Với tình thế như vậy, Nhà nước cần mạnh tay hơn nữa, ban hành các quy định về xử phạt các doanh nghiệp vi phạm Pháp lệnh và các chỉ thị, quy định đã đặt ra; đồng thời xúc tiến công tác tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức, doanh nghiệp. Đối với công tác Bảo vệ môi trường, hệ thống Pháp luật về Bảo vệ môi trường của Việt Nam còn chưa thật hoàn chỉnh nền không khuyến khích được doanh nghiệp thực hiện tốt công tác này. Vì thế, Nhà nước cần: + Trong Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 175-CP hướng dẫn thi hành Luật, cần có nhiều quy định cụ thể hơn nữa về Bảo vệ môi trường đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế là những quy định chung trong Luật bảo vệ môi trường và Nghị định nói trên á dụng với mọi đối tượng, moi tầng lớp xã hội. Riêng đói với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thì sự điều chỉnh và quản lý thông qua các quy định cụ thể còn rất hạn chế. Một số biện pháp hữu hiệu có thể tham khảo là: (1) Thu phí, thuế và các khoản thu khác liên quan đến môi trường; (2) Hạn ngạch/giấy phép môi trường có thể trao đổi được; (3) Đặt cọc phí tái chế đối với một số loại sản phẩm (ví dụ: các loại vỏ đồ hộp); (4) Các biện pháp kiểm dịch động, thực vật và các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đối với sản phẩm; (5) Các yêu cầu về bao gói (hiện nay chưa có); (6) Các yêu cầu về hàm lượng nguyện liệu được tái chế; (7) Giới thiệu và đưa ra nhãn mác sinh thái như một dấu hiệu bảo vệ môi trường. Đồng thời củng cố nhiệm vụ và chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực Bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong khâu giám sát thực hiện các quy định. + Ban hành Luật Thuỷ sản và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật để thay thế Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản (1989) do Pháp lệnh này đã bộc lộ những hạn chế, ảnh hưởng đến quản lý và phát triển ngành. Về vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực tế là Bộ luật lao động của Việt Nam đã bao trùm các yêu cầu cơ bản của các bộ Quy tắc ứng xử mà nếu có thì phía nước ngoài sẽ yêu cầu. Nhưng việc áp dụng đúng các quy định trong Bộ luật lại rất hiếm. Ví dụ đơn giản như luật Phòng cháy chữa cháy. Khi các chuyên gia đánh giá phỏng vấn ban lãnh đạo các doanh nghiệp về vấn đề kiểm tra của PCCC đối với các doanh nghiệp, đều phát hiện ra rằng ngay cả PCCC cũng không áp dụng đúng luật. Một trường hợp cụ thể là thời hạn kiểm tra định kỳ hệ thống PCCC, có những công ty cả 2 năm trời không đuợc gặp PCCC đến một lần. Còn các trường hợp vi phạm an toàn vệ sinh lao động thì rất phổ biến. Như vậy, mấu chốt ở đây là việc thực thi Bộ luật Lao động của Việt Nam cần được Bộ lao động-Thương binh-Xã hội giám sát chặt chẽ hơn nữa, không chỉ để cải thiện cuộc sống và môi trường làm việc của người lao động mà còn thể hiện trách nhiệm đạo đức trước các đối tác nước ngoài. Ngoài ra trước hiện tượng nhiễu sóng thông tin về chứng chỉ SA 8000, Nhà nước cần có biện pháp quản lý đối với các tổ chức môi giới, tư vấn và cấp phát chứng chỉ, không để các doanh nghiệp rơi vào tình trạng lầm tưởng đây là chứng chỉ tất yếu phải có khi muốn thâm nhập vào thị trường EU. Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội nên tổ chức các cuộc hội thảo về chủ đề này, giúp các doanh nghiệp có định hướng cụ thể sao cho phù hợp nhất với ngành nghề và điều kiện của mình. Hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội của EU Hỗ trợ tài chính: Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (đặc biệt trong những ngành may mặc, chế biến nông sản, thuỷ sản, chế biến gỗ, sản xuất gốm sứ....) nên rất hạn chế vốn trong việc đổi mới công nghệ sản xuất cũng như đầu tư trang thiết bị xử lý môi trường. Chính vì vậy, nhà nước nên có các biện pháp hỗ trợ hơn nữa về mặt tài chính như: (1) Miễn thuế thu nhập từ 2-4 năm cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, đặc biệt với các doanh nghiệp sản xuất hàng có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Dành thuế ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác môi trường và xã hội; (2) Ưu tiên cho các doanh nghiệp này vay vốn từ các nguồn tín dụng ưu đãi; (3) Nhà nước dành vốn ngân sách hỗ trợ đầu tư hàng năm cho các chương trình quy hoạch vùng sản xuất, các trung tâm giống quốc gia để tạo ra các giống sạch và có chát lượng (đối với các ngành nông nghiệp và thuỷ sản), đầu tư xây dựng các trạm quan trắc cảnh báo môi trường... Hỗ trợ thông tin: Thông tin về thị trường xuất khẩu có vai trò rất quan trọng giúp cho các doanh nghiệp biết được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng về các chủng loại sản phẩm và các quy định của thị trường để đáp ứng. Với hoạt động này, Nhà nước nên chỉ đạo tích cực tạo ra nhiều kênh thông tin tới các doanh nghiệp, như các ấn phẩm, trang Web, trung tâm cung cấp thông tin ..v.v. HIện nay đã có không ít ấn phẩm và trang Web của các cơ quan hữu quan được xây dựng nhằm mục đích này (như Bộ Thuỷ sản, Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam...) nhưng nội dung về thị trường vẫn chưa đầy đủ, thiếu hệ thống và không mang tính cập nhật (đặc biệt là các thông tin trên Web). Bên cạnh đó, các Bộ, ngành chức năng cần phối hợp tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu cho các doanh nghiệp về những quy định chất lượng, môi trường và xã hội của EU đối với từng loại hàng hoá xuất khẩu, đặc biệt tập trung vào việc giải thích nhưng quy định, tiêu chuẩn mới, đánh giá những ảnh hưởng của chúng đối với hàng xuất khẩu. Trên cơ sở đó đưa ra định hướng, hướng dẫn cho các doanh nghiệp khắc phục các rào cản kỹ thuật này. Xây dựng cơ chế phối hợp hợp lý giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý Nhà nước. Một giải pháp hữu hiệu là xây dựng các hiệp hội ngành hàng (theo từng địa bàn hoặc theo từng lĩnh vực kinh doanh) để có thể đại diện trực tiếp cho tiêng nói của các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ). Hỗ trợ đào tạo nhân lực: Đầu tư cho việc đào tạo các chuyên gia về xây dựng và đánh giá tiêu chuẩn chất lượng, xã hội và môi trường trong mỗi ngành nghề, nâng cấp các thiết bị chuyên dụng phục vụ cho công tác đánh giá đó. Xây dựng các chương trình đào tạo thí điểm đối với các doanh nghiệp xuất khẩu (có nhu cầu cấp thiết nhất). Chương trình thí điểm một mặt sẽ góp phần nâng cao kiến thức, kỹ năng và ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp về quản lý chất lượng, môi trường và xã hội, đồng thời cho phép đánh giá được nhu cầu và sự quan tâm của giới doanh nghiệp đối với vấn đề này để có những giải pháp cụ thể hơn. Hỗ trợ giải quyết tranh chấp vi phạm các quy định và tiêu chuẩn của EU, bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp thông qua đàm phán thương mại: Với vị thế bất lợi trong thương mại quốc tế, các doanh nghiệp thường bị thiệt thòi khi phải theo đuổi các vụ kiện hoặc tranh chấp phát sinh do vi phạm của một trong các bên liên quan. Hơn nữa, các nước phát triển ngày càng tìm cách tận dụng tối đa những công cụ được coi là hợp pháp trong thương mại quốc tế để gây khó dễ cho các doanh nghiệp xuất khẩu từ các nước đang phát triển như: áp dụng các tiêu chuẩn và các biện pháp hạn chế thương mại vì mục đích bảo vệ môi trường, vì mục đích đạo đức xã hội... Vì thế, vai trò của Nhà nước là (1) Có tiếng nói chính thức bảo vệ doanh nghiệp trên trường quốc tế trong các trường hợp như phía đối tác tuyên truyền bất lợi cho ta; (2) Tư vấn cho các doanh nghiệp về mặt chuyên môn pháp lý, cung cấp hoặc giới thiệu những luật sư tin cậy chuyên trách về giải quyết tranh chấp thương mại; (3) Trong quá trình đàm phán, yêu cầu các đối tác mở cửa thị trường, ví dụ như gia tăng hạn ngạch dệt may, nâng cao ngưỡng phát hiện dư lượng kháng sinh đối với nông, thuỷ sản... Các giải pháp khác Có chính sách quản lý chặt chẽ đối với hoạt động nhập khẩu theo hướng hạn chế nhập khẩu những hàng hoá có khả năng gây ô nhiễm môi trường, không đảm bảo vệ sinh an toàn và sức khoẻ của người lao động trong quá trình lao động như: hoá chất, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh cấm sử dụng, dây chuyền chế biến lạc hậu... Đồng thời khuyến khích nhập khẩu công nghệ chế biến sạch, công nghệ ít gâyô nhiễm môi trường, thiết bị xử lý chất thải... Cần có chính sách hình thành các tổ hợp sản xuất, chế biến khép kín (đặc biệt trong nông nghiệp và thuỷ sản) để các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi áp dụng HACCP một cách triệt để. Hiện nay ở Việt Nam rất khó áp dụng HACCP một cách triệt để và khép kín vì nuôi trồng tách riêng với chế biến. Trong khi các doanh nghiệp áp dụng HACCP thì các hộ nông dân nuôi trồng lại không tuân thủ quy định vì muốn thu lợi nhuận cao nên nguyên liệu cung cấp nhiều khi không đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, dẫn đến sản phẩm không đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu. Giải pháp về phía các doanh nghiệp Cập nhật và hiểu rõ các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội của EU đối với sản phẩm doanh nghiệp cung cấp Hệ thống các quy định và tiêu chuẩn của EU đối hàng hoá nhập khẩu khá phức tạp và ngặt nghèo. Ngoài những quy định chung về an toàn sản phẩm (Product Safety), Luật thực phẩm, Luật bảo vệ môi trường... còn có vô số các chỉ thị riêng cho các nhóm sản phẩm khác nhau (Directives). Đa phần mỗi quy định lại được điều chỉnh bởi nhiều chỉ thị. Vì vậy không thể chỉ đọc 01 chỉ thị trong số các chỉ thị điều chỉnh 1 quy định mà có thể hiểu được quy định đó. Ví dụ như: quy định về chất phụ gia trong thực phẩm được điều chỉnh bởi 04 chỉ thị: Chỉ thị 94/35/EEC đối với chất làm ngọt, Chỉ thị 94/36/EEC đối với phẩm màu, Chỉ thị 88/388/EEC đối với hương liệu, Chỉ thị 95/2/EC đối với các p hụ gia thực phẩm khác. Vì vậy muốn hiểu rõ một quy định của EU phải đọc kỹ tất cả các chỉ thị liên quan đến quy định đó. Chưa kể đến các tiêu chuẩn chất lượng EN áp dụng cho sản phẩm sản xuất và lưu thông trong khối EU, nếu các doanh nghiệp Việt Nam tìm hiểu và tuân thủ sẽ là thuận lợi lớn khi đưa hàng hoá vào thị trường này. Một thực tế hiện nay là nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu vẫn chỉ làm hàng theo khả năng chứ chưa đón bắt nhu cầu từ phía đối tác. Vì vậy, công tác tìm hiểu thị trường vẫn còn rất yếu kém, nhiều doanh nghiệp không nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này vì sợ tốn kém chi phí. Do đó mà hiện tượng “có nghe nói về quy định này nhưng không biết rõ vì chưa được đọc văn bản, chỉ biết rằng EU đưa ra yêu cầu rất khắt khe”là khá phổ biến. Tăng cường áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, môi trường và xã hội. Các tiêu chuẩn quốc tế như tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9001, tiêu chuẩn quản lý môi trường 14001, tiêu chuẩn HACCP... là những tiêu chuẩn chung được nhiều nước hưởng ứng và khuyến khích áp dụng. Các doanh nghiệp Việt Nam - trước hết là các doanh nghiệp xuất khẩu - cần phải nhận thức rõ được tầm quan trọng của các tiêu chuẩn này vì khi có các chứng chỉ, doanh nghiệp không chỉ lấy được lòng tin của các bạn hàng mà còn cải thiện quy trình quản lý sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, đem lại lợi ích kinh tế về lâu dài cho doanh nghiệp. Cụ thể với hệ thống HACCP đòi hỏi phải áp dụng và tuân thủ triệt để các quy định ngay từ khâu nuôi trồng, đánh bắt, cho đến khâu chế biến. Đây là một điều rất khó thực hiện đối với các doanh nghiệp chế biến nông, thuỷ sản của ta vì người nuôi trồng, khai thác nông, thủ sản là các hộ nông dân rất phân tán. Vì vậy, các doanh nghiệp chế biến nên liên kết với các hợp tác xã nông nghiệp, nông trường... để hình thành các tổ hợp sản xuất lớn và áp dụng hệ thống HACCP. Chú trọng áp dụng hệ thống HACCP một cách thực sự, tránh tình trạng áp dụng tiêu chuẩn này mang tính hình thức để đối phó với thị trường nhập khẩu như hiện nay đang diễn ra ở các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Ngoài ra, nhằm vượt qua thách thức về yêu cầu ngày càng tăng của thị trường, việc áp dụng phương pháp quản lý chất lượng tổng thể (TQM - Total Quality Management) có thể là một giải pháp. TQM là một phương pháp quản lý giải quyết từng vấn đề trong đó cốt lõi là chất lượng trong mọi khía cạnh và nhiệm vụ của quá trình hoạt động. Khi áp dụng TQM, nhà xuất khẩu không những phải trải qua các giai đoạn như ISO 9000 và ISO 14000 và các vấn đề bắt buộc như nhãn hiệu CE, HACCP mà còn phải chú ý tới tác động đối với xã hội. Tất nhiên, TQM không phải là điều kiện để thành đạt ở thị trường châu Âu. Song, nó có thể cung cấp cho các doanh nghiệp một công cụ quản lý hữu ích. Nó tạo ra một môi trường cho việc liên tục cải tiến hoạt động mà các doanh nghiệp có thể cần để vượt qua đối thủ cạnh tranh và đáp ứng những kỳ vọng của khách hàng và yêu cầu của thị trường ở mức độ cao. Đổi mới công nghệ và phương thức sản xuất Các ngành sản xuất xuất khẩu của Việt Nam sở dĩ yếu kém về chất lượng đều do những hạn chế về trang thiết bị và công nghệ (như đã phân tích ở phần thực trạng). Do đó, đổi mới trang thiết bị và công nghệ là một yêu cầu tất yếu nếu các doanh nghiệp xuất khẩu muốn vươn xa trên trên thị trường quốc tế. Đối với các ngành công nghiệp nhẹ (dệt may, giày dép, sản xuất đồ gỗ...), máy móc thiết bị hiện chủ yếu là những loại đã lạc hậu, năng suất thấp. Để phát triển ngành sang một bước mới cần nỗ lực đầu tư để bắt kịp với công nghệ trong khu vực và thế giới. Trường hợp các doanh nghiệp chưa có điều kiện tài chính, có thể sử dụng hình thức thuê tài chính để đổi mới năng lực sản xuất của mình, tạo dựng tên tuổi và uy tín với đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó, phương thức gia công xuất khẩu kéo dài không những đem lại hiệu quả kinh doanh ít mà còn làm cùn khả năng tự vận động, tự sáng tạo của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực này nên từng bước vươn tới đầu tư xây dựng một hệ thống hoạt động kỹ nghệ liên hoàn với 4 khâu: sáng tạo thiết kế, thu mua nguyên phụ liệu, tổ chức sản xuất và thương mại trực tiếp. Đối với các doanh nghiệp chế biến nông, thuỷ sản thì phương thức sản xuất và công nghệ chế biến đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Đồng thời, nếu phương thức sản xuất và công nghệ chế biến không thích hợp còn gây ô nhiễm môi trường, khiến cho các doanh nghiệp vi phạm quy định về môi trường của EU. Do vậy, việc cần thiết là phải (1) cải tiến, nâng cao kỹ thuật các trang thiết bị dùng trong chế biến, (2) thay đổi các công nghệ gây ô nhiễm môi trường bằng các công nghệ sạch (với các doanh nghiệp hạn chế về tài chính không có khẳ năng thay thế toàn bộ dây chuyền lạc hậu thì có thể lắp đặt bổ sung các thiết bị chống và xử lý ô nhiễm môi trường cho dầy chuyền đang vận hành), (3) tìm hiểu và từng bước tuân theo quy trình canh tác nông nghiệp đảm bảo GAP để cung cấp các sản phẩm chế biến sạch. Ngoài ra, một trong những phương pháp thâm nhập thị trường EU hữu hiệu của hàng nông, thuỷ sản Việt Nam hiện nay là nuôi gia công. Với trình độ nuôi trồng và chế biến của ngành còn thấp như hiện nay thì khi nuôi gia công, các doanh nghiệp sẽ không chỉ được cả lợi ích kinh tế mà còn học được phương pháp nuôi trồng nông, thuỷ sản đạt tiêu chuẩn chất lượng, từ đó tạo dựng chỗ đứng ban đầu cho mình trên thị trường rộng lớn này. Theo phương pháp này, giống nông thuỷ sản, kỹ thuật, chuyên gia, thức ăn và phương pháp nuôi do EU cung cấp và hướng dẫn thực hiện. Phía EU sẽ cử chuyên gia sangViệt Nam để hướng dẫn phương pháp nuôi, giám sát hoạt động nuôi và nghiệm thu sản phẩm, sau đó chuyên gia EU sẽ kiểm tra chất lượng sản phẩm và dán nhãn mác hàng của EU trước khi xuất khẩu sang thị trường này. Hiện nay, công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Seaprodex đã tiến hành nuôi tôm gia công cho Nhật Bản, kết quả thu được rất khả quan, giá tôm xuất khẩu và giá trị gia tăng của sản phẩm rất cao. Phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc giải quyết vướng mắc thị trường Giải pháp này được đưa ra dựa trên trường hợp điển hình về xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang EU bị vi phạm quy định về dư lượng kháng sinh của EU trong thời gian gần đây. Thời kỳ đầu chỉ có một số doanh nghiệp có lôhàng vi phạm, các doanh nghiệp này đã không báo cáo với Bộ Thuỷ sản để được giúp đỡ mà tự tìm cách giải quyết với đối tác EU, nhưng cuối cùng vẫn không thể giải quyết được (không lấy được tiền mà cũng không xin lại được hàng để xuất sang các thị trường khác). Cho đến khi số lô hàng thuỷ sản Việt Nam vi phạm quy định của EU nhiều hơn, Uỷ ban châu Âu đã chính thức thông báo cho Bộ Thuỷ sản về tình trạng này và kể từ tháng 9/2001, EU áp dụng biện pháp kiểm tra tăng cường đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam (kiểm tra 100% các lô hàng xuất khẩu, trong khi trước đây hàng thuỷ sản của ta chỉ bị EU kiểm tra xác suất 5%). Như vậy, hàng thuỷ sản xuất khẩu của tất cả các doanh nghiệp (gồm cả doanh nghiệp chưa có lô hàng bị vi phạm) đều bị kiểm tra 100%, gây bất lợi cho các doanh nghiệp và mất uy tín đồng loạt trên các thị trường xuất khẩu. Nếu như ngay từ đầu, các doanh nghiệp có lô hàng vi phạm phối hợp với các cơ quan chức năng tỏng việc giải quyết vướng mắc thị trường (Bộ Thuỷ sản thực hiện các biện pháp hạn chế sử dụng dư lượng kháng sinh bị cấm; Bộ Thương mại chủ động đàm phán với phía EU để tìm cách giúp các doanh nghiệp tháo gỡ...) thì chúng ta đã sớm ngăn chặn được tình trạng các lô hàng thủy sản liên tiếp bị EU từ chối và tiêu huỷ Các giải pháp khác Thứ nhất, tích cực tham gia các cuộc hội thảo do phía Việt Nam, Liên minh châu Âu hoặc cả hai bên phối hợp tổ chức về đẩy mạnh xuất khẩu sang EU, giới thiệu các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội của đối với hàng nhập khẩu. Trên cơ sở nguồn thông tin này, đưa ra phương hướng thích hợp điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình để đảm bảo cung cấp cho thị trường này các sản phẩm phù hợp, đạt yêu cầu. Thứ hai, chủ động tiếp cận với các quy định của EU bằng nhiều cách: Thông qua thương vụ của Việt Nam ở các nước thành viên EU; Phái đoàn EC tại Hà Nội; Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam; Trung tâm xúc tiến thương mại; Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Trung tâm nghiên cứu châu Âu, đối tác EU; mạng Internet.... Thứ ba, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến tác động của các quy định và tiêu chuẩn của EU đối với hàng nhập khẩu vào thị trường này. Thứ tư, thành lập các bộ phận quản lý chất lượng và môi trường với trách nhiệm kiểm tra định kỳ, giám sát chất lượng, môi trường trong doanh nghiệp. Thứ năm, rà soát lại hồ sơ kiểm soát nguyên liệu của các lô hàng đang trên đường tới các nước EU để triệu hồi về nước những lô hàng được sản xuất bằng nguồn nguyên liệu không đảm bảo. Thứ sáu, tìm thị trường thay thế, hạn chế xuất khẩu vào EU những lô hàng chưa được giám định chắc chắn về chất lượng và môi trường . Kết luận Số lượng hàng rào kỹ thuật trong thương mại đang tăng lên được coi là mối đe dọa chủ yếu đối với nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển. Nhiều doanh nghiệp đang bị mất cơ hội kinh doanh do những đòi hỏi ngày càng tăng về lượng, môi trường và trách nhiệm xã hội từ phía đối tác nước ngoài. Vụ việc các lô hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam trong hai năm 2001, 2002 liên tiếp bị phát hiện vi phạm quy định của EU về dư lượng kháng sinh, dẫn đến bị tiêu huỷ và phải chịu chế độ kiểm tra 100% khiến ngành thuỷ sản gặp không ít khó khăn, đồng thời ảnh hưởng đến uy tín tại các khu vực thị trường khác có thể coi là một bài học đắt giá. Do đó, đáp ứng các tiêu chuẩn là điều kiện sống còn cho các doanh nghiệp Việt Nam để trụ vững và thành công trên thị trường châu Âu. Với quy mô giới hạn, khoá luận đã giải quyết được một số vấn đề sau: Trình bày tóm gọn những quy định chung nhất (bắt buộc hoặc không bắt buộc) về chất lượng, môi trường và xã hội mà EU hiện đang áp dụng cho hàng hoá lưu thông trên thị trường, và do đó cho cả hàng hoá nhập khẩu Đánh giá khái quát năng lực của Việt Nam đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn đó như: mức độ hài hoà tiêu chuẩn của Việt Nam với EU nói riêng và quốc tế nói chung, tình hình áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và môi trường ISO 14000, thực tế áp dụng các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng trong sản xuất hàng công nghiệp chế tạo, nông thuỷ sản và thực phẩm... Đồng thời khoá luận cũng đi sâu vào phân tích khả năng đáp ứng các quy định đó của 4 ngành hàng xuất khẩu chính: da giày, dệt may, nông sản, và thuỷ sản Đề xuất một số giải pháp khắc phục tình trạng yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn của EU, như: thu phí môi trường, đặt cọc phí tái chế đối với một số loại sản phẩm; áp dụng phương pháp quản lý chất lượng tổng thể TQM; nuôi gia công nông, thuỷ sản cho các đối tác EU... Trên hết, các doanh nghiệp cần hiểu rằng đáp ứng các tiêu chuẩn này phải dựa trên chiến lược lâu dài, chứ không chỉ là các biện pháp đối phó ngày một ngày hai. danh mục tài liệu trích dẫn [1] “Kim ngạch xuất khẩu năm 2002, ước năm 2003 và dự báo năm 2004 theo thị trường các nước”- Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003 - Trang 6. [2] “Làm ăn với ngôi sao “mọc muộn”“- Thời báo kinh tế Sài Gòn -29/08/2002). [3] “European Union and World Trade”- Basic Statistic for European Union Trade for years 2001, 2002. [4] Liew Mun Leong (chủ tịch tổ chức ISO) - “Tiêu chuẩn trong cuộc sống hàng ngày”- Hội thảo tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và khu vực - Tổng cục TCĐLCL - 2002. [5] Dương Xuân Chung - “Hoà hợp về tiêu chuẩn với khu vực và thế giới”- Hội thảo “Tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và khu vực”- Tổng cục TCĐLCL - 2002 [6] Định nghĩa của Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO), trong dự thảo DIS 9000:2000 [7] Ông I.J.Day (Chủ tịch BVQI, U.K) - “Chứng nhận EMS hệ thống quản lý môi trường”- Hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ hai - Tổng cục tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng - 11/1997 [8] Nguyễn Mạnh Cường - “Nhận biết vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam hội nhập Quốc Tế”- Hội thảo về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp CSR - Bộ LĐ-TB-XH - 2002. [9] “Kỷ yếu 40 năm hoạt động và phát triển 1962 - 2002”- Tổng cục tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng - NXB KH&KT [10] Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO - "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO 14000 - Twelfth Cycle: up to and including December 2002" - www.iso.org - 2003 [11] Vietnam Investment Review - 21-27 December, 2002 - www.vir.com.vn [12] “EU huỷ bỏ lệnh cấm nhập khẩu đối với 6 doanh nghiệp”- Tạp chí Thông tin Khoa học Công nghệ Thuỷ sản - số tháng 8/2003 - www.fistenet.gov.vn [13] Thanh Liêm - “Thực trạng, giải pháp quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm”- Tạp chí TCĐLCL - Số 8(49)/2003 - Trang 16. [14] Thanh Liêm - “Nông sản thực phẩm và hoạt động tiêu chuẩn hoá trong lĩnh vực NSTP ở Việt Nam”- Tạp chí TCĐLCL - Số 7/2003 - Trang 42 [15] Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO - "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO 14000 - up to and including December 2002”- www.iso.org - 2003. [16] Phùng Thị Vân Kiều - Báo cáo tổng hợp Nhiệm vụ của Nhà nước về bảo vệ môi trường: “Các quy định về môi trường của Liên minh châu  u (EU) đối với nhập khẩu hàng nông, thuỷ sản và các giải pháp đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn môi trường đối với hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường EU”- Viện nghiên cứu Thương mại - 09/2003. [17] Tổ chức SAI - “SA 8000 Certified Facilities, up dated September, 2003”- www.sa-intl.org/Accreditation/Certification.htm [18] Bình Yên & Phong Lan - “Doanh nghiệp không buộc phải mua chứng chỉ SA 8000”- Báo điện tử VnExpress ngày 24/8/2002 - www.vnexpress.net [19] Cao Huệ Anh & Vũ Đức Thắng - “Đánh giá và chứng nhận SA 8000 - Một số thuận lợi và khó khăn”- Hội nghị toàn quốc Câu lạc bộ ISO Việt Nam - kỷ niệm 2 năm thành lập CLB - 02/2002 [20] Phi Hùng - “Có cần tốn tiền mua SA 8000?”- Báo Doanh nghiệp - Số 34 (22/8/02 - 28/8/02) - Trang 5 [21] EU Economic and Commercial counsellors - “2003 Annual Report”- the European Commision’s Delegation in Vietnam - www.delvnm.cec.eu.int - May, 2003. [22] “Tình hình sản xuất kinh doanh 5 tháng đầu năm 2003 của ngành da giày Việt Nam”- Bản tin hàng tháng của Hiệp hội da giày Việt Nam, số tháng 6/2003 - www.lefaso.org.vn [23] Thông tin chuyên đề “Thực trạng và tiềm năng trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU”- Phòng thông tin tư liệu - Viện nghiên cứu Thương mại - Bộ Thương mại - 2002 [24] Trần Khắc Kiên - “Thực trạng và định hướng phát triển ngành công nghiệp da giày Việt Nam trong thời gian tới”- Hội thảo “Chương trình mục tiêu phát triển ngành da giày Việt Nam”- Hiệp hội da giày Việt Nam - 5/2002 [25] Số liệu thống kê của Tổng Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng - www.tcvn.gov.vn - cập nhật đến tháng 9/2003. [26] Công ty cổ phần thông tin kinh tế đối ngoại (Chu Viết Luân chủ biên) - “Dệt may Việt Nam - Cơ hội và thách thức”- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - 2003. [27] “Xuất khẩu dệt may sang EU sẽ nóng dần lên”- Tạp chí Ngoại Thương Số 21-31/7/2003 - Trang 14. [28] Nguyễn Cao Bình (Tổng công ty dệt may Việt Nam) - “Thực trạng thiết bị và công nghệ ngành dệt may Việt Nam”- Báo cáo tại Hội thảo xúc tiến xuất khẩu dệt may sang EU - Trung tâm đầu tư và xúc tiến thương mại Tp. Hồ Chí Minh (ITPC) - 6/2003. [29] Số liệu thống kê của phái đoàn EC tại Việt Nam (European Commission’s Delegation in Vietnam) - www.delvnm.cec.eu.int - 2002. [30] Thu Phương - “HACCP với việc mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản”- Tạp chí Thuỷ sản - số tháng 1/2003 - www.fistenet.gov.vn [31] Đình Chúc - “Liên minh châu  u mở rộng từ 15 lên 25 thành viên: Những thách thức mới đối với doanh nghiệp Việt Nam”- Báo Lao động điện tử - www.laodong.com.vn - Số 282, ngày 9/10/2003. [32] “Hạn ngạch dệt may của Việt Nam vào EU sẽ tăng từ 55-70%”- Báo Lao động điện tử - www.laodong.com.vn - Số ra ngày 9/9/2003. danh mục tài liệu tham khảo Danh mục Tiếng Việt Đinh thị Quỳnh Anh - Khoá luận tốt nghiệp “Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2000 - 2010”- Trường Đại học Ngoại Thương - 2001. Nguyễn Mạnh Cường - “Nhận biết vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam hội nhập Quốc Tế”- Hội thảo về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp CSR - Bộ LĐ-TB-XH - 2002. Nguyễn Thái Hùng - Báo cáo “Hài hoà tiêu chuẩn trong lĩnh vực thuỷ sản”- Trung tâm tiêu chuẩn chất lượng - Tổng cục TCĐLCL - 2002 Phùng Thị Vân Kiều - Đề tài khoa học cấp Bộ “Các giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2000 - 2010”- Viện nghiên cứu Thương mại - Bộ Thương mại - 2000. Phùng Thị Vân Kiều - Báo cáo tổng hợp Nhiệm vụ của Nhà nước về bảo vệ môi trường: “Các quy định về môi trường của Liên minh châu  u (EU) đối với nhập khẩu hàng nông, thuỷ sản và các giải pháp đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn môi trường đối với hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường EU”- Viện nghiên cứu Thương mại - 09/2003. Chu Viết Luân (chủ biên) - Sách “Dệt may Việt Nam - Cơ hội và thách thức”- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - 2003. Đỗ Thị Ngọc - Luận án tiến sĩ khoa học kinh tế “Nghiên cứu xây dựng mô hình quản lý chất lượng phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam”- Trường ĐH Thương Mại - 2000. Trần Sửu & Nguyễn Chí Tụng (Trường Đại học Ngoại Thương) - “Quản lý chất lượng hàng hoá và dịch vụ”- NXB Khoa học Kỹ thuật - 1996. Nguyễn Văn Xuân - Báo cáo “Hài hoà tiêu chuẩn trong lĩnh vực nông sản thực phẩm”- Trung tâm tiêu chuẩn chất lượng - Tổng cục TCĐLCL - 09/ 2002 Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam & Trung tâm thông tin châu Âu tại Việt Nam - Sách “Kinh doanh với thị trường EU”- 2002. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - Sách “EU- thị trường xuất khẩu”- 2001. Phòng thông tin tư liệu - Thông tin chuyên đề “Thực trạng và tiềm năng trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU”- Viện nghiên cứu Thương mại - Bộ Thương mại - 2002 Phòng thông tin tư liệu - Thông tin chuyên đề “Tình hình sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam năm 2002”- Viện nghiên cứu Thương mại - 12/2002. Phòng thông tin tư liệu - Thông tin chuyên đề “Quan hệ thương mại của Việt Nam với một số nước và khu vực”-- Viện nghiên cứu Thương mại - 8/2002. “Niên giám thông kê 2002”- NXB Thống kê - 2002. “Kỷ yếu 40 năm hoạt động và phát triển 1962 - 2002”- Tổng cục tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng - NXB KH&KT - 2002 “Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 175 CP hướng dẫn thi hành Luật”- NXB Chính trị Quốc gia - 1997 “Bộ luật lao động Việt Nam”- NXB Chính trị Quốc gia - 2002 “Một số văn bản qui phạm pháp luật về tiêu chuẩn đo lường chất lượng”- Tổng cục TCĐLCL - 2002. “Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 - Các yêu cầu”- 2000 Báo cáo “Hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ 2”- Tổng cục TCĐLCL - 11/1997 Báo cáo “Hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ 4”- Tổng cục TCĐLCL - 2001 Báo cáo “Hội thảo về hệ thống quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm theo HACCP”- Vụ kỹ thuật - Bộ thuỷ sản - 09/2001. Báo cáo hội thảo “Tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và khu vực”- Tổng cục TCĐLCL - 2002. Báo cáo “Hội nghị toàn quốc - Câu lạc bộ ISO Việt Nam - kỷ niệm 2 năm thành lập CLB”- 02/2002 Báo cáo “Hội nghị tổng kết hoạt động uỷ ban tiêu chuẩn hoá thực phẩm Việt Nam”- 06/2003. Tạp chí “Ngoại Thương”- Các số tháng 6, 7, 8, 9, 10 năm 2003 Tạp chí “Những vấn đề kinh tế thế giới”- Số 1(75) 2002; 2(82) 2003. Tạp chí “Người lao động”- Số 08/2002. Tạp chí “Doanh nghiệp”- Số 08/2002. Tạp chí “Tạp chí TCĐLCL”- Các số 10(27) năm 2001; 3(44), 5(46), 6(47), 7(48), 8(49) năm 2003. Tạp chí “Nghiên cứu châu  u ”- Số 3(51).2003 Các trang web www.europa.eu.int/eur-lex; www.newapproach.org; www.eu.int/eurostat.html, www.tcvn.gov.vn; www.agroviet.gov.vn; www.fistenet.com.vn, www.lefaso.org.vn, www.laodong.com.vn, www.vnn.vn Danh mục Tiếng Anh EU Economic and Commercial counsellors - “2003 Annual Report”- the European Commision’s Delegation in Vietnam - www.delvnm.cec.eu.int - May, 2003. International Organization for Standardardization (ISO) - “Environmental management systems ISO 14001 - Specification with guidance for use”- First Edition 09/1996. International Organization for Standardization - "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO 14000 - up to and including December 2002”- www.iso.org - 2003. Social Accountability International (SAI) - “SA8000”- www.sa-intl.org. Social Accountability International (SAI) - “SA8000 Certified Facilities”- updated September 30, 2003 - www.sa-intl.org/Accreditation/Certification.htm “Directive 92/2/EC on Food Additives”- www.cbi.nl “Directive 94/62/EEC on Packaging and Packaging Waste”- www.cbi.nl “Directive 2001/95/EEC on General Product Safety”- Official Journal of the European Communities - 15/01/2002. “Directive 91/493/EEC laying down the health conditions for the product and the placing on the market of fishery products”- www.cbi.nl “Guide to the implementation of Directive based on the New Approach and the Global Approach - CE marking”- europa.eu.int/celex “Pan-European Biological and Landscape Diversity Strategy: Good Agriculture Practice”- Mrs Anneli Bamber-Jones, WWF - 2001 “White paper on Food Safety”- europa.eu.int/comm/

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan tot nghiep.doc
Tài liệu liên quan