Khóa luận Vận dụng Marketing quốc tế trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU

Có thể nói ngành dệt may Việt Nam đã có những bước đi đúng hướng và đang trên đà phát triển. Xuất khẩu hàng dệt may đã, đang và sẽ là ngành quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Với thị trường xuất khẩu đang ngày càng được mở rộng, hàng dệt may đã vượt qua các mặt hàng khác vươn lên vị trí số 1 trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và hiện nay đang đứng thứ hai (sau dầu thô). Năm 1992, Hiệp định Dệt may giữa Việt Nam với EU được ký kết đánh dấu một mốc quan trọng trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Những Hiệp định bổ sung năm 1995, 1997, 2000 và 2003 đã mở rộng hạn ngạch cho hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU. Đặc biệt, ngày 31 tháng 12 năm 2004, Việt Nam và EU đã ký thoả thuận về việc tạo điều kiện cho hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu tự do vào thị trường EU tạo cơ hội cho dệt may Việt Nam bình đẳng với các nước thành viên WTO khi tiếp cận thị trường EU. Mặc dù vậy ngành dệt may Việt Nam vẫn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn và vẫn còn những tồn tại chưa vượt qua được như phải cạnh tranh với hàng của các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, EU là thị trường nổi tiếng khó tính với những đòi hỏi nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng

doc109 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1946 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Vận dụng Marketing quốc tế trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về sản phẩm, để họ biết được sản phẩm của công ty đa dạng phong phú kiểu mốt hợp thời trang và đạt chất lượng quốc tế. Hàng mẫu: Được tiến hành thông qua hệ thống chuyển phát nhanh, chủ yếu phục vụ các khách hàng truyền thống về mặt hàng với công ty và một số khách hàng có yêu cầu về hàng mẫu. Thư chào hàng: Được công ty sử dụng tương đối phổ biến vì đây là loại quảng cáo chi phí thấp và cùng một lúc công ty có thể chào hàng tới nhiều khách hàng nước ngoài. Catalog cũng giống như hình thức hàng mẫu, catalog chủ yếu phục vụ các khách hàng truyền thống hay các khách hàng có yêu cầu gửi catalog sang. 2.2.3. Tổ chức thực hiện kế hoạch marketing quốc tế. Sau khi có kế hoạch và chiến lược marketing cụ thể, các kế hoạch này bắt đầu được tiến hành. Ở các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, phòng kinh doanh xuất khẩu thường đảm nhiệm cả vai trò marketing quốc tế. Cũng có các công ty lớn có văn phòng đại diện hoặc người đại diện ở nước ngoài nhưng không nhiều cũng chưa có công ty nào có chi nhánh quốc tế tại các nước EU. Thành lập tổ chức toàn cầu vẫn là điều chưa thể đối với các doanh nghiệp Việt Nam. 2.3. Nhận xét chung về tình hình vận dụng marketing quốc tế nhằm xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang EU thời gian gần đây. 2.3.1. Ưu điểm. Một là, các doanh nghiệp dệt may hiện nay đã thực sự chú trọng công tác nghiên cứu nhu cầu thị trường, tìm kiếm khách hàng nên đã lựa chọn được cho mình những thị trường xuất khẩu chủ lực và tiềm năng bằng cách từng bước tập trung đầu tư nghiên cứu lựa chọn công nghệ sản xuất hiện đại và đồng bộ, nhanh chóng kiện toàn bộ máy tổ chức sản xuất đáp ứng theo các tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý và tay nghề công nhân phù hợp. Hai là, trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may, các doanh nghiệp Việt Nam đã rất thành công bước đầu trong việc đa dạng hoá chủng loại mặt hàng với các mặt hàng mới như áo phục vụ cho lễ hội Halloween, áo giáp cưỡi ngựa và có cả những mặt hàng phục vụ các vật nuôi trong nhà. Ba là, các doanh nghiệp đã chủ động trong việc đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường xúc tiến thương mại, nghiên cứu mẫu mốt, tham dự các hội chợ quốc tế, xây dựng website quảng cáo thương hiệu sản phẩm, từng bước phấn đấu thiết lập văn phòng đại diện tại các thị trường trọng điểm. Có thể thấy việc vận dụng các nguyên lý marketing quốc tế đã đem lại cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam một sức sống mới, một động lực mới để phát triển và vươn xa hơn nữa trên thị trường nước ngoài. 2.3.2. Nhược điểm Các doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở công tác khảo sát, nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại, nghĩa là mới tiếp cận marketing xuất khẩu mà chưa có những chiến lược, chính sách cụ thể để có thể thâm nhập hiệu quả nhất vào từng thị trường nhỏ lẻ như xuất khẩu trực tiếp, liên doanh xuất khẩu, thuê gia công xuất khẩu… Bên cạnh đó, việc vận dụng marketing - mix cũng mới chỉ tập trung chủ yếu vào sản phẩm và giá cả. Công tác phân phối và xúc tiến thương mại rất ít hoặc gần như chưa có. Do vậy, việc vận dụng triệt để và hiệu quả các nguyên lý marketing quốc tế có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp đứng vững, có khả năng cạnh tranh tốt và phát triển mạnh về nhiều mặt trong sự khốc liệt trên trường quốc tế. ***** Qua những phân tích và tìm hiểu về thể chế chính trị, kinh tế của thị trường EU nói chung và các đặc điểm của thị trường hàng dệt may EU nói riêng, chương II nêu lên những đánh giá và thực tiễn vận dụng marketing quốc tế trong xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Các lĩnh vực được xét đến là hoạt động nghiên cứu thị trường, hoạt động xây dựng chiến lược và kế hoạch Marketing - mix và hoạt động tổ chức thực hiện kế hoạch marketing quốc tế. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay đã thực sự chú trọng công tác nghiên cứu nhu cầu thị trường, tìm kiếm khách hàng nên đã lựa chọn được cho mình những thị trường xuất khẩu chủ lực và tiềm năng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp mới chỉ bước đầu vận dụng marketing quốc tế trong hoạt động khảo sát, nghiên cứu, lựa chọn và đánh giá nhu cầu thị trường xuất khẩu, tiến hành xúc tiến thương mại tức là chỉ vận dụng được marketing xuất khẩu - chỉ là một bộ phận của marketing quốc tế. Ngoài ra, việc vận dụng marketing - mix trong marketing quốc tế của doanh nghiệp mới chỉ chú trọng tập trung vào hai chính sách sản phẩm và giá cả sản phẩm mà công tác đầu tư thực hiện hai chính sách còn lại rất ít. Vì vậy, đến chương tiếp theo, một số giải pháp và kiến nghị được đưa ra nhằm phần nào khắc phục được những điểm còn yếu kém và phát huy những điểm mạnh của ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu vào EU dưới góc độ marketing quốc tế. CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP VẬN DỤNG MARKETING QUỐC TẾ NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG EU. 1. Mục tiêu, triển vọng của việc xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU. 1.1. Mục tiêu và triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đến 2010. Theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010, mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 là: Hướng vào xuất khẩu nhằm tăng nguồn ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng, chủng loại và giá cả, từng bước đưa ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cụ thể hơn là phải đa dạng hoá sản phẩm, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng kim ngạch xuất khẩu. Bảng 11 - Chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu đến năm 2010. Đơn vị Năm 2010 - Sản xuất Vải lụa triệu mét 2000 Sản phẩm dệt kim triệu sản phẩm 210 sản phẩm may triệu sản phẩm 1200 - Kim ngạch xuất khẩu triệu USD 4000 Hàng dệt triệu USD 1000 Hàng may triệu USD 3000 Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 - Bộ công nghiệp Nếu vào năm 2010 chúng ta đạt được chỉ tiêu đề ra là 2 tỷ m vải thì cũng mới chỉ bằng Thái lan bây giờ. Theo các nhà chuyên môn trong 2 tỷ mét vải đó, chúng ta sẽ dành một nửa để tiêu thụ ở thị trường nước ngoài với tổng giá trị dự kiến khoảng 4 tỷ USD, thông qua nhiều hình thức như cung ứng cho ngành may gia công xuất khẩu (khoảng 3 tỷ USD) xuất thành phẩm, xuất thô… Số còn lại sẽ tiêu thụ trong nước. Đối với các sản phẩm dệt kim, để đạt được mục tiêu đã đặt ra cũng sẽ gặp nhiều khó khăn vì mặc dù tiềm năng tiêu thụ nội địa cũng như xuất khẩu cao, những sản xuất các sản phẩm dệt kim không mấy phát triển do không kịp đổi mới về thiết bị và công nghệ phù hợp với yêu cầu đa dạng hoá sản phẩm nhanh chóng của thị trường để sản xuất các sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Theo Quyết định 161/1998/QDD-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyêt quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến 2010, dự kiến đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 4 tỷ USD trong đó chủ yếu là xuất khẩu hàng may (3 tỷ USD) còn giá trị xuất khẩu còn hàng dệt nhỏ (chiếm 1 tỷ USD) vì hiện nay hàng dệt may nội địa cũng không đáp ứng được yêu cầu nguyên liệu cho may xuất khẩu, Việt Nam chủ yếu phải nhập vải may gia công cũng như may xuất khẩu. Trong 9 tháng đầu năm 2006, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta đạt bình quân gần 460 triệu USD/tháng. Tính đến hết tháng 8/2006, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nước đã đạt trên 3,3 tỷ USD, tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái. Với kết quả này cùng với các hợp đồng, đơn hàng đang thực hiện, chắc chắn năm 2006 ngành dệt may Việt Nam sẽ đạt chỉ tiêu xuất khẩu từ 5,3 tỷ USD trở lên. Dự kiến đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sẽ vượt qua mốc 10 tỷ USD, tăng gấp đôi năm 2006. Theo Bộ công nghiệp, hiện nay Mỹ vẫn là thị trường nhập khẩu dệt may lớn nhất của Việt Nam, tiếp đến là thị trường EU và đứng thứ ba là thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên do nhiều doanh nghiệp dệt may đã hết hạn ngạch xuất khẩu sang thị trường của Mỹ nên xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU đầu năm 2006 có tốc độ tăng trưởng rất nhanh (trên 50%). Đạt được kết quả này, ngoài cơ chế quản lý, phân giao hạn ngạch được cải tiến, đối thủ cạnh tranh lớn của Việt Nam là Trung Quốc gặp khó khăn về quy định hạn ngạch khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ cũng phải kể đến sự cố gắng của các doanh nghiệp trong việc chủ động mở rộng, khai thác các thị trường phi hạn ngạch. Nếu không có biến động lớn, dự kiến ngành dệt may sẽ hoàn thành kế hoạch xuất khẩu năm 2006 là 5,8 tỷ USD. Theo Hiệp hội dệt may Việt Nam, dự báo, năm 2007, khi Việt Nam gia nhập WTO, Mỹ bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam và không áp đặt biện pháp chống phá giá thì kim ngạch xuất khẩu dệt may sẽ tăng trưởng mạnh hơn, có thể đạt 6,4 - 6,6 tỷ USD. Theo đánh giá của nhiều nhà nhập khẩu lớn của EU và Mỹ, ngành dệt may Việt Nam có khả năng xuất khẩu đạt khoảng 10 tỉ USD vào năm 2010 và nằm trong nhóm 10 nước xuất khẩu lớn trên thế giới.[30] Sản phẩm dệt may xuất khẩu được coi là mặt hàng mũi nhọn của nước ta và có thế cạnh tranh trong hội nhập thị trường khu vực và quốc tế, đã đứng vững trên thị trường Mỹ, các nước EU, Nhật Bản, đang mở rộng tới thị trường ra nhiều nước và khu vực khác. Việc hội nhập WTO cũng sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn mới; tiếp cận các kỹ thuật công nghệ cao và phương pháp quản lý tiên tiến, đặc biệt là của các nước phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản. Nhờ tiếp cận những công nghệ mới và cách quản lý tiên tiến này, các doanh nghiệp của ta có cơ hội nâng cao trình độ kỹ thuật và tay nghề cho người lao động, nâng cao năng suất, tiết kiệm chi phí, rút ngắn chu kỳ làm ra sản phẩm, đồng thời tạo ra sản phẩm mới đáp ứng được những yêu cầu khắt khe về chất lượng, mẫu mã của các nước nhập khẩu. Thách thức đặt ra đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là khả năng tận dụng cơ hội gia nhập WTO sắp tới thế nào để duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Trong lúc đó, sức cạnh tranh hiện nay của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế còn thấp so với Ấn Độ, Trung Quốc và các nước trong khối ASEAN… do giá thành sản phẩm còn cao. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là vì các loại chi phí trung gian còn quá lớn như thời gian làm thủ tục hải quan, chi phí vận chuyển, lưu kho, lưu bãi... Ngoài ra, tình trạng thiếu công nhân có tay nghề giỏi và lao động biến động cũng đang gây khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng của nhiều doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu đặt ra, ngành dệt may Việt Nam đang thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp: Đẩy mạnh đầu tư phát triển sản xuất bông, sợi, vải; Hình thành các trung tâm cung cấp nguyên phụ liệu đầu vào trên cơ sở khai thác các lợi thế của Việt Nam và các nước có nguồn cung cấp; Khai thác nguyên liệu đầu vào có hiệu quả nhất, chú trọng sử dụng nguyên liệu trong nước thay hàng nhập khẩu; Đổi mới công nghệ may gắn liền với nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, thiết kế mẫu mốt mới phù hợp thị hiếu khách hàng với chất lượng cao; Chuyển dịch các xí nghiệp may về các tỉnh có hệ thống giao thông thuận lợi để sử dụng nguồn lao động hiện có; Tổ chức tốt hệ thống đào tạo mới và đào tạo lại để nâng cao năng lực quản lý, tay nghề cho cán bộ, công nhân, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại... Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) đang khẩn trương thực hiện hàng chục dự án đầu tư phát triển mới, đồng thời kết hợp di dời các doanh nghiệp dệt nhuộm trong các thành phố ra khu công nghiệp đã quy hoạch đi liền với hiện đại hóa sản xuất để phát triển bền vững. Dự án đầu tư cụm công nghiệp dệt nhuộm tại Đà Nẵng đã đưa vào sản xuất giai đoạn I nhà máy dệt vải mộc Sơn Trà. Giữa tháng 5 vừa qua, Công ty dệt may Hoà Thọ đã đưa dây chuyền kéo sợi công suất 4.000 tấn/năm có vốn đầu tư 256,6 tỷ đồng vào hoạt động. Tại khu công nghiệp dệt may Phố Nối (Hưng Yên), dự án xử lý nước thải đã hoàn tất việc lắp đặt thiết bị và đang chạy thử liên động để sớm đưa vào vận hành. Nhà máy dệt kim đã nghiệm thu hầu hết các hạng mục thiết bị, công nghệ và đang chạy thử. Dự án đầu tư nhà máy nhuộm hoàn tất vải PE/TC đang được triển khai... Công ty dệt Phong Phú vừa ký hợp đồng liên doanh với tập đoàn ITG của Mỹ để xây dựng cụm dệt may hiện đại tại khu công nghiệp Hoà Khánh, thành phố Đà Nẵng với tổng số vốn đầu tư 80 triệu USD. Trong đó, tập đoàn ITG góp 60% tổng số vốn, dệt Phong Phú góp 40%. Đây là hợp đồng hợp tác đầu tiên về lĩnh vực dệt may được ký kết sau khi Việt Nam – Mỹ ký thoả thuận song phương về việc Việt Nam gia nhập WTO. Theo dự án, liên doanh sẽ sử dụng thiết bị, công nghệ tiên tiến nhất hiện nay của thế giới cho toàn bộ các công đoạn dệt, nhuộm, xử lý hoàn tất, may mặc và xử lý ướt trên sản phẩm may mặc. Sản phẩm chính của cụm dệt may là 60 triệu mét vải thành phẩm/năm và sản phẩm may mặc được tập trung vào mặt hàng cotton cao cấp, xuất khẩu 90% sản lượng hàng hóa. Dự kiến sau 18 tháng xây dựng nhà xưởng và lắp đặt hoàn chỉnh đồng bộ thiết bị, công nghệ, dự án sẽ chính thức hoạt động, thu hút 1.500 lao động và tạo việc làm cho nhiều cơ sở may gia công trên đại bàn.[15] 1.2. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may sang EU đến 2010 - Trong những năm 2000 - 2004, hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan (GSP) của EU và chỉ riêng hàng dệt may bị quản lý bằng hạn ngạch. Xuất khẩu hàng dệt may gần như phụ thuộc hoàn toàn vào hạn ngạch do phía EU ấn định vì những mặt hàng không bị ấn định hạn ngạch trong nhóm hàng dệt may xuất sang EU có kim ngạch nhỏ và không đáng kể. Năm 2004, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU như giầy dép, dệt may, thuỷ hải sản đang có ưu thế hơn so với các mặt hàng cùng loại của nước ASEAN khác có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam như Thái Lan, Inđônêxia… vì những mặt hàng của họ bị loại khỏi danh sách được hưởng GSP. Nguy cơ lớn nhất trong giai đoạn này đó là việc hàng dệt may Việt Nam phải đối mặt với một đối thủ nặng kí nhất là Trung Quốc và sự quay trở lại của các nước ASEAN sau thời kì khủng hoảng. Tuy có lợi thế về thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu vào EU, nhưng hàng dệt may Việt Nam vẫn ở trong tình trạng năng lực cạnh tranh kém. - Giai đoạn năm 2005 - 2010, hàng xuất khẩu Việt Nam khi thâm nhập EU khó khăn hơn thời kì 2000 - 2004. Tuy nhiên, hàng dệt may trong những năm gần đây vẫn có những bước biến chuyển tích cực. Trong 5 tháng đầu năm 2006, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào EU tăng 75% so với cùng kỳ năm trước, tập trung vào những mặt hàng chủ lực, có giá trị cao như quần tây, áo jacket, hàng thun…[2] Tóm lại, giai đoạn từ nay đến 2010 tuy không mấy thuận lợi, nhưng với cố gắng của Chính phủ và các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam vẫn sẽ phát triển, hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam sang EU sẽ chuyển biến theo hướng tích cực. 2. Các giải pháp vận dụng marketing quốc tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU. 2.1. Nghiên cứu và đánh giá lại thị trường EU Thị trường EU, sau khi mở rộng thành 25 nước thành viên là loại bỏ chế độ hạn ngạch đối với hàng may mặc, sẽ có nhiều thay đổi về chính sách thương mại, hệ thống thuế, xu hướng tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh. Những yếu tố này ảnh hưởng lớn tới khả năng cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU, cho nên cần nắm bắt tất cả các thông tin thị trường và liên tục cập nhật. Nghiên cứu và đánh giá những thông tin thị trường là cơ sở cho phân đoạn thị trường mà hàng may mặc Việt Nam sẽ tiếp cận với những nhóm khách hàng đó. Với nhóm khách hàng ưa thích kiểu dáng, hàng may mặc Việt Nam muốn cạnh tranh được với các đối thủ cạnh tranh phải có nhiều kiểu dáng khác nhau. Với nhóm khách hàng lựa chọn là hàng may mặc theo thương hiệu thì hàng may mặc Việt Nam cần xây dựng và phát triển thương hiệu. Nghiên cứu và đánh giá lại thị trường hàng may mặc EU cho phép hàng may mặc Việt Nam tiếp cận đúng với nhóm khách hàng theo tiêu chí chất lượng sản phẩm. Nhóm khách hàng mua hàng may mặc xa xỉ, đắt tiền rất thích những hàng may mặc kết hợp giữa sản xuất thủ công và hiện đại nhờ những hoạ tiết, chi tiết bằng thêu, ren, móc, đan bằng tay, đồng thời những sản phẩm này được làm bằng những chất liệu có chất lượng rất tốt. Với nhóm khách hàng có nhu cầu hàng may mặc với giá cả trung bình thì chất lượng của chất liệu bình thường. Nghiên cứu và đánh giá lại thị trường hàng may mặc EU không chỉ nhằm nhận biết nhu cầu khách hàng, mà còn nhận biết các đối thủ cạnh tranh và chiến lược cạnh tranh của đối thủ đối với hàng may mặc Việt Nam. Hiện có, khoảng 40 quốc gia xuất khẩu hàng may mặc trên thị trường EU, hàng may mặc của mỗi quốc gia có những khả năng cạnh tranh, lợi thế cạnh tranh và những hạn chế tương đối giống nhau do các quốc gia này đều là quốc gia đang hoặc kém phát triển. Cho nên, hàng may mặc nào có chiến lược cạnh tranh đúng đắn, tạo ra sự khác biệt sẽ đem lại khả năng cạnh tranh lớn cho hàng may mặc của quốc gia đó. 2.2. Hoàn thiện các chính sách Marketing mix 2.2.1. Chính sách sản phẩm. Sản phẩm dệt may có các đặc điểm cần chú ý sau: - Tính thay thế của sản phẩm là rất lớn. Sản phẩm dệt may có nhu cầu phong phú, đa dạng tuỳ theo đối tượng tiêu dùng (phụ thuộc vào văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo, điều kiện địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi tác…). - Giá trị thẩm mỹ được coi là quan trọng và trở thành một yếu tố quan trọng đối với các nhà sản xuất. Nó không chỉ đáp ứng nhu cầu mặc mà còn đáp ứng nhu cầu làm đẹp, nâng cao địa vị, đặc tính con người. Sản phẩm dệt may mang tính thời trang cao mà mốt thời trang ngày càng phát triển và thay đổi nhanh chóng. - Đối với sản phẩm dệt may, yếu tố thời vụ liên quan chặt chẽ đến thời cơ bán hàng vì chu kỳ sống của mốt thời trang là rất ngắn. - Nhãn mác sản phẩm có ý nghĩa rất lớn đối với tiêu thụ sản phẩm. Người tiêu dùng thường căn cứ vào nhãn mác để phán xét chất lượng sản phẩm. Từ các đặc điểm về sản phẩm, về tiêu thụ sản phẩm dệt may các doanh nghiệp mới có thể đưa ra các giải pháp về sản phẩm. Nhưng trước khi đưa ra chính sách sản phẩm cụ thể các doanh nghiệp cần phải đánh giá, phân tích sản phẩm của mình hiện có và khả năng thích ứng của nó trên thị trường. Đánh giá thông qua khả năng và mức độ thành công của sản phẩm trên thị trường; tìm và chỉ ra những khuyết tật phải thay đổi, cải tiến sản phẩm; đánh giá khả năng thích ứng của sản phẩm trên thị trường; phát huy các cơ hội bán hàng và việc tận dụng những cơ hội ấy. Nói chung một sản phẩm dệt may xuất khẩu muốn thích ứng được đầy đủ các yêu cầu của thị trường thì phải có: - Nhu cầu của thị trường với sản phẩm đó. - Hệ thống khả năng cung cấp - Sự am hiểu về phong tục tập quán, thói quen, thị hiếu tiêu dùng ở thị trường xuất khẩu. - Chất lượng sản phẩm … Qua phân tích trên có thể thấy chính sách sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam cần tập trung vào việc đa dạng hoá sản phẩm (kiểu dáng, kích cỡ, mẫu mã…), nâng cao chất lượng sản phẩm để thoát khỏi tình trạng sản xuất gia công hiện nay. 2.2.1.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm. Để cải thiện chất lượng sản phẩm các doanh nghiệp dệt may cần phải: - Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, bảo quản tốt, tránh xuống phẩm cấp. - Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, quy trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật bên đặt hàng cung cấp về mã hàng, qui cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì… - Tuân thủ đúng quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu. - Trong tương lai cần phấn đấu xuất khẩu theo điều kiện CIF, chủ động trong thuê tàu vận chuyển và bảo hiểm, tránh rủi ro tổn thất và suy giảm chất lượng thành phẩm. 2.2.1.2. Đa dạng hoá kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm. Đối với các mặt hàng nước ta chủ động sản xuất thì yếu tố này là rất quan trọng, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm bắt nhanh nhạy, linh hoạt vì yếu tố thời trang luôn biến động. Muốn vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần phải: - Các doanh nghiệp may hợp tác với các Viện mốt hoặc thuê chuyên gia mốt của nước ngoài để đẩy nhanh quá trình hoà nhập vào thị trường thế giới. - Tập trung đầu tư công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu mã vải và sản phẩm may. - Khắc phục khó khăn về thiếu nguồn tài chính và nhân lực trong khâu thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm mới thông qua việc trao đổi bản quyền giữa các công ty và tranh thủ sự hỗ trợ của nhà nhập khẩu cũng như đại diện của mạng lưới phân phối tại nước nhập khẩu. 2.2.1.3. Vấn đề nhãn hiệu sản phẩm Khi chưa có tên tuổi trên thị trường thế giới thì cách tốt nhất để xâm nhập thị trường là mua bằng sáng chế, nhãn hiệu của công ty nước ngoài để làm ra sản phẩm của họ với giá rẻ hơn, qua đó thâm nhập vào thị trường thế giới bằng sản phẩm "sản xuất tại Việt Nam". Đồng thời tăng cường công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá. Để xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm dệt may Việt Nam cần khẳng định vị trí trên thị trường thế giới bằng nhãn hiệu của mình. Tuy nhiên đăng ký nhãn hiệu chi phí rất lớn, vì vậy để tiết kiệm chi phí các doanh nghiệp có thể kết hợp với nhau để đăng ký một nhãn hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm. 2.2.2. Chính sách giá. Giá của hàng dệt may phải linh động, đáp ứng được sự thay đổi của cung và cầu trên thị trường. Do đó để hình thành một mức giá phù hợp rất cần thiết phải có sự theo dõi, nghiên cứu chặt chẽ sự biến động của thị trường. Các công ty xuất nhập khẩu định giá mua, giá bán thì trong khoảng chênh lệch giữa giá mua và giá bán đã bao gồm một khoản lợi nhuận. Nhưng điều đó không có nghĩa là định giá bán cao thì lợi nhuận càng cao và ngược lại, mà giá bán còn phụ thuộc vào khả năng chấp nhận của thị trường, của sản phẩm thay thế, của đối thủ cạnh tranh. Trên thực tế, các bước phân tích hoà vốn, phân tích độ co dãn của cầu là quan trọng nhưng tốn kém về thời gian và chi phí. Do đó với chi phí để mua hàng và tính toán các khoản khác trên cơ sở nghiên cứu thị trường về các mức giá khác nhau mà từ đó các công ty định giá bán. Hiện nay giá xuất khẩu của các công ty được tính theo giá FOB. Các công ty nên có một khung giá được xây dựng với từng thời kỳ dựa trên giá cả thị trường, giá của các đối thủ cạnh tranh, giá nguyên phụ liệu. Việc ra quyết định trong lĩnh vực giá rất phức tạp, nó đòi hỏi phải tính đến nhiều yếu tố như: - Giá thành của sản phẩm hoặc ít nhất là ước lượng của nó theo những cách tính toán khác nhau. - Thăm dò phản ứng của khác hàng với các mức giá khác nhau đó. - Giá cạnh tranh và phản ứng của nó. - Sự can thiệp có thể có của Chính phủ đối với giá cả. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể thực hiện các chiến lược giá để cạnh tranh và để mở rộng thị trường. Có thể bán hạ giá lần đầu cho khách hàng và sau khi khách hàng đã trở lên quen thuộc thì có thể chuyển sang biện pháp hạ giá từng đợt. 2.2.3. Hoàn thiện hệ thống kênh phân phối. Các chính sách phân phối hàng dệt may phải tập trung vào giảm dần số trung gian, cố gắng xuất khẩu trực tiếp sang nước nhập mà không cần thông qua nước thứ ba. Điều này hiện nay không thể thực hiện ngay được vì còn nhiều cản trở trong môi trường chính trị phải thích ứng. Nhưng hệ thống kênh phân phối của các công ty cần phải được rút ngắn lại, đặc biệt đưa hàng hoá trực tiếp đến tay người tiêu dùng. Điều này không những mang lại nhiều lợi nhuận mà còn hỗ trợ cho việc thu thập thông tin, giành được nhiều đơn đặt hàng hơn, tránh tình trạng chỉ cần giao hàng cho trung gian là xong như hiện nay. Trước mắt vẫn phải củng cố các bạn hàng trung gian là Hồng Kông và Đài Loan vì họ đã tạo được uy tín trên thị trường thế giới. Các công ty cần phải thông qua nó để sản xuất gia công sang các thị trường khác. Tuy nhiên về lâu dài khi đã có đủ điều kiện chúng ta nên thiết lập kênh phân phối trực tiếp. Để thuận lợi hơn cho việc tiếp cận trực tiếp thị trường xuất khẩu, có thể có những phương pháp sau: - Sử dụng đại lý hay chi nhánh bán ở nước ngoài (bán cho các nhà bán lẻ). Phương pháp này không những bán trực tiếp sản phẩm tới tay người tiêu dùng mà còn có thể thu thập được các thông tin trên thị trường. - Liên doanh: Liên doanh giữa hai bên bạn hàng sở hữu có thể là một phương pháp rất có hiệu quả trong khai thác các cơ hội xuất khẩu. Chi phí thành lập và vốn ban đầu do hai bên thoả thuận và nó tùy thuộc vào thị trường. Thành lập liên doanh có lợi do hợp nhất chuyên môn của cả hai bên và thuận lợi hơn cho việc sử dụng đại lý vì đối tác có trách nhiệm cao hơn đối với mục tiêu chung. - Sử dụng đại lý độc quyền ở địa phương: Là phương pháp truyền thống và rất quan trọng để tổ chức bán hàng ở nước ngoài, đặc biệt là những nước công nghiệp phát triển, điều quan trọng là phải chọn được đại lý đủ trình độ, kinh nghiệm và có thể cung cấp thông tin trở lại cho công ty… Khi quyết định một phương thức phân phối mới cần phân tích tỉ mỉ, thận trọng, để quyết định thời điểm thuận lợi nhất cho việc thâm nhập. Có thể căn cứ vào những tiêu chuẩn như tính chất sản phẩm, tình hình Marketing, khối lượng bán, hệ thống phân phối đang sử dụng trên thị trường, chi phí vận tải so với tổng chi phí, mức độ rủi ro mà công ty sẽ chấp nhận, khả năng vốn của công ty. Ngoài việc hoàn thiện hệ thống kênh phân phối cần phải đảm bảo yêu cầu về giao hàng đúng hạn. Đây là yêu cầu rất quan trọng với sản phẩm dệt may do yếu tố thời vụ và thời trang là một trong những yếu tố quyết định về tính cạnh tranh của nhóm hàng này, vì vậy cần phải chủ động vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá, sắp xếp kế hoạch sản xuất ngay sau khi có đơn đặt hàng. Nói chung, trong vài năm tới ngành dệt may Việt Nam vẫn chưa đủ "nội lực" để xuất khẩu trực tiếp, việc xuất khẩu thông qua các nước trung gian và hình thức chủ yếu. Bởi vậy chúng ta phải thông qua nó để tạo lập uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới bằng những ưu thế riêng biệt, đồng thời học hỏi kinh nghiệm của chính những nước trung gian đó và các nước khác, từng bước tạo tiền đề để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp. 2.2.4. Đẩy mạnh truyền tin và xúc tiến hỗn hợp. Hoạt động xúc tiến của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu hướng vào thị trường nội địa, do đó việc mở rộng hoạt động này ra thị trường quốc tế là rất cần thiết. Các hoạt động xúc tiến khuyếch trương cùng một lúc phải hướng vào cả hai đối tượng là người tiêu dùng cuối cùng và các nhà nhập khẩu, nhà bán buôn, bán lẻ. Về hoạt động quảng cáo. Đây là phương pháp quan trọng trong hình thái thị trường cạnh tranh. Quảng cáo không chỉ đơn thuần là vấn đề thông tin mà còn thuyết phục người mua. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, do tài chính còn hạn hẹp nên phải biết sử dụng tập trung và có mục tiêu cụ thể. Với các phương tiện thông tin đắt tiền như TV, đài, cần cân nhắc kỹ về hiệu quả và chi phí. Nhưng quảng cáo qua thư tín dụng, catalog hay các tài liệu dùng tại điểm bán hàng thì nên đẩy mạnh hơn. Ngoài ra có thể quảng cáo qua các ấn phẩm của ngành, của công ty và nhấn mạnh những ưu thế của mình. Các tạp chí chuyên ngành, tạp chí thời trang ở nước ngoài cũng là những địa chỉ đáng tin cậy. Việc sử dụng tài liệu tại điểm bán hàng ở các cửa hàng bán lẻ hay nơi trưng bày triển lãm cũng có hiệu quả mà chi phí không cao. Những tài liệu này phải cung cấp nhiều thông tin cho việc thiết lập và củng cố uy tín sản phẩm. Về xúc tiến bán. Các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam cũng cần phải làm sao để tạo lòng tin cho khách hàng. Các công ty có thể gửi hàng mẫu đến các khách hàng tiềm năng và khuyến khích dùng, kịp thời nắm bắt những phản ứng của họ đối với sản phẩm, thời gian giao hàng… để sửa đổi kịp thời. Các công ty có thể tổ chức những hội nghị khách hàng theo định kỳ, chủ yếu đối với khách hàng nước ngoài, nhằm giới thiệu cho họ thấy rõ khả năng của công ty trong việc đáp ứng tốt nhu cầu của họ. Nếu làm tốt việc này hiệu quả sẽ cao vì theo tâm lý của một số khách hàng đến với ngành may Việt Nam là để có được những đơn đặt hàng sản xuất tại chỗ với giá rẻ tương đối so với những thị trường khác. Về bán hàng cá nhân. Chúng ta có thể học tập kinh nghiệm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Trung Quốc, Thái Lan, đó là cử nhân viên mang sản phẩm mẫu đi chào hàng trực tiếp với các công ty nhập khẩu hàng dệt may. Để có bước đi này cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tìm hiểu kỹ về hệ thống phân phối ở các nước nhập khẩu thông qua các phòng thương mại, các đại diện thương mại và phải có một đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm hoặc có thể thuê nhân viên tiếp thị người bản xứ ở các thị trường giàu tiềm năng dưới hình thức trả hoa hồng theo hợp đồng mà họ ký được, đây cũng là một phương pháp hữu hiệu. 2.3. Phân tích SWOT Trong hoàn cảnh mới, ngành may Việt Nam đang có nhiều cơ hội, song cũng đứng trước những thách thức lớn. Phân tích S.W.O.T (Strengths Điểm mạnh, Weaknesses Điểm yếu, Opportunities Cơ hội, và Threats - Nguy cơ, thách thức) đối với ngành may Việt Nam có thể nêu ra những nét chủ yếu về năng lực cạnh tranh của ngành trong những năm trước mắt. Bảng 12 - Đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng may Việt Nam trên cơ sở phân tích ma trận S.W.O.T. Strengths (Điểm mạnh) - Có nguồn nhân công dồi dào và có trình độ; - Lương giờ bình quân thấp; - Chi phí sản xuất/ 1 phút thấp hơn nhiều nước trong khu vực; - Yêu cầu đầu tư tối thiểu đối với chủ doanh nghiệp; - Phương tiện gửi hàng và vận chuyển quốc tế thuận lợi và có chi phí thấp; - Miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu; - Hầu hết các doanh nghiệp được trang bị tốt và có độ ngũ công nhân được đào tạo tốt; - Đội ngũ quản lý có kỹ năng kinh doanh và đang chuyển sang hình thức tiếp cận trực tiếp với khách hàng.       Weaknesses (Điểm yếu) - Giá trị gia tăng trong nước thấp do duy trì quá lâu hình thức gia công; - Chưa chủ động tạo được nguồn nguyên phụ liệu trong nước phù hợp yêu cầu sản xuất hàng xuất khẩu; - Sự liên kết với khách hàng kém phát triển: quá phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài, ít mối liên hệ với khách hàng cuối cùng; - Khả năng tiếp thị hạn chế, đặc biệt trong việc đột phá thị trường mới; - Hầu như chưa có thương hiệu riêng và chủng loại sản phẩm còn hạn chế; - Việc đào tạo còn hạn chế, đặc biệt đối với quản lý chuyên ngành; - Thu nhập của phía Việt nam chủ yếu dựa trên chi phí gia công, vì thế hạn chế lợi nhuận và khả năng tăng vốn.   Opportunities (Cơ hội) - Có cơ hội nâng cao hiệu quả và kỹ năng tiếp thị trong gia công để chuyển sang xuất FOB; - Độ co dãn về thu nhập lớn cho thấy nhu cầu thuận lợi đối với xuất khẩu; - Tỷ giá hối đoái thực tế của VND trên một số thị trường đang yếu đi làm tăng khả năng xuất khẩu hàng vào các thị trường đó; - Một số công ty đã thành công trong phát triển các sản phẩm đặc biệt tại thị trường trên cơ sở xuất FOB; - Các số liệu xuất khẩu quá khứ cho thấy các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là EU. Threats (Nguy cơ, thách thức) - Tính khốc liệt trong cạnh tranh ở tất cả các thị trường đang tăng; - AFTA sẽ giảm các hàng rào thương mại ở châu á và khuyến khích cạnh tranh khu vực; - Nhân công một số nước trong khu vực rẻ hơn, như Inđônêxia, Bangladesh; - Chi phí cho các dịch vụ thuộc kết cấu hạ tầng cao: cước phí điện thoại, dịch vụ viễn thông, giá điện, nước… - Cạnh tranh khốc liệt từ phía Trung Quốc do ở đó công nghiệp dệt và phụ liệu đã phát triển, và có nguồn nhân công rẻ hơn, năng suất lao động cao hơn; - Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO.    Trên cấp độ ngành thì khả năng cạnh tranh của hàng may Việt Nam chủ yếu được tạo ra bởi nguồn nhân lực. Một thuận lợi cho hàng xuất khẩu nói chung và cho việc xuất khẩu hàng may nói riêng là đồng tiền Việt Nam có xu hướng yếu đi trên các thị trường, điều này tạo điều kiện cho việc cạnh tranh về giá. Ở cấp độ doanh nghiệp và sản phẩm thì khả năng cạnh tranh của hàng may Việt nam là rất thấp, do các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc xây dựng và phát triển thương hiệu và mẫu mã sản phẩm, chưa chú trọng đến khâu thiết kế kiểu dáng sản phẩm. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, một số điểm mạnh của ngành dệt may Việt Nam cũng như các cơ hội mà chúng ta có thể tận dụng được hiện nay chỉ mang tính tạm thời, trong tương lai dài có thể không còn hoặc biến thành các nguy cơ. Tuy nhiên hiện nay Trung Quốc, Đài Loan đã gia nhập WTO và trong tương lai gần Việt Nam cũng sẽ gia nhập tổ chức này. Vì vậy các nước dỡ bỏ hạn ngạch dệt may chỉ còn là vấn đề thời gian. Khi hạn ngạch bị dỡ bỏ thì hàng may Việt Nam sẽ khó cạnh tranh được với sản phẩm của các nước khác. Một thuận lợi hiện nay của ngành may Việt Nam mà trong tương lai có thể trở thành một nguy cơ là giá nhân công thấp, bởi vì khi gia nhập WTO các doanh nghiệp phải trả công cho người lao động theo những chuẩn mực chung, khi đó nếu các doanh nghiệp may tiếp tục trả công thấp thì các nước sẽ không chấp nhận nhập khẩu sản phẩm của họ. Còn nếu tăng tiền công thì lượng đơn đặt hàng gia công có thể sẽ giảm đi đáng kể. Để phát huy các điểm mạnh và khắc phục điểm yếu, có thể sử dụng các biện pháp sau: Thực thi chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm. Phần lớn hàng may của Việt Nam xuất khẩu trong thời gian qua là hàng gia công cho các nước, vì vậy các doanh nghiệp đơn vị gia công chưa quan tâm nhiều đến vấn đề thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp may Việt Nam cần có nhận thức đúng đắn và đầu tư thích đng cho hoạt động này. Làm tốt công tác đào tạo các nhà thiết kết mẫu sản phẩm may có trình độ quốc tế để có thể sáng tạo và chủ động tạo ra các sản phẩm mới, đa dạng, có tính khác biệt và hấp dẫn người tiêu dùng, tránh thụ động làm theo các đơn đặt hàng của các hãng lớn ở các nước hoặc bắt chước mẫu của người khác. Một hạn chế lớn của hàng may Việt Nam là thường làm theo kiểu dáng của các sản phẩm mà các nước khác đã làm, ít có tính sáng tạo và độc đáo. Nâng cao năng suất lao động để hạ giá thành sản phẩm. Ngành may mặc Việt Nam có ưu thế là giá nhân công rẻ nhưng tổng chi phí cho một đơn vị sản phẩm lớn hơn so với nhiều nước khác. Lợi thế giá nhân công rẻ sẽ mất đi khi chúng ta gia nhập WTO và Chính phủ cải cách tiền lương. Để hạn giá thành sản phẩm, ngoài việc hiện đại hoá công nghệ thì điều quan trọng là phải nâng cao tay nghề và kỹ năng của công nhân để nâng cao năng suất lao động ngành. Giữ gìn chữ tín trong kinh doanh. Chữ tín ở đây không chỉ giới hạn trong vấn đề chất lượng, giao nhận và thanh toán mà còn trong việc kinh doanh theo thông lệ và cam kết quốc tế. Đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở phát triển vững chắc thị trường trong nước. Thị trường trong nước là nơi có khả năng tạo ra nhiều giá trị gia tăng và lợi thuận hơn so với thị trường ngoài nước, giúp cho các doanh nghiệp có thêm nguồn đầu tư phát triển, là nơi bắt đầu của quá trình xây dựng thương hiệu và uy tín của sản phẩm. 3. Một số kiến nghị đối với toàn ngành dệt may Việt Nam 3.1. Các kiến nghị mang tính vĩ mô 3.1.1. Chính sách về đầu tư phát triển Các chính sách về đầu tư phải được tính toán trên phạm vi toàn ngành, tập trung vào ngành dệt và sản xuất phụ liệu may, đầu tư chọn lọc theo mặt hàng có thế mạnh nhằm tạo khả năng liên kết, hợp tác và khai thác tốt hơn năng lực thiết bị. Ngành dệt đòi hỏi vốn đầu tư lớn, cần có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án sản xuất nguyên phụ liệu may đối với đầu tư nước ngoài vào ngành này. Đầu tư của nhà nước phải tập trung cho các công trình trọng điểm để sản xuất ra các sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn xuất khẩu. 3.1.2. Chính sách về thị trường xuất khẩu Phát triển thị trường xuất khẩu theo phương châm đa dạng hoá. Tăng cường vai trò các tổ chức xúc tiến thương mại của nhà nước, hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác Marketing. Bên cạnh việc tìm hiểu, cung cấp các thông tin về thị trường, giá cả, các đặc điểm về kinh tế, văn hoá, xã hội cũng như bản sắc truyền thống dân tộc của các quốc gia cần phải có những chính sách tiếp cận, khai thông và phát triển với từng thị trường cụ thể. 3.1.3. Chính sách về nguyên liệu và phát triển sản phẩm Nhà nước cần phải có qui hoạch phát triển vùng nguyên liệu các loại tơ sợi thiên nhiên cho ngành dệt và các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho ngành dệt. Khuyến khích đầu tư cho sản xuất phụ liệu và sản xuất vải đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, giảm bớt phụ thuộc của ngành may vào nguồn nguyên liệu nhập ngoại. Nâng cao hiệu quả và chất lượng của hàng may gia công, tạo dựng và củng cố uy tín trên thị trường thế giới đồng thời tạo lập cơ sở để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp. Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư cho khâu thiết kế và sản xuất hàng mẫu, đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ đủ khả năng thiết kế mẫu mã đồng thời hỗ trợ cho công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, tạo điều kiện đưa các sản phẩm thương hiệu Việt Nam ra thị trường EU. 3.1.4. Chính sách về phát triển khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ. Cần phải có sự kết hợp hài hoà giữa việc nhập thiết bị công nghệ hiện đại với thiết bị công nghệ đã qua sử dụng, vừa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản phẩm, vừa cân đối được vốn đầu tư cho trang thiết bị và đảm bảo tính cạnh tranh về giá cả của sản phẩm xuất khẩu trên cơ sở tính hiệu qủa kinh tế. Ưu tiên đầu tư cho công nghệ thiết kế trên máy vi tính nhằm nâng cao năng lực sáng tạo mẫu mã. Có các chính sách khuyến khích đầu tư với các dự án sản xuất sản phẩm mới theo tiêu chuẩn ISO 14000, ISO 9000… Nghiên cứu áp dụng khoa học về nguyên liệu mới, về vật liệu mới, về công nghệ và thiết bị đang còn bỏ trống sớm đầu tư thích đáng về cơ sở tạo mốt và nâng cao nghiệp vụ tạo mốt. 3.1.5. Chính sách về tổ chức quản lý và đào tạo Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ khuyến khích và thu hút các học sinh có khả năng theo học ngành công nghệ dệt may, khắc phục tình trạng thiếu kĩ sư dệt may như hiện nay. Đầu tư cho các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu sản xuất theo dây chuyền hiện đại, nhằm đào tạo một đội ngũ công nhân có tay nghề cao, thực sự trở thành thế mạnh về nhân lực của ngành dệt may Việt Nam. Ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế thời trang và Marketing, khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành may xuất khẩu trong khâu thiết kế mẫu mốt và xúc tiến thị trường, từng bước tạo lập cơ sở để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam, đồng thời có chính sách hỗ trợ đảm bảo công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập ổn định. Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may trên phạm vi cả nước theo phương châm gắn vùng công nghiệp dệt với vùng nguyên liệu, công nghiệp may với các trung tâm tiêu thụ và xuất khẩu nhằm giảm bớt được chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 3.1.6. Chính sách thuế và các thủ tục xuất khẩu. Cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên phụ liệu, nhập hàng mẫu, nhập bản vẽ để thực hiện các hợp đồng gia công xuất khẩu hiện vẫn còn rườm rà, mất thời gian, gây khó khăn cho doanh nghiệp đặc biệt là với các hợp đồng gia công xuất khẩu có thời hạn ngắn. Đơn giản thủ tục hoàn thuế nhập khẩu và xây dựng mức thuế chi tiết cho các loại nguyên liệu nhập khẩu. Thủ tục cho xuất khẩu cần tránh bớt phiền hà, đối với thị trường xuất khẩu phi hạn ngạch như EU nên bỏ đòi hỏi giấy phép xuất khẩu chuyến. Tổng cục Hải quan cần có cán bộ nắm được chuyên môn của ngành dệt may và nên có thông tin chuyên ngành từ Tổng công ty dệt may để làm căn cứ giúp cho sự kiểm tra, giám sát chính xác hợp đồng các doanh nghiệp dệt may cũng như quản lý giá cả, tính thuế, định mức, sơ đồ mẫu vật tư từ ngành dệt may. 3.1.7. Một số biện pháp khác. Nhà nước cần có sự điều tiết về tỷ giá hối đoái: Trong thời gian qua có ý kiến cho rằng nếu loại trừ yếu tố lạm phát của USD và VNĐ thì thực tế VNĐ đã lại giảm giá khá mạnh. Do đó chính phủ cần phải tiến hành một chính sách tỷ giá linh hoạt, lấy việc ổn định giá thực tế làm mục tiêu điều chỉnh giá danh nghĩa. Đây là cơ sở để tiến hành thành công chất lượng mở cửa nền kinh tế, khuyến khích hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế và đẩy nhanh sự phát triển nền kinh tế đất nước. Nhà nước nên có các biện pháp để bảo đảm tính ổn định sản xuất, thị trường đặc biệt ổn định hạn ngạch cho các doanh nghiệp đã thực hiện tốt hạn ngạch được cấp. Việc tổ chức đấu thầu hạn ngạch cần hết sức thận trọng. Đối tượng dự thầu phải là những doanh nghiệp thực sự sản xuất, xuất khẩu hàng có uy tín, có chất lượng cao trong những năm qua. Đồng thời tăng cường việc kiểm tra kiểm soát đánh giá thực chất việc thực hiện hạn ngạch, chỉ cấp hạn ngạch cho các doanh nghiệp thực sự sản xuất hàng xuất khẩu đi các thị trường có hạn ngạch. Bộ Thương mại cần tăng cường đàm phán thương mại để mở rộng thị trường và giành ưu đãi cho việc xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đi các thị trường đặc biệt là thị trường EU. Nhà nước cũng cần phải có chính sách hỗ trợ tài chính, cơ sở hạ tầng, đất đai, lao động đối với các doanh nghiệp nhỏ, vừa mới thành lập vì loại hình này thích hợp với kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may gia công xuất khẩu. Ngoài ra có thể duy trì quỹ hạn ngạch dùng để thưởng cho các doanh nghiệp mở mang thị trường mới, tăng mặt hàng xuất khẩu… và hàng năm tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu để trao đổi thông tin, tìm kiếm giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may hoặc có thể thành lập câu lạc bộ 100 doanh nghiệp hàng dệt may xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, từ đó giới thiệu với khách hàng trong và ngoài nước… Trên đây là một số kiến nghị đối với Nhà nước nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu mặt hàng dệt may. Tuy nhiên những biện pháp này không tránh khỏi thiếu sót nhưng cũng phần nào đưa ra những thuận lợi và khó khăn để có thể khắc phục, bổ sung cho phù hợp với thực tế. 3.2. Các kiến nghị mang tính vi mô 3.2.1. Quảng bá sản phẩm: Thông qua mạng Internet, văn phòng thương mại, tham tán thương mại, người môi giới… để người tiêu dùng và các nhà phân phối biết đến sản phẩm dệt may Việt Nam nhiều hơn. Hệ thống phân phối của EU rất chặt chẽ, người tiêu dùng EU lại quen và ưa thích sử dụng sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Vì vậy, để thâm nhập thị trường này nên thực hiện hình thức liên doanh, sử dụng giấy phép, nhãn hiệu của các hàng hoá nổi tiếng, thông qua đó, tiếp cận các nhà sản xuất lớn, các hãng phân phối lớn, tạo uy tín và mối quan hệ để kí hợp đồng xuất khẩu trực tiếp mà không phải qua nước trung gian thứ ba, dần dần trở thành một mắt xích trong mạng lưới phân phối. 3.2.2. Đa dạng hoá sản phẩm: Thời trang là yếu tố được khách hàng EU rất quan tâm, vì vậy cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu thị hiếu của mỗi nhóm khách hàng, nắm bắt kịp thời những khuynh hướng thời trang mới để cải tiến sản phẩm về cơ cấu, kiểu dáng, mẫu mã, màu sắc… Đẩy mạnh đầu tư, hình thành một trung tâm thiết kế thời trang để nghiên cứu tạo mẫu cho vải, thiết kế mẫu cho may xuất khẩu, chủ động tạo ra mẫu mốt mới. Nghiên cứu nắm bắt thông tin về đối thủ cạnh tranh để có chính sách phát triển sản phẩm phù hợp. 3.2.3. Nâng cao chất lượng sản phẩm: Thông qua kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 và hệ thống trách nhiệm xã hội SA8000. Tuân thủ quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu để bảo đảm uy tín của sản phẩm xuất khẩu. 3.2.4. Đẩy mạnh liên kết: Tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước để khai thác tốt hơn nguồn nguyên liệu tại chỗ, nâng cao hiệu suất sử dụng trang thiết bị. Thông qua liên kết thúc đẩy các doanh nghiệp đi theo hướng chuyên môn hoá cao, từ đó có điều kiện đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. Mở rộng và hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nghiên cứu thị trường, chia sẻ thông tin thị trường, quảng bá sản phẩm, tìm kiếm khách hàng… để hướng đến xuất khẩu trực tiếp hoặc liên doanh đầu tư trực tiếp. Hiện nay EU dành cho sản phẩm dệt may của Lào mức thuế suất là 0%, do đó nếu các doanh nghiệp Việt Nam liên kết được với các doanh nghiệp của Lào để tạo ra hàng hoá có xuất xứ từ Lào sẽ có giá cả cạnh tranh và thâm nhập thị trường này thuận lợi hơn. ***** EU là thị trường tiềm năng, thu hút hàng dệt may xuất khẩu của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Với một thị trường lớn nhất thế giới, với việc dỡ bỏ hạn ngạch xuất khẩu cho hàng dệt may Việt Nam được tự do vào thị trường này, có thể xem đó là những cơ hội để Việt Nam khai thác những tiềm năng của thị trường đầy sức hấp dẫn này. Sản phẩm dệt may của Việt Nam là mặt hàng có lợi thế so sánh quốc tế, lại đang có thị trường xuất khẩu, tỉ suất đầu tư không lớn, thời gian đầu tư nhanh, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ tạo cơ sở quan trọng để thực hiện “Chương trình đầu tư tăng tốc phát triển ngành dệt may” cũng như mục tiêu xuất khẩu của Việt Nam đến 2010. KẾT LUẬN Có thể nói ngành dệt may Việt Nam đã có những bước đi đúng hướng và đang trên đà phát triển. Xuất khẩu hàng dệt may đã, đang và sẽ là ngành quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Với thị trường xuất khẩu đang ngày càng được mở rộng, hàng dệt may đã vượt qua các mặt hàng khác vươn lên vị trí số 1 trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và hiện nay đang đứng thứ hai (sau dầu thô). Năm 1992, Hiệp định Dệt may giữa Việt Nam với EU được ký kết đánh dấu một mốc quan trọng trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Những Hiệp định bổ sung năm 1995, 1997, 2000 và 2003 đã mở rộng hạn ngạch cho hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU. Đặc biệt, ngày 31 tháng 12 năm 2004, Việt Nam và EU đã ký thoả thuận về việc tạo điều kiện cho hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu tự do vào thị trường EU tạo cơ hội cho dệt may Việt Nam bình đẳng với các nước thành viên WTO khi tiếp cận thị trường EU. Mặc dù vậy ngành dệt may Việt Nam vẫn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn và vẫn còn những tồn tại chưa vượt qua được như phải cạnh tranh với hàng của các nước Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia, EU là thị trường nổi tiếng khó tính với những đòi hỏi nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng… Trên cơ sở thực tiễn đó, khoá luận đã nêu lên những thực tiễn vận dụng Marketing quốc tế trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam và thực trạng vận dụng hoạt động này ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị Marketing quốc tế nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Hy vọng rằng khoá luận này sẽ đóng góp một phần hết sức nhỏ bé vào sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam. Với vốn kiến thức còn hạn chế, khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy cô giáo bộ môn và trong khoa góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TS Ngô Xuân Bình, Giáo trình lý thuyết marketing, NXB Thống kê Hà Nội 2004 CNTT số tháng 6/2006 (trang 2) Philip R. Cateora (1997), International Marketing, Mc Graw-hill International Editions Nguyễn Thị Ngọc Diệp, Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 5 (71) (2006), Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU, Viện Nghiên cứu Châu Âu. Đặng Minh Đức, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 2 (68) (2006), Những đặc điểm cơ bản của thể chế chính trị Liên minh Châu Âu, Viện Nghiên cứu Châu Âu. Joel R. Evans, Barry Berman (1990), Marketing, Mac Millan Publishing Company TS Phạm Thu Hương, Bài giảng Marketing quốc tế, Khoa Kinh tế Ngoại thương, Đại học Ngoại thương Hà Nội Nguyễn Hoàng Khiêm, Bộ Thương Mại, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 1 (67) (2006), Tình hình xuât khẩu hàng dệt may Việt Nam và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU, Viện Nghiên cứu Châu Âu. Nguyễn Bách Khoa (2004), Chiến lược kinh doanh quốc tế:Dùng cho các chuyên ngành thương mại quốc tế & quản trị kinh doanh quốc tế của trường Đại học Thương mại, NXB Thống kê Nguyễn Bách Khoa (chủ biên), Phan Thu Hoài (2003), Marketing Thương mại quốc tế, NXB Thống kê, Đại học Thương Mại Philip Kotler (1994), Marketing căn bản, NXB Thống kê, trang 9 Philip Kotler (1996), Marketing management, Prentice Hall Mở rộng EU và các tác động đối với Việt Nam (2004), NXB Chính trị Quốc gia Nguyễn Xuân Quế (1996), Môi trường Marketing với hciến lược kinh doanh của công ty, xí nghiệp hiện nay, Luận án PTS KHKT, Đại học Kinh tế quốc dân Tạp chí dệt may & Thời trang số tháng 10-2006 Tập thể tác giả Trường Đại học Ngoại thương (2000), Giáo trình Marketing lý thuyết, NXB Giáo dục Hà Nội TS Vũ Phương Thảo, Giáo trình nguyên lý marketing, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội PGS. TS. Nguyễn Quang Thuấn, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 1 (67) (2006), Liên minh Châu Âu năm 2005: Triển vọng và thực trạng, Viện Nghiên cứu Châu Âu. Ths. Ninh Thị Thu Thuỷ, trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 6 (72) (2006), Sản phẩm dệt may Đà Nẵng tìm chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU Ths. Nguyễn Anh Tuấn, Tạp chí Chiến lược chính sách công nghiệp số 6 (2006), Các giải pháp thiết yếu nâng cao khả năng cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU, Đại học Kinh tế Quốc dân Tài liệu thu thập từ các website: CBI (18/10/2006): Cổng giao dịch điện tử ngành dệt may Việt Nam (8/10/2006): 23. http//www.europa.eu.int (15/10/2006): “First estimates for the third quarter of 2005: Euro-zone and EU25 GDP up by 0.6%” http//www.europa.eu.int (15/10/2006): “Second estimate for the second quarter of 2006: Euro area and EU25 GDP up by 0.9%” http//www.europa.eu.int (15/10/2006): “Provision of deficit and debt data for 2005: Euro area and EU25 government deficit at 2.4% and 2.3% of GDP respectively” http//www.europa.eu.int (15/10/2006): “August 2006: Euro area external trade deficit 5.8 bn euro” . http//www.europa.eu.int (15/10/2006): “September 2006: Euro area annual inflation down to 1.7%, EU25 down to 1.9%” http//www.europa.eu.int (15/10/2006): “August 2006: Euro area unemployment up to 7.9%, EU25 unchanged at 8.0%” E-trade news, báo Thương mại Thị trường, Trung tâm thông tin thương mại, Bộ Thương mại Tổng cục Hải quan Việt Nam (16/10/2006): Trang web công nghiệp Việt Nam (10/10/2006): Trang thông tin điện tử của Bộ Thương mại (20/10/2006)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10012.doc
Tài liệu liên quan