Khóa luận Vụ tranh chấp bán phá giá cá tra, cá basa và bài học kinh nghiệm đối với hàng xuất khẩu Việt Nam

Sau khi đã xác định giá xuất khẩu của hàng hoá, bước tiếp theo là phải xác định giá trị thông thường của hàng hoá đó. Giá trị thông thường được thiết lập trên cơ sở giá có thể so sánh được đã trả hoặc có thể trả, trong điều kiện thương mại bình thường đối với sản phẩm tương tự khi sản phẩm này được tiêu thụ tại nước xuất xứ. Tuy nhiên, trong trường hợp nhà xuất khẩu ở nước xuất khẩu không sản xuất hay không bán sản phẩm tương tự, giá trị thông thường có thể được thiết lập dựa trên cơ sở giá của những người bán hàng hay những nhà sản xuất khác. Các sản phẩm tương tự được tiêu dùng trong nước chỉ được sử dụng để xác định giá trị thông thường khi khối lượng bán hàng của chúng chiếm ít nhất 5% khối lượng xuất khẩu của sản phẩm đó tại thị trường nước nhập khẩu. Ví dụ: Nếu mặt hàng A được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài với 100 đơn vị, và được tiêu thụ trong nước với 4 đơn vị = 4% lượng hàng xuất khẩu (quy định tối thiểu là 5%). Do đó khối lượng mặt hàng A tiêu thụ ở nội địa sẽ không được xem xét trong việc tính giá trị thông thường của mặt hàng A.

doc91 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Vụ tranh chấp bán phá giá cá tra, cá basa và bài học kinh nghiệm đối với hàng xuất khẩu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng rất nhỏ so với các nước Trung Quốc, Indonexia và Thái Lan. Năm 2000, vụ kiện bật lửa tại Ba Lan, kết quả các doanh nghiệp Việt Nam phải chịu thuế chống bán phá giá tới mức 0,09 EURO/chiếc. Năm 2001, tại Canada, vụ kiện về sản phẩm tỏi, doanh nghiệp của Việt Nam bị đánh thuế chống bán phá giá với mức 1,48 đôla Canada/kg. Còn sang năm 2002, các doanh nghiệp Việt Nam đang phải chịu 3 vụ kiện về đế giày của Canada, bật lửa ga của EU và vụ cá da trơn của Mỹ. Trong vụ kiện về giày dép có tới 6 doanh nghiệp Việt Nam bị kiện bán phá giá và nếu Canada kết luận việc bán phá giá là đúng và tăng thuế nhập khẩu thì việc xuất khẩu mặt hàng giày dép sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Còn đối với vụ kiện về bật lửa gas của EU, mặc dù thị phần của Việt Nam tại thị trường EU hiện đang rất nhỏ chỉ khoảng 0.1%, nhưng EU vẫn nhân thể ghép Việt Nam vào danh sách điều tra bán phá giá khi đang tiến hành điều tra các nước Trung Quốc, Malaysia và Indonexia bán phá giá bật lửa gas vào EU. Trong quá trình điều tra này, có khả năng EU sẽ lấy giá bật lửa gas sản xuất ở Philippines (là nước được công nhận có nền kinh tế thị trường) làm chuẩn để so sánh với giá xuất khẩu bật lửa gas của Việt Nam. Cách làm này sẽ cho kết quả, hàng Việt Nam thấp hơn giá sản xuất của Philippines tới 1,7 lần và nó sẽ có lợi cho việc quy kết bật lửa gas của Việt Nam bán phá giá. Như vậy là các vụ kiện bán phá giá mà Việt Nam hiện đang phải đối mặt kể cả vụ cá tra và cá basa đều có tính chất rất phức tạp và kết quả vẫn không thể đoán trước được. Nhưng có một điều mà mọi người đều biết là nó sẽ rất tốn kém, cả về thời gian và tiền bạc của các doanh nghiệp bị kiện bán phá giá. Ngoài ra còn phải kể đến việc các doanh nghiệp Mỹ chuẩn bị kiện Việt Nam cũng như Trung Quốc, Philippines bán phá giá tôm sang thị trường nước này. Sở dĩ hiện các doanh nghiệp Mỹ chưa kiện các doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam và của hai nước kia là vì họ đang cân nhắc giữa chi phí bỏ ra cho vụ kiện và những cái được nếu thắng kiện. Nhưng rõ ràng đây vẫn là một nguy cơ mới đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Bảng14: Thống kê các vụ kiện bán phá giá đối với Việt Nam. STT Năm Nước Mặt hàng Kết luận cuối cùng của phía nước ngoài. 1. 1994 Colombia Gạo Không đánh thuế vì dù có bán phá giá ở mức 9,07% nhưng không gây tổn hại cho ngành lúa gạo của Colombia 2. 1998 EU Mì chính Đánh thuế chống bán phá giá, mức thuế 16,8% 3. 1998 EU Giày dép Không đánh thuế vì thị phần gia tăng nhỏ so với Trung Quốc. 4. 2000 Ba Lan Bật lửa Đánh thuế chống bán phá giá, mức: 0,09 EURO/chiếc 5. 2001 Cânda Tỏi Đánh thuế chống bán phá giá, mức 1,48 đôla Canada/kg 6. 2002 Cânda Đế giày Đang điều tra 7. 2002 EU Bật lửa ga Đang điều tra 8. 2002 Mỹ Cá da trơn Đang chuẩn bị điều tra Nguồn: Vụ pháp chế - Bộ Thương Mại Như vậy là các doanh nghiệp Việt Nam đã phải đối mặt với vấn đề bị kiện bán phá giá khi xuất khẩu hàng hoá ra thị trường nước ngoài và phải chịu một số tác động từ nó. Các doanh nghiệp đã phải thuê luật sư, chịu rất nhiều chi phí tốn kém để bảo vệ mình. Thậm chí, ở một số vụ các doanh nghiệp Việt Nam phải chịu thuế chống bán phá giá cao, làm việc xuất khẩu sang nước khởi kiện hầu như không thể thực hiện được. Hơn nữa, các thông tin yêu cầu doanh nghiệp cung cấp cho cơ quan điều tra lại rất chi tiết, liên quan đến bí mật kinh doanh của doanh nghiệp nên dù có thắng cuộc thì tổn thất đối với các doanh nghiệp vẫn không nhỏ. Trong tương lai, sẽ có nhiều doanh nghiệp không thể chịu được các phí tổn của một vụ kiện mà phải tự động từ bỏ thị trường xuất khẩu của mình. ở các vụ kiện mà Việt Nam bị kết luận là có bán phá giá, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng bị kiện là không lớn nên tác động của việc đánh thuế chống bán phá giá đến xuất khẩu Việt Nam không rõ rệt. Nhưng đến vụ kiện cá tra và basa này, khi kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này sang Mỹ lên tới trên 20 triệu USD/năm thì rõ ràng là bán phá giá và chống bán phá giá đã trở thành vấn đề đáng quan tâm đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Hiện nay chi phí cho vụ kiện này đã lên tới trên 1 triệu USD (cũng cần phải nhấn mạnh rằng chi phí này chỉ bằng 50% so với chi phí các doanh nghiệp Trung Quốc phải bỏ ra do hãng luật sư đã giảm phí cho các doanh nghiệp Việt Nam). Thế nhưng, kết quả vụ kiện vẫn chưa thể đoán trước được. Nếu bị kết luận là có bán phá giá thì mức thuế chống bán phá giá mà cá tra và cá basa Việt Nam sang Mỹ phải chịu tối thiểu là 141%. Với mức thuế này thì cá Việt Nam sẽ không còn cơ hội trên thị trường Mỹ nữa. Đây mới chỉ là vụ kiện đầu tiên với hàng xuất khẩu Việt Nam có kim ngạch lớn, còn nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác như dệt may, giầy dépđều có thể phải đối mặt với các vụ kiện bán phá giá. Trong bối cảnh mà mức thuế chống bán phá giá ngày càng tăng thì thiệt hại đối với một mặt hàng bị đánh thuế là rất lớn. Lấy ví dụ về mức thuế chống bán phá giá được áp dụng ở Mỹ từ năm 1985 tới năm 1995. Nếu như năm 1985 mức thuế chống bán phá giá chỉ là 22% thì tới năm 1995 nó đã lên tới 60% và giờ đây mức thuế chống bán phá giá đối với một số mặt hàng có thể lên tới trên 100% Bảng 15: Mức thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ Thời kỳ Mức thuế chống bán phá giá (%) 1981-1983 22.0 1984-1986 32.9 44.0 45.8 60.6 Nguồn: Uỷ ban hiệp thương quốc tế Hoa Kỳ Các quốc gia khác nhìn chung cũng có xu hướng áp dụng mức thuế chống bán phá giá cao như Mỹ. Tuy có thấp hơn Mỹ nhưng cũng đủ để khiến nhà xuất khẩu không thể bán được sản phẩm trên thị trường nội địa của nước mình. Bên cạnh đó còn phải kể đến thời gian áp dụng các biện pháp chống bán phá giá thường kéo dài. Trước năm 1995, hầu hết các quốc gia đều áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tới trên 10 năm, thậm chí còn kéo dài vô hạn. kể từ khi Hiệp định thực thi Điều VI của GATT được thông qua trong đó quy định thời hạn áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tối đa là 5 năm, thì thời hạn áp dụng của các nước có giảm đi. Nhưng do Hiệp định còn quy định rằng các quốc gia có thể xem xét việc kéo dài thời hạn hiệu lực của các biện pháp chống bán phá giá nếu như xét thấy các hành vi bán phá giá vẫn còn gây ảnh hưởng đến ngành sản xuất của quốc gia mình. Như vậy thì xét cho cùng, các biện pháp chống bán phá giá một khi đã được áp dụng thường tác động rất mạnh mẽ và lâu dài tới nhà xuất khẩu của bất cứ quốc gia nào trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy, trong xu thế hội nhập ngày nay, khi mà Việt Nam đang phấn đấu tăng cường kim ngạch xuất khẩu thì vụ tranh chấp bán phá giá cá tra và cá basa đã đặt ra vấn đề là đã đến lúc các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải quan tâm tới vấn đề bán phá giá và chống bán phá giá. Và cũng từ vụ kiện này, chúng ta phải rút ra được những bài học kinh nghiệm để tránh cho hàng xuất khẩu Việt Nam bị kiện bán phá giá và một khi dã bị kiện thì phải đối phó ra sao. II. Những bài học kinh nghiệm đối với hàng xuất khẩu Việt Nam. 1. Bài học kinh nghiệm về việc phòng tránh việc bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Vụ kiện bán phá giá cá tra và cá basa cho thấy các biện pháp chống bán giá đôi khi bị lạm dụng và khi đó chúng trở thành một rào cản mang tính chất bảo hộ, đi ngược lại xu hướng tự do thương mại, trong đó quy định bất cứ ai tham gia vào thương mại quốc tế đều phải đảm bảo sự cạnh tranh công bằng và lành mạnh. Từ trước tới nay, một số doanh nghiệp Việt Nam vẫn suy nghĩ rất đơn giản là xu thế tự do thương mại sẽ dỡ bỏ hoàn toàn mọi rào cản thương mại, các thị trường sẽ rộng mở để hàng hoá các nước được tự do cạnh tranh lành mạnh. Nhưng thực ra tự do thương mại luôn có điều kiện của nó bởi vì trong thời buổi toàn cầu hoá ngày nay, để đối phó với các nước khác, nhiều khi những người khổng lồ cũng phải dùng đến chính sách bảo hộ đã quá lỗi thời, dẫu họ thường xuyên là người cổ suý cho tự do thương mại. Các nước khổng lồ đã như vậy nói chi tới các nước đang phát triển, những nước mà nền kinh tế của họ còn yếu buộc phải có sự bảo hộ nhất định mới có thể tham gia vào thương mại quốc tế có hiệu quả được. Trong thương mại quốc tế, các bên chỉ thực sự có tự do thương mại khi tự do đó mang lại lợi ích cho mỗi bên và không có ai bị thiệt hại gì. Nếu không, ngay lập tức sẽ xuất hiện những rào cản thương mại dưới nhiều hình thức khác nhau và một trong những loại rào cản thương mại mà các quốc gia thường hay áp dụng chính là núp dưới các dạng luật lệ, quy tắc đối với hàng xuất khẩu vào quốc gia đó để gây khó khăn cho việc nhập khẩu hàng vào nước mình. Đây là biện pháp mà các quốc gia không kể phát triển hay đang phát triển thường xuyên sử dụng như là một thứ vũ khí bảo hộ đắc lực nhất. Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm đầu tiên đối với hàng xuất khẩu Việt Nam khi gia nhập vào nền thương mại thế giới là phải nghiên cứu kỹ luật pháp và quy tắc của các quốc gia trong đó có những quy định về luật chống bán phá giá. 1.1. Tìm hiểu hệ thống pháp luật và quy định của nước nhập khẩu. Việc tìm hiểu hệ thống pháp luật và quy tắc của nước nhập khẩu được đặt ra đối với các doanh nghiệp xuất khẩu không chỉ liên quan đến vấn đề bán phá giá và chống bán phá giá. Nó liên quan tới các mặt, các khía cạnh của hoạt động xuất khẩu nói chung. Bởi vì mỗi quốc gia mỗi thị trường đều có hệ thống luật pháp và những quy định riêng của mình, và hệ thống luật pháp tạo ra một hành lang pháp lý chung buộc mọi doanh nghiệp xuất khẩu khi muốn vào thị trường các quốc gia phải tuân thủ nghiêm ngặt. Ngày nay hệ thống luật pháp của các quốc gia ngày càng trở nên phức tạp và tinh vi trong khi đó tầm hiểu biết của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn rất hạn chế. Hay nói đúng hơn là hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đều không nắm được những luật lệ và quy tắc của nước ngoài. Điều này dẫn đến tình trạng làm ăn thiếu hiệu quả và thậm chí thất bại của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Chính vì vậy, vấn đề cần thiết với các doanh nghiệp hiện nay là phải tìm hiểu hệ thống luật pháp và những quy định của nước mà mình định thâm nhập. Điều này đặc biệt cần thiết khi những thị trường chính của chúng ta là những quốc gia, khu vực có hệ thống pháp luật rất phức tạp như Mỹ, EU. Đơn cử như EU, đây là một khu vực thị trường gồm nhiều quốc gia hoạt động theo khuôn khổ pháp luật do Uỷ ban châu Âu đề ra. Khi thâm nhập vào khu vực thị trường này các doanh nghiệp xuất khẩu buộc phải tuân thủ khuôn khổ pháp luật ấy đồng thời phải tuân theo luật pháp của mỗi quốc gia. Mà bản thân mỗi nước lại có hệ thống luật khác nhau, thậm chí hoàn toàn trái ngược nhau. Ví dụ như hệ thống luật của nước Anh là theo thông luật (Common Law) dựa trên hai bộ phận chính là luật tục và luật công bằng trong khi hệ thống luật của Pháp lại theo hệ thống châu Âu lục địa, hay còn gọi là pháp luật dân sự (Civil Law). Nếu doanh nghiệp quen thuộc với hệ thống luật của Pháp cứ áp dụng cách hiểu của hệ thốn g luật châu âu lục địa nàyvào cách hiểu của thông luật khi kinh doanh trên nước Anh sẽ có thể dẫn đến việc vi phạm pháp luật và bị thiệt hại lớn. Hay như bản thân nước Mỹ, một nước bao gồm nhiều bang có tính độc lập tương đối cao thì ngoài luật Liên Bang áp dụng trên toàn bộ nước Mỹ, mỗi bang đều có một cơ quan lập pháp riêng với hệ thống pháp luật và những quy tắc thủ tục riêng rất phức tạp. Quy định của bang này có thể tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp nhưng quy định của bang khác lại hạn chế hoặc thậm chí ngăn cấm hoạt động của doanh nghiệp đó. Ngay trong trường hợp vụ tranh chấp bán phá giá cá tra và cá basa, trong khi một số bang miền Nam nước Mỹ có những chiến dịch tẩy chay cá Việt Nam thì một số bang khác lại bày tỏ sự đồng tình với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, không áp dụng những chính sách hạn chế việc nhập khẩu loại cá này như các bang miền Nam nói trên. Chính vì đặc điểm của luật pháp Hoa Kỳ như vậy mà khi kinh doanh trên đất Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ cần nghiên cứu luật toàn Liên Bang mà còn phải nghiên cứu luật của từng bang và hoạt động trên mỗi bang đều phải có một chiến lược kinh doanh riêng. Có thể thấy được rằng hệ thống pháp luật của các quốc gia đều rất phức tạp, mà đó chỉ là hệ thống luật chung, tạo khuôn khổ pháp lý chung cho các thành viên trong cộng đồng hoạt động. Ngoài ra còn có rất nhiều các quy tắc riêng đối với mỗi ngành kinh doanh cụ thể. Những quy tắc quy định này nhiều khi mang tính chất rào cản và việc tuân thủ nó rất phức tạp. Và các quốc gia thường tận dụng chúng để bảo hộ nền sản xuất trong nước của mình. Đơn cử như những quy định về an toàn thực phẩm mới đây của EU về dư lượng kháng sinh trong tôm đã khiến hàng loạt hàng thuỷ sản của các nước như Việt Nam, Trung Quốc, Phillipines không thể vào được thị trường này. Riêng Việt Nam thì hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu đều ngưng hoặc ít xuất tôm sang EU vì sợ khi phát hiện dư lượng kháng sinh, đã không được nhận lại hàng lại còn phải trả phí thiêu huỷ hàng. Chưa bao giờ việc xuất khẩu tôm sang thị trường EU lại lao đao như trong thời gian qua với số lượng tôm xuất sang thị trường này giảm gần 90% trong nửa đầu năm nay. Từ quy định về dư lượng kháng sinh trong tôm, các doanh nghiệp thuỷ sản cần phải liên tục cập nhật các quy định của các nước nhập khẩu để có thể đoán trước và đề phòng đối với những rủi ro như trên từ đó giảm thiểu được thiệt hại với mình. Trên đây là những phân tích về các quy định, quy tắc mang tính rào cản đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Các quy tắc đó rất đa dạng và rất phức tạp. Bản thân luật chống bán phá giá của các quốc gia cũng là một loại rào cản nếu nó bị lạm dụng quá mức. Đây là loại rào cản thương mại mà hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu phải e ngại nhưng buộc phải chấp nhận khi tham gia vào thương mại thế giới. Vì thực tế cho thấy khi một ngành nào đó phát triển và được hoàn thiện trên quy mô toàn cầu, nó sẽ làm đảo lộn những thị trường truyền thống, làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các nhà sản xuất với nhau, giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, giữa nước này với nước khác. Sự vận động đó sẽ chẳng bao giờ chấm dứt bởi nó là động lực chính thúc đẩy nền kinh tế phát triển, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Nhưng sự vận động đó cũng có mặt trái của nó khi mà tính cạnh tranh ngày càng khốc liệt khiến các nhà sản xuất, các quốc gia buộc phải áp dụng các chính sách bảo hộ trong đó biện pháp hiệu quả là áp dụng luật chống bán phá giá. Xu hướng hiện nay là cứ có một mặt hàng nào nhập khẩu vào một thị trường với số lượng bắt đầu nhiều và các nhà sản xuất kinh doanh mặt hàng này tại thị trường đó cảm thấy bị thiệt hại là họ đi kiện các doanh nghiệp xuất khẩu bán phá giá. Và biện pháp chống bán phá giá hiện không chỉ được các quốc gia đang phát triển sử dụng như một thứ vũ khí để bảo vệ nền sản xuất còn yếu kém của mình mà nó còn được các ông lớn trong nền kinh tế thế giới như Mỹ, EU, Canada đặc biệt ưa dùng. Do vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam khi định xuất khẩu một mặt hàng sang một thị trường nào đó cần phải nghiên cứu kỹ luật chống bán phá giá của nước đó nhằm đề ra các biện pháp tránh nguy cơ bị áp đặt thuế chống bán phá giá cho mình. 1.2. Giảm thiểu nguy cơ bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá. Như đã phân tích, một khi doanh nghiệp bị kiện bán phá giá thì doanh nghiệp đó phải theo đuổi quá trình kiện tụng rất phức tạp, tốn kém và một khi bị kết luận là có bán phá giá thì thiệt hại còn nặng nề hơn rất nhiều lần. Do đó, vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp xuất khẩu là phải làm thế nào để giảm thiểu nguy cơ bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá trong tương lai. 1.2.1. Biện pháp áp dụng cho các giao dịch trong tương lai. Vì việc bán phá giá có nghĩa là bán hàng hoá xuất khẩu sang một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường của hàng hoá đó tại thị trường nội địa của nhà xuất khẩu đó, cho nên để tránh rủi ro phải chịu thuế chống bán phá giá, các doanh nghiệp xuất khẩu phải đảm bảo rằng giá xuất khẩu được tính toán hợp lý sao cho giá trị xuất khẩu không được thấp hơn giá trị thông thường. Việc xác định giá xuất khẩu nên dựa theo giá chuẩn tại nước nhập khẩu, thường do Bộ Thương Mại của nước đó quy định. Các mức giá chuẩn được xây dựng dựa trên các giá trị thay thế đã được tính toán (“Giá chuẩn tính theo chi phí”) sử dụng phương pháp tính toán của Bộ Thương Mại nước nhập khẩu. áp dụng mức giá chuẩn là biện pháp đề phòng hiện thực nhất mà một doanh nghiệp có thể thực hiện. Các chiến lược xác định giá chuẩn thay đổi phụ thuộc vào mức độ cẩn trọng mà các doanh nghiệp muốn áp dụng. Đây cũng là công việc nặng nề nhất, tuy nhiên vấn đề này không thể coi nhẹ. Việc tính giá chuẩn thường được dựa trên giá trị thay thế. Giá chuẩn có thể được sử dụng là giá sàn tại nước nhập khẩu. Phương pháp tính giá chuẩn đơn giản nhất (nhưng có độ chính xác thấp nhất) là lấy chi phí sản xuất giao động cộng chi phí vận chuyển và phí hải quan ước tính. Một phương pháp chính xác hơn là lập giá sàn bao gồm toàn bộ phí sản xuất thay thế (sử dụng phương pháp tính toán của Bộ Thương Mại và sử dụng các yếu tố sản xuất đầu vào của các thành viên xuất khẩu và giá trị thay thế, cộng chi phí quản lý chung, chi phí hành chính và lợi nhuận) cộng với chi phí vận chuyển và phí hải quan. Rõ ràng là việc thiết lập, phổ biến, áp dụng giá chuẩn theo kỳ như vậy, đặc biệt tính chi phí sản xuất của các thành viên xuất khẩu sử dụng phương pháp giá trị thay thế là một việc làm rất khó khăn. Theo hệ thống này, công việc hoạch định cơ chế ban đầu của các thành viên xuất khẩu phải bảo đảm được rằng giá sản phẩm của mình bán tại nước nhập khẩu luôn phải cao hơn giá sàn đã được tính toán. Hơn nữa, các thành viên xuất khẩu cũng cần phải giám sát tính thường xuyên và số lượng các khoản giảm giá hoặc hạ giá, nếu có, để đảm bảo rằng giá của mình áp dụng tại nước nhập khẩu phải cao hơn giá sàn đã được tính toán. Việc thiết lập một hệ thống giá sàn có tầm quan trọng đặc biệt và tính nhạy cảm cao, liên quan đến các ước tính về doanh số bán, giá trị thay thế và hoạt động tiếp thị. Các giá sàn này cần phải chính xác để đảm bảo một mặt tuân thủ các quy định về chống phá giá, nhưng mặt khác vẫn phải bảo đảm mức giá cạnh tranh và thực tế. Mặc dù hệ thống giá chuẩn có thể rất đáng tin cậy trong phạm vi các nhà xuất khẩu tuân thủ các quy định về thu thập số liệu theo luật thuế chống phá giá, nhưng thông thường việc các doanh nghiệp thực hiện toàn bộ các thủ tục này là không thực tế vì tính chất tổng hợp và cụ thể của chúng. Nếu doanh nghiệp xuất khẩu lựa chọn xác lập một hệ thống giá chuẩn, thì doanh nghiệp đó phải xác định được sự cân bằng giữa việc xây dựng một hệ thống quản trị thu thập số liệu và xác định giá, với việc hệ thống này phải đạt mức độ chính xác như mình mong muốn. Đối với các chi phí sản xuất thay thế, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải quyết định giữa việc thu thập các số liệu thực tế về quá trình sản xuất căn cứ trên hồ sơ lưu trữ của các thành viên xuất khẩu khác hoặc chỉ dựa vào các số liệu dễ có và được duy trì trên cơ sở đều đặn, ví dụ như số liệu kế hoạch sản xuất hoặc ngân sách. Việc tính các chi phí trực tiếp (ví dụ như chi phí vận chuyển, bảo hiểm, bảo hành và tín dụng) trên cơ sở tính tổng số và phân bổ thường dễ thực hiện hơn là trên cơ sở tính theo từng khách hàng hoặc từng giao dịch bán hàng cụ thể như các nước nhập khẩu thường yêu cầu. Cuối cùng, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng phải quyết định tần suất thiết lập hệ thống giá chuẩn, ví dụ: theo tháng, theo quý hoặc bất kỳ thời hạn nào khác. Nếu như doanh nghiệp xuất khẩu quyết định thiết lập hệ thống giá chuẩn, doanh nghiệp nên dùng các thông tin sẵn có về tổng số phí và chi phí thay thế, trong giới hạn cho phép, và nên lập hệ thống giá chuẩn không quá một quý một lần. Đồng thời các doanh nghiệp đó cũng nên bảo đảm rằng hệ thống giá chuẩn được sử dụng nhằm mục đích hướng dẫn không chính thức để bảo đảm tính linh hoạt và khả năng thích ứng các nhu cầu thị trường, khi cần thiết. 1.2.2. Giám sát khả năng bị áp đặt thuế chống phá giá đối với các giao dịch trước đây. Một biện pháp đề phòng nữa là rà soát lại chính sách giá và điều kiện thị trường áp dụng cho các giao dịch trước đây để đánh giá khả năng bị áp đặt thuế chống phá giá. Nhà xuất khẩu có thể áp dụng các biện pháp này để bổ sung hoặc thay thế các biện pháp giám sát khả năng bị áp đặt thuế chống phá giá cho các giao dịch trong tương lai. Các biện pháp này thay đổi tuỳ thuộc vào phạm vi và mục đích áp dụng. 1.2.3. Giám sát rủi ro chung. Một số nhà xuất khẩu thường xuyên giám sát tình hình ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu, giá cả của đối thủ cạnh tranh của họ, và xu hướng nhập khẩu chung. Bằng việc “đo nhiệt độ” ngành sản xuất và thị trường trong nước theo cách này, các nhà xuất khẩu hy vọng sẽ đánh giá được rủi ro có thể dự kiến bán phá giá trong tương lai gần. Rõ ràng là cách làm này hoàn toàn không khó đối với họ. Đây cũng là một công cụ hữu hiệu để đánh giá rủi ro. Tuy nhiên, biện pháp này sẽ chỉ nên được sử dụng cùng với các biện pháp đề phòng khác. Nếu được áp dụng đơn lẻ, hiệu quả bảo vệ của biện pháp này rất thấp vì cho dù có được cảnh báo trước đi nữa thì các doanh nghiệp xuất khẩu cũng không thể thay đổi được mức giá bán hàng trước đó và có khả năng sẽ có đơn khiếu nại về bán phá giá đối với các giao dịch trước đó. Đồng thời, các cơ quan chức năng có thể hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc giám sát các rủi ro chung bằng cách thường xuyên nghiên cứu các số liệu nhập khẩu, nghiên cứu các báo cáo thương mại liên quan và tìm hiểu các thông tin thị trường liên quan đến các vụ kiện mới nhất về áp dụng các biện pháp phá giá có thể xảy ra. Một biện pháp có tính tổng hợp hơn giám sát khả năng bị áp đặt thuế chống phá giá đối với các giao dịch trước đây là phân tích giá bán và các chi phí thay thế trong một giai đoạn tượng trưng nhằm mục đích xác định khả năng bị áp đặt thuế chống phá giá. Như đã biết, việc phân tích thường kỳ khả năng bị áp đặt thuế chống phá giá cho các giao dịch trước đây cũng có thể được sử dụng cùng với việc thiết lập hệ thống giá chuẩn áp dụng trong tương lai, vì biện pháp này có thể kiểm tra được hiệu quả của hệ thống giá chuẩn. Trên đây là một số biện pháp mà các doanh nghiệp xuất khẩu có thể áp dụng để tránh nguy cơ bị áp đặt thuế chống bán phá giá. Để các định các biện pháp đề phòng thích hợp, các doanh nghiệp xuất khẩu phải xác định sự tương quan giữa rủi ro phải chịu thuế chống phá giá với chi phí thực hiện các biện pháp đề phòng và trên cả hai phương diện đều phải tính đến nguồn áp đặt đối với khâu bán hàng. Cho dù các doanh nghiệp xuất khẩu có thể lựa chọn áp dụng các biện pháp tuân thủ nào thì cũng không thể bảo đảm rằng họ sẽ không bao giờ phải chịu một phán quyết là bán phá giá. Kết luận này xuất phát từ tính phức tạp của luật thuế chống phá giá, thẩm quyền hành chính của cơ quan điều tra khi tính toán thu nhập có được do áp dụng các biện pháp phá giá, và thực tế cơ quan đó tiến hành phân tích các giao dịch đã xảy ra từ trước. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp đề phòng sẽ giảm nguy cơ đi đến kết luận là có bán phá giá và phải chịu thuế chống phá giá. Ngoài những biện pháp giảm thiểu trên thì doanh nghiệp cũng cần có sự phối hợp của các cơ quan nhà nước mà trong trường hợp này là của Bộ Thương Mại. Bộ này cần phải tăng cường công tác quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và cấp C/O tốt hơn. Vì thực tế hiện nay có tình trạnh là C/O của Việt Nam bị làm giả rất nhiều. Hàng nước ngoài khi xuất sang các thị trường khác lại mang xuất xứ Việt Nam khiến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường đó tăng lên cao hơn nhiều so với thực tế. Đây là cơ sở để nước nhập khẩu kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá vì họ chỉ lấy lượng hàng xuất khẩu mang C/O Việt Nam làm cơ sở để xem xét khả năng gây thiệt hại của hàng Việt Nam đối với thị trường họ. Chính vì vậy, Bộ Thương Mại cần phải tăng cường hơn nữa vấn đề cấp C/O, hạn chế tối đa trường hợp C/O bị làm giả, bị lợi dụng để phía nước ngoài không đưa ra con số quá khác biệt với phía Việt Nam trong thống kê hàng xuất khẩu có xuất xứ Việt Nam. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận một vấn đề là hàng xuất khẩu của Việt Nam trong các cuộc điều tra bán phá giá thường bị gán với hàng hoá xuất khẩu cùng loại của một số nước khác. Các quốc gia thường nhân tiện đánh thêm thuế chống bán phá giá với hàng Việt Nam khi xem xét đánh thuế chống bán phá giá đối với một số nước có kim ngạch xuất khẩu lớn hơn Việt Nam nhiều lần. Ví dụ, Canada đánh thuế chống bán phá giá chủ yếu đối với mặt hàng tỏi của Trung Quốc, đồng thời mở rộng đánh thêm hàng Việt Nam. (Khối lượng xuất khẩu tỏi của Việt Nam sang Canada không bằng 1/10 mức xuất khẩu tỏi bình quân của Trung Quốc). Tương tự như vậy, Ba Lan đánh thuế chống bán phá giá đối với bật lửa Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam. Như vậy có thể thấy rằng dù có áp dụng các biện pháp giảm thiểu nguy cơ bị áp dụng thuế chống bán phá giá thì khả năng bị điều tra vẫn có và nó nằm ngoài tầm kiểm soát của các doanh nghiệp xuất khẩu. Chính vì vậy, song song với việc đề ra các biện pháp giảm thiểu nguy cơ bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chúng ta cũng cần phải rút ra một số bài học kinh nghiệm trong trường hợp đối mặt với một vụ kiện bán phá giá như vụ tranh chấp bán phá giá cá tra và basa. 2. Những bài học kinh nghiệm trong trường hợp đối mặt với một vụ kiện bán phá giá. 2.1. Tìm hiểu hệ thống luật pháp của nước nhập khẩu. Vấn đề tìm hiểu hệ thống pháp luật của nước nhập khẩu một lần nữa lại được đề ra cho thấy tầm quan trọng của việc có được sự hiểu biết nhất định về hệ thống pháp luật của thị trường mà doanh nghiệp xâm nhập. Nếu như việc hiểu biết đó có thể giúp cho doanh nghiệp tránh được nguy cơ bị kiện bán phá giá thì khi đã đối mặt với một vụ kiện như vậy thì sự hiểu biết đó có thể giúp doanh nghiệp biết được những bước mà mình phải thực hiện và từ đó có thể chuẩn bị kỹ càng cho việc theo kiện. Thông thường, quá trình của một cuộc điều tra thường được quy định trong luật chống bán phá giá của mỗi quốc gia và nó thống nhất với những quy định của Hiệp định thực thi Điều VI của GATT. Tuy nhiên, mỗi quốc gia lại có những quy tắc riêng trong quá trình điều tra và nếu doanh nghiệp không tìm hiểu kỹ sẽ rơi vào tình trạng lúng túng tốn nhiều thời gian, chi phí, mà lại không hiệu quả. Vấn đề không chỉ ở chỗ tìm hiểu về các cơ quan có thẩm quyền điều tra, các bước, các thủ tục tiến hành mà còn phải nghiên cứu đặc điểm riêng của luật chống bán phá giá các quốc gia để có những lập luận thuyết phục nhất, và căn bản hơn là có thể lợi dụng bản thân luật đó để phục vụ cho mục đích của mình. Đây chính là điểm yếu của hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nhưng lại là điểm rất mạnh của các doanh nghiệp những nước phát triển - những thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam. Lấy ngay ví dụ về vụ tranh chấp cá basa, lợi dụng quy định của luật chống bán phá giá Mỹ là chỉ sau 20 ngày kể từ khi Uỷ ban Hiệp thương quốc tế Mỹ nhận đơn kiện bán phá giá, bên bị kiện sẽ phải điều trần trước Uỷ ban, CFA đã nộp đơn kiện vào đúng 4 giờ chiều ngày làm việc cuối cùng trong tuần (thứ sáu ngày 28/6) nên phía Việt Nam đã mất 3 ngày để chuẩn bị cho cuộc giải trình lần 1 này (thứ sáu, thứ bảy, chủ nhật). Không chỉ có thế, CFA còn lợi dụng đặc điểm của hệ thống luật pháp Hoa Kỳ để tăng cường áp lực đối với cá basa Việt Nam từ cơ quan quyền lực cao nhất là quốc hội Mỹ. Quốc hội Mỹ đóng vai trò quan trọng trong việc thông qua các chính sách, nghị quyết, và trong đó tiếng nói của các nghị sỹ cũng có nhiều giá trị nhất định. CFA đã tận dụng đặc điểm này, liên hệ với các nghị sỹ Marion Berry và Mike Ross thuộc bang Arkansas và những nghị sỹ này đã lên tiếng cáo buộc cá basa và cá tra Việt Nam đã gây thiệt hại tới ngành chế biến catfish Mỹ và kết quả là các nghị quyết HR.2646 và HR.2439 đã ra đời với nội dung chính nhằm ngăn chặn cá Việt Nam vào thị trường Mỹ. Trong khi các đối tác nước ngoài thường rất mạnh trong việc lợi dụng các quy định, chính sách của pháp luật nhằm phục vụ lợi ích của mình thì các doanh nghiệp Việt Nam đến các quy tắc luật lệ vẫn chưa nắm vững. Ngay trong vụ cá basa này khi DOC đưa bảng câu hỏi điều tra tới các doanh nghiệp xuất khẩu để điền vào thì hầu hết các doanh nghiệp đều lúng túng không biết điền vào ra sao. Nói chung vấn đề bán phá giá và điều tra bán phá giá vẫn còn rất lạ lẫm đối với doanh nghiệp chính vì vậy các doanh nghiệp cần phải tích cực nghiên cứu luật lệ và quy tắc của các nước. Ngoài ra, các cơ quan chức năng của Việt Nam cũng cần phải giúp đỡ các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc tác động đến các cơ quan, những người có thẩm quyền của nước ngoài. Vì như đã phân tích trong trường hợp ở Mỹ trên, đây là những người mà quyết định của họ có ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể đối với cá basa, chúng ta cần tích cực liên hệ với các nghị sỹ John Kerry, John McCain, Bob Kerry những người có vai trò quyết định trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ, trong việc ký kết hợp định Việt - Mỹ và bản thân họ cũng đã có nhiều bài phát biểu trước nghị viện Mỹ bảo vệ cá basa Việt Nam. Chúng ta nên mời các cơ quan chức năng của Mỹ cử nhiều phái đoàn sang Việt Nam tìm hiểu về việc nuôi trồng và xuất khẩu cá tra và cá basa Việt Nam để họ hiểu rằng không hề có việc các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam bán phá giá cá. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam có sự chuẩn bị tốt, nghiên cứu kỹ lưỡng các luật lệ quy định của nước ngoài, có được đội ngũ luật sư giỏi thì khả năng thắng kiện trong các vụ kiện bán phá giá rất cao. Kinh nghiệm của các doanh nghiệp xuất khẩu Trung Quốc sang Mỹ cho thấy họ đã giành thắng lợi tới trên 50% các vụ kiện nhờ vào sự chuẩn bị chu đáo và sự am hiểu pháp luật của mình. Từ những sự phân tích trên có thể thấy được tầm quan trọng của việc am hiểu hệ thống luật pháp nước ngoài của các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên còn có nhiều bài học khác mà các doanh nghiệp xuất khẩu cần chú ý khi có nguy cơ bị kiện bán phá giá. 2.2. Liên kết doanh nghiệp. Vấn đề liên kết các doanh nghiệp thường được đặt ra trong các chiến lược, chính sách của các doanh nghiệp xuất khẩu. Sở dĩ vấn đề này được đặc biệt coi trọng vì bản thân mỗi doanh nghiệp thường không đủ mạnh để có thể đơn phương độc mã xâm nhập một thị trường mới. Khi xâm nhập một thị trường doanh nghiệp cần phải biết rõ thông tin về thị trường đó, về dung lượng thị trường, về đặc điểm và tình hình cạnh tranh trên thị trường đó. Do đó doanh nghiệp rất cần có sự giúp đỡ của các doanh nghiệp khác, những người đã có kinh nghiệm trên thị trường đó hay của Hiệp hội các doanh nghiệp trong cùng một lĩnh vực. Đặc biệt, các doanh nghiệp phải cùng thống nhất trong các chiến lược quảng bá và xây dựng giá cả sản phẩm xuất sang cùng một thị trường, để tránh tình trạng cạnh tranh nhau không cần thiết. Dẫu biết rằng cạnh tranh là yếu tố không thể thiếu được trong kinh doanh nhưng việc các doanh nghiệp của cùng một quốc gia khi xuất khẩu sang một nước cạnh tranh về giá quá quyết liệt, dẫn đến phá giá hàng của mình thì không thể chấp nhận được và kết quả là các doanh nghiệp xuất khẩu của các quốc gia khác lại được hưởng lợi từ sự cạnh tranh quá mức này. Do đó, các doanh nghiệp cần phải thống nhất với nhau về chiến lược xuất khẩu, đặc biệt là chiến lược về giá nhằm đảm bảo lợi ích chung ở thị trường nước nhập khẩu. Về vấn đề này thì các doanh nghiệp Việt Nam còn rất yếu và thua xa so với các doanh nghiệp xuất khẩu Trung Quốc. Các doamh nghiệp Trung Quốc một khi đã lập được hợp đồng thì họ chia nhau cùng thực hiện chứ không có chuyện tranh giành làm mất uy tín của nhau và dựa trên sức mạnh chung, sản phẩm của Trung Quốc thường dễ dàng xâm nhập thị trường các nước nhập khẩu. Trong khi đó, không thiếu các doanh nghiệp Việt Nam chỉ lo đến lợi ích riêng của mình mà không nghĩ đến lợi ích chung của toàn ngành, không tuân thủ chiến lược chung, dẫn đến sự thiếu hợp tác, liên kết và làm yếu đi sức mạnh của toàn bộ ngành xuất khẩu thuộc lĩnh vực của mình. Phân tích trên cho thấy tầm quan trọng của việc liên kết các doanh nghiệp trong các chiến lược xuất khẩu chung. Vấn đề liên kết doanh nghiệp còn đặc biệt quan trọng trong trường hợp có vụ kiện về bán phá giá đối với doanh nghiệp xuất khẩu. Vì thực chất là một khi nước nhập khẩu kiện hàng hoá của một quốc gia bán phá giá thì nước đó không chỉ kiện một doanh nghiệp đơn lẻ nào mà kiện toàn bộ các doanh nghiệp của quốc gia có sản phẩm xuất sang nước nhập khẩu đó. Trường hợp vụ kiện bán phá giá cá basa là một ví dụ điển hình và bị đơn trong trường hợp này là Hiệp hội những nhà chế biến và xuất khẩu thuỷ sản (VASEP). Trong đơn kiện của CFA gửi lên Uỷ ban hiệp thương quốc tế Hoa Kỳ (USITC) có tới trên 50 doanh nghiệp bị kiện nhưng thực tế chỉ có 14 trong số đó có xuất khẩu sản phẩm cá tra và cá basa sang thị trường Mỹ. Thực tế đó buộc các doanh nghiệp thuỷ sản phải liên kết với nhau để bảo vệ lợi ích chung của mình. Các doanh nghiệp phải cùng nhau chuẩn bị tài liệu cho cuộc điều trần và đặc biệt phải có sự thống nhất trong việc trả lời bảng câu hỏi điều tra của Bộ Thương Mại Mỹ để chứng minh rằng việc nuôi trồng và chế biến cá ở Việt Nam hoàn toàn tuân theo quy luật thị trường. Các doanh nghiệp đều tuân thủ theo quy luật này và đảm bảo giá xuất khẩu cao hơn giá trị thông thường của sản phẩm. Nếu không có sự thống nhất trong việc trả lời bảng câu hỏi điều tra đó thì Bộ Thương Mại sẽ không tin vào những lập luận của phía Việt Nam và sẽ đưa ra những phán quyết ảnh hưởng nghiêm trọng tới tương lai của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. Trong trường hợp vụ kiện này thì VASEP đã phát huy rất tốt vai trò của một hiệp hội liên kết các doanh nghiệp xuất khẩu. VASEP đã đại diện cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong buổi điều trần trước ITC và có những lập luận thuyết phục bảo vệ cho lợi ích của các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ. Như vậy có thể thấy được tác hại nghiêm trọng của việc không thống nhất giữa các doanh nghiệp và từ đó chúng ta càng nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề liên kết doanh nghiệp. Thực ra đây là vấn đề mà các doanh nghiệp của ta hoàn toàn nhận thức được, và bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu thuộc cùng một lĩnh vực cũng tìm cách liên kết với nhau, thành lập các hiệp hội nhưng mối liên kết trong các hiệp hội còn rất lỏng lẻo cả về chiều dọc lẫn chiều ngang. Cơ quan lãnh đạo của các Hiệp hội thường không nắm sát được tình hình sản xuất và xuất khẩu của các doanh nghiệp thành viên và bản thân các doanh nghiệp cũng thiếu sự hợp tác đầy đủ với nhau. Chỉ lấy ví dụ về sự liên kết giữa ngành dệt và ngành may cũng có thể thấy được sự lỏng lẻo trong liên kết giữa hai ngành này. Trong khi các doanh nghiệp may phải vất vả lắm mới có thể ký được một hợp đồng có giá trị thì ngành dệt lại thường xuyên không cung cấp đủ vải cho các công ty may và để thực hiện hợp đồng các doanh nghiệp này buộc phải nhập vải từ các nước khác gây nên sự lãng phí và thiếu hiệu quả. Chính vì vậy vấn đề không chỉ ở việc liên kết các doanh nghiệp xuất khẩu mà còn ở chỗ làm sao để mối liên kết đó thực sự có hiệu quả. Muốn vậy, phải có sự thay đổi trong cơ chế quản lý từ trên xuống dưới và bản thân các doanh nghiệp cũng phải tự tổ chức lại, thay đổi nhận thức, tự động thúc đẩy mối liên kết với nhau, cùng nhau hoạt động có hiệu quả trên thị trường các nước nhập khẩu. Để phát triển, các hiệp hội doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành đồng thời ba nhóm giải pháp lớn bao gồm: xây dựng môi trường pháp lý; hỗ trợ việc nâng cao năng lực cho các hiệp hội doanh nghiệp và nâng cao khả năng hợp tác giữa các hiệp hội doanh nghiệp với nhau; đẩy mạnh quá trình cải cách hành chính nhà nước trong đó có việc chuyển giao các dịch vụ hành chính công từ các cơ quan nhà nước sang cho các hiệp hội doanh nghiệp thực hiện. Đây là những giải pháp mang tính chất chiến lược lâu dài đòi hỏi phải có có thời gian triển khai thực hiện một cách thận trọng và tuần tự nhưng cũng đòi hỏi được thực hiện ngay từ bây giờ có vậy mới tăng cường được tính liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu và làm cho hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp hiệu quả hơn. 2.3. Liên kết với người tiêu dùng và nhà nhập khẩu của nước nhập khẩu Trong trường hợp đối mặt với một vụ kiện bán phá giá thì việc liên kết với người tiêu dùng và nhà nhập khẩu nước nhập khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu bị kiện có một đồng minh lớn trong quá trình theo kiện. Để hiểu về điều này thì trước hết phải hiểu rõ bản chất của một vụ kiện bán phá giá. Nhìn bên ngoài thì nó là mâu thuẫn giữa nhà sản xuất trong nước với nhà nhập khẩu hay nhà xuất khẩu. Nhà sản xuất kiện một sản phẩm bán phá giá tức là kiện nhà sản xuất bán phá giá hàng hóa đó hay kiện nhà nhập khẩu hàng hoá bị bán phá giá làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà sản xuất. Trong trường hợp có kết luận bán phá giá thì coi như nhà sản xuất đã loại trừ được sự cạnh tranh từ hàng hóa bị bán phá giá còn các nhà xuất khẩu/nhập khẩu thì cũng coi như mất hẳn thị trường vì họ không thể xuất/nhập hàng hóa với mức thuế bán phá giá áp đặt cao (thường trên 100%). Như vậy, nhìn bề ngoài thì rõ ràng một vụ kiện bán phá giá là thể hiện mâu thuẫn giữa nhà sản xuất nước nhập khẩu với người xuất khẩu hoặc bản thân nhà nhập khẩu. Nhưng xét về mặt xã hội thì thực ra người tiêu dùng là người phải chịu gánh nặng của thuế chống bán phá giá. Vì các loại thuế nhập khẩu cũng như thuế chống bán phá giá chỉ là các loại thuế gián thu, người tiêu dùng chính là người phải trả các loại thuế đó, còn nhà nhập khẩu chỉ đóng vai trò là người thu hộ, nộp hộ thuế. Như vậy, tác động của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với nhà xuất khẩu và theo đó tới nhà nhập khẩu là khiến giá cả hàng hóa nhập khẩu bị đẩy mức quá cao khiến cho số lượng tiêu thụ giảm và họ sẽ hầu như mất hết khả năng cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu. Còn đối với người tiêu dùng, hậu quả trực tiếp hơn, họ sẽ không còn được tiêu dùng sản phẩm mà mình ưa thích và nếu như họ cố gắng mua được những sản phảm đó thì buộc phải trả một số tiền lớn hơn nhiều so với mức giá trước đây. Có thể thấy rằng quyền lợi của người tiêu dùng và nhà nhập khẩu nước nhập khẩu cũng bị ảnh hưởng nặng nề trong trường hợp một vụ kiện bán phá giá và do đó các nhà xuất khẩu cần liên kết với họ để cùng nhau lên tiếng bảo vệ lợi ích của mình. Vì thực ra cơ quan điều tra trước khi đưa ra bất cứ một quyết định nào cũng đều xem xét lợi ích của các bên (trong trường hợp vụ kiện chống bán phá giá thì đó là lợi ích của nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và người tiêu dùng) và điều hòa các lợi ích đó. Một khi các nhà nhập khẩu và người tiêu dùng lên tiếng bảo vệ quyền lợi của mình thì cơ quan điều tra phải cân nhắc các lợi ích đó và phán quyết của họ sẽ trở nên có lợi hơn đối với người xuất khẩu trong trường hợp họ không liên kết. Như vậy là để bảo vệ quyền lợi của mình, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam khi phải đối mặt với một vụ kiện bán phá giá nên liên kết ngay với những người tiêu dùng và nhập khẩu của nước kiện. Thông thường ở những quốc gia phát triển như Mỹ hay liên minh châu Âu, những người tiêu dùng thường tập hợp thành hội những người tiêu dùng nhằm bảo vệ cho quyền lợi của mình. Những hội ngưòi tiêu dùng như vậy có vai trò rất lớn vì vậy các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải ngay từ đầu thiết lập quan hệ với những hội như thế này. Thế nhưng thực ra vấn đề liên kết với người tiêu dùng hoàn toàn là vấn đề mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Điều này xuất phát từ thực tế trong nước, do nền kinh tế nước ta vẫn chưa phát triển nên vấn đề bảo vệ người tiêu dùng vẫn chưa được quan tâm và bản thân người tiêu dùng cũng không nhận thức được tầm quan trọng của mình. Trong nước không có lấy một hội tiêu dùng để doanh nghiệp liên kết và điều này tạo nên một thói quen xấu của doanh nghiệp là không quan tâm đến ý kiến người tiêu dùng ngay cả khi xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam sau khi tìm cách đưa được sản phẩm của mình vào thị trường nước nhập khẩu thì hầu như bỏ bê tất cả không quan tâm tới việc thu thập ý kiến phản hồi của người tiêu dùng đối với sản phẩm của mình. Họ vẫn chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của việc liên kết với hội những người tiêu dùng của nước nhập khẩu, không chỉ trong trường hợp đối mặt với một vụ kiện bán phá giá. Việc liên kết với người tiêu dùng nước nhập khẩu sẽ giúp cho doanh nghiệp dễ dàng tìm hiểu được nhu cầu của thị trường nước nhập khẩu về những mặt hàng gì, lượng cầu là bao nhiêu, đặc điểm nhu cầu và những biến động về nhu cầu trên thị trường đó. Nếu không tìm hiểu rõ về những vấn đề đó thì cầm chắc doanh nghiệp sẽ thất bại trên thị trường mà mình có ý định xâm nhập. Còn đối với các nhà nhập khẩu của nước nhập khẩu, việc liên kết với họ không chỉ giúp doanh nghiệp dễ dàng bảo vệ được quyền lợi của mình hơn trong trường hợp phải đối mặt với vụ kiện mà nó còn giúp doanh nghiệp tận dụng được hệ thống phân phối rộng rãi, sẵn có của các nhà nhập khẩu trên thị trường nước họ. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn và nâng cao doanh thu xuất khẩu của mình. Như vậy là tầm quan trọng của việc liên kết với người tiêu dùng và nhà nhập khẩu của nước nhập khẩu không chỉ dừng lại trong trường hợp đối mặt với một vụ kiện bán phá giá. Chính vì vậy các doanh nghiệp xuất khẩu của ta phải tích cực hơn nữa trong việc tạo dựng mối liên kết với họ. Các doanh nghiệp cần thường xuyên cử đại diện của mình sang tìm hiểu thị trường nước nhập khẩu, và nếu doanh nghiệp nào có tiềm lực tài chính đủ mạnh thì có thể thiết lập văn phòng đại diện của mình ở nước nhập khẩu và thường xuyên duy trì mối liên hệ với hội những người tiêu dùng và các nhà nhập khẩu của nước đó. Nếu làm được việc đó thì chắc chắn các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ dễ dàng thâm nhập thị trường nước nhập khẩu hơn và đặc biệt là sẽ nhận được nhiều sự trợ giúp trong trường hợp có các tranh chấp thương mại xảy ra mà điển hình là trong trường hợp có vụ kiện về bán phá giá. 2.4. Phối hợp giữa doanh nghiệp và Nhà nước. Từ trước đến nay, vai trò hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp xuất khẩu là rất lớn và nó thể hiện ở nhiều mặt. Nhà nước thông qua các cơ quan ngoại giao của mình ở nước ngoài tiến hành thu thập thông tin về tình hình các thị trường cho doanh nghiệp. Nhà nước thông qua các biện pháp vĩ mô quản lí các doanh nghiệp nhằm thống nhất hoạt động các doanh nghiệp theo một chính sách chung để tránh hiện tượng cạnh tranh không cần thiết. Và cũng có lúc Nhà nước có những chính sách khuyến khích và hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Trong trường hợp các doanh nghiệp xuất khẩu phải đối mặt với một vụ kiện bán phá giá thì Nhà nước cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ các doanh nghiệp nước mình. Đầu tiên trong trường hợp các doanh nghiệp vô cớ bị kiện thì Nhà nước, mà cụ thể ở đây là Bộ Thương Mại hoặc Bộ Ngoại Giao có thể tuyên bố phản đối vụ kiện vô lý đó và thay mặt cho các doanh nghiệp khẳng định không hề có việc bán phá giá hàng hoá. Lời tuyên bố của các cơ quan Nhà nước trong trường hợp này sẽ có giá trị hơn rất nhiều so với những lời tuyên bố đơn thuần của các doanh nghiệp. Và trong vụ tranh chấp bán phá giá cá tra và cá basa vừa qua, Nhà nước cũng đã phát huy được hết vai trò của mình trong việc bảo vệ các doanh nghiệp xuất khẩu bị kiện. Đồng thời Nhà nước có thể giúp các doanh nghiệp thu thập tài liệu chứng minh các doanh nghiệp hoàn toàn tuân thủ các quy định thương mại quốc tế và không hề có việc bán phá giá. Nhà nước cũng có thể cử các chuyên gia trong lĩnh vực về bán phá giá để giúp các doanh nghiệp. Đặc biệt đối với nước đang phát triển như nước ta thì vài trò của Nhà nước được thể hiện rất rõ nét trong việc xác định quy chế thị trường. Vì nước ta là nước đang phát triển, các nước thường gán cho nền kinh tế nước ta là nền kinh tế phi thị trường và theo đó sẽ áp dụng các cách tính giá trị thông thường đối với sản phẩm đang bị điều tra rất bất lợi cho chúng ta. Vì vậy, nhiệm vụ của Nhà nước là giúp các doanh nghiệp chứng minh rằng nền kinh tế nước ta hoàn toàn tuân theo các quy luật của nền kinh tế thị trường. Việc chứng minh này hoàn toàn nằm ngoài khả năng của các doanh nghiệp vì như ta đã biết để chứng minh một nước có nền kinh tế thị trường hay không phải xem xét đến các chỉ tiêu như khả năng chuyển đổi của đồng tiền, mức độ lương bổng trong đó lương bổng được mặc cả tự do, mức độ sở hữu của Chính phủ đối với các phương tiện sản xuất và mức độ chính quyền kiểm soát việc phân phối tài nguyên. Đây là công việc của các Bộ các ngành chức năng như Bộ Thương Mại, Bộ Tài Chính, Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội, Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam... và nó đòi hỏi phải có sự hợp tác chặt chẽ của các cơ quan cấp bộ này. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng không nên dựa quá nhiều vào Nhà nước làm giảm đi tính năng động của mình. Trong thực tế nhiều khi sự can thiệp quá sâu của Nhà nước chỉ làm tình hình thêm xấu đi. Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng nhưng vai trò này chỉ nên dừnglại ở mức hỗ trợ cho các doanh nghiệp để chuẩn bị những hành trang kiến thức nhất định khi hội nhập và đối phó một cách có hiệu quả đối với vụ kiện bán phá giá vì thực ra thì chính là doanh nghiệp Mỹ kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá chứ không phải kiện Chính phủ Việt Nam. Như vậy là vai trò của Nhà nước đối với các doanh nghiệp là rất quan trọng, nó thể hiện trên nhiều khía cạnh trong đó cả ở vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp đối phó với các vụ kiện bán phá giá. Do vậy cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và các doanh nghiệp xuất khẩu sao cho sự phối hợp đó vẫn đảm bảo được tính chủ động của các doanh nghiệp. Có vậy thì tính hiệu quả của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh sẽ tăng lên rất nhiều. Tóm lại, từ vụ tranh chấp bán phá giá cá tra và cá basa xuất khẩu chúng ta có thể thấy được những tác động nặng nề của việc các quốc gia lạm dụng quá mức luật chống bán phá giá của nước mình, biến nó thành một rào cản đối thương mại quốc tế. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, chúng ta mới chỉ bắt đầu hội nhập vào thương mại quốc tế, vấn đề bán phá giá và chống bán phá giá vẫn còn là điều mới mẻ với họ và chỉ đến khi có vụ tranh chấp nói trên họ mới nhận thức được tác động của những vấn đề đó tới bản thân họ như thế nào. Và cũng từ đó chúng ta thấy cần thiết phải rút ra những bài học kinh nghiệm để làm thế nào tránh được việc bị kiện - vấn đề gây cho các doanh nghiệp nhiều tốn kém về thời gian, sức lực và tiền của. Các doanh nghiệp cần phải trang bị cho mình một kiến thức chung về vấn đề bán phá giá và chống bán phá giá, đồng thời phải đoàn kết với nhau trong việc xây dựng các chiến lược giá để tránh việc bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Mặc dù đã áp dụng các biện pháp phòng tránh, các doanh nghiệp cũng luôn phải chuẩn bị sẵn sàng đối phó với tình huống bị kiện vì vấn đề chống bán phá giá hiện nay đã trở thành một thứ hàng rào thương mại quen thuộc được các quốc gia áp dụng. Doanh nghiệp cũng nên nâng cao khả năng tài chính của mình và khả năng quản lý kinh doanh để kịp thời cung cấp các thông tin cần thiết để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình khi bị nước ngoài điều tra bán phá giá. Một số bài học kinh nghiệm nêu trên có thể một phần nào giúp các doanh nghiệp trong trường hợp đối mặt với một vụ kiện như vậy. Lời kết Từ vụ tranh chấp bán phá giá cá tra và cá basa, chúng ta có thể thấy được tính phức tạp của thương mại quốc tế. Thực tiễn thương mại yêu cầu các quốc gia cần thiết phải có luật chống bán phá giá thật chặt chẽ, nghiêm ngặt để ngăn chặn những hình thức cạnh tranh không lành mạnh. Thế nhưng luật chống bán phá giá khi bị lạm dụng lại trở thành thứ rào cản đi ngược lại với xu hướng tự do thương mại. Và còn rất nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác của thương mại đều thể hiện tính mâu thuẫn của chúng. Vấn đề đối với các doanh nghiệp Việt Nam là phải nhận thức được và chuẩn bị đối phó với những khó khăn đó. Ngay đối với vấn đề bán phá giá, từ sự kiện tranh chấp bán phá giá, bài học đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam là phải tìm hiểu kỹ về luật chống bán phá giá của các quốc gia khi muốn thâm nhập vào thị trường các nước đó để tránh nguy cơ bị kiện bán phá giá. Nhưng như đã phân tích nguy cơ bị kiện bán phá giá khi tham gia vào thương mại thế giới là rất lớn, chính vì vậy các doanh nghiệp luôn phải sẵn sàng để đối phó với tình huống bị kiện. Trong luận văn này, người viết đã đề ra một số bài học kinh nghiệm trong trường hợp đối mặt với một vụ kiện bán phá giá. Tuy nhiên còn rất nhiều các bài học kinh nghiệm khác mà bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải tự rút ra từ thực tiễn kinh doanh của mình. Cũng từ thực tiễn vụ tranh chấp, chúng ta cũng thấy rõ là đã đến lúc Việt Nam phải có một luật chống bán phá giá riêng của mình để bảo vệ nền sản xuất trong nước khỏi hoạt động cạnh tranh không lành mạnh từ bên ngoài và để đảm bảo sự công bằng, tránh tình trạng ta cứ liên tiếp bị kiện bán phá giá mà lại không có đủ cơ sở pháp lí cần thiết để kiện nước khác bán phá giá. Thâm nhập các thị trường nước ngoài một cách hiệu quả đồng thời bảo vệ được thị trường trong nước khỏi sự cạnh tranh không lành mạnh, đó là hai yếu tố quyết định sự thành công của một quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc tế. danh mục tài liệu tham khảo. Sách 1. GS.TS Bùi Xuân Lưu - Giáo trình Kinh tế Ngoại Thương - NXB Giáo Dục 1997 2. PGS.TS Nguyễn Thị Mơ - Hoàng Ngọc Thiết - Giáo trình pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại – NXB Giáo dục 1997 3. Bộ Thương Mại - Những điều cần biết về tổ chức thương mại thế giới B. Báo chí. I. Tiếng Việt 1. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay. Số 3,4,5 – 2002. 2. Tạp chí Thương Mại. Số 16 – 2002. 3. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. Số 1 (165) – 2002. 4. Tạp chí Nghiên cứu Kinh Tế. Số 291- Tháng 8-2002. 5. Thời báo kinh tế. Số 94 – Ngày 7-8-2002. II. Tiếng Anh The Asean Wall. 13-15, September - 2002. The Economics. August – 2002. C. Internet. 1. Loạt bài theo dõi vụ kiện tranh chấp bán phá giá cá tra, cá basa trên Vn Express – FPT. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. http:// www.vnn.vn của VASC D. Các tài liệu khác. 1. Hiệp định thực thi Điều VI của GATT. 2. Luật mẫu về chống bán phá giá của WTO. 3. Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ. 4. Luật chống bán phá giá của Liên minh Châu Âu. 5. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. 6. Báo cáo sơ kết ba năm thực hiện chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản năm 2001 – Bộ Thuỷ Sản. 7. Tài liệu của công ty luật White & Case.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa luan tot nghiep.doc