LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay ít ai trong chúng ta biết rằng những hoạt động thường nhật được biết đến như chia sẻ dữ liệu, tải nhạc Mp3, sao chép các văn bản dữ liệu trên mạng Internet lại có thể là những hành động xâm phạm bản quyền qua Internet. Hơn nữa, đối tượng xâm phạm bản quyền qua mạng Internet chủ yếu là giới trẻ nhưng rất ít trong số họ nhận thức được đầy đủ về hành vi của chính mình.
Thế giới đang ngập tràn trong các phương tiện truyền thông và giải trí, máy tính cá nhân, sự kết nối Internet và sự truyền tải dữ liệu thông tin rộng rãi. Xung quanh chúng ta là máy nghe nhạc Mp3, ti vi, máy ghi hình cá nhân, máy ghi đĩa CD, Ipods, máy tính xách tay, máy chơi game . Công nghệ đó khiến chúng ta có thể biết đến những phần mềm truyền thông đa phương tiện, những trò chơi máy tính, âm nhạc, phim ảnh . theo những cách mà chúng ta không thể có được hơn hai mươi năm về trước. Nhưng đây cũng chính là lúc nó đe dọa quyền sở hữu của các tác giả, những người cần được đền đáp xứng đáng với vốn trí tuệ cũng như mồ hôi công sức họ bỏ ra.
Sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số làm cho việc truyền tải dữ liệu trên mạng Internet trở nên hết sức dễ dàng. Đặc biệt là sự ra đời và phát triển của Internet đã đặt ra một vấn đề hết sức nan giải về bản quyền, về những biện pháp đối phó mà các quốc gia trên thế giới áp dụng trong công cuộc chung chống xâm phạm bản quyền qua Internet.
Xuất phát từ nhận thức trên, tác giả đã chọn: " Xâm phạm bản quyền qua Internet: nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia Anh, Pháp, Mỹ ." làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích chọn đề tài:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận chung về xâm phạm bản quyền qua Internet, khái niệm, các hình thức xâm phạm bản quyền Internet thường gặp và hệ thống các cơ quan chức năng tham gia bảo hộ bản quyền qua Internet để hình thành một cách hiểu chung nhất về xâm phạm bản quyền qua Internet.
- Nghiên cứu về tình hình sử dụng Internet và thực trạng xâm phạm bản quyền qua Internet tại một số quốc gia. Từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiễn của từng quốc gia trong việc bảo vệ chống lại xâm phạm bản quyền qua Internet.
- Nghiên cứu về tình hình sử dụng Internet, thực trạng xâm phạm bản quyền qua Internet phổ biến tại Việt Nam để tìm ra những hạn chế trong công tác thực thi xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet. Từ đó, cùng với kinh nghiệm chống xâm phạm bản quyền qua Internet tại các quốc gia trên thế giới đưa ra bài học cho bản thân Việt nam.
3. Phạm vi và giới hạn của đề tài:
Hiện nay, vấn đề xâm phạm bản quyền qua Internet được hầu hết các quốc gia trên thế giới quan tâm. Mỗi quốc gia đều có cách xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet khác nhau tuy nhiên hầu hết vẫn dựa trên cơ sở các Công ước quốc tế đã ký kết. Do vậy, vì thời gian có hạn nên bài khóa luận này chỉ đi sâu tìm hiểu kinh nghiệm xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet của một số quốc gia tiêu biểu như Anh, Pháp, Mỹ và một số quốc gia thuộc khối EU khác.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận sử dụng phương pháp phân tích-tổng hợp,phương pháp thống kê, phương pháp diễn giải,quy nạp ,so sánh và đối chiếu
5. Bố cục bài khóa luận:
Khóa luận được chia thành 3 phần chính như sau:
Chương I: Tổng quan về xâm phạm bản quyền qua Internet
Chương II: Thực trạng và kinh nghiệm của một số quốc gia về xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet
Chương III: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet
84 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2071 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Xâm phạm bản quyền qua Internet: nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia Anh, Pháp, Mỹ., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về việc sử dụng Internet của nước này năm 2006, 64% dân số độ tuổi 14 sử dụng Internet hàng ngày hoặc vài lần một tuần. [10]. Qua các cuộc điều tra nghiên cứu trên có thể thấy tình trạng sử dụng Internet tại Thụy Sĩ vô cùng phổ biến và đối tượng sử dụng hầu hết là giới trẻ.
Tình hình xâm phạm bản quyền qua Internet tại Thụy Sĩ:
Tại Thụy Sĩ, không có nguồn luật nào quy định rằng việc tải dữ liệu là vi phạm pháp luật. Ví dụ như chỉ cần không thực hiện hành động upload dữ liệu, trang web www.kino.to được cho là hợp pháp tại Thụy Sĩ. Đây là một trang web lưu trữ kho nhạc số, video và phim ảnh vô tận với các đường link download cho phép người sử dụng có thể tải xuống một cách dễ dàng. Điều này dẫn đến việc các nhóm xâm phạm bản quyền của các quốc gia khác lợi dụng để kiếm lợi nhuận. Ví dụ như các nhóm xâm phạm bản quyền từ Đức lợi dụng luật này của Thụy Sĩ để ghi âm những bản nhạc và chuyển tải dữ liệu bất hợp pháp. Tiêu biểu là RapidShare, một trang web của công ty của Đức được điều hành ngoài Thụy Sĩ nhưng lại đặt máy chủ tại chính đất nước này. Đây là một trong những trang chia sẻ dữ liệu phổ biến nhất với hàng trăm hàng nghìn người sử dụng hàng tháng và đã được liệt kê trong danh sách 50 trang web được sử dụng nhiều nhất trên mạng Internet. Công ty này cho phép download giới hạn đối với các tài khoản sử dụng miễn phí và download không giới hạn với các tài khoản sử dụng phương thức trả phí. Trang web này có khả năng xử lý dữ liệu cho 3 triệu người cùng một lúc. [49]. Sự tồn tại của các trang chia sẻ dữ liệu bất hợp pháp trực tuyến tại Thụy Sĩ làm cho vấn đề xâm phạm bản quyền qua Internet tại nước này trở nên đặc biệt nghiêm trọng.
b) Kinh nghiệm xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet tại Thụy Sĩ:
- Biện pháp dân sự
Luật Thụy Sĩ cấm sao chép hoặc sử dụng các đối tượng như hình ảnh, biểu đồ, âm thanh, hoặc văn bản sang các phương tiện kỹ thuật số khác để công bố tới công chúng mà chưa có sự cho phép của tác giả bản quyền. Điều này có nghĩa là tại Thụy Sĩ, hành động download các tác phẩm như nhạc số, phim, hình ảnh, dữ liệu trên mạng Internet là hành động hợp pháp nhưng hành động upload các tác phẩm này cho công chúng tiếp cận là một hành động bị nghiêm cấm tại Thụy Sĩ cho dù những hành động này có vì mục đích lợi nhuận hay không. Trong điều khoản sử dụng của các trang chia sẻ dữ liệu tại Thụy Sĩ đều lưu ý rõ về vấn đề này. Những cá nhân, tổ chức thực hiện hành động cung cấp dữ liệu trên mạng Internet có thể chịu hình phạt lên tới một năm tù hoặc mức phạt lên đến 40,000 CHF. [50]
Để tránh bị truy tố và đối mặt với mức phạt nặng, RapidShare đã tiên phong lọc ra 148 đầu sách cung cấp bất hợp pháp và thay đổi chính sách bằng cách hợp tác với các tác giả bản quyền. Để giới hạn tài khoản người dùng, họ đã đồng ý quản lý các địa chỉ IP và lưu lại những hoạt động chia sẻ dữ liệu qua cổng thông tin vì mục đích pháp luật. Động thái tích cực này được sự hưởng ứng của rất nhiều nhà sản xuất trong ngành giải trí thế giới. [49]
- Biện pháp tự bảo vệ:
Luật Thụy Sĩ cấm vô hiệu hóa các biện pháp công nghệ tự bảo vệ của chủ sở hữu bản quyền. Điều này tuân theo tiêu chuẩn quốc tế về chống vô hiệu hóa các biện pháp công nghệ được chủ sở hữu bản quyền thực hiện nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Luật Thụy Sĩ quy định bất cứ ai thực hiện hành vi vô hiệu hóa hoặc tiếp tay cho hành vi này đều phải chịu trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên việc vô hiệu hóa tác phẩm bản quyền chỉ bị xử phạt khi vô hiệu hóa vì mục đích sử dụng hoặc công bố lại theo cách thức bất hợp pháp được quy định trong luật này. [45]
4.2. Xâm phạm bản quyền qua Internet tại Thụy Điển:
a) Thực trạng xâm phạm bản quyền qua Internet tại Thụy Điển:
Tình hình sử dụng Internet tại Thụy Điển:
Theo các số liệu thống kê trên thế giới, Thụy Điển là quốc gia có số lượng người sử dụng Internet chiếm phần lớn dân số. Tại thời điểm tháng 8 năm 2007, Thụy Điển đã có khoảng gần 7 triệu người sử dụng Internet, chiếm 76.7% dân số theo thống kê của ITU. [20]. Con số này góp phần làm cho Thụy Điển đứng đầu trong danh sách các quốc gia sử dụng Internet và các phương tiện truyền thông nhiều nhất trong năm 2008 theo nghiên cứu hàng năm của Liên minh điện báo quốc tế ITU dựa trên số liệu báo cáo các năm của 159 quốc gia. [29]. Và sang đến năm 2009, con số này đã tăng lên 7.3 triệu người, chiếm 80% tổng dân số. Con số này ước tính còn tiếp tục tăng và dự đoán sẽ là 7.5 triệu người và chiếm 82% dân số Thụy Điển năm 2012. [9]
Bảng 2.4. Thống kê số người sử dụng Internet so với dân số tại Thụy Điển
Năm
Số người sử dụng Internet
Dân số
Chiếm % dân số
2000
4,048,000
8,899,075
45.5 %
2004
6,722,553
9,043,990
74.3 %
2005
6,800,000
9,076,757
74.9 %
2007
6,981,200
9,107,795
76.7 %
Nguồn: ITU và Nielsen/Netratings,
Thị trường Internet của Thụy Điển thuộc một trong những thị trường phát triển nhất Châu Âu với mức độ tỷ lệ đường truyền băng rộng cao nhất Châu Âu. Thị trường này đang phát triển và chuyển giao nhanh chóng từ đường truyền dial- up kết nối thông qua đường dây điện thoại sang rất nhiều dạng thức kết nối băng rộng khác nhau. Tỷ lệ kết nối đường truyền Internet tốc độc cao đã chiếm gần 90% với các đường truyền bằng DSL, cáp modem, vệ tinh và wifi và các kỹ thuật kết nối Metro Ethernet, WLAN và BPL... Ngoài ra, Thụy Điển có tỷ lệ nhân công với kỹ năng công nghệ thông tin cao nhất Châu Âu và 53% trong số đó đều sử dụng Internet để làm việc. [13].
Tình hình xâm phạm bản quyền qua Internet tại Thụy Điển:
Trước khi luật bản quyền có hiệu lực, Thụy Điển là quốc gia duy nhất tại Châu Âu cho phép tải dữ liệu trên mạng Internet với mục đích sử dụng cá nhân. Và kết quả là có khoảng 900,000 người Thụy Điển thường xuyên download phim, phần mềm trò chơi, và các tác phẩm âm nhạc trên mạng Internet. Người ta ước tính rằng cứ 2,000 người sử dụng Internet tại Thụy Điển thì có một người nhận được thư thông báo rằng họ đang thực hiện hành vi xâm phạm bản quyền qua Internet, nhiều hơn đáng kể so với các quốc gia khác là cứ một trong 7,000 người. Sau khi Thụy Điển tham gia vào " E.U. Copyright Directive" của Liên minh Châu Âu, tình hình vẫn không được cải thiện nhiều. Và theo các chuyên gia thì thói quen download của người Thụy Điển khó có thể phá bỏ. Henril Ponten, người phát ngôn của cơ quan chống xâm phạm bản quyền được thành lập bởi các nhà sản xuất phim và trò chơi Thụy Điển đã nói:
" Không có gì chỉ ra rằng những kẻ xâm phạm bản quyền sẽ thay đổi hành vi và bản thân luật pháp cũng không làm thay đổi được gì" .[5]
b) Kinh nghiệm xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet tại Thụy Điển:
Hiện nay, Thụy Điển đã thắt chặt các biện pháp bảo vệ chống lại xâm phạm bản quyền qua Internet. Rất nhiều nỗ lực từ phía các nhà làm luật và các phương thức đối phó đã làm cho tình hình cả thiện đôi chút. Đặc biệt là sau khi văn bản thi hành Luật sở hữu trí tuệ của Thụy Điển IPRED ( Intellectual Property Rights Enforcement Directive) có hiệu lực vào 1/4/2009 đã làm tăng gấp đôi số bản download nhạc hợp pháp và giảm 30% lưu thông mạng trực tuyến. [40]
Kinh nghiệm chủ yếu của Thụy Điển là hình phạt thỏa đáng đối với các trường hợp xâm phạm bản quyền qua Internet nghiêm trọng. Điều này thể hiện trong hình phạt của Tòa án Thụy Điển đối với 4 thành viên thành lập Pirate Bay, một trang web xâm phạm bản quyền nổi tiếng trên toàn thế giới. Theo điều tra của Alexa Internet, đây là website cung cấp danh mục các file download dạng Bit Torrent. Website này được xếp hạng đứng thứ 98 trong số những website phổ biến nhất thế giới và đứng thứ 93 tại Mỹ. Tính đến tháng 2 năm 2009, Pirate Bay có khoảng 22 triệu người sử dụng với khoảng 1.6 triệu đường link download bằng torrent liên quan đến phim và ca nhạc. [31].
Sau khi IPRED được thông qua, Pirate Bay đã đáp lại các biện pháp đối phó của IPRED bằng việc thực hiện kế hoạch sử dụng mạng lưới các nhân ảo làm cho người sử dụng Internet trở nên nặc danh. Tuy nhiên, trang web này đã phải đối mặt với một loạt các vụ kiện tụng từ rất nhiều quốc gia trên thế giới. Vào tháng 4 năm 2009, bốn thành viên sáng lập Pirate Bay đã bị Tòa án tại Stockholm, Thụy Điển tuyên phạt 1 năm tù và 4.5 triệu USD cho những thiệt hại vì cố tình phá vỡ luật bản quyền Thụy Điển. [4].
Số tiền phạt thiệt hại này sẽ được bồi thường cho một số lượng lớn các công ty giải trí bao gồm Warner Bros, Sony Music Entertainment, EMI, Columbia Pictures... Mức phạt với Pirate Bay là thông điệp cảnh báo của Thụy Điển đối với những đối tượng chia sẻ dữ liệu bất hợp pháp về hình phạt nghiêm khắc của Thụy Điển trong công cuộc chống xâm phạm bản quyền qua Internet.
4.3. Xâm phạm bản quyền tại Úc
a) Thực trạng xâm phạm bản quyền qua Internet tại Úc:
Tình hình sử dụng Internet tại Úc:
Úc là quốc gia có số người sử dụng Internet khá cao, tính đến tháng 2 năm 2009 là vào khoảng 16,926,015 và chiếm 79.6% dân số theo số liệu thống kê của Nielsen. Con số này tăng gần gấp ba lần số người dùng Internet tại Úc trong năm 2000.
Bảng 2.5. Thống kê số người sử dụng Internet so với tổng dân số Úc
Năm
Số người sử dụng Internet
Dân số
Chiếm % dân số
2000
6,600,000
19,521,900
33.8 %
2007
14,729,191
20,434,176
70.2 %
2009
16,926,015
21,262,641
79.6 %
Nguồn: Nielsen/Netrating và ITU , theo thống kê thế giới về Internet
Ngoài ra, theo thống kê của Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển OECD, vào tháng 9 năm 2007, có 4,700,200 nhà cung cấp các đường truyền Internet băng rộng tại Úc, chiếm 22.8% dân số [20]. Đây là một con số rất lớn thể hiện mức độ phổ biến của Internet tại quốc gia này.
Tình hình xâm phạm bản quyền qua Internet tại Úc:
Tại Úc, có khoảng 18% dân số liên quan đến việc trao đổi bất hợp pháp các bài hát qua email hoặc các phương thức chia sẻ dữ liệu bất hợp pháp. Những đối tượng xâm phạm bản quyền này chủ yếu từ 14 đến 17 tuổi và cứ ba người lại có một người thừa nhận chia sẻ dữ liệu bất hợp pháp trên mạng Internet thường xuyên. Hầu hết các bài hát đều bị download bất hợp pháp thông qua mạng chia sẻ dữ liệu như Limewire, Bearshare và Kazaa. Theo số liệu thống kê mới đây ở Úc, với mỗi một trường hợp download hợp pháp lại có 20 trường hợp download bất hợp pháp. Các số liệu còn cho biết rằng có đến 70% giao thông trực tuyến tại Úc liên quan đến chia sẻ dữ liệu bất hợp pháp. [ 42].
b) Kinh nghiệm xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet tại Úc:
Từ thực trạng xâm phạm bản quyền qua Internet nghiêm trọng, các nhà làm luật đã thực hiện sửa đổi luật rất nhiều lần. Và lần sửa đổi gần đây nhất được quốc hội liên bang Úc thông qua vào năm 2006. Luật được sửa đổi theo yêu cầu của Hiệp định thương mại tự do Mỹ - Úc và được sửa đổi những điều khoản chủ yếu về luật chống vô hiệu hóa các tác phẩm bản quyền trên mạng Internet. Luật sửa đổi tương tự như DMCA của Mỹ mặc dù các điều khoản không giống hệt nhau. Đây là một động thái tích cực góp phần khuyến khích các tác giả thực hiện các biện pháp tự bảo vệ bằng biện pháp công nghệ.
Ngoài ra, luật sửa đổi cũng thêm những điều khoản đối với tội xâm phạm bản quyền qua Internet như trách nhiệm nặng nề hơn đối với xâm phạm bản quyền và hệ thống cảnh báo xâm phạm bản quyền qua Internet. Mức phạt đối với mỗi xâm phạm bản quyền qua Internet khác nhau tùy theo mức độ xâm phạm, thiệt hại và có thể lên tới 60,500$ đối với các cá nhân xâm phạm và 302,500$ đối với các tổ chức hoặc hình phạt tù 5 năm hoặc cả hai hình phạt một lúc. Ngoài ra, cảnh sát là cơ quan chức năng có thể xử phạt tại chỗ 1,320 $ đối với một xâm phạm bản quyền qua Internet được phát hiện. [ibid.].
Ví dụ về một trường hợp xử lý xâm phạm bản quyền của một quán cà phê Internet tại Sydney với mức phạt 82,000$ và tịch thu các thiết bị máy tính của quán. Quán cà phê này bị tòa án Úc buộc tội ăn cắp bản quyền các tác phẩm âm nhạc và chương trình truyền hình thậm chí là tải xuống để bán với 60 GB ổ cứng tại máy để khách hàng có thể chuyển tải và mang đi nội dung các tác phẩm bị xâm phạm. Vụ việc này bị liên đoàn phòng chống xâm phạm bản quyền tại Úc ( AFACT), Cục điều tra xâm phạm bản quyền âm nhạc tại Úc (MIPI) phối hợp cùng với cảnh sát liên bang Úc (AFP) phát hiện từ ngày 18 tháng 12 năm 2007 tại một quán Internet cà phê tại số 391, phố Pitt, Sydney. AFACT và MIPI đã điều tra và xác nhận rằng quán cà phê này đã thu phí theo giờ đối với những khách hàng xem những bộ phim và nhạc đã được download bất hợp pháp về máy tính của quánvà đặc biệt là bán các thiết bị lưu trữ có dung lượng lên tới 60 Gb, tương đương với hơn 40 bộ phim và hàng trăm các file nhạc trong đó có cả những bộ phim và bản nhạc chưa được công bố. [38].
CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG VIỆC XỬ LÝ XÂM PHẠM BẢN QUYỀN QUA INTERNET
1. Thực trạng xâm phạm bản quyền qua Internet tại Việt Nam
1.1. Tình hình sử dụng Internet tại Việt Nam:
Việt Nam là đất nước tiếp cận Internet khá muộn với dịch vụ Internet lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1997. Khi đó do mức phí sử dụng Internet cao và đường truyền kết nối chậm làm cho tổng số người sử dụng Internet thời kỳ đó rất thấp. Tuy nhiên chỉ không lâu sau đó, con số 10,000 người sử dụng năm 1998 đã tăng thành hơn 10 triệu người vào đầu năm 2006. Và theo số liệu thống kê vào năm 2009, con số này đã lên đến 23 triệu người, chiếm 25.7% dân số. [22] . Việt Nam là nước đứng thứ 19 trong số 20 quốc gia đứng đầu thế giới về số người sử dụng Internet. [21]
Bảng 3.1. Thống kê số người sử dụng Internet tại Việt Nam qua các năm
Năm
Số người sử dụng Internet
Dân số
Chiếm % dân số
2000
200,000
78,964,700
0.3%
2005
10,711, 000
83,944,402
12.8%
2007
16, 739,129
85,031,436
19.7%
2008
20,669,285
86,116,559
24.0%
2009
22,779,887
88,576,758
25.7%
Nguồn: ITU và VNNIC,
Theo báo cáo của AFP, sự tăng trưởng vượt bậc trong số lượng người sử dụng Internet tại Việt Nam là do nỗ lực của Chính phủ trong mục tiêu đặt ra là sự xâm nhập Internet đạt 35% trước năm 2010. Để thực hiện được điều này, Chính phủ đã đầu tư 100.5 nghìn tỷ đồng vào thị trường phát triển Internet trước năm 2010. Chính phủ cũng cho phép Bộ thông tin và truyền thông thực hiện các chức năng liên quan để thúc đẩy sự phát triển của Internet trong đó việc thành lập VNNIC. VNNIC là Trung tâm thông tin mạng Internet Việt Nam, một bộ phận phi lợi nhuận của của Bộ thông tin và truyền thông (MPT), được thành lập ngày 28 tháng 2 năm 2000. Tổ chức này ra đời để thực hiện chức năng quản lý, phân phối, giám sát và xúc tiến việc sử dụng tên miền trên Internet, địa chỉ web và hệ thống quản lý số ASN ở Việt Nam. Tổ chức này còn cung cấp những hướng dẫn liên quan đến Internet, tập hợp số liệu thống kê và đại diện Việt Nam tham gia vào các hoạt động quốc tế về Internet. Theo tổ chức máy tính thành phố Hồ Chí Minh tháng 6 năm 2006, kết quả là tỷ lệ xâm nhập Internet tại Việt Nam đạt 16%, cao hơn tỷ lệ sử dụng trung bình toàn cầu là 15,7%.
Theo số liệu thống kê mới nhất gần đây của Cimigo, một tổ chức nghiên cứu nhãn hiệu và thị trường khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, số người sử dụng Internet tại Việt Nam có tốc độ tăng khá nhanh, gần 10,9% qua hơn 10 năm. Cho đến thời điểm hiện tại, có khoảng 26% dân số Việt Nam đã tiếp cận Internet, ngang với con số ước tính tại Philipin và Thái Lan. Một phần ba người sử dụng Internet tại Việt Nam là sinh viên và 40% người sử dụng là nhân viên văn phòng. Cũng theo điều tra của Cimigo với 3,000 người sử dụng Internet từ 6 thành phố và tỉnh thành như thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã cho thấy rằng hai phần ba trong số đó sử dụng Internet một ngày khoảng 2 tiếng 2o phút đối với ngày thường và ít thời gian sử dụng hơn vào cuối tuần. Hầu hết những người được điều tra đều nói rằng họ lướt mạng để đọc tin tức, tìm kiếm thông tin, nghe nhạc, dùng cho công việc và học tập, tán gẫu hoặc để kiểm tra hòm thư. Cimigo cũng chú ý về sự phát triển của mua sắm trực tuyến và đặc biệt là sự phát triển của các trang mạng xã hội như Facebook, yahoo blog... tại Việt Nam trong thời gian vài năm trở lại đây. Facebook là mạng xã hội được yêu thích nhất và Yahoo 360 Plus là trang viết blog được cư dân mạng sử dụng nhiều nhất. [46]
1.2. Tình hình xâm phạm bản quyền qua Internet tại Việt Nam:
1.2.1. Sự phổ biến của xâm phạm bản quyền qua Internet tại Việt Nam
Ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của các phương tiện kỹ thuật số hiện đại, việc xâm phạm bản quyền qua Internet trở nên hết sức dễ dàng đối với một người sử dụng Internet thông thường. Năm 2000, Việt Nam đứng đầu trong danh sách các quốc gia xâm phạm bản quyền phần mềm toàn cầu theo báo cáo của Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Mỹ. Theo thống kê, đến 97% bản quyền phần mềm bị sao chép tại Việt Nam trong khi đó tại Trung Quốc là 90% và tại Mỹ là 30%. Các phần mềm thông thường bị bẻ khóa và cung cấp trên mạng Internet miễn phí cho người sử dụng. Việc mở rộng khả năng truy cập Internet sẽ làm tăng việc cung ứng các phần mềm lậu. Theo báo cáo thường niên lần thứ 6 của Liên minh Phần mềm Doanh nghiệp (BSA) và Tập đoàn Dữ liệu Quốc tế (IDC) 12/5/2009, trong vòng 5 năm tới, 460 triệu người ở các quốc gia mới nổi sẽ được kết nối mạng. Tốc độ tăng trưởng về sử dụng Internet sẽ cao nhất đối với người sử dụng Internet là người tiêu dùng và những doanh nghiệp nhỏ. Đây cũng là hai bộ phận có tỷ lệ xâm phạm bản quyền cao hơn so với bộ phận các doanh nghiệp lớn và các cơ quan Chính phủ. Theo thông tin từ Vụ Công nghệ - Bộ thông tin và truyền thông thì tính tại thời điểm năm 2009 tại Việt Nam có trên 400 doanh nghiệp làm việc trong môi trường kỹ thuật số, thu hút 21,000 lao động tham gia trong đó có 65% doanh nghiệp tư nhân trong nước và 3% doanh nghiệp nước ngoài. Bốn lĩnh vực mà Việt Nam đạt được doanh thu lớn nhất là mạng di động, Internet, game và thương mại điện tử. [47]
Hiện nay, đang có rất nhiều trang web, blog cá nhân, diễn đàn thực hiện việc sử dụng, sao chép và phát tán các sản phẩm trí tuệ khác nhau trên mạng Internet mà không thực hiện việc trả bản quyền. Các tác phẩm ghi âm, ghi hình thuộc quyền quản lý của Hiệp hội ghi âm Việt Nam RIAV cũng ngang nhiên bị xâm phạm. Đặc biệt là vấn đề nhạc số trên mạng Internet với khoảng 80% đến 90% bản ghi lưu hành trên các website đều không hề xin phép. Các trang nhạc số hoạt động dự trên thu phí đăng quảng cáo của các doanh nghiệp khác và đó là thực tiễn kinh doanh của thị trường âm nhạc Việt Nam. Các trang nhạc này sẽ phải trả một mức phí tương ứng cho quyền tác giả và quyền liên quan. Tuy nhiên, vẫn có nhiều trang nhạc số không thực hiện quy định này và thực hiện cho phép download hàng nghìn tác phẩm âm nhạc bất hợp pháp miễn phí gây tổn thất vô cùng lớn cho ngành công nghiệp âm nhạc Việt Nam. Theo thống kê năm 2009, có khoảng 10,000 bản nhạc trên hơn 100 website nhưng chỉ có khoảng 60 website đang thực hiện việc trả tiền bản quyền cho Hiệp hội ghi âm Việt Nam. Ông Đinh Trung Cẩn, giám đốc khu vực phía nam của Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam VCPMC cho biết chỉ có 19 trang web âm nhạc trực tuyến có đăng ký sử dụng các tác phẩm âm nhạc với VCPMC, còn lại hơn 100 trang web khác chưa hề có sự cho phép vẫn hoạt động trong đó có khoảng 50 trang web có máy chủ đặt tại nước ngoài nên các cơ quan quản lý không thể kiểm soát được. Hơn nữa, một số trang web đăng ký sử dụng 100 tác phẩm âm nhạc với VCPMC nhưng thực tế lại tải lên 3,000 đến 4,000 tác phẩm nhạc số. Hai trường hợp đặc biệt được đoàn kiểm tra liên ngành gồm Thanh tra Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch phối hợp cùng với Phòng 8 (C15, Bộ Công An) và Cục Bản quyền tác giả đã phát hiện ra trên trang web sahara.com.vn của công ty Tân Trí Tuấn và trang web songhuong.com.vn của Sông Hương ngoài những tác phẩm văn học bất hợp pháp được sao chép 100% vả về nội dung và hình thức còn hàng loạt các tác phẩm âm nhạc cũng bị vi phạm bản quyền một cách nghiêm trọng. Ví dụ như trên trang sahara.com.vn phát hiện được 8,576 bản nhạc, ca khúc được đăng tải và chưa có sự cho phép của các tác giả cũng như các cơ quan chuyên môn liên quan.
Ngoài ra, thực trạng chia sẻ dữ liệu không có bản quyền qua hệ thống chia sẻ dữ liệu trực tuyến P2P tại Việt Nam cũng là một vấn đề đáng lưu tâm. Người sử dụng Internet tại Việt Nam thường sử dụng các hệ thống chia sẻ dữ liệu trực tuyến của nước ngoài. Các hệ thống chia sẻ trực tuyến này bao gồm các phần mềm cho phép chia sẻ dữ liệu như yahoo messenger, skype,... và các website chia sẻ file như mediafire.com, megaupload.com, ugotfile.com, rapidshare.com và hàng loạt các trang chia sẻ dữ liệu trực tuyến miễn phí khác.
1.2.2. Thiệt hại của xâm phạm bản quyền qua Internet đối với Việt Nam:
Một năm Việt Nam đạt doanh thu các sản phẩm lĩnh vực công nghệ số chỉ từ 5 đến 10 triệu USD trong khi đó phải nhập khẩu gấp 10 lần, tức khoảng 30 đến 50 triệu USD.
Xâm phạm bản quyền qua Internet không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi tác giả và chủ sở hữu bản quyền, sự phát triển kinh tế của quốc gia mà còn ảnh hưởng đến cái nhìn của bạn bè thế giới về hình ảnh đất nước Việt Nam. Điển hình là việc tổ chức New Open World từng gạt tên Việt Nam ra khoi danh sách bình chọn kỳ quan thiên nhiên thế giới do một số trang web tại Việt Nam vi phạm bản quyền logo, giao diện và nội dung của trang web chính thức của họ. Bên cạnh đó là việc công ty TNHH Net Result do liên đoàn bóng đá Anh ủy quyền để bảo vệ tất cả những vấn đề có liên quan đến sở hữu trí tuệ của giải bóng đá này trên mạng Internet đã khiếu nại việc các trang web bongdaso.com, tamtay.vn, zing.vn, webthethao.vn, vnmedia.vn, clip.vn và baobongda.com.vn đã đăng tải những đoạn video clip các trận bóng đá mà không được sự đồng ý của Liên đoàn bóng đá giải ngoại hạng Anh Premier League. Đặc biệt nhất là việc cuối tháng 12 năm 2008, VTV đã không thể truyền hình trực tiếp đêm chung kết Hoa hậu thế giới vì các trang web vietnamitv.com, vtc.com.vn. PDA.vn, clip.vn đã tự ý thu lại các phần thi Hoa hậu thời trang, Hoa hậu biển từ VTV3 để phát trực tiếp trên trang web của mình. Tổ chức Hoa hậu thế giới cho rằng đây là hành động xâm phạm bản quyền và quyết định ngừng cung cấp sóng cho RAAS, đơn vị cung cấp bản quyền phát sóng cho VTV. Rõ ràng, những sự việc đáng tiếc như vậy sẽ khó xảy ra nếu Việt Nam làm tốt khâu thực thi bản quyền trên mạng Internet.
2. Thực trạng xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet tại Việt Nam
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và canh tranh toàn cầu, vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam trở nên đặc biệt quan trọng và trở thành mối quan tâm hàng đầu trong quan hệ kinh tế quốc tế. Việt Nam hiện đang nỗ lực cùng với các quốc gia trên thế giới thực thi nhiều biện pháp khác nhau nhằm bảo vệ quyền tác giả chống lại xâm phạm bản quyền qua Internet. Tuy nhiên việc xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet còn gặp nhiều khó khăn và bất cập đặc biệt khi mà các cách thức xâm phạm bản quyền qua Internet ngày càng tinh vi và khó phát hiện hơn.
2.1. Biện pháp tự bảo vệ chưa phù hợp
Tại Việt Nam, các hiệp hội bảo vệ quyền cho các tác giả chưa có các biện pháp tự bảo vệ thực sự hiệu quả cho vấn đề xâm phạm bản quyền qua Internet. Các biện pháp nỗ lực của các Hiệp hội chưa hợp lý nên thường vấp phải sự phản đối của hầu hết các đơn vị cũng như cá nhân trong xã hội. Ví dụ như trong năm 2009, theo công văn số 22/BQTG của Cục Bản quyền tác giả và công văn số 02/RIAV/08 của Hiệp hội công nghiệp ghi âm Việt Nam, Thanh tra Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã yêu cầu mức phí bản quyền trên Internet cho một bài hát trên một website là 1 triệu đồng một năm. Đây được coi là mức phí cắt cổ cho các website nhạc trực tuyến hiện nay. Theo nhạc sĩ Hạ Long - Trưởng phòng cấp phép của Trung tâm quyền tác giả âm nhạc Việt Nam VCPMC cho biết:
" Hiện nay mức thu trung bình về quyền tác giả một bài hát được đưa lên website mà không cho phép tải về là 16,000 đồng một bài hát một tháng. Nghĩa là trong một năm, tác giả ca khúc sẽ nhận được khoảng 192,000 đồng. Nếu cho download thì cộng thêm 300 đồng một bài một tháng". [3]
Trên thế giới hiện nay, theo biểu giá của Hiệp hội quy tắc - Hiệp hội bảo vệ quyền tác giả âm nhạc cả nhạc và lời bài hát thì tại bất kỳ một nước nào, tỷ lệ phần trăm trong vấn đề bản quyền bao giờ tác giả tác phẩm cũng phải là đối tượng được thu tiền bản quyền lớn nhất. Tỷ lệ giữa mức bản quyền trả cho tác giả so với mức phí bản quyền trả cho bên liên quan thường là 6.5 và 3.5. Điều này có nghĩa là nếu tác giả chỉ được trả khoảng 192,000 đồng một bài một năm thì bên liên quan có thể được trả mức tương ứng, khoảng 104,000 đồng một năm. Như vậy, nếu RIAV quyết định thu phí một triệu đồng một bài hát một năm thì mức phí này sẽ chênh cao gấp 5 lần so với mức giá thực tế mà tác giả tác phẩm nhận được. Đây là mức giá không phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như thông lệ hiện hành tại Việt Nam. Căn cứ trên cơ sở luật pháp hiện hành, luật sư Nguyễn Thanh Hà, một luật sư về sở hữu trí tuệ thuộc đoàn luật sư Hà Nội đã nhận định:
" Hiện tại, cách xây dựng bảng phí bản quyền của RIAV không dựa trên bất cứ một văn bản pháp luật có liên quan nào của Việt Nam. Đây là cách xây dựng hoàn toàn dựa trên ý chí chủ quan của RIAV và không dựa trên bất cứ một văn bản pháp luật có liên quan nào của Việt Nam". [ibid.]
Hơn nữa, các tác giả và các bên liên quan chưa sử dụng hiệu quả các biện pháp công nghệ để bảo vệ tác phẩm của mình. Cũng có nhiều trang web thực hiện biện pháp sử dụng thông tin quản lý quyền hay tạo ra các điều khoản nhằm ngăn cấm việc download, sao chép các tác phẩm bất hợp pháp tuy nhiên các biện pháp này không ngăn được người sử dụng Internet thực hiện các hành vi nhằm kiếm lợi của mình.
2.2. Biện pháp dân sự và hình sự chưa được áp dụng triệt để
Hầu hết các xâm phạm bản quyền qua Internet khi bị phát hiện hầu hết đều được xử lý bằng biện pháp xử phạt hành chính. Mức phạt tiền trong xử phạt hành chính là từ 10,000 đồng đến 500 triệu đồng tùy theo mức độ và lĩnh vực xâm phạm bản quyền. [Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính số 04/2008/UBTVQH12]. Đây là mức phạt hợp lý nhằm răn đe đối với các hành vi xâm phạm bản quyền qua Internet tại Việt Nam. Tuy nhiên một điều bất cập là tác giả, người có công lớn nhất trong việc sáng tạo ra tác phẩm, lại không được hưởng mức bồi thường nào từ việc phạt hành chính các đối tượng trên.
Các vụ án dân sự và hình sự rất ít khi được áp dụng đối với các vụ việc liên quan đến xâm phạm bản quyền qua Internet mặc dù pháp luật có quy định trường hợp áp dụng các biện pháp này. Ví dụ như Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2000 quy định hình phạt đối với xâm phạm bản quyền có tính chất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, hành vi có tổ chức và hành vi phạm tội nhiều lần sẽ bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. [ Bộ luật Hình sự Việt Nam 2000, Điều 131, Khoản 2]. Ngoài ra người có hành vi phạm tội còn có thể bị phạt từ 10 triệu đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm. [ Bộ luật Hình sự Việt Nam 2000, Điều 131, Khoản 3]. Điều này cho thấy, các biện pháp dân sự và hình sự chưa được áp dụng triệt để nhằm ngăn chặn hành vi xâm phạm bản quyền qua Internet.
3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong vấn đề xâm phạm bản quyền qua Internet
3.1. Bài học kinh nghiệm từ thực trạng xâm phạm bản quyền qua Internet tại Việt Nam
Việt Nam sau nhiều năm nỗ lực chống xâm phạm bản quyền qua Internet cũng đã đạt được một số thành tựu đáng kể. Ví dụ như một số lượng đáng kể vi phạm bản quyền Internet đã giảm đặc biệt là ngành công nghiệp phần mềm. Còn riêng đối với vấn đề xâm phạm bản quyền nhạc số, trong năm 2008, VCPMC đã thu được 15 tỷ đồng tiền hợp đồng trả phí bản quyền và hợp đồng trả phí bản quyền giữa RIAV với các website nhạc số có giá trị trung bình 1 tỷ đồng một năm. Đây là những con số đáng khích lệ tuy nhiên từ tình hình xâm phạm bản quyền vẫn diễn ra hiện nay và thực trạng xử lý xâm phạm bản quyền ở nước ta cho thấy vẫn còn rất nhiều chúng ta phải làm trong tương lai. Để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp kinh doanh, tạo sự hấp dẫn, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, góp phần bảo vệ người tiêu dùng và quan trọng hơn là quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu bản quyền, ngoài sự nỗ lực của chính phủ cần có sự nỗ lực của tất cả các cơ quan ban ngành liên quan. Từ thực tế trên, một số kinh nghiệm được rút ra cho Việt Nam trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý đối với vấn đề xâm phạm bản quyền qua Internet cho phù hợp với thông lệ, điều ước quốc tế và phù hợp với tình hình thực tiễn trong nước.
Hiện nay, các quy định về xâm phạm bản quyền qua Internet tại Việt Nam vẫn còn mập mờ và nhiều điểm yếu dẫn đến hiệu quả thực thi còn hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ. Các nhà làm luật cần tiếp tục tổng kết thực tiễn thi hành trong những năm qua để bổ sung quy định đầy đủ, cụ thể và phù hợp hơn, tạo điều kiện cho chủ sở hữu tham gia bảo hộ quyền sở hữu của mình đối với tài sản trí tuệ.
Thứ hai, các tác giả hay chủ sở hữu bản quyền cần có biện pháp tự bảo vệ hiệu quả tài sản trí tuệ của mình.
Chủ sở hữu bản quyền cần xác định rõ rằng bản chất của quyền sở hữu trí tuệ là quyền dân sự. Vì vậy, cũng giống như tài sản vật chất, việc bảo vệ các tài sản trí tuệ trước tiên là thuộc trách nhiệm mỗi cá nhân, tổ chức sở hữu bản quyền. Các tác giả hay các bên liên quan có quyền tự bảo vệ theo Điều 198 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 mà không nên trông chờ, ỷ lại vào việc xử lý hay thực thi của các cơ quan có thẩm quyền. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, ngay từ khi nghiên cứu, thiết kế vào tạo dựng các đối tượng sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu bản quyền đã phải tính đến các biện pháp công nghệ nhằm bảo vệ các đối tượng này.
Thứ ba, tăng cường công tác giáo dục, đưa nội dung giáo dục vào trong nhà trường, tổ chức hoặc đến các hộ dân cư bằng cách tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, truyền thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng...
Tại Việt Nam, người sử dụng Internet đặc biệt là giới trẻ vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng cũng như tác hại của xâm phạm bản quyền qua Internet. Vì thế đa số người sử dụng Internet tại Việt Nam đều thờ ơ với vấn đề này và không xem trọng công tác chống xâm phạm bản quyền qua Internet. Trong công cuộc chống xâm phạm bản quyền qua Internet, ý thức của mỗi cá nhân ảnh hưởng rất lớn. Tiến sĩ Vũ Mạnh Chu, Cục trưởng Cục bản quyền tác giả đã phát biểu:
" Mỗi cá nhân phải có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật. Khuyến cáo tốt nhất của tôi là phải hiểu biết pháp luật và có ý thức chấp hành pháp luật." [47]
Thứ tư, nâng cao vai trò của các cơ quan thực thi chống xâm phạm bản quyền qua Internet.
Các cơ quan tham gia bảo vệ bản quyền chống lại xâm phạm bản quyền qua Internet cần nâng cao hơn nữa vai trò của mình. Ví dụ như cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phối hợp cùng nhau và đặc biệt là phối hợp cùng chủ sở hữu bản quyền thông qua các biện pháp nghiệp vụ để phát hiện tội phạm, kiên quyết xử lý đúng pháp luật, công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng để toàn dân được biết. Cần nâng cao hơn nữa vai trò của Tòa án trong việc xét xử nghiêm minh các hành vi xâm phạm nghiêm trọng bản quyền qua Internet. Đồng thời cần tổ chức xây dựng lực lượng chuyên trách về các lĩnh vực sở hữu trí tuệ, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ.
Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong vấn đề xâm phạm bản quyền qua Internet.
Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc tham gia xây dựng lực lượng cảnh sát chuyên trách chống tội phạm xâm phạm bản quyền đặt máy chủ tại một số quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới nhằm phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về xâm phạm bản quyền qua Internet phạm vi toàn cầu. Việc này nhằm ngăn chặn những hành động lách luật của các đối tượng xâm phạm bản quyền liên quốc gia, một loại tôi phạm xâm phạm bản quyền qua Internet vô cùng tinh vi và thường có quy mô lớn.
3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ kinh nghiệm một số quốc gia
Dựa trên kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc bảo vệ chống lại xâm phạm bản quyền qua Internet, chúng ra rút ra được một số bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam.
Sử dụng biện pháp tự bảo vệ hiệu quả:
Biện pháp tự bảo vệ bằng công nghệ và thông tin quản lý quyền được áp dụng khá thành công tại Mỹ. Tại Việt Nam, các tác giả cũng như các tổ chức quản lý tập thể chưa có biện pháp tự bảo vệ phù hợp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Các biện pháp tự bảo vệ thành công tại Mỹ có thể áp dụng tại Việt Nam như:
- Tác động trực tiếp đến các nhà cung cấp dịch vụ mạng:
Biện pháp này nhằm quy trách nhiệm các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội hoặc chủ website trong vấn đề quản lý khách hàng của họ. Các mạng xã hội, diễn đàn thảo luận... là môi trường lý tưởng cho việc chia sẻ thông tin cũng như xâm phạm bản quyền qua Internet lớn nhất. Các nội dung chia sẻ trên các trang xã hội thông thường thuộc quyền kiểm soát của các thành viên sở hữu trang web, thường được gọi là admin. Các admin có quyền yêu cầu thành viên chứng minh quyền sở hữu trước khi đăng tải cho công chúng tiếp cận hoặc có quyền dỡ bỏ các nội dung chia sẻ bất hợp pháp khi phát hiện xâm phạm bản quyền. Dù thông tin là do các thành viên trang web chia sẻ nhưng chính các trang web tạo ra môi trường cho thông tin đó lưu thông. Vì thế các chủ website phải liên đới chịu trách nhiệm nếu không kiểm soát được hành vi xâm phạm bản quyền của khách hàng của họ.
- Sử dụng các công cụ tìm kiếm để điều tra các website cung cấp một cách bất hợp pháp các tác phẩm bản quyền:
Các tác giả, chủ sở hữu bản quyền cũng như các tổ chức quản lý quyền tập thể nên sử dụng phương pháp này để điều tra các hành vi xâm phạm bản quyền tác phẩm của mình từ đó sẽ có những biện pháp xử lý riêng bảo vệ quyền hợp pháp đối với tác phẩm. Ví dụ như gửi các bức thư cảnh báo liên tục tới các đối tượng cũng như các website mà phát hiện ra có hành vi xâm phạm bản quyền hoặc yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ mạng ngắt đường truyền Internet đối với các đối tượng trên.
- Sử dụng các biện pháp thông tin quản lý quyền hiệu quả:
Các tác giả, chủ sở hữu bản quyền cần gắn các thông tin quyền của mình lên tác phẩm trên mạng Internet. Hành động này có tính chất cảnh báo đối với người sử dụng trước khi họ có ý định thực hiện hành vi sao chép, download hay chia sẻ mà chưa có sự đồng ý của tác giả. Ngoài ra, các tác giả, chủ sở hữu bản quyền cần có các biện pháp hợp tác với các nhà cung cấp dịch vụ mạng Internet để tìm ra các địa chỉ máy tính cá nhân của những người sử dụng có hành vi xâm phạm bản quyền qua Internet. Thông thường chỉ có các nhà cung cấp dịch vụ Internet tương ứng mới có thể cung cấp thông tin cần thiết để xác định một người xâm phạm bản quyền trực tuyến. Nhà cung ứng có thể dựa vào địa chỉ IP của một máy tính được sử dụng trên Internet để tìm ra một thuê bao cá nhân.
Thực hiện biện pháp dân sự chặt chẽ :
Kinh nghiệm này được rút ra từ kinh nghiệm của cả Anh, Pháp và Mỹ trong việc xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet. Tại Việt Nam, các biện pháp dân sự chưa được áp dụng nhiều và thường xuyên đối với vấn đề xâm phạm bản quyền qua Internet. Chủ yếu các xâm phạm này đều được áp dụng biện pháp hành chính, trong khi đó các tác giả lại không nhận được tiền bồi thường thiệt hại từ việc xâm phạm bản quyền của mình. Tại các nước phương tây, hầu hết các vụ xâm phạm bản quyền qua Internet đều được thực hiện bởi Tòa án dân sự. Theo đó, bên bị vi phạm bản quyền thường được bồi thường một mức lớn hơn mức thiệt hại bởi vì luật các nước phương tây rất đề cao quyền tác giả, những người có công trực tiếp trong việc sáng tạo ra tác phẩm.
Biện pháp giáo dục:
Các biện pháp giáo dục được áp dụng thành công tại các Anh, Pháp và Mỹ với các hình thức giáo dục khác nhau. Giới trẻ từ độ tuổi từ 12 đến 25 chiếm tỷ lệ phần lớn xâm phạm bản quyền qua Internet. Vì thế việc giáo dục giới trẻ là việc hết sức cần thiết. Hầu hết giới trẻ thực hiện việc download phần mềm, trò chơi, phim ảnh, nhạc số, truyện tranh, tiểu thuyết,... trên các trang web bất hợp pháp mà không hề ý thức hậu quả nghiêm trọng do hành vi đó gây ra. Vì thế, Việt Nam cần triển khai áp dụng các biện pháp giáo dục trong nhà trường, trong các cơ quan đoàn thể và đặc biệt là giáo dục ý thức các bậc phụ huynh về hành vi của con cái họ. Vấn đề giáo dục các bậc phụ huynh là vấn đề được các nước phương tây hết sức xem trọng. Ví dụ tổ chức bản quyền tập thể tại Mỹ, đặc biệt là RIAA đã thực hiện việc giáo dục ý thức các bậc phụ huynh với chương trình riêng mang tên Parental Advisory Label, viết tắt là PAL nhằm hướng việc giáo dục đến các bậc phụ huynh.
Ngoài ra, còn rất nhiều các biện pháp xử lý xâm phạm bản quyền khác mà Việt Nam nên học hỏi kinh nghiệm từ nước ngoài ví dụ như cùng đàm thoại với người sử dụng Internet để hiểu được cách suy nghĩ của họ cũng như tham khảo ý kiến của họ trong công cuộc chống xâm phạm bản quyền qua Internet...
Tóm lại, tại Việt Nam, vấn đề xâm phạm bản quyền qua Internet chưa được xem trọng đúng mức. Các tác giả, chủ sở hữu bản quyền cũng như các cơ quan ban ngành liên quan cần đưa ra nhiều biện pháp sáng kiến phù hợp với tình hình thực tiễn và dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới để ngăn chặn và hạn chế hành vi xâm phạm bản quyền qua Internet đang ngày càng trở nên phổ biến hiện nay. Các cơ quan chức năng Việt Nam cần phải xác định rằng xâm phạm bản quyền qua Internet không phải vấn đề riêng của từng quốc gia mà là vấn đề chung của toàn thế giới.
C. KẾT LUẬN
Ai cũng biết rằng kinh doanh để tạo ra lợi nhuận nhưng những việc kinh doanh bất hợp pháp mờ ám tại các quốc gia trên thế giới đang làm suy sụp nền kinh tế toàn cầu bằng việc ăn cắp bản quyền các phần mềm chương trình máy tính, trò chơi, phim ảnh hay các dạng thức kỹ thuật số khác của sở hữu trí tuệ thông qua mạng Internet. Sự phát triển của mạng lưới world wide web đã thực sự làm thay đổi thế giới với nhiều cơ hội cũng như thách thức về vấn đề bản quyền.
Thông qua nghiên cứu về xâm phạm bản quyền qua Internet và kinh nghiệm thực thi tại một số quốc gia trên thế giới có thể thấy rõ những nỗ lực không ngừng nghỉ của toàn thế giới trong công cuộc đấu tranh chống nạn xâm phạm bản quyền trong thời đại bùng nổ công nghệ kỹ thuật số như hiện nay. Hiện nay, 39 quốc gia trên thế giới trong đó có Mỹ, Canada và EU đang bí mật đàm phán về một Hiệp ước cho phép tăng cường quản lý tác quyền, quyền sở hữu trí tuệ trên Internet. Hiệp ước này được gọi là ACTA ( Anti - Counterfeiting Trade Agreement) tạm dịch là Hiệp ước thương mại chống làm giả. ACTA đơn giản là nhằm áp đặt một Hiệp ước giữa các nhà cung cấp dịc vụ Internet và những người nắm quyền bản quyền bằng cách chặn, lọc hoặc thậm chí tự động xóa các nội dung xâm phạm bản quyền trên các trang web. ACTA được cư dân mạng khắp nơi trên thế giới gọi là " Điều luật Hadopi toàn cầu" hay "Hiệp ước bí mật sẽ thay đổi diện mạo của Internet thế giới. Đây là động thái tích cực từ phía các quốc gia trong thời điểm hiện tại khi mà vấn đề bảo vệ bản quyền trên Internet đang thực sự là một vấn đề cấp thiết trên toàn thế giới. [17]
Việt Nam cũng như các nước trên thế giới đang nỗ lực trong công tác bảo vệ chống xâm phạm bản quyền qua Internet. Tuy nhiên, những nỗ lực của Việt Nam vẫn chưa đạt được những kết quả như mong muốn. Vì thế, Việt Nam cần tích cực hơn trong công tác thực thi bảo vệ bản quyền trong môi trường Internet dựa trên tình hình thực tiễn tại chính quốc gia mình kết hợp với những kinh nghiệm quý báu tiếp thu từ thực tiễn xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet tại các quốc gia trên thế giới. Thực thi xử lý xâm phạm bản quyền qua Internet hiệu quả sẽ giúp cho Việt Nam thoát khỏi danh sách những nước có tỷ lệ xâm phạm bản quyền lớn nhất thế giới và đẩy mạnh kinh tế, hợp tác lâu dài và tạo uy tín đối với các quốc gia trên thế giới trong thời buổi hội nhập hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anderson, Nate (2009), "Thomas verdict: willful infringement, $1.92 million penalty", truy cập ngày 25 tháng 04 năm 2010, từ
2. Australian Bureau of Statistic (2006), Patterns of Internet Access in Australia, truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2010, từ
3. Bảo Phương (2008), " Một triệu đồng một bài hát: Bảo vệ bản quyền hay độc quyền?", truy cập ngày 29 tháng 04 năm 2010, từ
4. BBC ( British Broadcasting Corporation) (2009), "Court jails Pirate Bay founders". Truy cập 25 tháng 04 năm 2010, từ
5. BBC (British Broadcasting Corporation) (2005), "Swedes curb rampant downloading", truy cập ngày 24 tháng 04 năm 2010, từ
6. BBC(British Broadcasting Corporation) (2010) , "Doanh thu âm nhạc 'không quá tệ'", truy cập ngày 12 tháng 03 năm 2010, từ
7. Benzoni, Laurent; Geofron, Patrice; Hardouin, Philippe (2008), The Economic Impact of Illegal Copyright in France when economic chaos infiltrates the technological revolution, truy cập ngày 24/4/2010, từ
8. BIS( Department for Bussiness Innovation and Skill) (2009), Digital Britain Final Report, truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2010, từ http:// www.culture.gov.uk/images/.../digitalbritain-finalreport-jun09.pdf
9. Business Wire (2010), Scandinavia B2C E-Commerce Report 2010, truy cập ngày 24 tháng 04 năm 2010, từ
10. Dacey, Jessica (2008), "Tens of thousands addicted to the Internet", truy cập ngày 23 tháng 04 năm 2010, từ
11. Day, Corinne (2010), "International Chamber of Commerce's latest report on illegal downloading", truy cập ngày 22 tháng 04 năm 2010 , từ
12. Doland, Angela (2010), "French panel suggests taxing Google to boost music industry, cultural endeavors" , truy cập ngày 23 tháng 04 năm 2010, từ
13. Ecommerce Jounal (2010), "Internet and e-commerce industry in Sweden", truy cập ngày 24 tháng 04 năm 2010, từ
14. Engelman, Linda J. (1996), Interacting on the Internet, nhà xuất bản McGraw Hill Higher Education.
15. Fightmaster, Mark (2009), "Google Convicted of Copyright Infringement in France", truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2010, từ
16. Gewirtz, David (2010), "French solution to illegal download and copyright infringement - tax Google and Yahoo", truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010, từ
17. Giang Khuê (2010), "ACTA- Hiệp ước bí mật về quản lý Internet trên thế giới", truy cập ngày 12 tháng 04 năm 2010, từ
18. Goldman, Jeff (2010), "Illegal P2P Downloads Down by 25 Percent", truy cập ngày 25 tháng 04 năm 2010, từ
19. Hamilton, David (2009), "France To Cut Illegal Download Connections", truy cập ngày 22 tháng 04 năm 2010, từ http:// www.thewhir.com/web-hosting news/051309_France_To_Cut_Illegal_Download_Connections
20. Internet World Stats (2008), Sweden Internet Usage Stats and Telecom Reports, truy cập ngày 26 tháng 04 năm 2010, từ
21. Internet World Stats (2009), Top 20 countries with the highest number of Internet Users, truy cập ngày 30 tháng 04 năm 2010, từ
22. Internet World Stats (2009), Vietnam Internet Usuage Stats and Marketing Report, truy cập ngày 26 tháng 04 năm 2010, từ
23. Internet World Stats (2010), France Internet Usage Stats and Telecom Reports, truy cập ngày 22/04/2010, từ
24. IPO ( Intellectual Property Office) (2009), " Education, enforcement and new business models essential to tackling unlawful filesharing", truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2010, từ
25. IPO ( Intellectual Property Office) (2009), "Net named number one", truy cập ngày 10 tháng 04 năm 2010, từ
26. IPO ( Intellectual Property Office), "History of Copyright", truy cập ngày 18 tháng 04 năm 2010, từ
27. IPO( Intellectual Property Office) (2009), "Copyright debate goes online", truy cập ngày 22 tháng 03 năm 2010, từ
28. Kiluba, Anna (2010)," "Pirate" Has A Whole New Meaning", truy cập ngày 23 tháng 04 năm 2010 từ
29. Kyodo News (2010), "Sweden retains top spot in Internet and computer use; Japan 8th", truy cập ngày 24 tháng 04 năm 2010, từ
30. Madine, Austin (2009), "France passes three-strikes bill", truy cập ngày 20 tháng 04 năm 2010, từ
31. Marshal, Rosalie (2009), "Pirate Bay trial begins in Sweden", truy cập ngày 25 tháng 04 năm 2010, từ
32. Meyer, David (2009) , "Pub 'fined £8k' for Wi-Fi copyright infringement", truy cập ngày 22 tháng 03 năm 2010, từ
33. Moya, Jared (2008), "Anti-P2P Higher Education Act May Cost Some Colleges $500,000 Annually", truy cập ngày 25 tháng 04 năm 2010, từ
34. Moya, Jared (2009), "IFPI: P2P Does Not Increase Music Sales", truy cập ngày 24 tháng 04 năm 2010, từ
35. Nguyễn, Văn Hân (2008), "Mircrosoft phát động " Ngày chống vi phạm bản quyền toàn cầu", truy cập ngày 24 tháng 04 năm 2010, từ
36. OFCOM ( Federal Office of Communication) (2010), The Swiss information society in figures, truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2010, từ
37. Phong Vân (2009), "95% nhạc số trực tuyến vi phạm bản quyền", truy cập ngày 20 tháng 04 năm 2010, từ
38. Reutt, Alex Zaharov (2008), "Australian Internet cafe pleads guilty to copyright infringement", truy cập ngày 26 tháng 04 năm 2010, từ
39. RIAA ( Recording Industry Association of America) (2006), Parental Advisory, truy cập ngày 25 tháng 04 năm 2010, từ
40. Ross, Caity (2009), "Flash Digest: News in Brief", truy cập ngày 25 tháng 04 năm 2010, từ
41. Sheffner, Ben (2009), "Oy Tenenbaum! RIAA wins $675,000, or $22,500 per song", truy cập ngày 24 tháng 04 năm 2010, từ
42. Sikora, Natalie Tkaczuk (2008), "Australia a nation of music pirates", truy cập ngày 26 tháng 04 năm 2010, từ
43. Siwek, Stephen E. (2007), Policy Report 189: The True Cost of Copyright Industry Piracy to the US Economy, truy cập ngày 28/4/2010, từ
44. Sroussi, Grégory (2009), "France - The Hadopi Law and France’s Controversial Fight Against Piracy", truy cập ngày 12 tháng 04 năm 2010, từ
45. Swiss Federal Institute of Intellectual Property (2010), Amendment of the Copyright Act, truy cập ngày 25 tháng 04 năm 2010, từ https://www.ige.ch/en/copyright/frequently-asked-questions.html
46. T.Phuoc (2010), "Vietnam sets scorching pace in Internet use", truy cập ngày 27 tháng 04 năm 2010, từ
47. Trung tâm thông tin thư viện Đại học khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh (2009), "Những thách thức trong vấn đề bản quyền nhạc "số", truy cập ngày 24tháng 4 năm 2010, từ
48. UK Intellectual Property Office (2008), Penalties for Copyright Infringement, truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2010, từ http:// www.ppa.co.uk/legal-and-public.../consult-gowers36.ashx
49. Wiederhorn, Jon (2010), "Artists, Industry React to Rapidshare's Action Against Illegal Filesharing", truy cập ngày 23 tháng 04 năm 2010, từ
50. WRS ( World Radio Switzerland) (2008), "Internet downloaders brace for legal crackdown", truy cập ngày 27 tháng 04 năm 2010, từ
MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu thống kê số người sử dụng Internet và dân số nước Mỹ 27
Bảng 2.2. Thống kê việc sử dụng Internet và dân số của Pháp 34
Sơ đồ 2.1. Sự biến đổi trong số lượng download phim nửa đầu 2008 tại Pháp 37
Sơ đồ 2.2. Số lượng hộ gia đình tiếp cận Internet tại Anh 41
Bảng 2.3. Thống kê số lượng người dùng Internet tại Thụy Sĩ 46
Bảng 2.4. Thống kê số người sử dụng Internet so với dân số tại Thụy Điển 49
Bảng 2.5. Thống kê số người sử dụng Internet so với tổng dân số Úc 52
Bảng 3.1. Thống kê số người sử dụng Internet tại Việt Nam qua các năm 55
DANH MỤC VIẾT TẮT
AFACT
Liên đoàn phòng chống xâm phạm bản quyền tại Úc
Australian Federation Against Copyright Theft
ACTA
Hiệp ước thương mại chống làm giả
Anti - Counterfeiting Trade Agreement
Art.
Điều khoản
Article
BLDS
Bộ Luật Dân Sự
BQTG
Bản quyền tác giả
BPL
Đường truyền băng thông rộng tốc độc cao
Broadband over power line
BPI
Hiệp hội công nghiệp ghi âm của Anh
Bristish Phonographic Industry
BSA
Trung tâm nghiên cứu kinh doanh và hỗ trợ doanh nghiệp
Bussiness Software Alliance
DMCA
Đạo luật bản quyền trong thời đại kỹ thuật số
Digital Milennium Copyright Act
DSL
Kênh thuê bao số
Digital Subcriber Line
ERA
Hiệp hội các nhà bán lẻ giải trí
Entertainment Retailers Association
EU
Liên minh Châu Âu
European Union
Hadopi
Quyền tác giả đối với công bố tác phẩm nghệ thuật và bảo vệ bản quyền trên Internet
High Authority of Diffusion of the Art Works and Protection of the Copyrights on Internet
GBP
Bảng Anh
Great Britain Pound
ICC
Phòng thương mại Internet
Internet Chamber of Commerce
IP
Giao thức Liên mạng
Internet Protocol
IPI
Viện đổi mới chính sách
Institute for Policy Innovation
IPRED
Văn bản hướng dẫn thi hành Luật sở hữu trí tuệ Thụy Điển
Intellectual Property Rights Enforcement Directive
ISP
Nhà cung cấp dịch vụ mạng
Internet Service Provider
ITU
Liên minh viễn thông quốc tế
International Telecommunication Union
MIPI
Cục điều tra xâm phạm bản quyền âm nhạc tại Úc
Music Industry Piracy Investigations
MPAA
Hiệp hội điện ảnh Hoa Kỳ
Motion Picture Association of America
NPD
Công ty nghiên cứu thị trường quôc gia
National Purchase Diary
OECD
Tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển
Organisation for Economic Co-operation and
Development
OFCOM
Văn phòng truyền thông liên bang Thụy Sĩ
Federal Office of Communication
P2P
Mạng đồng đẳng
Peer to Peer
PAL
Chương trình tư vấn phụ huynh
Parental Advisory Label
PLTTGQCVADS
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
RIAA
Hiệp hội công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ
Recording Industry Association of America
RIAV
Hiệp hội công nghiệp ghi âm Việt Nam
Recording Industry Association of Vietnam
SACD
Hiệp hội tác giả và các nhà soạn kịch tại Pháp
Société des Auteurs et Compositeurs Dramatiques
USD
Đô la Mỹ
United States Dollar
VCPMC
Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam
Vietnam Center of Protection Music Copyright
VLCC
Trung tâm quyền tác giả văn học Việt Nam
Vietnam Literary Copyright Centre
VINASA
Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam
Vietnam Software Association
VNNIC
Trung tâm thông tin mạng Internet Việt Nam
Vietnam Internet Network Information Centre
WCT
Công ước về bản quyền của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
The Wipo Copyright Treaty
WIPO
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
World Intellectual Property Organization
WLAN
Mạng cục bộ không dây
Wireless Local Area Network
WPPT
Công ước quốc tế về buổi biểu diễn và ghi âm
The WIPO Performances and Phonograms Treaty
UBTVQH
Ủy ban thường vụ Quốc hội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 110995.doc