Khóa luận Xây dựng mô hình chứng khoán hóa các khoản nợ trong quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hóa tài chính của hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG KHOÁN HOÁ CÁC KHOẢN NỢ TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI I. Những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ chứng khoán hoá các khoản nợ 1. Khái niệm chứng khoán hoá 2. Đặc tính các loại tài sản có thể được chứng khoán hoá 3. Các thành viên liên quan 4. Điều kiện cần thiết để chứng khoán hoá các khoản nợ 5. Lợi ích và rủi ro của chứng khoán hoá các khoản nợ II. Chứng khoán hoá các khoản nợ tại các ngân hàng thương mại 1. Vài nét về chứng khoán hoá các khoản nợ tại các NHTM 2. Nội dung chứng khoán hoá 3. Một số phương thức chứng khoán hoá các khoản nợ tồn đọng III. Kinh nghiệm của một số nước trong hoạt động chứng khoán hóa 1. Nhậ Bản 2. Hàn Quốc 3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG MÔ HÌNH CHỨNG KHOÁN HOÁ CÁC KHOẢN NỢ TỒN ĐỌNG CỦA HỆ THỐNG CÁC NHTM VIỆT NAM I. Thực trạng nợ tồn đọng của NHTM Việt Nam 1. Bối cảnh chung trong hệ thống NHNTM Việt nam 2. Nguyên nhân dẫn đến nợ tồn đọng 3. Tình hình xử lý nợ tồn đọng của các NHTM 4. Thực trạng nợ tồn đọng và xử lý nợ tồn đọng tại NHNT Việt Nam II. Xây dựng mô hình chứng khoán hoá nợ tồn đọng trong điều kiện Việt Nam 1. Nội dung của mô hình 2. Các bước thực hiện theo mô hình 3. Những lợi ích và bất cập khi áp dụng mô hình trong điều kiện Việt Nam 3.1. Những lợi ích khi áp dụng mô hình trong điều kiện Việt Nam 3.2. Những bất cập khi áp dụng mô hình trong điều kiện Việt Nam CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN MÔ HÌNH CHỨNG KHOÁN HOÁ CÁC KHOẢN NỢ TỒN ĐỌNG TRONG QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU VÀ LÀNH MẠNH HOÁ TÀI CHÍNH CỦA NHTM I. Cơ sở tiền đề cho chứng khoán hoá các khoản nợ tồn đọng trong hệ thống NHTM Việt Nam 1. Sự phát triển của nền kinh tế 2. Sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam 3. Môi trường pháp lý được hoàn thiện dần 4. Cung, cầu lớn đối với việc chứng khoán hóa các khoản nợ tồn đọng của hệ thống NHTM Việt Nam 5. Năng lực nhận thức và kinh doanh của các NHTM 6. Sự hỗ trợ lớn từ NHNN và Chính phủ 7. Sự hỗ trợ từ các định chế tài chính thế giới II. Định hướng xử lý nợ tồn đọng của NHTM trong thời gian tới 1. Chủ động, tích cực tìm kiếm các dự án khả thi, các khách hàng vay hoạt động tốt, có khả năng trả nợ không phân biệt loại hình sở hữu 2. Tiếp tục chấn chỉnh các mặt yếu kém trong hoạt động tín dụng 3. Thực hiện tốt chính sách khách hàng 4. Kiện toàn và sắp xếp lại đội ngũ cán bộ tín dụng 5. Củng cố và duy trì công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ 6. Định hướng thu hồi nợ tồn đọng III. Một số giải pháp nhằm đưa mô hình chứng khoán hoá vào thực tiễn 1. Chủ động thích nghi với thông lệ quốc tế 2. Phối hợp giữa các NH trong việc xây dựng hệ thống thông tin về khách hàng 3. Giải pháp về thị trường 4. Mở rộng phạm vi của trung gian đặc biệt 5. Khuyến khích các tổ chức tín dụng tham gia tăng cường tín dụng 6. Mở rộng đầu tư đi kèm với nâng cao chất lượng tín dụng 7. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên NH 8. Hiện đại hóa hoạt động NH IV.Một số kiến nghị 1. Kiến nghị nhà nước về chương trình tái cơ cấu và củng cố hệ thống NHTM 2 .Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước và các ban ngành liên quan KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO Trích dẫn Nội dung Trong hơn nửa thế kỷ qua, ở nhiều nước trên thế giới, hệ thống ngân hàng đã thực sự trở thành một ngành công nghiệp quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế quốc dân. Sự thay đổi của hệ thống ngân hàng luôn phản ánh tình hình tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế. Qua thực tiễn gần 15 năm hoạt động và đổi mới, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần vào xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên quá trình vận hành theo cơ chế mới hệ thống ngân hàng ngày càng bộc lộ nhiều điểm yếu kém, tồn tại và bất cập. Do nhiều nguyên nhân khác nhau nên hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam đang nắm giữ một khối lượng lớn các khoản nợ tồn đọng (khoảng 23000 tỷ VNĐ) vượt vốn tự có của ngân hàng. Tình trạng này làm cho nền kinh tế bị đóng băng một lượng vật chất lớn không được khai thác, các ngân hàng sẽ trở lên khó khăn trong việc huy động nguồn vốn mới và hiệu quả hoạt động sẽ nhanh chóng giảm sút. Theo kinh nghiệm quốc tế qua nhiều cuộc khủng hoảng nhất là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực từ năm 1997 cho thấy: Nợ quá hạn tồn đọng nếu không giải quyết một cách cơ bản và nhanh chóng sẽ gây tác động tiêu cực cho hệ thống ngân hàng và khó tránh khỏi nguy cơ đổ vỡ đối với nền kinh tế Việt Nam. Xuất phát từ quan điểm của Đảng và Nhà nước, theo chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đã và đang nỗ lực giải quyết vấn đề nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá hoạt động tài chính. Hiện nay các giải pháp của các Ngân hàng thương mại đang tiến hành trong việc xóa các khoản nợ tồn đọng với chi phí rất lớn nhưng hiệu quả lại chưa cao. Nếu không có các giải pháp thúc đẩy thì mục tiêu tái cơ cấu của ngân hàng khó có thể trở thành hiện thực. Thấy rõ được điều này, trong quá trình tìm hiểu về hệ thống các Ngân hàng thương mại Việt Nam và nghiên cứu kinh nghiệm thị trường tài chính thế giới em thấy có một công cụ tài chính rất hiệu quả trong xử lý nợ tồn đọng của ngân hàng, đó là chứng khoán hoá các khoản nợ. Với mong muốn góp ý kiến vào quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá hoạt động tài chính của hệ thống các NHTM thông qua hoạt động chứng khoán hóa em xin trình bầy những nhận thức của mình về các điều kiện và mô hình vận hành chứng khoán hoá tại Việt nam. Bố cục của đề tài gồm 3 phần: Chương I: Lý luận chung về chứng khoán hoá các khoản nợ trong ngân hàng thương mại Chương II: Mô hình chứng khoán hóa các khoản nợ tồn đọng của hệ thống các NHTM Việt Nam Chương III: Giải pháp thực hiện mô hình chứng khoán hoá các khoản nợ tồn đọng trong quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá tài chính của các NHTM.

doc99 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2056 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Xây dựng mô hình chứng khoán hóa các khoản nợ trong quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hóa tài chính của hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. 4.2.Cầu về sản phẩm từ chứng khoán hoá các khoản nợ tồn đọng Trong tương lai, các đối tượng sẽ tham gia mua bán chứng khoán đầu tư vào trái phiếu từ chứng khoán hoá sẽ là các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư và các công ty chứng khoán. Do vậy, nhu cầu về sản phẩm của chứng khoán hoá các khoản nợ tồn đọng sẽ phụ thuộc vào sự phát triển của các định chế tài chính này. Theo những đánh giá gần đây thì 3 loại hình này ở Việt nam đã bước đầu phát triển và nhu cầu tìm kiếm nguồn đầu tư là rất lớn. Công ty bảo hiểm: Trong 5 năm trở lại đây, ngành bảo hiểm Việt Nam luôn tăng trưởng ở mức độ cao, với tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng 23% nhưng mới chỉ đóng góp nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế khoảng 0,6% GDP, thấp hơn các nước trong khu vực. Hiện có 4 doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài hoạt động với những ưu thế về vốn và kinh nghiệm hoạt động đã dành được thị phần tương đối lớn. Tuy nhiên, để bảo đảm tính cạnh tranh lành mạnh, các công ty BH 100% vốn nước ngoài bị hạn chế trong một số loại bảo hiểm nhất định và buộc phải đầu tư trở lại trong nước. Bên cạnh đó lượng vốn đầu tư của các doanh nghiệp BH Việt Nam chỉ chiếm khoảng 7% thu từ phí bảo hiểm. Nhưng con số này ngày càng tăng. Những vướng mắc chủ yếu là do các công ty BH chưa tìm được nguồn đầu tư có lợi nhuận cao và bị hạn chế đầu tư trong một số lĩnh vực như thị trường bất động sản. Đây rõ ràng là một triển vọng cho chứng khoán hoá ra đời tại Việt Nam, một công cụ tài chính có độ an toàn cao với doanh lợi hấp dẫn. Với nguồn vốn đầu tư của mình, hiện nay các công ty bảo hiểm đã đầu tư vào 5 lĩnh vực khác nhau bao gồm: gửi ngân hàng, đầu tư vào thị trường chứng khoán, đầu tư vào bất động sản, góp vốn và cho vay. Cùng với sự gia tăng của doanh thu, đầu tư của các công ty bảo hiểm cũng có sự tăng trưởng nhanh chóng. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 1994-1999 là 184%/năm. Chỉ tính riêng năm 1999 số vốn đầu tư của ngành bảo hiểm vào nền kinh tế đã là 2.348 tỷ đồng, gấp 31 lần so với năm 1995. Rõ ràng đây là con số triển vọng cho các công ty bảo hiểm mua chứng khoán phát hành. Các quỹ đầu tư: trong cả nước hiện nay ngoài quỹ đầu tư địa phương có tính chất nhỏ lẻ, không đóng góp nhiều cho nền kinh tế nói chung còn có 3 quỹ đầu tư thuộc nhà nước và liên doanh với số vốn trung bình khoảng 15 triệu USD, 4 quỹ đầu tư mạo hiểm của nước ngoài là Dragon capital (50 triệu USD), Vietnam Frontier (50 triệu USD), quỹ Beta ( 80 triệu USD)và quỹ Viel (27 triệu USD). Nhìn chung, các quỹ đều có nhu cầu đầu tư rất cao và có mong muốn tìm kiếm các loại chứng khoán có lợi tức cao trên thị trường chứng khoán và thị trường tự do. Theo phân tích thì họ sẽ chấp nhận những chứng khoán loại B phát hành trên tài sản bảo đảm ( nếu có) bởi nó có mức thu nhập rất cao. Công ty chứng khoán: hiện nay, nếu tính cả công ty chứng khoán của NHNT sắp ra đời thì Việt nam có 7 công ty chứng khoán với nguồn vốn trung bình là 60-70 tỷ VNĐ. Khi các đối tượng này có đủ điều kiện tham gia nghiệp vụ tự doanh thì việc mua bán các loại chứng khoán trên thị trường cũng sẽ đem lại những lợi ích nhất định. 5.Năng lực và nhận thức kinh doanh của các NHTM Qua gần 15 năm đổi mới, cùng với thành tựu của sự phát triển kinh tế, hệ thống NHTM VN có sự tăng trưởng cả về số lượng, chất lượng hoạt động và từng bước hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế. Đến nay hệ thống NHTM nước ta bao gồm: 6 NHTMQD, 51 NHTM Cổ phần, trong đó có 31 NHTM CP Đô thị, 20 NHTM CP Nông thôn, 5 ngân hàng liên doanh với nước ngoài : Indovinabank( NHNT với Indonexia), NH Vidpublic (NHĐT&PT với Malayxia), Firstvina bank ( NH Công thương- Hàn Quốc) và ngân hàng Lào Việt (NHĐT&PT- Lào) và 26 chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Cùng với sự phát triển về mặt số lượng là sự phát triển về mặt trình độ và nhận thức của các ngân hàng. Các ngân hàng TMQD đều cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính cho khách hàng và đang có kế hoạch phát triển một số loại hình mới như ngân hàng trực tuyến, hoạt động mua bán nợ, các công cụ tài chính phái sinh. . Đây chính là cơ sở quan trọng cho chứng khoán hoá các khoản nợ của ngân hàng. Với những ưu điểm và tiềm năng của chứng khoán hoá, chắc chắn các ngân hàng sẽ nhanh chóng tiếp nhận và phát triển nó. 6.Sự hỗ trợ lớn từ NHNN và Chính phủ Trong điều kiện nguồn ngân sách của NHNN cũng như Bộ tài chính đều rất hạn hẹp nhưng với nỗ lực tái cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại, Chính phủ cho phép Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với ngân hàng nhà nước phát hành trái phiếu Chính phủ khoảng 5000 tỷ có lãi suất cố định để tăng cường vốn điều lệ cho các Ngân hàng thương mại Nhà nước. Đồng thời với những món nợ ngân sách đối với các NHTM nếu có đủ hồ sơ giấy tờ sẽ được Bộ tài chính công nhận là có kế hoạch thanh toán cho các NH trong thời gian gần. Đây là thuận lợi lớn cho các ngân hàng TM tăng cường vốn điều lệ và phạm vi hoạt động. Có thể thấy trước hết là về mặt tài chính các NHTM QD có thể yên tâm tái cơ cấu. Từ khi bắt đầu thực hiện tái cơ cấu cho đến nay, NHNN đã ra hàng loạt các quyết định như: QĐ149/2001/QĐ-TTG về việc phê duyệt đề án xử lý nợ tồn đọng của các NHTM; Đề án xử lý nợ tồn đọng của NHTM do NHNN ban hành; QĐ 305/2000/QĐ-NHNN5 ban hành về việc thành lập công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp của NHTM;QĐ 306/2000/QĐ-NHNN5 ban hành Quy định tạm thời mẫu điều lệ Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp của NHTM. Việc ban hành hàng loạt các QĐ kịp thời nhằm giúp các NHTM nhanh chóng giải quyết các khó khăn cho thấy sự quan tâm của các ban ngành trong việc tái cơ cấu và lành mạnh hoá tài chính của các NHTMQD. Trong điều kiên thuận lợi cả về mặt tài chính và pháp lý như vậy, nếu có đề xuất, nghiên cứu của các NHTM, chắc chắn NHNN & Bộ tài chính sẽ phối hợp và tạo điều kiện cho chứng khoán hoá các khoản nợ có thể đi vào thực tiễn. 7.Sự hỗ trợ từ phía các định chế tài chính thế giới Theo kế hoạch, một trong những nguồn tài chính để tái cơ cấu lại hệ thống NHTM Việt Nam là từ các WB và IMF. Số tiền cho đến nay các tổ chức này cam kết cho Việt Nam vay là 500 triệu USD. Hơn thế, các tổ chức này sẵn sàng cam kết giúp đỡ Việt Nam về mặt kỹ thuật, cụ thể là tài trợ cho các tổ chức kiểm toán Quốc tế trong việc kiểm toán toàn bộ hệ thống ngân hàng, tài trợ cho việc đào tạo nâng cao nhận thức và hiểu biết của các cán bộ ngân hàng. Trong trường hợp này nếu có đề xuất từ phía ngân hàng TM Việt Nam, các tổ chức này sẽ sẵn sàng tạo lập cho Việt Nam những cơ sở cho việc chứng khoán hoá. Tóm lại, trong thời điểm hiện tại mặc dù còn nhiều khó khăn cho việc triển khai chứng khoán hoá ở Việt Nam nhưng đã có nhiều dấu hiệu tích cực cho thấy khả năng chứng khoán hoá các khoản nợ nói chung và nợ tồn đọng nói riêng có thể trở thành hiện thực. Trên cơ sở những nhận định như vậy, khóa luận sẽ trình bầy một số giải pháp và kiến nghị nhằm áp dụng chứng khoán hoá như một công cụ tài chính hữu hiệu trong quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá hoạt động tài chính của NH Ngoại thương và các NHTM quốc doanh tại Việt Nam. II.ĐỊNH HƯỚNG XỬ LÝ NỢ TỒN ĐỌNG CỦA HỆ THỐNG CÁC NHTM TRONG THỜI GIAN TỚI Song song với việc thực hiện các chỉ tiêu kinh doanh, hệ thống các NHTM Việt Nam cũng đồng thời bắt đầu xây dựng và thực hiện Đề án tái cơ cấu NH. Việc triển khai đề án sẽ tiến hành trong 5 năm với mục tiêu cơ bản là giải quyết nợ tồn đọng và nâng cao năng lực tài chính, tập trung làm sạch bảng tổng kết tài sản thông qua việc cơ cấu lại toàn bộ các khoản nợ tồn đọng tại các NHTM. Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, các NHTM đưa ra các định hướng sau: 1.Chủ động, tích cực tìm kiếm các dự án khả thi, các khách hàng vay hoạt động tốt, có khả năng trả nợ không phân biệt loại hình sở hữu. Bên cạnh đó, cần bám sát các dự án lớn, các chương trình kinh tế trọng điểm, các tổng công ty...để đẩy mạnh cho vay nhằm phục vụ tốt hơn sự nghiệp phát triển kinh tế. 2.Tiếp tục chấn chỉnh các mặt yếu kém trong hoạt động tín dụng tâp trung vào công tác thu hồi và xử lý nợ tồn đọng, bám sát tiến độ thực hiện Dự án xử lý nợ quá hạn tiến tới quản lý nợ tồn đọng, nợ xấu theo thông lệ quốc tế, có biện pháp tương ứng, kịp thời trong việc khai thác tài sản chậm luân chuyển để thu hồi nợ xấu; cải tiến phương pháp quản lý rủi ro tín dụng, hoàn thiện hệ thống phân loại các khoản vay và phân loại khách hàng, nghiên cứu áp dụng thực tiễn những phương pháp về phân tích tài chính, thẩm định dự án đầu tư, quản lý vốn vay...nâng cao hiệu quả và năng lực cho vay, hạn chế nợ quá hạn mới phát sinh. 3.Thực hiện tốt chính sách khách hàng, hoạt động tín dụng thời gian tới sẽ được chọn làm thí điểm để triển khai phương thức phân loại theo khách hàng-sản phẩm. Theo đó, mô hình phòng tín dụng hiện nay trước hết sẽ được tổ chức phân loại thành các bộ phận tín dụng phục vụ cho các đối tượng khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp hay định chế tài chính. Đối với từng loại khách hàng, tuỳ theo tính chất nghiệp vụ hoặc sản phẩm mà tiến hành tổ chức, phân loại tiếp thành các nhóm cụ thể nhằm phục vụ tốt nhất cho mọi nhu cầu khách hàng. 4.Kiện toàn và sắp xếp lại đội ngũ cán bộ tín dụng theo hướng lựa chọn và bố trí những cán bộ trình độ chuyên môn, đạo đức tốt và phân loại thành nhóm chính như cán bộ tín dụng bảo đảm nhận các dự án quy mô lớn, quy mô vừa và nhỏ... 5.Củng cố và duy trì công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ để động viên khen thưởng và kỷ luật kịp thời. 6.Định hướng thu hồi nợ tồn đọng. Đối với nợ có tài sản bảo đảm: các NHTM chủ động xử lý các tài sản bảo đảm nợ vay ( tài sản thế chấp, cầm cố; tài sản gán nợ; tài sản toà án giao cho ngân hàng) kể cả tài sản là bất động sản bao gồm đất, tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của ngân hàng theo các hình thức sau: Tự bán công khai trên thị trường Bán qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản Bán cho công ty mua bán nợ của Nhà nước (khi được thành lập) Đối với những tài sản bảo đảm nợ vay thuộc những vụ án đã được toà án phán quyết những tài sản chưa giao ngân hàng: các NHTM tập hợp trình Ban Chỉ đạo cơ cấu lại tài chính NHTM, đề nghị Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các cơ quan thi hành án nhanh chóng giao cho NHTM để xử lý thu hồi vốn. Đối với nhứng tài sản đảm bảo nợ vay chưa đầy đủ thủ tục pháp lý và hiện không có tranh chấp; các NHTM báo cáo NHNN để trình Ban Chỉ đạo cơ cấu lại tài chính NHTM xem xét, đề nghị Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các cơ quan chức năng nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện pháp lý để các NHTM có thể bán nhanh tài sản, thu hồi nợ. Đối với những tài sản bảo đảm nợ vay chưa bán được, các NHTM áp dụng các biện pháp như: cải tạo, sửa chữa, nâng cấp tài sản để bán, cho thuê, khai thác kinh doanh, góp vốn liên doanh bằng tài sản để thu hồi nợ Đối với những tài sản của NH để lại sử dụng thì phải có nguồn vốn tương ứng theo quy định pháp luật hiện hành Đối với nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và không còn đối tượng để thu hồi nợ: các NHTM sẽ phân loại nợ thành nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm và nợ tồn đọng không còn đối tuợng thu nợ, báo cáo cho NHNN Việt Nam để trình Ban Chỉ đạo cơ cấu lại tài chính NHTM xem xét trước khi trình Thủ tướng Chính phủ quyết định xoá nợ. Đối với nợ tồn đọng không có tài sản bảo đảm nhưng con nợ còn tồn tại: các NHTM sẽ: +Bán lại nợ để thu hồi vốn theo Quy chế mua bán nợ thông thường. +Chuyển nợ thành vốn góp vào doanh nghiệp và được chuyển nhượng phần vốn này; trường hợp này, các NH sẽ dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ tương ứng với phần nợ đã chuyển thành vốn góp vào doanh nghiệp và phải bảo đảm tỷ lệ góp vốn theo quy định của pháp luật. +Đánh giá lại khoản nợ tồn đọng đối với các doanh nghiệp nhà nước để xác định giá trị thực còn của khoản nợ. Phần giá trị thực còn của khoản nợ được xử lý chuyển thành phần vốn Nhà nước cấp bổ sung cho doanh nghiệp đồng thời nhà nước cấp bù vốn cho các NHTM tương ứng với số nợ tồn đọng; hoặc xác định số nợ doanh nghiệp còn phải tiếp tục trả cho ngân hàng đồng thời Nhà nước cấp vốn bù cho các NHTM phần chênh lệch do đánh giá lại. +Căn cứ vào thực trạng và khả năng trả nợ của doanh nghiệp, nợ được cơ cấu lại bằng hình thức thích hợp như giãn nợ, miễn giảm lãi suất hoặc cho doanh nghiệp vay vốn để đầu tư thêm. +Đối với những trường hợp tình hình tài chính doanh nghiệp bình thường, những doanh nghiệp có tình chây ì chậm trả, các NHTM có văn bản báo cáo các Bộ chủ quản (nếu doanh nghiệp trực thuộc Bộ, ngành), báo cáo lên Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố (nếu là doanh nghiệp địa phương) và có văn bản báo cáo đến UBND quận, huyện, thị xã để đôn đốc và hỗ trợ doanh nghiệp trả nợ, hoặc có thể dùng các biện pháp cưỡng chế buộc phải trả nợ. Hết thời gian gia hạn nợ mà bên vay vẫn chưa hoàn trả được thì ngân hàng sẽ khởi kiện ( tại toà án Nhân dân đối với các địa phương chưa có toà án kinh tế). III.MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐƯA MÔ HÌNH CHỨNG KHOÁN HOÁ VÀO THỰC TIỄN TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM Để đưa mô hình chứng khoán hóa này vào thực tiễn tại các NHTM Việt Nam thì cần phải tạo ra cho nó một môi trường hoạt động thuận lợi. Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động chứng khoán hóa và phân tích bối cảnh chung của hệ thống NHTM Việt Nam, khóa luận xin đề xuất một số giải pháp để vận hành mô hình chung cho các NHTM. 1.Chủ động thích nghi với thông lệ quốc tế Chứng khoán hoá là một công cụ tài chính mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn, NHTM Việt Nam muốn tiếp cận cần phải chủ động thích nghi với thông lệ quốc tế. Gần đây, hệ thống NH nước ta đã có những bước tích cực trong việc thực hiện cam kết quốc tế, dần dần dỡ bỏ rào cản về hoạt động ngân hàng tài chính với bên ngoài. Hiện nay, đã có 26 chi nhánh và 62 văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, 4 liên doanh tại Việt Nam. Như vậy để có thể tiếp nhận được những kinh nghiệm quý báu về tái cơ cấu tài chính thông qua chứng khoán hoá các khoản nợ tồn đọng, đòi hỏi các ngân hàng phải chủ động hợp tác, phát triển các mối quan hệ, học hỏi kinh nghiệm tạo lập và giao dịch. Thực tế trong suốt gần 15 năm qua, các ngân hàng nước ngoài đã tạo ra cho thị trường tài chính nói chung và thị trường cung cấp các dịch vụ ngân hàng nói riêng một bộ mặt mới. Rất nhiều dịch vụ tài chính mới mà các ngân hàng nước ngoài cung cấp nay đã được ngân hàng thương mại Việt Nam tiếp thu và phát triển. Hơn thế, sự hiện hữu của các ngân hàng này đồng thời làm cho thị trường tài chính Việt Nam trở nên sôi động, cạnh tranh hơn, phá vỡ thế độc quyền, tạo ra những áp lực nhất định buộc NHTMQD phải tái cơ cấu để tồn tại trong những năm về sau. Để tạo lập đựợc thị trường cho chứng khoán hoá phát triển ở Việt Nam thì một yếu tố rất quan trọng là phải co sự tồn tại của những đối tác nước ngoài. Chính việc hội nhập sẽ cho phép các định chế tài chính nước ngoài có thể tham gia vào thị trường Việt Nam. Các định chế này trong giai đoạn đầu sẽ vừa là đối tác tham gia trực tiếp vào khâu chứng khoán hoá với vai trò là nhà đầu tư hoặc đối tác tư vấn cho các ngân hàng thương mại Việt Nam. Và khi phát triển hơn nữa thì đây sẽ là các trung gian đặc biệt, chiết khấu các khoản nợ của ngân hàng sau đó phát hành chứng khoán ra nước ngoài trên cơ sở tài sản bảo đảm như theo kinh nghiệm của Hàn Quốc. 2.Phối hợp giữa các NH trong việc xây dựng hệ thống thông tin về khách hàng Quá trình chứng khoán hoá có một khâu hết sức quan trọng là phân tích khả năng thanh toán của khách hàng do phải luôn có dòng tiền chảy qua giữa con nợ, ngân hàng, trung gian đặc biệt rồi tới nhà đầu tư. Mức độ rủi ro đối với nhà đầu tư sẽ chủ yếu phụ thuộc vào chất lượng tín dụng của con nợ và tài sản thế chấp. Hơn nữa trung gian đặc biệt sẽ tập hợp các khoản vay từ nhiều con nợ của các ngân hàng khác nhau, do đó nó phải thẩm định khả năng thanh toán của khách hàng. Để có được chất lượng thẩm định tốt, đòi hỏi phải có một hệ thống thông tin tổng hợp đa chiều nên rất cần sự phối hợp từ các ngân hàng. Các thông tin ngân hàng quan tâm bao gồm: các thông tin về pháp lý, quan hệ tín dụng, lĩnh vực kinh doanh, trình độ quản lý,tài sản thế chấp, tình hình tài chính doanh nghiệp... Giải pháp ở đây là trong tiến trình đưa chứng khoán hoá vào thực tiễn, trước hết các ngân hàng thương mại sẽ cùng hợp tác với Ngân hàng Nhà nước đưa ra những chuẩn mực đánh giá chất lượng tín dụng của con nợ. Trên cơ sở chuẩn mực đó, các ngân hàng sẽ cung cấp thông tin theo chuẩn đánh giá đó cho một ban đặc biệt của ngân hàng Nhà nước. Và trung gian đặc biệt mua nợ sẽ tham khảo những thông tin từ ban này để đưa ra một mức chiết khấu phù hợp nhất, đảm bảo thu nhập tương ứng với rủi ro mà nhà đầu tư sẽ chấp nhận. Đồng thời cần có sự chuyên môn hoá trong hoạt động tín dụng thông tin tín dụng của từng ngân hàng. Thông tin được thu thập bằng cách: lập hồ sơ khách hàng, thiết lập mối quan hệ trao đổi dữ liệu với các ngân hàng khác, thành lập phòng xử lý thông tin. Phòng thông tin tín dụng phải có sự liên hệ chặt chẽ hai chiều với Trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC) để nắm rõ tình hình tài chính doanh nghiệp, các mối liên quan giữa doanh nghiệp với các ngân hàng khác...Định kỳ , 6 tháng hoặc 1 năm cán bộ phụ trách nghiệp vụ thông tin tín dụng phải thu thập, kiểm tra số liệu báo cáo tài chính của khách hàng từ đó đánh giá tổng kết tình hình tài chính doanh nghiệp và đánh giá mức độ rủi ro của khoản vay. 3.Giải pháp về thị trường 3.1.Phát triển thị trường chứng khoán Thực tế qua gần 2 năm ra đời và phát triển, thị trường chứng khoán vẫn chưa trở thành một kênh mới về thu hút vốn đầu tư cũng như nơi cho các định chế tài chính thực hiện các nghiệp vụ quản lý tài sản nguồn vốn như những nhà hoạch định chiến lược quốc gia hằng mong đợi. Tính đến nay giá trị trái phiếu được giao dịch mới chiếm 5% tổng giá trị giao dịch trên thị truờng chứng khoán. Nếu với tình hình như vậy chứng khoán hoá ra đời sẽ rất khó khăn trong việc tạo ra tính thanh khoản cần thiết cho các nhà đầu tư. Như vậy, để tạo ra một thị trường cho trái phiếu phát hành trên cơ sở nợ tồn đọng của ngân hàng phát triển thì cần phải có chính sách phát triển thị trường chứng khoán một cách toàn diện. Nhằm đạt được mục tiêu thị trường chứng khoán hoá ra đời và phát triển cần hướng vào các giải pháp sau: 3.2. Thúc đẩy phát triển thị trường vốn dài hạn Phát triển hệ thống kinh doanh chứng khoán như một cơ cấu thể chế tổng quát trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, gắn kết với các bộ phận khác trong nền kinh tế thành một thể thống nhất hữu cơ, liên hệ chặt chẽ với hệ thống thị trường thế giới trong xu hướng đẩy mạnh mở cửa và hội nhập. Thị trường chứng khoán đóng vai trò là kênh huy động vốn dài hạn chủ yếu của nền kinh tế. Đẩy mạnh phát hành trái phiếu chính phủ, trong đó chú trọng vào phát hành trái phiếu trung và dài hạn. Thúc đẩy hoạt động của thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc qua Ngân hàng Nhà nước; triển khai các hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ mới như đấu thầu qua thị trường chứng khoán và bảo lãnh phát hành. Đẩy mạnh chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, tạo điều kiên thuận lợi để khuyến khích doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp. Đa dạng hoá các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán: ngoài các loại chứng khoán đã giao dịch trong thời gian đầu như cổ phiếu, trái phiếu, sẽ phát triển thêm các loại hàng hoá như chứng chỉ quỹ đầu tư và các công cụ phái sinh khác như hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, chứng quyền. 3.3.Phát triển thị trường vốn ngắn hạn Phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại hối và thị trường các loại giấy có giá ngắn hạn; cải cách lãi suất theo hướng tự do hoá. Mở rộng quy mô tín dụng, tăng tỷ lệ huy động vốn qua hệ thống ngân hàng thương mại bằng các công cụ tài chính phù hợp. Mở rộng và thúc đẩy dịch vụ thanh toán qua hệ thống ngân hàng, tăng cường sử dụng các hình thức loại giấy có giá ngắn hạn; cải cách lãi suất theo hướng tự do hoá. Mở rộng và thúc đẩy dịch vụ thanh toán qua hệ thống ngân hàng, tăng cường sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt như séc, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng... 3.4.Hoàn thiện thị trường mua bán nợ Thị trường nợ phát triển sẽ là môi trường định giá tài sản chính xác các chứng khoán phát hành. Trên cơ sở thị trường nợ phát triển, nhiều thành viên tham gia sẽ đẩy mạnh cho hoạt động chứng khoán hoá. Giải pháp hoàn thiện thị trường mua bán nợ sẽ đi kèm giải pháp về hành lang pháp lý cho giao dịch nợ và các đối tượng tham gia. Hiện nay theo Quy chế mua bán nợ do NHNN ban hành, các đối tượng tham gia mua bán nợ là các tổ chức TD, các tổ chức kinh tế, cá nhân bao gồm: các NHTMQD,NH đầu tư, NH phát triển, NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài , ngân hàng chính sách, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân trung ương. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia mua những khoản nợ của TCTD và các khách hàng của các TCTD ở Việt Nam và những khoản nợ giữa các TCTD ở Việt Nam với nhau. Về hành lang pháp lý: hiện chỉ với quy chế mua bán nợ thì chưa đủ để tạo lập được một thị trường nợ sôi động. Muốn phát triển hơn nữa đòi hỏi phải có các văn bản như luật về mua bán nợ, những văn bản pháp lý giải thích cho các hoạt động mua bán nợ, phải hình thành các ban giải đáp thác mắc của các tổ chức tín dụng tham gia... 3.5.Quy hoạch thị trường bất động sản - xử lý tài sản thế chấp Sự phát triển không chính thức và chưa ổn định của thị trường bất động sản ở Việt Nam là một trong những cản trở tiến trình thực hiện chứng khoán hoá do hiện nay một phần rất lớn các khoản vay thế chấp là bằng đất đai nhà cửa. Muốn tháo gỡ tình trạng này cần phải hoàn thiện các văn bản pháp luật cần thiết, có cơ sở pháp lý rõ ràng để tạo lập và phát triển thị trường bất động sản. Cần có những sửa đổi trong luật đất đai, phá bỏ những rào cản về pháp lý để đất đai thực sự được giải phóng và trở thành hàng hoá, từ đó có khả năng chuyển hoá dễ dàng từ hình thái hiện vật thành nguồn vốn hiệu quả như mọi hàng hoá khác trên thị trường. Khi ngân hàng chuyển giao khoản nợ cho AMC để phát mại bán tài sản thế chấp, một ý kiến ở đây là Chính phủ nên miễn giảm thuế thu nhập, trước bạ, lệ phí đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng địa phương...đối với tài sản được xử lý để thuận lợi cho việc phát mại, giải phóng vốn đóng băng trong ngân hàng. Đồng thời, đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính, pháp lý không cần thiết tạo điều kiện mua bán, chuyển nhượng nhanh chóng tài sản, thu hồi vốn cho AMC. Việc xử lý tài sản thế chấp cầm cố hiện nay không chỉ liên quan tới NHTM, các doanh nghiệp mà còn liên quan tới nhiều ngành nhiều cấp. Tuy nhiên ta vẫn chưa có một văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục trách nhiệm quyền hạn và khâu nối trách nhiệm của cơ quan nhà nước và các bên liên quan. Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là cần có Thông tư liên bộ : NHNN- Bộ tài chính- Bộ tư pháp- Viện kiểm soát nhân dân tối cao- Toà án nhân dân tối cao- Bộ công an-Ttổng cục địa chính hướng dẫn và thống nhất các biện pháp xử lý tài sản thế chấp. Cần có quy định về xét xử vắng mặt và phát mại tài sản thu hồi mà không cần hỏi ý kiến khách hàng, buộc người vay phải hợp tác với ngân hàng trong việc làm thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản. 3.6.Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tham gia chứng khoán hoá Qua thực tiễn của thị trường chứng khoán hoá ở các nước phát triển thì công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí và quỹ tuơng hỗ thường là những giới quan tâm nhiều nhất tới trái phiếu từ chứng khoán hoá. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay chỉ có công ty bảo hiểm và các quỹ đầu tư mạo hiểm có đủ tiềm lực tham gia mua sản phẩm từ chứng khoán hoá. Giải pháp ở đây sẽ tập trung vào hướng giúp cho các định chế này tham gia mua chứng khoán. 3.7.Phát triển các thể chế trên thị trường bảo hiểm Phát triển mạnh các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Căn cứ vào tốc độ phát triển và nhu cầu thị trường, ta sẽ thành lập thêm các doanh nghiệp bảo hiểm; tăng số lượng lên khoảng 30 doanh nghiệp vào năm 2010 hoạt động trong mọi lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm ( bảo hiểm gốc, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm); phát triển các loại hình doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, trong đó doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Sắp xếp lại các doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước theo hướng phát triển thành tổng công ty mạnh về tài chính và năng lực kinh doanh, đủ sức giữ vững vai trò chủ đạo, chi phối thị trường bảo hiểm, thực hiện chính sách tăng vốn cho doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước thông qua việc để lại nguồn thuế phải nộp ngân sách hàng năm; thực hiện chính sách tiền lương và tiền thưởng gắn với hiệu quả kinh doanh bảo đảm thu nhập của người lao động theo quy định hiện hành. Khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm thành lập các công ty đầu tư hoặc các quỹ đầu tư. Các quỹ này sẽ là các công ty con của các doanh nghiệp bảo hiểm và dùng tiền huy động được từ công ty mẹ để đầu tư vào các công cụ tài chính. Các quỹ này sẽ dùng một tỷ lệ nhất định ví dụ 40% quỹ để đầu tư vào các loai chứng khoán có mức độ rủi ro cao hơn. Nhà nước nên ban hành các văn bản pháp luật cụ thể phân loại rõ các công cụ đầu tư tài chính trong ngành bảo hiểm. Theo kinh nghiệm của các nước đi trước thì các công cụ đầu tư thông dụng bao gồm: trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, các khoản cho vay theo hợp đồng bảo hiểm, trái phiếu có khả năng chuyển đổi, các khoản cho vay có bảo lãnh, cổ phiếu. 3.8.Hình thành các quỹ tham gia thị trường chứng khoán Thực tế hoạt động ở các nước phát triển cho thấy các quỹ tương trợ, quỹ đầu tư bao gồm quỹ đầu tư thông thường và quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ là các đối tượng có vai trò hết sức quan trọng trên thị trường chứng khoán. Đây là các trung gian có vai trò điều hoà nguồn vốn trên thị trường, tạo ra một môi trường tài chính lành mạnh, đồng thời nó giúp cho các nhà đầu tư cá nhân có thể tham gia thị trường với chi phí và rủi ro thấp hơn. Để thị trường chứng khoán nói chung cũng như thị trường cho chứng khoán hoá nói riêng phát triển sôi động thì yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải hình thành các quỹ đầu tư, các quỹ tuơng trợ, các quỹ của các đối tượng riêng biệt ví dụ như quỹ của nhân viên nhà nước, quỹ nông dân...Các quỹ này sẽ có vai trò xã hội hoá thị trường chứng khoán, tạo điều kiện cho mọi thành phần trong nền kinh tế tham gia thị trường chứng khoán. Theo ý kiến của tôi thì Nhà nước nên có các văn bản pháp luật cụ thể cho phép, hướng dẫn thành lập các quỹ, phương thức hoạt động và cách thức thu hút nhà đầu tư. Song song với các biện pháp như vậy nhà nước phải có biện pháp khuyến khích các quỹ hình thành thông qua các biện pháp miễn thuế, tổ chức các chương trình đào tạo hướng dẫn cho các nhà đầu tư của các quỹ. Đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài đã hình thành ở Việt Nam thì cần phải quan tâm hơn nữa. Cụ thể là bằng các biện pháp về thuế, nới rộng quy định cho các quỹ tham gia nắm giữ các các cổ phiếu, trái phiếu của các doanh nghiệp cổ phần. Biện pháp cụ thể ở đây sẽ là cho các quỹ nắm giữ hơn 7% số cổ phiếu của các công ty cổ phần như hiện nay nhưng các quỹ sẽ không tham gia điều hành mà chỉ có vai trò tư vấn. Cho phép các quỹ tham gia huy động vốn trên thị trường chứng khoán và trích một tỷ lệ % nhất định để đầu tư vào các lĩnh vực tương đối mạo hiểm. 4.Mở rộng phạm vi của trung gian đặc biệt Theo mô hình đề ra thì AMC sẽ đóng vai trò là trung gian đặc biệt trong chứng khoán hoá. Trung gian này sẽ tiếp nhận những khoản nợ từ ngân hàng thương mại chuyển sang. Rồi trên cơ sở giá trị tài sản thế chấp, AMC sẽ phát hành chứng khoán ra thị trường cho các nhà đầu tư. Thông qua bài học kinh nghiệm đã được rút ra khi nghiên cứu hoạt động chứng khoán hóa ở Nhật Bản và Hàn Quốc, khóa luận cũng nhận thấy rằng Việt Nam nên thành lập một Amc tập trung. Muốn phát triển AMC hoạt động như một trung gian đặc biệt trong việc triển khai chứng khoán hoá tại Việt Nam thì: AMC phải là doanh nghiệp đặc biệt có một số thẩm quyền đặc biệt giúp Chính phủ và các NHTM giải quyết dứt điểm phần tài sản đóng băng của các NHTMQD. AMC phải có thẩm quyền quản lý khoản vay và tài sản. Luật phải trao cho AMC quyền được tối ưu hoá giá trị thông qua việc tăng cường nghiệp vụ quản lý, đầu tư thêm để nâng cấp tài sản...các biện pháp thực thi không bị hạn chế nếu nó nhằm tối ưu hoá giá trị tài sản và khoản vay. AMC phải có khả năng phân tích đánh giá thấy còn có khả năng thu hồi, có thể áp dụng các biện pháp: tiếp tục thúc ép con nợ trả gốc và lãi, tái cơ cấu tài chính, quản lý, gia hạn nợ, miễn giảm lãi, bơm thêm vốn, hoãn chuyển nợ thành vốn cổ phần, liên doanh liên quan tới việc quản lý con nợ... Để đảm bảo duy trì dòng tiền giữa tài sản và nhà đầu tư, AMC phải có thẩm quyền mua nợ tài sản và bán tài sản mà không có sự đồng ý trước của con nợ. Luật pháp phải nghiên cứu cho phép AMC mua một khoản nợ khó thu hồi, nếu ngân hàng đồng ý mà không phụ thuộc vào ý kiến của con nợ bởi trong trường hợp này ngân hàng bán đi quyền lợi của mình có trong khoản nợ khó đòi, cùng với tất cả các quyền hạn kèm theo. Đồng thời khi AMC muốn bán một tài sản thế chấp, nó sẽ chỉ theo quy định của luật AMC mà không theo quy chế thông thường. AMC luôn duy trì một mối liên hệ với nhà đầu tư thông qua thời hạn thanh toán gốc và lãi như đã thoả thuận trước. Do vậy nó sẽ phải bằng mọi cách sắp xếp để đưa tài sản thế chấp ra ngoài thị trường, công khai bán và cố gắng thu đuợc tiền như mong muốn. Nhưng có một điểm khác với xử lý nợ thông thường là AMC sẽ không phải chịu áp lực về thời gian bởi ngay trong quá trình phát hành, về cơ bản, nó đã giải quyết được nợ tồn đọng của ngân hàng. 5.Khuyến khích các TCTD tham gia tăng cường tín dụng Triển vọng của việc các nhà đầu tư tham gia mua trái phiếu phát hành trên khoản nợ tồn đọng hay khả năng chứng khoán hoá trở thành thực tiễn hay không phụ thuộc một phần rất lớn vào mức độ tăng cường tín dụng cho trái phiếu. Theo như mô hình thì tổ chức cung cấp tăng cường tín dụng chính là Bộ tài chính. Bộ tài chính chấp nhận yêu cầu của AMC là tăng cường tín dụng 50% (240 tỷ), độ rủi ro của chứng khoán phát hành gần như bằng 0 nhưng lại có lãi suất cao hơn hẳn so với trái phiếu chính phủ. Trong giai đoạn đầu thị trường cho chứng khoán hoá chưa phát triển, còn ít nhà đầu tư tham gia thì vai trò của chính phủ sẽ là sự đảm bảo rất lớn cho cả nhà đầu tư lẫn trung gian đặc biệt. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của thị trường và với xu hướng làm giảm gánh nặng cho Chính phủ, nhất thiết phải có sự tham gia của các định chế tài chính, những tổ chức sẽ cung cấp dịch vụ tăng cường tín dụng cho chứng khoán phát hành. Cụ thể là các tổ chức tín dụng như các ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, công ty tài chính, các công ty bảo hiểm...sẽ đứng ra cam kết tăng cường tín dụng cho các chứng khoán. Tuỳ theo đánh giá rủi ro của chứng khoán mà các trung gian này sẽ đưa ra những khoản phí thích hợp cho khoản tăng cường tín dụng. Theo phương thức này thì: +Ngân hàng Nhà nước cùng các bộ ngành liên quan cho phép các TCTD dần nghiên cứu triển khai dịch vụ này. +Trong giai đoạn đầu để khuyến khích hoạt động này nên có chính sách ưu đãi về thuế cho phí thu từ dịch vụ. +Mở rộng luật cho phép các công ty bảo hiểm tham gia bảo hiểm cho các lớp chứng khoán và hưởng phí bảo hiểm chính. 6.Mở rộng đầu tư đi kèm với nâng cao chất lượng tín dụng Nhu cầu vốn cho mọi hoạt động trong nền kinh tế thị trường là rất lớn. Đối với ngân hàng, việc mở rộng khối lượng tín dụng đáp ứng những nhu cầu đa dạng ấy là rất cần thiết để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Song vấn đề chất lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển thực chất của ngân hàng kể cả trong trường hợp ngân hàng có trong tay công cụ chứng khoán hoá. Nếu một ngân hàng ỷ vào chứng khoán hoá, gia tăng khối lượng tín dụng mà không chú ý vào nó thì chẳng khác gì cho vay từ thiện. Chứng khoán hoá có thể giúp cho ngân hàng loại trừ các khoản nợ quá hạn, tồn đọng ra khỏi ngân hàng với tính hiệu quả cao. Tuy nhiên không có nghĩa bất kỳ khoản tín dụng nào chứng khoán hoá cũng giải quyết tốt. Nếu chất lượng tín dụng tồi thì trung gian đặc biệt sẽ mua nợ của ngân hàng với một mức chiết khấu thấp, buộc ngân hàng phải có những mất mát nhất định. Chất lượng tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng ở đây. Các NH có thể giảm thiểu rủi ro trong các hoạt động của mình bằng cách đa dạng hoá các hoạt động tín dụng, tạo ra độ phân tán cho danh mục cho vay. Tuy nhiên, đa dạng hoá đầu tư không đồng nghĩa với việc đầu tư tràn lan, không có trọng điểm mà là thực hiện cho vay đối với nhiều đối tượng, ngành nghề, doanh nghiệp khác nhau, không thực hiện cho vay quá nhiều đối với một loại hình nào đó. Còn trong trường hợp ngân hàng đã tập trung cho vay đối với một số ngành nghề nhất định mà muốn giảm bớt mức độ tập trung thì nên bán nợ cho trung gian đặc biệt nghiên cứu hướng chứng khoán hoá khoản nợ này. 7.Nâng cao chất lượng của đội ngũ nhân viên ngân hàng Nhân tố con người luôn giữ vị trí trung tâm, chi phối và có ảnh hưởng lớn đến bất cứ công việc nào trong ngân hàng. Đối với hoạt động mua bán nợ cũng như chứng khoán hoá yêu cầu này đặt ra càng lớn hơn. Chứng khoán hoá bản thân nó không phải là phức tạp nhưng để nhận thức đầy đủ trong việc áp dụng vào thực tiễn lại là một chuyện khác. Ngay từ những phân tích ban đầu của ngân hàng trong việc chuyển nhượng nợ cho đối tác cũng yêu cầu những tính toán và kinh nghiệm của bản thân cán bộ chịu trách nhiệm. Những tính toán về nợ tồn đọng khác với các tài sản thông thường là khối lượng tài sản rất lớn thường là vài nghìn tỷ và bản thân những đối tác tham gia rất khó để tính toán một mức chiết khấu hợp lý cho khoản nợ. Do vậy mỗi quyết định nhỏ của cán bộ tín dụng sẽ là những thu nhập hay mất mát vài trăm tỷ đối với ngân hàng. Do vậy các NH cần xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý nợ - tài sản đảm bảo cả về chất lượng và số lượng đáp ứng yêu cầu của công việc. Chất lượng của đội ngũ cán bộ thể hiên ở 3 phương diện: trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, tư cách đạo đức. Về trình độ chuyên môn: các cán bộ xử lý nợ cần được đào tạo một cách chính quy, có kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường và hệ thống ngân hàng, trong đó cần nắm vững không những về luật pháp mà còn có khả năng phân tích và tổng hợp nhạy bén và linh hoạt. Ngoài chuyên môn, họ cần có thêm kiến thức khác như về kinh tế, xã hội, văn hoá chính trị...các kỹ năng về ngoại ngữ vi tính để có cơ hội nhanh chóng tiếp cận những kiến thức mới của thế giới về xử lý nợ. Để có được đội ngũ cán bộ trình độ chuyên môn vững vàng NH cần xây dựng một quy chuẩn về trình độ cán bộ xử lý nợ trong NH làm cơ sở cho các kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo. Các kế hoạch đào tạo ở đây cần bao gồm các kế hoạch đào tạo dài hạn và ngắn hạn. Trong đào tạo dài hạn trước hết cần đảm bảo phổ cập giáo dục đại học cho toàn bộ nhân viên và từng bước khuyến khích cán bộ tiếp tục theo học Cao học, Thạc sỹ và Tiến sỹ. Đối với đào tạo ngắn hạn hàng năm NH nên tổ chức những lớp tập huấn bồi dưỡng cho cán bộ, có thể mời các chuyên gia hoặc trực tiếp cử những cán bộ có trình độ, có năng lực của NH giảng dạỵ. Bên cạnh đó, NH cần cử những lãnh đạo cấp cao kết hợp với những đối tượng nòng cốt tham gia các khoá hội thảo, đào tạo ngắn hạn của các tổ chức về chứng khoán hoá. Về kinh nghiệm công tác. Mặc dù những lý thuyết về chứng khoán hoá đã xuất hiện tại Việt Nam và có những nghiên cứu bước đầu của ngân hàng nhưng do chưa có điều kiện nên tất cả các tính toán đánh giá đều trên cơ sở lý thuyết. Để giúp việc khai sinh chứng khoán hoá ở Việt Nam các NH nên cấp kinh phí cử cán bộ nòng cốt đi học hỏi tham gia trực tiếp vào các dự án cụ thể ở nước ngoài. Về đạo đức nghề nghiệp. Cán bộ xử lý nợ ngoài việc cần có những phẩm chất nêu trên thì cũng cần có đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp cũng ảnh hưởng tới hoạt động xử lý nợ của NH. Muốn có được người cán bộ có đạo đức tốt, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật nghề nghiệp cao NH cần khen thưởng động viên cả về mặt vật chất cũng như tinh thần của nhân viên. Song song với khen thưởng NH cần có những biện pháp uốn nắn kịp thời những biểu hiện sa sút về phẩm chất, tư cách đạo đức và lối sống của cán bộ. 8.Hiện đại hoá hoạt động ngân hàng Với sự phát triển vũ bão của khoa học kỹ thuật ngày nay, các trang thiết bị công nghệ trong ngân hàng quốc tế đã phát triển tới trình độ rất hiện đại. Trong lĩnh vực ngân hàng nói chung và chứng khoán hoá nói riêng, trang thiết bị hiện đại và công nghệ tiến tiến sẽ giúp nâng cao chất lượng hoạt động, đảm bảo tiến độ và tính chính xác, cho phép đưa ra các kết quả khác nhau qua vận hành các mô hình trên vi tính. Do đó các NH cần có sự đầu tư thích đáng về trang thiết bị và công nghệ. Để thực hiện điều này ngân hàng cần có các giải pháp sau: Thứ nhất: cần hoàn thiện hệ thống trang bị thông tin trong toàn hệ thống. Hệ thống thông tin nội bộ cần được tiếp tục hoàn thiện, đảm bảo cập nhật đuợc dư nợ tín dụng, số nợ nghi ngờ chuyển thành nợ tồn đọng...Cần đầu tư, đưa vào sử dụng những máy chủ hiện đại có khả năng lưu trữ, xử lý truyền tin với tốc độ cao để quản lý có sở dữ liệu của ngân hàng. Thứ hai: cần mạnh dạn đầu tư mua, đặt hàng đối với các phần mềm ứng dụng vận hành các mô hình ảo. Trong điều kiện chứng khoán hoá chưa trở thành hiện thực việc tham khảo các kết quả từ việc vận hành các mô hình ảo sẽ giúp ích rất nhiều cho những cán bộ chuyên trách xử lý nợ. Song song với việc mua sắm trang thiết bị mới cần phải thường xuyên đào tạo để các cán bộ có thể làm chủ thiết bị đó. IV.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 1.Kiến nghị với Nhà nước về chương trình tái cơ cấu và củng cố hệ thống ngân hàng thương mại Nhà nước cần tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng, một môi trường kinh tế thuận lợi để từng doanh nghiệp, từng cá thể phát huy được sức sáng tạo và nội lực của mình. Lợi nhuận của ngân hàng mà gắn liền với sự phát triển của các ngành kinh tế thì kết quả mới bền vững và có cơ sở phát triển. Cần có nhận thức rằng cải cách hệ thống ngân hàng không thể tách rời khỏi cơ cấu lại doanh nghiệp. Nhà nước cần giảm bớt gánh nặng bằng cách giải thể những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, cổ phần hoá những doanh nghiệp có kết quả kinh doanh tốt. Nhà nước chỉ nên chú trọng đầu tư nắm giữ doanh nghiệp ở những ngành kinh tế mũi nhọn có tác dụng tạo ra bước đột phá cho đất nước mà tư nhân không thể tự làm được. Đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá, Nhà nước chi nên nắm giữ lượng cổ phiếu đa số trong thời gian đầu rồi sau đó chuyển nhượng lại và không tham gia điều hành doanh nghiệp. Nhà nước cần thành lập một cơ quan đặc trách giám sát tài chính để giám sát việc thực hiện tái cơ cấu. Việc thành lập cơ quan này này là cần thiết để các ngân hàng có chỗ dựa trong hoạt động của mình, đồng thời là cầu nối giữa các ngân hàng và các cơ quan chức năng của nhà nước để sự phối hợp hoạt động được thông suốt. Nhà nước nên giúp đỡ ngân hàng trong việc tái cơ cấu bằng các hành động thiết thực như cung cấp nguồn tài chính, tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho ngân hàng thực hiện mục tiêu của mình, cung cấp chuyên gia, công nghệ...Việc tái cơ cấu ngân hàng là tất yếu cho sự hội nhập và phát triển của đất nước. Tuy nhiên, Nhà nước nên có giới hạn trong việc hỗ trợ ngân hàng trong quá trình tái cơ cấu, nếu không thì sẽ có thể tạo cho ngân hàng tâm lý ỷ lại vào Nhà nước, không phát huy tiềm năng của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Trong hoạt động tín dụng cần có giới hạn minh bạch giữa tín dụng phục vụ các mục tiêu chính sách xã hội và tín dụng kinh doanh thực sự. Có như vậy thì mới nâng cao được chất lượng tín dụng, ngăn chặn tận gốc tình trạng đóng băng dư nợ tín dụng ngân hàng. Có thể sắp xếp, sáp nhập các ngân hàng nhỏ nhưng có khả năng tồn tại với nhau để tăng vốn hoạt động, tăng sức cạnh tranh; đóng cửa các ngân hàng quá yếu kém vì xét ra chi phí để đóng cửa không lớn hơn những tác động xấu một khi nó phá sản. Cho phép các TCTD (kể cả các TCTD) nước ngoài góp vốn hoặc mua lại các TCTD không thể áp dụng các biện pháp đóng cửa hoặc sáp nhập. Tăng vốn tự có cho các NHTM nhằm tăng cường tiềm lực tài chính, tăng cường khả năng cạnh tranh cũng như sức đề kháng của ngân hàng thương mại trước những biến động của thị trường. Với vốn tự có ít ỏi như hiện nay, các NHTM rất khó khăn và lúng túng không chỉ trong việc quản lý nợ tồn đọng khổng lồ mà còn trong việc duy trì, tồn tại và phát triển trong thời gian tới. Trước hết, Chính phủ và NHNN cần tiến hành phân loại các ngân hàng cơ sở để xây dựng chương trình bổ sung vốn, đặc biệt là sát nhập tạo thành ngân hàng tầm cỡ. Bên cạnh đó nghiên cứu hệ thống ngân hàng Nhà nước theo khu vực thay thế cho cách bố trí theo tỉnh, thành phố như hiện nay để quản lý tập trung, nâng cao khả năng kiểm soát, tự chủ của các chi nhánh ngân hàng. Có thể cổ phần hoá một số ngân hàng dưới dạng công ty tài chính chuyên ngành như công ty thuê mua tài chính, quỹ đầu tư...nhằm thu hút thêm nguồn lực mới cho việc mở rộng thị trường vốn, đẩy nhanh tốc độ giao dịch trên thị trường bất động sản. 2.Kiến nghị đối với NHNN và các ban ngành liên quan 2.1.Hoàn thiện môi trường pháp lý cho chứng khoán hoá các khoản nợ Bài học kinh nghiệm rút ra từ Nhật Bản và Hàn Quốc cho thấy rằng môi trường pháp lý đóng một vai trò quan trọng trong việc vận hành mô hình chứng khoán hóa. Tuy nhiên, một trong những mặt bất cập trong điều kiện nước ta hiện nay là vẫn chưa có được một khung pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động chứng khoán hóa. Do đó, khóa luận xin đề xuất một số kiến nghị đối với vấn đề này. 2.1.1.Nhanh chóng hoàn thiện các văn bản pháp quy liên quan tới tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp Chỉnh phủ cần có biện pháp xử lý thích hợp đối với những đối tượng không tuân thủ pháp luật, cố tình kéo dài vụ việc được khởi kiện ra toà án, gây ách tắc cho ngân hàng. Trường hợp có tranh chấp, khởi kiện, đề nghị Chính phủ chỉ đạo việc phân xử nhanh chóng theo các điều đã ký kết trong hợp đồng tín dụng để các NHTM có thể thu hồi vốn đã cho vay. Cần có những điều luật quy định việc xét vắng mặt vì nếu không sẽ rất khó xác định đuợc chủ sở hữu để AMC phát mại tài sản để thu hồi nợ. Nhà nước cần có biện pháp kích thích thị trường bất động sản, có các giải pháp khuyến khích việc mua tài sản tồn đọng của ngân hàng như: đơn giản về thủ tục giấy tờ, ưu đãi về thuế, lệ phí... 2.1.2.Bổ sung Quy chế mua bán nợ của các TCTD Hiện nay, việc NHNN mới chỉ ban hành một Quy chế mua bán nợ của các TCTD trong giới hạn lĩnh vực tiền tệ là quá ít cho thị trường tiền tệ thứ cấp và môi trường giao dịch mua, bán nợ nói chung của các NHTM. Tuy vậy, bước đầu quy chế này cũng phù hợp với trình độ phát triển của thị trường, của các định chế tài chính Việt Nam. Luật hối phiếu ra đời cũng là một đóng góp tích cực hình thành hệ thống cơ sở pháp lý cho giao dịch mua bán nợ . Trước hết, NHNN nên bổ sung cụ thể hoá một số điều khoản khá quan trọng như: quy định cụ thể về việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố liên quan tới khoản nợ được mua bán trong các Hợp đồng giao dịch mua bán lại. Theo đó ngân hàng bán nợ vẫn phải có trách nhiệm đối với khoản nợ trong thời gian chuyển giao cho ngân hàng mua nợ. Nếu trong thời gian bán nợ xảy ra rủi ro, tài sản thế chấp sẽ đựoc phát mại và hoàn trả cho cả 2 ngân hàng. Đồng thời, NHNN nên bổ sung một điều khoản cụ thể về việc hạch toán tại các ngân hàng tham gia giao dịch là rủi ro trong mua bán nợ, chênh lệch giá bán nhỏ hơn giá mua nên được hạch toán vào quỹ Phòng ngừa rủi ro của các TCTD. Khi giá bán nợ lớn hơn giá mua, khoản lãi này theo quy định phải hạch toán vào lợi nhuận trước thuế , bản chất là kinh doanh tài sản ngoại bảng của ngân hàng nên phải chịu thuế. Nhưng để khuyến khích các giao dịch trong giai đoạn đầu nhà nước nên miễn thuế nhằm tăng tính hấp dẫn của thị trường mua bán nợ. 2.1.3.Nghiên cứu và cho ra đời luật chứng khoán hoá. Trong khả năng hiện nay, NHNN cũng như TCTD chưa có điều kiện tiến hành chứng khoán hoá và chưa đủ khả năng để ban hành được một bộ luật về chứng khoán hoá. Tuy nhiên, theo kiến nghị của tôi, NHNN cũng nên có những nghiên cứu về luật Chứng khoán hoá, đặc biệt là tham khảo của các nước trong khu vực. Bộ luật này phải hàm chứa được những yếu tố sau: Trung gian đặc biệt: phải có quy định cụ thể về những tổ chức nào được thực hiện chứng khoán hoá, ví dụ như AMC, yêu cầu về vốn, tuân thủ theo luật gì, chịu sự giám sát trực tiếp của tổ chức nào và hạch toán theo phương pháp nào. Tài sản chứng khoán hoá: NHNN nên nghiên cứu những tài sản nào có thể đem chứng khoán hoá mà đem lại rủi ro thấp nhất cho nhà đầu tư. Tổ chức cung cấp dịch vụ tăng cường dịch vụ tín dụng. Cách thức tăng cường tín dụng, phương thức hoạt động của các tổ chức này, cơ chế thực hiện cam kết là những điểm cần lưu tâm. Các vấn đề liên quan luật khác: phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật chứng khoán và Uỷ ban chứng khoán, nhà đầu tư nắm giữ sẽ chịu ảnh hưởng của luật thuế thu nhập... Thuế. Việc chuyển nhượng bán tài sản thế chấp của ngân hàng cho trung gian đặc biệt sẽ được miễn trừ thuế, thuế sẽ tính ra sao trong trường hợp bán tài sản cao hơn giá tạm tính... 2.1.4.Kết hợp đồng bộ hệ thống văn bản pháp lý và các cơ quan chức năng Lĩnh vực nợ và chứng khoán hoá bao trùm những quan hệ kinh tế rộng lớn nên đòi hỏi phải có một hệ thống các văn bản pháp luật đồng bộ để điều chỉnh hoạt động mua bán nợ, chứng khoán hoá các khoản nợ. Khuôn khổ pháp lý phải bao trùm được các vấn đề như: +Cơ chế bảo đảm cho khoản nợ +Chế độ hạch toán kế toán cho khoản nợ +Quyền thừa hưởng tài sản +Đầu tư nước ngoài vào Việt nam (đối với các đối tượng nước ngoài muốn mua chứng khoán) +Cơ chế chuyển nhượng nắm giữ quyền thu nhập của tài sản +Luật đầu tư trong lĩnh vực Bảo hiểm... Ngoài ra luật pháp phải đáp ứng đuợc đúng nhu cầu khách quan của hoạt động kinh tế chứ không chỉ bó gọn trong ý muốn chủ quan của người làm luật. Đây là điểm chú ý hết sức quan trọng đối với những người làm luật của NHNN và các ngành liên quan. 2.2.Thành lập tổ chức xếp hạng tín dụng và cung cấp thông tin cho ngân hàng Thông tin không cân xứng, không minh bạch chứa đựng nguy cơ rủi ro lớn đối với NHTM và nhà đầu tư khi tham gia chứng khoán hoá các khoản nợ. Đồng thời khâu đánh giá chất lượng tín dụng cũng không thể thiếu đựơc trong nghiệp vụ chứng khoán hoá. Do vậy, NHNN cần xúc tiến hỗ trợ để dần nâng cấp Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) thành một tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp ở nước ta. Đây là một điều kiện rất quan trọng để đảm bảo ngăn ngừa rủi ro, tạo động lực thúc đẩy ngân hàng mua bán nợ và chứng khoán hoá. Để định giá được khoản nợ trong các giao dịch mua bán trung gian đặc biệt cần đánh giá qua 4 khâu: phân tích khoản nợ, phân tích bên nợ, phân tích mục đích, mục tiêu bán nợ và phân tích môi trường vĩ mô. CIC sẽ phối hợp với trung gian đặc biệt thu thập thông tin từ Bộ phận xử lý thông tin của ngân hàng, từ các trung tâm thông tin của bộ ngành, cơ quan quản lý nhà nước... Để đánh giá mức độ rủi ro của chứng khoán phát hành, cung cấp cho nhà đầu tư thông tin ra quyết định tổ chức xếp hạng căn cứ vào mức tăng cường tín dụng, giá trị tài sản thế chấp... CIC nên chủ động tiếp cận với nguồn thông tin nước ngoài (sách báo, tạp chí và các tổ chức chuyên mua bán tin quốc tế, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế...). CIC cần thu thập thông tin về toàn bộ các NHTM trong hệ thống gồm NHTMQD, NHTMCP nông thôn, NHTPCP đô thị về mức độ tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng nguồn vốn huy động, tổng tài sản, lợi nhuận trước thuế/ tổng tài sản (ROA) hoặc (ROE), tỷ nợ quá hạn... Đồng thời CIC cũng cần thu thập toàn bộ thông tin về các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam như hồ sơ pháp lý, tình hình tài chính, uy tín, thị trường và sản phẩm. Trên cơ sở các thông tin thu thập được, CIC sẽ sắp xếp cung cấp cho ngân hàng những thông tin chính xác nhất. Đồng thời các NH thành viên phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc cung cấp thông tin cho CIC. CIC nên học hỏi kinh nghiệm thực tiễn của các tổ chức tín dụng hàng đầu thế giới như Standard and Poor, Moody’s để trở thành một công ty kinh doanh thông tin chuyên nghiệp ở Việt Nam. Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị mà theo tôi nếu đáp ứng được thì việc đưa chứng khoán hoá thành một công cụ tài chính của NHNT trong quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá hoạt động tài chính của mình nói riêng và của các NHTM nói chung. Theo đó thi quá trình này sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn. KẾT LUẬN *** Chứng khoán hoá là một công cụ tài chính hiện đại mới chỉ mới xuất hiện đầu thập niên 70 nhưng đã đạt được mức độ tăng trưởng thần kỳ. Với những nước có thị trường tài chính phát triển, chứng khoán hoá họat động dưới yêu cầu rất khắt khe nhưng không có nghĩa là nó không thể trở thành hiện thực tại Việt Nam. Trong thời điểm hiện nay, quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá hoạt động tài chính của các ngân hàng Thương mại đang đặt ra hết sức cấp bách nhưng lại chưa có giải pháp thực sự hiệu quả để giải quyết. Nhận thức được điều này em đã lựa chọn chứng khoán hoá như là một giải pháp hữu hiệu nhất để thực hiện mục tiêu xoá đi các khoản nợ tồn đọng, một bước quan trong nhất trong quá trình lành mạnh hoá hoạt động tài chính của các ngân hàng Thương mại Việt Nam. Với quan điểm như vậy, qua những nội dụng đã trình bầy trong khóa luận đã cố gắng làm rõ những vấn đề nghiên cứu trên các khía cạnh sau: Thứ nhất: tìm hiểu lịch sử ra đời và những khái niệm cơ bản, phương thức tiến hành chứng khoán hoá các khoản nợ tại thị trường tài chính Mỹ. Thứ hai: sau khi nêu bật thực trạng nợ tồn đọng và cách xử lý của ngân hàng thương mại, khóa luận đã xây dựng một mô hình giả định chứng khoán hoá các khoản nợ tồn đọng trong điều kiện Việt Nam và trên có sở đó, rút ra những ưu điểm, hạn chế của mô hình Việt Nam. Thứ ba: căn cứ vào lý thuyết và những khó khăn của mô hình đề ra các giải pháp nhằm đưa chứng khoán hoá vào thực tiễn Việt Nam. Trong thực tế điều kiện của Việt nam hiện nay việc chứng khoán hoá các khoản nợ tồn đọng là ý tưởng hết sức mới mẻ nhưng không phải không có căn cứ để thực hiện. Nhưng do hạn chế về thời gian, tài liệu và kinh nghiệm thực tiễn nên cách tiếp cận của khóa luận vẫn còn nhiều hạn chế. Tuy vậy, em vẫn mạnh dạn vận dụng những kiến thức có được để đề xuất một số giải pháp, kiến nghị với hy vọng là có thể góp một phần nhỏ bé vào quá trình tái cơ cấu và lành mạnh hoá hoạt động tài chính ngân hàng cũng như tài chính của nền kinh tế nói chung.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluanvan.doc
  • docbang15.doc
  • dochinh3.doc
  • docMUCLUC.DOC
  • doctailieutham khao.doc
Tài liệu liên quan