Khóa luận Xây dựng ngành công nghiệp phần mềm như một động lực phát triển nền kinh tế tri thức tại Việt Nam

Từ kinh nghiệm của những nước đi trước, từ những phân tích về thực tiễn và khả năng của Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định được rằng ngành công nghiệp phần mềm có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức của đất nước. Phát triển ngành này không những mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp mà quan trọng hơn là mang lại hiệu quả kinh tế cho toàn xã hội do khả năng làm thay đổi hiệu quả hoạt động của mọi ngành và mọi lĩnh vực. Phân tích thực trạng của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam cho thấy sự phát triển của ngành hoàn toàn chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn. Năng lực kinh doanh của ngành còn nhỏ bé, phân tán. Phần lớn các doanh nghiệp phần mềm quy mô nhỏ và chưa có chiến lược phát triển dài hạn. Hiệu quả kinh doanh của ngành thấp cả về doanh số và lợi nhuận. Tốc độ phát triển của ngành chậm. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin vào các ngành, các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội còn rất thấp. Quá trình hội nhập với khu vực và thế giới đang mang lại cho ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng nhiều thách thức. Đó là mức độ cạnh tranh ngày càng tăng trên cả thị trường trong nước lẫn thị trường nước ngoài. Với vị thế hết sức thấp kém hiện nay để cạnh tranh được trên thị trường thế giới cần nỗ lực rất lớn của các doanh nghiệp và chính phủ Việt Nam. Việt Nam cũng đã có nhiều chính sách nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp phần mềm phát triển nhưng phần lớn các chính sách chưa thực sự đi vào cuộc sống. Nguyên nhân chủ yếu là ở chỗ các chính sách chưa được cụ thể hoá và chưa được tổ chức đầy đủ.

doc88 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Xây dựng ngành công nghiệp phần mềm như một động lực phát triển nền kinh tế tri thức tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu trí tuệ và bản quyền tác giả. Hiện nay hệ thống pháp luật Việt Nam vừa thiếu các văn bản cần thiết cũng như các văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện không đồng bộ và rõ ràng. Các biện pháp chế tài không đủ mạnh để răn đe và ngăn chặn các hành vi vi phạm bản quyền tác giả phần mềm. Đồng thời, ý thức chấp hành pháp luật kém ở người sử dụng càng làm cho hiệu lực bảo hộ của hệ thống pháp luật là rất hạn chế. Vì vậy, các cá nhân và tổ chức sử dụng công khai các phần mềm được sao chép bất hợp pháp mà vẫn không lo lắng tới bất kỳ một sự trừng phạt nào từ phía pháp luật. Hậu quả là khi một phần mới được tung ra thị trường nhà sản xuất chưa kịp thu hồi vốn thì thị trường đã tràn ngập các bản copy được cung cấp giá rẻ hơn nhiều. Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế tri thức đang hình thành và phát triển thì vấn đề sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng của thế giới đã phát triển mạnh mẽ về cả quy mô và chất lượng. Sở hữu trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu chính sách kinh tế – thương mại của các quốc gia. Song song với xu hướng gỡ bỏ dần các hàng rào mậu dịch dạng phi thuế, giảm bớt các chế độ bảo hộ mậu dịch, tự do hoá thương mại là xu hướng tăng cường các hàng rào bảo hộ sở hữu trí tuệ bằng cách củng cố và đẩy mạnh các biện pháp chế tài và mở rộng phạm vi bảo hộ các thành quả sáng tạo khoa học kỹ thuật và kinh doanh. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng đã đưa ra hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS). Đây là một thách thức cho Việt Nam trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Có thể nói quyền sở hữu trí tuệ là một điều kiện cho sự phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Trong hoàn cảnh như vậy thì thực trạng về bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ công nghiệp phần mềm nói riêng ở Việt Nam đang đặt ra những đòi hỏi gay gắt về việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như đảm bảo sự thực thi hệ thống này trên thực tế. III. ảnh hưởng của quá trình hội nhập đến sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm của Việt Nam. 1. Nội dung của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Hội nhập kinh tế ngày nay được hiểu là việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các chế định kinh tế tài chính quốc tế, thực hiện tự do hoá thương mại, đầu tư bao gồm các lĩnh vực: Đàm phán cắt giảm thuế quan, tiếp tới thực hiện thuế suất bằng 0 đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Đối với WTO, Việt Nam phải cam kết ràng buộc các mức thuế quan của mình. Đây là nghĩa vụ cơ bản cho mọi thành viên của WTO. Hiện nay, mô hình cắt giảm thuế quan mạnh mẽ theo ngành và hài hoà thuế quan theo đó thuế quan của các sản phẩm liên quan như công nghệ thông tin, dược phẩm, hoá chất, thiết bị dược phẩm, hoá chất, thiết bị xây dựng và y tế, máy nước nông nghiệp, đồ gia dụng, rượu bia và thép đều được cam kết ở mức rất thấp, chủ yếu là 0 %. Đối với APEC, mục tiêu đặt ra là các nước thành viên phải giảm dần thuế quan để tự do hoá thương mại vào năm 2010 đối với các nước phát triển, và 2020 đối với các nước đang phát triển. Đối với AFTA, theo quy định của hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) và Nghị định thư về việc tham gia của Việt Nam thì chúng ta có nghĩa vụ phải bắt đầu cắt giảm thuế từ 1/1/1996 và hoàn thành vào 1/1/2006 với thuế suất cuối cùng từ 0%-10%. Giảm thiểu, tiến tới loại bỏ những hàng rào phi thuế quan gây cản trở đối với thương mại. Những biện pháp phi thuế phổ thông cần được chuẩn mực hoá theo các quy định chung của WTO, APEC và AFTA. Giảm thiểu các hạn chế đối với thương mại và dịch vụ: cho phép tự do hoá việc cung cấp và kinh doanh các hình thức dịch vụ. Hiện nay có khoảng 12 nhóm dịch vụ được đưa vào đàm phán: ngân hàng tài chính, viễn thông, tin học, giao thông vận tải,… Điều chỉnh chính sách quản lý thương mại, đầu tư theo những quy tắc và thông lệ quốc tế, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến giao dịch thương mại: thủ tục hải quan, quyền sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh… Triển khai các hoạt động hợp tác kinh tế, văn hoá xã hội nhằm nâng cao năng lực của các quốc gia trong quá trình hội nhập. Như vậy có thể thấy, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế đã được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế, thương mại và đầu tư nhằm mục tiêu mở cửa cho thị trường hàng hoá và dịch vụ; loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình trong trao đổi kinh doanh quốc tế. Tất cả các quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập đều nhận thấy lợi ích mà nó đem lại - đó là khai thông thị trường cho hàng hoá xuất nhập khẩu, tiếp nhận vốn và công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp, qua đó đã và sẽ tạo ra công ăn việc làm, góp phần cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân, đảm bảo tăng trưởng kinh tế, học tập công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của khu vực và thế giới. Đối với ngành công nghiệp phần mềm non trẻ của Việt Nam hội nhập đem lại cho các công ty cơ hội được tham gia trực tiếp vào thị trường thế giới. Đồng thời các sản phẩm phần mềm của thế giới cũng sẽ tự do thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Hội nhập vừa là cơ hội vừa là thách thức cho các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam. 2. Những tác động của hội nhập quốc tế tới sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam. Do chính sách mở cửa đã cho phép các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam tiếp cận trực tiếp với các nguồn thông tin về công nghệ và thị trường thế giới để nhanh chóng cập nhập, bổ xung những kiến thức mới trong lĩnh vực kinh doanh của mình. Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trực tiếp trong lĩnh vực công nghệ thông tin sẽ tạo nên một khung cảnh cạnh tranh mới thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải vươn lên. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể học được công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các công ty nước ngoài. Với bản chất thông minh vốn có Việt Nam có thể nhanh chóng tiếp nhận các công nghệ đào tạo tiên tiến của nước ngoài vào phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp phần mềm. Các doanh nghiệp có thể tiết kiệm được các chi phí đầu tư. Những điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật để sản xuất phần mềm dễ dàng trang bị hiện đại ngang tầm thế giới. Thị trường mở rộng cả về quy mô, cơ cấu nhu cầu phần mềm. Chính sách mở cửa và hội nhập đang làm cho nhiều ngành kinh tế trong nước phát triển kéo theo nhu cầu về công nghệ thông tin và làm tăng nhu cầu phần mềm trong nước. Trước sức ép cạnh tranh, nhiều ngành kinh doanh của Việt Nam sẽ phải tăng cường ứng dụng tin học vào hoạt động của mình, trước hết đó là các ngành viễn thông, hàng không, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, dầu khí,… Một loạt các liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, các công ty tư nhân sẽ là khách hàng tiềm năng cho các công ty phần mềm trong nước. Mức độ tích tụ và tập trung hoá sẽ diễn ra trong ngành công nghiệp phần mềm. Những công ty nào có chiến lược phát triển hợp lý sẽ tăng trưởng mạnh, ngược lại sẽ có nhiều công ty nhỏ bị sáp nhập lại hoặc phá sản. Ngành công nghiệp phần mềm trở nên năng động hơn. Các công ty nhỏ để tồn tại và phát triển phải liên kết lại dưới nhiều hình thức khác nhau. Xuất hiện nhiều loại hình tổ chức sản xuất phần mềm có hiệu quả. Phạm vi hợp tác trong sản xuất phần mềm có thể mở rộng ra khu vực ngoài thế giới. Tuy nhiên, hội nhập sẽ làm tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường phần mềm đặc biệt là cạnh tranh của các công ty nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam và các phần mềm nhập khẩu. Những thế mạnh của Việt Nam như giá nhân công lao động rẻ, lao động nhiều lại không mang lại lợi thế cạnh tranh nhiều cho ngành này do tính kỹ thuật cao cuả ngành. Các khách hàng vẫn đánh giá cao sản phẩm phần mềm nước ngoài hơn là phần mềm trong nước. Khi hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị xoá bỏ đương nhiên là các sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước sẽ không được che chắn như trước và vì vậy khó có thể cạnh tranh trực tiếp với các sản phẩm nước ngoài. Do cạnh tranh trong nước tăng lên và xoá bỏ hàng rào thuế quan sẽ làm cho giá phần cứng giảm xuống, nhờ đó làm tăng số lượng máy tính sử dụng trong nước, mở rộng việc ứng dụng tin học. Khi hội nhập với khu vực và thế giới thị trường phần mềm Việt Nam sẽ gắn bó chặt chẽ và trở thành một bộ phận của thị trường phần mềm thế giới, dẫn đến giá các sản phẩm phần mềm sẽ chịu sự chi phối trực tiếp của giá quốc tế. Điều này, một mặt mang lại thuận lợi cho các công ty phần mềm trong nước lâu nay không có cơ sở để định mức giá hợp lý. Nhưng mặt khác, các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam sẽ không còn có thể áp đặt giá cao cho khách hàng trong nước nhờ vị thế độc quyền và khách hàng thiếu thông tin. Tiến trình hội nhập với vấn đề thực thi các cam kết thực hiện luật bảo vệ bản quyền tác giả phần mềm sẽ có ảnh hưởng lớn đến thị trường phần mềm và hoạt động của các công ty phần mềm Việt Nam. Hội nhập với khu vực và thế giới đòi hỏi chúng ta phải đảm bảo thực thi đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế về việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được nêu lên trong các hiệp định thương mại song phương và đa phương. Việc thực thi nghiêm chỉnh luật bảo vệ bản quyền tác giả phần mềm sẽ đòi hỏi tất cả các khách hàng mua và sử dụng phần mềm hợp pháp. Phần chi tiêu cho phần mềm để áp dụng công nghệ thông tin sẽ tăng lên trong khi nước ta còn nghèo, sức mua thấp. Điều này có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng ứng dụng máy tính ở Việt Nam do có nhiều khách hàng không đủ tiền để mua cả phần cứng và phần mềm. Vì vậy, chính phủ cần có đàm phán với các công ty đa quốc gia để có chính sách giá bán các phần mềm cơ bản ưu đãi cho các nước nghèo như Việt Nam. Tất nhiên tác động tích cực của bảo vệ bản quyền tác giả là sẽ khuyến khích các doanh nghiệp và cá nhân làm phần mềm sáng tạo những sản phẩm có chất lượng cao, khuyến khích kinh doanh hợp pháp. Thị trường phần mềm Việt Nam được lành mạnh hoá, có luật lệ. Hình ảnh của Việt Nam trên thế giới sẽ được cải thiện, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn cho các công ty phần mềm nước ngoài. Khi môi trường luật pháp hoàn chỉnh, các công ty nước ngoài sẽ yên tâm đầu tư vào ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam. Như vậy hội nhập kinh tế quốc tế đang và sẽ đem lại cho ngành công nghiệp phần mềm những cơ hội cũng như những thách thức mới. Trong bối cảnh hội nhập như vậy, ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam cần có được một chiến lược phát triển dài hạn và đầu tư đúng hướng để có thể nắm bắt được cơ hội, vượt qua mọi thách thức, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước như Đảng ta đã đặt ra. Từ đó góp phần thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin mạnh mẽ hơn nữa vào mọi mặt, mọi lĩnh vực kinh tế xã hội, trở thành động lực cho việc xây dựng một nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Chương III Một số kiến nghị về chính sách và biện pháp phát triển ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam. I. Mô hình và định hướng phát triển ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam. Chủ trương phát triển ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn vì đây là lĩnh vực cần ít vốn đầu tư nhất và phù hợp với năng khiếu phân tích và mô hình hoá của người Việt Nam. Nhưng chúng ta cần lựa chọn con đường phát triển phù hợp. Với thực trạng của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam như đã trình bày ở chương 2 thì hiện tại ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam vẫn đang là một ngành kém phát triển. Theo các chuyên gia công nghệ thông tin, sự phát triển thấp của ngành có nguyên nhân là do các chính sách của Nhà nước về công nghiệp phần mềm tuy đã có chuyển biến lớn, song chưa kịp đi vào cuộc sống, chưa tạo được sự tăng trưởng đột biến về số doanh nghiệp và số nhân lực làm phần mềm; thị trường phần mềm trong nước còn quá nhỏ bé, trong khi đó luật bản quyền còn chưa được tôn trọng và chưa có cơ sở vật chất kỹ thuật để triển khai, tình trạng vi phạm bản quyền sở hữu trí tuệ ở mức cao độ đang gây cản trở cho việc phát triển ngành công nghiệp phần mềm và hạn chế sự đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Khả năng xúc tiến thương mại quốc tế của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam mới ở bước phôi thai (mới có vài doanh nghiệp có khả năng thương hoá sản phẩm của mình, hoặc có đủ tiềm lực để đặt cơ quan đại diện tại nước ngoài). Đồng thời, đầu tư cho công nghiệp phần mềm còn là lĩnh vực mới lạ, chưa được coi là một thị trường hấp dẫn; ngoại trừ một số doanh nghiệp có tiềm lực mạnh, có khả năng tự đầu tư vào tất cả các công đoạn sản xuất kinh doanh phần mềm, còn hầu hết các dự án lớn trong công nghiệp phần mềm cho đến nay đều là của Nhà nước và tổng mức đầu tư của từng dự án cũng chưa vượt quá con số 2.000 tỷ đồng. Mặt khác, về nguồn nhân lực và chất xám, Việt Nam chủ yếu mới có tiềm năng sản xuất phần mềm, chưa biến được tiềm năng thành hiện thực. Lao động công nghệ thông tin và sản xuất phần mềm của nước ta còn rất hạn chế về chuyên môn, rất thiếu đội ngũ chuyên gia giỏi, đủ kinh nghiệm để tổ chức công việc, xây dựng các dự án, đưa ra những ý đồ công nghệ và thiết kế các sản phẩm có nhiều giá trị, tổ chức công tác lập trình, quản lý sản xuất, kiểm định đo lường sản phẩm, marketing và công tác ngoại thương…Đánh giá chung về ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam của một số chuyên gia còn cho thấy, năng suất phần mềm của nước ta rất thấp (chỉ bằng chưa đến 1/2 so với ấn Độ) có thể do bốn nguyên nhân: Chưa thâm nhập được vào thị trường gia công và sản phẩm phần mềm ngoài nước; Trong nước vẫn đánh giá thấp giá trị của sản phẩm và công sức của các đơn vị làm phần mềm; chưa sản xuất theo quy trình công nghiệp, công nghệ làm phần mềm lạc hậu; Chất lượng lập trình viên và quản lý dự án thấp. Để có thể phát triển mạnh ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam, đạt được mục tiêu 25.000 lập trình viên và 500 triệu USD giá trị sản lượng phần mềm vào năm 2005 do Chính phủ đề ra, cần phải khắc phục tất cả những hạn chế ở trên. Công nghiệp phần mềm Việt Nam có phát triển bền vững thì mới có thể trở thành động lực thực sự cho sự phát triển của nền kinh tế tri thức Việt Nam sau này. Trên cơ sở phân tích thực trạng cũng như mục tiêu cho ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam có thể đưa ra mô hình hay định hướng phát triển của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam trong giai đoạn hiện nay như sau: Trước hết cần đào tạo đội ngũ lập trình viên và chuyên gia phân tích hệ thống có trình độ và kỹ năng nghề nghiệp cao để có thể cung cấp các sản phẩm và dịch vụ phần mềm cho các cơ quan, đơn vị trong nước. Đây là một yêu cầu không chỉ nhằm phát triển ngành công nghiệp phần mềm mà để phát triển nền kinh tế xã hội, phát triển đất nước nói chung nhờ ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi lĩnh vực. Chúng ta không thể để đất nước lệ thuộc mãi vào công nghệ thông tin và các chương trình phần mềm nước ngoài. Ngoài các phần mềm thông dụng chúng ta phải đầu tư để làm được các phần mềm thông dụng. Thứ hai là tập trung đào tạo đội ngũ lập trình viên và chuyên viên phân tích hệ thống có tay nghề cao, có khả năng sử dụng tiếng Anh tốt để xuất khẩu lao động. Lao động phần mềm xuất khẩu có thể mang lại lượng ngoại tệ lớn cho đất nước. Có chính sách thu hút các công ty phần mềm nước ngoài và đặc biệt là các công ty của người Việt Nam ở Mỹ đầu tư vào Việt Nam. Các công ty này có thể vừa sản xuất, sử dụng lao động trí thức vừa đào tạo lực lượng này cho Việt Nam. Nhà nước cần có chính sách phù hợp để sử dụng hợp lý số tiền do xuất khẩu lao động lao động đem lại. Nhà nước cũng cần có chính sách để giữ được những người tài ở lại trong nước để làm công việc nghiên cứu, phát triển ngành công nghiệp phần mềm của đất nước. Thứ ba là đầu tư cho năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được yêu cầu làm gia công cho các hãng lớn nước ngoài. Đây là hướng hoàn toàn khả thi do thị trường đã nắm chắc. Vấn đề là hiệu quả làm gia công không cao nhưng chúng ta phần nào phát huy được lợi thế giá lao động thấp. Chúng ta cần có biện pháp phối hợp các doanh nghiệp trong nước với nhau và chính sách marketing với các công ty phần mềm lớn nước ngoài. Thứ tư là đầu tư cho tiềm lực về mọi mặt để có thể tập trung được sản xuất phần mềm đóng gói để xuất khẩu. Đây là mục tiêu lâu dài cho các công ty phần mềm trong nước khi họ đã phát triển vững mạnh, có quy mô lớn, có uy tín trên thị trường. Bởi vì hiện tại thị trường phần mềm đang bị các công ty lớn chi phối, dù chúng ta có thể làm được những phần mềm thật tốt, cũng chưa đủ tín nhiệm để bán trên thị trường nước ngoài. Đầu tư tập trung vào làm phần mềm khi chưa có đầu ra, chưa biết bán hay cung cấp cho ai, sẽ dễ thất bại. Các doanh nghiệp đầu tư theo hướng này cần có sự hợp tác với nhau và có sự nghiên cứu thị trường đầy đủ cũng như sự đảm bảo của các đối tác nước ngoài. Sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm đi từ quy mô nhỏ, qua tích tụ và tập trung hình thành các doanh nghiệp lớn. Các doanh nghiệp đi từ giải quyết các bài toán từ đơn giản đến phức tạp. Trước hết các doanh nghiệp chuyên kinh doanh các phần mềm trong một số lĩnh vực chuyên biệt sau mới mở rộng sang các lĩnh vực khác và đa dạng hoá sản phẩm. Không thể đốt cháy giai đoạn, nóng vội nhưng cũng không thể chậm trễ. Để phát triển ngành công nghiệp phần mềm phát triển mạnh và vững chắc, tất nhiên đòi hỏi nỗ lực từ cả hai phía: doanh nghiệp phần mềm và Nhà nước. Nhà nước phải tạo điều kiện môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển. Các chính sách và đường lối quản lý vĩ mô cần tập trung vào các biện pháp gián tiếp, phải nhằm khơi dậy được nỗ lực kinh doanh của các doanh nghiệp phần mềm và của từng cá nhân con người tham gia vào làm phần mềm. Các chính sách quản lý cũng nhằm vào tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp và cá nhân làm phần mềm. Chính sách nhằm vào việc khuyến khích các doanh nghiệp chủ động sáng tạo trong kinh doanh. Trong thời kỳ đầu do tiềm lực của các doanh nghiệp còn nhỏ bé nên cần sự đầu tư trực tiếp của nhà nước nhưng không phải đầu tư với bất cứ giá nào mà phải dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế. Các chính sách ban hành cũng phải trên nguyên tắc toàn diện, đứng trên hiệu quả kinh tế của cả quốc gia để xem xét chứ không phải lợi ích riêng của từng ngành cụ thể. II. Một số kiến nghị về chính sách và biện pháp phát triển ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam 1. Về phía doanh nghiệp phần mềm. Sự phát triển của ngành công nghiệp phần mềm trước hết phụ thuộc nỗ lực kinh doanh của các doanh nghiệp phần mềm. Môi trường điều kiện có tốt bao nhiêu nhưng hoạt động của chính các doanh nghiệp không tốt thì cũng không thể phát triển được. Trước hết các doanh nghiệp làm phần mềm phải chủ động nỗ lực kinh doanh chứ không chỉ trông chờ, kêu gọi sự ưu đãi của nhà nước. Trên cơ sở phân tích thực trạng của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam, có thể đưa ra một số kiến nghị cho các doanh nghiệp như sau: 1.1 Nâng cao năng lực kinh doanh của từng doanh nghiệp phần mềm. Để nâng cao năng lực kinh doanh, các doanh nghiệp phần mềm cần tập trung vào: Tuyển chọn, đào tạo và sử dụng tốt nhất đội ngũ lập trình viên các loại: Đảm bảo cho các doanh nghiệp có đội ngũ lao động chất lượng cao. Các doanh nghiệp phần mềm phải tăng về số lượng và chất lượng đội ngũ chuyên gia của mình, đặc biệt đủ người quản lý dự án. Các doanh nghiệp phần mềm phải có chiến lược đầu tư dài hạn cho nguồn nhân lực. Đào tạo nhân lực chuyên sâu về các lĩnh vực chuyên sâu của khách hàngđể có đủ khả năng tư vấn về giải pháp cho khách hàng. Có chính sách thù lao thoả đáng để thu hút được lao động giỏi. Ngoài chính sách tiền lương, các doanh nghiệp cần thực hiện chế độ góp vốn cổ phần để gắn bó dài hạn người lao động với doanh nghiệp. Nâng cao trình độ và năng lực quản trị của các chủ doanh nghiệp phần mềm. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp phần mềm quy mô nhỏ, trình độ quản lý chưa cao. Chúng ta đang thiếu không chỉ đội ngũ lập trình viên mà quan trọng hơn là thiếu những nhà quản trị doanh nghiệp phần mềm giỏi. Đó là những người không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn giỏi về quản lý về điều khiển con người, về quản lý tài chính, giỏi về marketing. Do các doanh nghiệp phần mềm có quy mô nhỏ trong khi nhiều dự án phần mềm (sản phẩm phần mềm) lớn, để thực hiện cần huy động đội ngũ chuyên gia lập trình đông đảo thuộc nhiều lĩnh vực, nhiều trình độ…vì vậy rất cần hợp tác giữa các doanh nghiệp phần mềm trong nước với nhau. Các doanh nghiệp cũng phải tìm kiếm các liên kết dọc và ngang để sử dụng nguồn lực hợp lý, tránh đầu tư trùng lắp và giảm thiểu cạnh tranh nội bộ. Cần có các tổ chức hợp tác thực sự giữa các doanh nghiệp phần mềm đẻ phối hợp sản xuất và marketing đáp ứng nhu cầu của các tổng công ty lớn 90,91… Mô hình công ty ảo cần được nghiên cứu hoàn thiện, vì đây là phương thức phối hợp giữa các doanh nghiệp phần mềm với nhau phù hợp nhất với đặc điểm công nghệ thông tin, vừa tiết kiệm được chi phí, sử dụng thông tin kiến thức đã có hữu hiệu nhất, vừa tăng được hiệu quả khai thác thị trường. Các doanh nghiệp tham gia vào tổng công ty ảo sẽ bổ xung cho nhau để tạo nên một năng lực chung, có khả năng đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật cao của sản phẩm và sức mạnh cạnh tranh trên thị trường lớn hơn. Các doanh nghiệp phải vận dụng các phương pháp quản lý doanh nghiệp hiện đại, có chiến lược kinh doanh dài hạn trên thị trường, xây dựng tác phong công nghiệp và văn hoá doanh nghiệp. Phát triển thêm nhiều doanh nghiệp kinh doanh phần mềm mới với quy mô nhỏ về lao động nhưng năng động có thể thực hiện được những phần việc của các dự án gia công. Tạo điều kiện để hình thành một số công ty lớn có tiềm lực để nhận thầu các dự án lớn. Hình thành mô hình công ty mẹ – công ty con trong ngành phần mềm. 1.2 Phát triển thị trường trong nước. Quan hệ chặt chẽ với khách hàng, cung cấp được giải pháp đồng bộ cho khách hàng. Xây dựng đội ngũ chuyên gia phần mềm có đủ kiến thức và trình độ hiểu biết về các lĩnh vực của khách hàng, để tư vấn cho khách hàng giải pháp hoàn chỉnh. Các sản phẩm phần mềm cung cấp cho khách hàng phải dựa trên tư duy hệ thống ngay từ đầu: giải quyết từ vấn đề tổng thể cho đến các vấn đề bộ phận, tránh chắp vá dẫn đến phải làm đi làm lại nhiều lần gây lãng phí lớn. Các doanh nghiệp làm phần mềm cần nâng cao kiến thức về kinh tế, xã hội và quản lý đặc biệt những vấn đề thực tiễn của Việt Nam để có thể sản xuất được các chương trình phần mềm đáp ứng đúng yêu cầu và mong muốn của khách hàng. Khả năng giải quyết được các vấn đề thực tế của khách hàng phải là mục tiêu của các doanh nghiệp phần mềm. Chủ động tác động vào khách hàng để đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các ngành và lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế. Các doanh nghiệp phần mềm phải tạo cầu phần mềm trong nước bằng cách làm cho các ngành, các lĩnh vực quan tâm đầu tư thực sự cho công nghệ thông tin (biến nhu cầu tiềm năng thành nhu cầu thực sự). Tập trung sản xuất sản phẩm cho những ngành có nhu cầu phần mềm lớn, thay thế phần mềm nhập khẩu. Chuyên môn hoá và liên kết trong chiến lược thị trường. Cần xây dựng chiến lược phát triển thị trường trong nước cho toàn ngành để phối hợp các hoạt động của các doanh nghiệp phần mềm, từ đó chuyên môn hoá theo nhóm ngành hàng ứng dụng công nghệ thông tin như ngân hàng, xây dựng,… Chuyên môn hoá theo lĩnh vực ứng dụng như phần mềm phổ thông, phần mềm dữ liêu,… Các doanh nghiệp kinh doanh phần mềm cần chuyên môn hoá dọc và ngang. Phát triển các chiến lược thị trường riêng của từng công ty hoặc nhóm công ty phần mềm nhằm vào các đoạn thị trường mục tiêu đã lựa chọn. Ví dụ chiến lược khai thác thị trường các dự án tin học của các bộ, ngành được đầu tư từ ngân sách nhà nước; chiến lược khai thác thị trường các tổng công ty lớn 90.91… Các chiến lược phối hợp phát triển sản phẩm hoặc nhóm sản phẩm như phát triển sản phẩm phần mềm quản lý, kế toán… 1.3 Phát triển thị trường ngoài nước. Với các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam phải có bước đi hợp lý từ thấp đến cao, từ sản xuất sản phẩm đơn giản, ứng dụng đến sản phẩm phần mềm tích hợp phức tạp, từ cung ứng lao động phần mềm bậc thấp đến bậc cao, từ gia công phần mềm đến sản xuất sản phẩm đóng gói. Trước hết hướng vào xuất khẩu lao động phần mềm sang các nước đang có nhu cầu nhập khẩu cao như Mỹ. Tìm hiểu đầy đủ nhu cầu nhập khẩu chuyên gia phần mềm của các nước phát triển. Nghiên cứu lựa chọn những lĩnh vực nhất định để tập trung đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Đảm bảo cung cấp lao động phần mềm trình độ cao và giá nhân công thấp. Phát triển một số công ty đào tạo và xuất khẩu lao động phần mềm. Liên doanh với các công ty nước ngoài trong xuất khẩu lao động phần mềm (Trước hết là các công ty Việt kiều tại Mỹ) Thứ hai, tiến hành hợp đồng gia công cho các công ty phần mềm của các nước phát triển. Phải có đủ năng lực và hiểu rất sâu về thị trường và các hướng chiến lược của khách hàng đồng thời phải chứng minh được khả năng sản xuất thực tế. Vì vậy, trước hết phải đầu tư đảm bảo năng lực sản xuất thực sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Cần liên kết thành nhóm công ty trong từng lĩnh vực để tăng năng lực sản xuất. Tìm kiếm liên doanh liên kết giữa các công ty trong nước với các công ty phần mềm nước ngoài trong việc sản xuất và marketing trên thị trường thế giới. Lựa chọn và xây dựng quan hệ với một số công ty làm đầu cầu nhận hợp đồng gia công ở nước ngoài. Thứ ba, thu hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ hơn nữa vào lĩnh vực phần mềm để xuất khẩu lao động tại chỗ. Các công ty nước ngoài khi mở chi nhánh ở Việt Nam sẽ sử dụng lao động phần mềm tại chỗ. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào đào tạo nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp phần mềm. Thứ tư, lựa chọn kỹ lưỡng để phát triển một số phần mềm đóng gói xuất khẩu nhằm tạo uy tín hình ảnh cho ngành phần mềm Việt Nam trên thị trường thế giới. ở đây cần nghiên cứu cẩn thận nhu cầu của thị trường và có sự hợp tác của một số công ty trong nước cũng như ngoài nước. Liên kết với các công ty nước ngoài thông qua các hợp đồng hợp tác kinh doanh để họ giới thiệu sản phẩm của các công ty phần mềm Việt Nam. Doanh nghiệp phần mềm muốn vươn ra thị trường nước ngoài phải có nguồn nhân lực giỏi cho cả hệ thống kinh doanh: Quản lý, marketing, lập trình viên, quản lý dự án… và phải xúc tiến thương mại tốt, có tổ chức liên kết với đối tác nước ngoài. Một số doanh nghiệp phần mềm lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp của Việt kiều đầu tư vào trong nước có quan hệ tốt với thị trường nước ngoài, có khả năng nhận được những dự án lớn đứng ra tổ chức tập hợp các doanh nghiệp phần mềm trong nước để thực hiện. Đây là hình thức hợp tác làm gia công cho nước ngoài thích hợp với thời kỳ đầu của các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam. Hiện tai, đang có khoảng 10 000 người Mỹ gốc Việt làm việc tại thung lũng Silicon. Trong số đó không ít người đã thành danh và có khả năng đầu tư vốn và trực tiếp vè làm ăn ở Việt Nam. Từ 1996 đến nay, Việt kiều đã đăng ký thành lập 430 công ty với tổng số vốn đăng ký 490 tỷ đồng trong đó có 10% hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Từng công ty phải phân đoạn thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu và có chiến lược phát triển riêng ở thị trường nước ngoài. Mỗi nhóm công ty trong từng lĩnh vực phần mềm phải có sự phối hợp chiến lược kinh doanh với nhau. 1.4 Thực hiện hoạt động marketing hỗn hợp a. Chiến lược sản phẩm Phát triển sản phẩm phần mềm chuyên môn hoá theo ngành và lĩnh vực cụ thể. Cần có hoạch định chi tiết các nhóm sản phẩm phần mềm. Chọn nhóm sản phẩm quan trọng, có giá trị cao và có khả năng sản xuất. Sản phẩm phần mềm phải được phát triển trên một tổng thể chung của từng ngành, từng lĩnh vực. Chiến lược sản phẩm của từng công ty nên chuyên sâu vào từng lĩnh vực kỹ thuật phần mềm: Ví dụ một số thiết kế trang chủ, một số làm phần mềm cho thương mại điện tử… Trong điều kiện củaViệt Nam, các doanh nghiệp trước mắt nên tập trung vào sản xuất các phần mềm ứng dụng chứ chưa phải các phần mềm hệ thống tích hợp phức tạp. Hạn chế và loại bỏ tình trạng sản xuất những sản phẩm trùng lắp quá nhiều và đơn điệu như hiện nay. Nghiên cứu phát triển phần mềm ở những lĩnh vực chuyên sâu mà hiện chưa có ai làm. Sản phẩm phần mềm phải đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, theo chuẩn mực quốc tế và thích ứng với đặc điểm cụ thể của từng khách hàng, tương thích hoàn toàn với các phần mềm khác và dễ sử dụng, dễ nâng cấp. Sử dụng tiếng Việt cho các chương trình phần mềm trong nước. Tư vấn và phát triển giải pháp cho khách hàng chứ không chỉ bán sản phẩm thuần tuý. Vì vậy, các doanh nghiệp phần mềm phải kết hợp tốt với các chuyên gia tin học và chuyên gia chuyên ngành của khách hàng. Đảm bảo dịch vụ hỗ trợ khách hàng tốt; kịp thời, tin cậy, quan hệ chặt chẽ lâu dài với khách hàng. b. Chiến lược giá Tận dụng lợi thế về giá nhân công thấp để thực thi chiến lược giá cạnh tranh và phân biệt giá mạnh mẽ. Tất nhiên, giá phần mềm phải được phân biệt lớn theo đối tượng khách hàng: những khách hàng sức mua thấp như doanh nghiệp nhỏ, cá nhân… giá thấp là tiêu chuẩn quan trọng để họ lựa chọn, ngược lại những khách hàng sức mua cao như ngân hàng, hàng không,… lại chỉ quan tâm đến chất lượng và giải pháp giải quyết vấn đề của họ chứ không phải là giá cả. Chiến lược giá thấp góp phần làm tăng nhu cầu phần mềm của khách hàng trong nước và giảm tình trạng vi phạm bản quyền. Để thực hiện được chiến lược này thì cần sự hỗ trợ của nhà nước giảm giá các yếu tố đầu vào như cước internet, tiền thuê đất cho các doanh nghiệp phần mềm. c. Chiến lược phân phối Đối với thị trường trong nước cần phát triển quan hệ trực tiếp giữa các doanh nghiệp phần mềm với khách hàng để trực tiếp tư vấn cung cấp giải pháp cho khách hàng. Một số sản phẩm đóng gói cần phân phối qua trung gian là các cửa hàng bán lẻ. Phát triển phương thức bán qua mạng. Đối với thị trường nước ngoài do khả năng tiếp cận khách hàng sử dụng hạn chế vì vậy sản phẩm phần mềm phải xuất khẩu qua trung gian là công ty phần mềm nước ngoài hoặc công ty phần mềm của Việt Kiều ở nước ngoài. Hướng tới thiết lập quan hệ lâu dài với các đối tác nước ngoài trên cơ sở đảm bảo lợi ích của cả hai bên. Phát triển kênh phân phối qua mạng Internet. d. Chiến lược xúc tiến hỗn hợp Tăng cường hoạt động truyền thông nhằm thay đổi nhận thức của các cấp lãnh đạo về ứng dụng công nghệ thông tin, tạo môi trường thuận lợi về kinh tế xã hội cho sử dụng phần mềm. Tăng cường tham gia các softmart (chợ phần mềm) tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh tạo điều kiện trao đổi thông tin giữa doanh nghiệp phần mềm và khách hàng, giữa các doanh nghiệp phần mềm với nhau. Khách hàng quan trọng của các chợ phần mềm này lại chính là các công ty phần mềm đến tìm giải pháp thành phần cho một giải pháp tổng thể của họ. Các chợ phần mềm tạo ra sự lựa chọn cho khách hàng, tạo điều kiện tư vấn cho khách hàng về ứng dụng công nghệ thông tin, là cầu nối cần thiết giữa nhà sản xuất và khách hàng. Đầu tư cho xúc tiến sản phẩm, nhân lực, doanh nghiệp phần mềm Việt Nam trên thị trường nước ngoài: Làm phải có kiến thức, chuyên nghiệp và kinh nghiệm. Có thể xúc tiến qua công ty nước ngoài. Tham gia các hội chợ nước ngoài chuyên ngành. Quảng cáo trên mạng. Phối hợp xúc tiến với cả ngành để có sự chia xẻ chi phí giữa các doanh nghiệp và sự hỗ trợ của chính phủ. 2. Về phía nhà nước 2.1 Hoàn thiện những chính sách nhằm tin học hoá nền kinh tế và khuyến khích kinh doanh nói chung. Cần hoàn thiện các chính sách tạo thị trường cho công nghiệp phần mềm Việt Nam qua tăng tốc độ tin học hoá nền kinh tế. Có những chính sách hợp lý khả thi và thúc đẩy việc ứng dụng thông tin trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các chính sách thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phần mềm không thể tách rời chính sách phát triển nền kinh tế nói chung. Đặc biệt là chính sách phát huy nội lực, hướng mọi nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế trong đó tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn. Lực lượng chủ yếu để phát triển ngành công nghiệp non trẻ này là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vì vậy nhà nước cần ban hành và thực thi nhất quán chính sách khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh phát triển, tạo nên môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Luật doanh nghiệp mới đã tạo ra hành lang pháp luật thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp hoạt động. Thực thi nghiêm chỉnh luật doanh nghiệp tạo ra điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh trong mọi lĩnh vực. Chính sự phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thuộc mọi ngành kinh doanh đã mở rộng thị trường phần mềm trong nước do tính năng động trong sử dụng những kiến thức và công nghệ quản lý mới trong quản lý kinh doanh của họ. 2.2 Chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng cho thông tin Các công ty phần mềm cần con đường, các kênh trao đổi, mua bán thông tin vì vậy hạ tầng kỹ thuật thông tin viễn thông là điều kiện sống còn để các doanh nghiệp kinh doanh. Vì vậy Việt Nam cần tiếp tục đầu tư để hiện đại hoá hạ tầng kỹ thuật thông tin để đảm bảo đường truyền thông suốt với dung lượng lớn. Cần xoá bỏ những tác động tiêu cực do độc quyền của ngành bưu chính viễn thông mang lại. Tạo lập cơ chế cạnh tranh trong ngành bưu chính viễn thông. Tăng cường kiểm soát hoạt động của ngành này để tránh vì lợi ích cục bộ làm ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia. Trước mắt giảm cước phí truy cập internet xuống ngang hoặc thấp hơn mức khu vực như quyết định của thủ tướng chính phủ. Có chính sách giá cước ưu đãi, hoặc miễn phí miễn phí hoàn toàn cho hoạt động đào tạo nhân lực phần mềm. Thay đổi phương thức kiểm soát thông tin để mở thêm các cổng truy nhập mạng thông tin quốc tế. Xoá bỏ ngay việc hạn chế truyền tin trong nội bộ Việt Nam. Vấn đề là tăng năng lực quản lý thông tin chứ không phải hạn chế nó, gây nên kìm hãm sự phát triển của đất nước. Nếu có hạ tầng thông tin tốt sẽ không cần phải xây dựng các khu công nghiệp phần mềm tập trung theo nghĩa cơ học cần đầu tư tốn kém mà vẫn liên kết được các doanh nghiệp phần mềm với nhau. 2.3 Chính sách đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực. Để đảm bảo có đủ số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, cần có chính sách xã hội hoá đào tạo, huy động nguồn lực tối đa của xã hội cho đào tạo công nghệ thông tin. Cần đa dạng hoá các loại hình đào tạo nhân lực phần mềm. Phát triển các chương trình đào tạo các loại nhân lực khác nhau cho ngành phần mềm, bao gồm các loại chuyên viên lập trình, người quản lý dự án và các nhà quản trị doanh nghiệp. Chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo đặc biệt là xây dựng đội ngũ chuyên gia cao cấp. Xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo và nâng cao trình độ của các cán bộ quản lý, lãnh đạo các ngành, các cấp về công nghệ thông tin để có chuyển biến tích cực trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động của mọi lĩnh vực. Đào tạo đội ngũ sử dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội,… Chính đội ngũ này sẽ làm tăng vai trò của công nghệ thông tin trong mọi hoạt động xã hội, từ đó làm tăng nhu cầu sản phẩm phần mềm. Nếu không có đội ngũ sử dụng tốt thì không thể ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển đất nước được. Trong những công ty lớn, cơ quan lớn cần quan tâm đào tạo nhân viên chuyên về phần mềm của họ. Đầu tư cho các khoa học công nghệ thông tin của các trường đại học để đổi mới chương trình và phương pháp đào tạo cho cập nhập với yêu cầu mới của thị trường lao động. Tập trung đào tạo đội ngũ chuyên gia lập trình có kiến thức cơ bản tốt, có tư duy logic, khoa học sáng tạo. Đội ngũ này được tiếp cận với những kiến thức mới nhất trong ngành công nghệ thông tin thế giới. Muốn vậy, phải đào tạo, nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên công nghệ thông tin. Các chương trình hỗ trợ cho đào tạo phải có mục tiêu cụ thể và kế hoạch hoàn chỉnh để vốn ngân sách sử dụng có hiệu quả. Một phần vốn đầu tư cho các trường đại học, các cơ sở đào tạo kỹ thuật viên, một phần đầu tư cho các chương trình đào tạo chuyên gia phần mềm cao cấp. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư đào tạo chuyên viên phần mềm và chuyên viên tin học các loại. Cần cụ thể hoá một bước nữa về hình thức đào tạo, hình thức chứng chỉ cho các cấp đào tạo. Xây dựng mô hình gắn kết giữa các công ty tin học, viện nghiên cứu và trường đại học trong đào tạo, Nhà nước cũng cần có sự hỗ trợ kinh phí để đào tạo cán bộ chủ chốt cho các công ty thông qua các chương trình đào tạo của chuyên gia nước ngoài để về đào tạo lại cho nhân viên. Chính phủ thông qua Bộ khoa học, công nghệ và môi trường có thể tổ chức các khoá học nâng cao cho đội ngũ cán bộ quản lý dự án, những người có đủ khả năng phân tích xây dựng nên cấu trúc sản phẩm và phân chia công việc cho các lập trình viên thực hiện. Hiện nay, số chuyên gia đủ khả năng quản lý dự án của Việt Nam còn quá ít, chưa đủ khả năng nhận những đơn đặt hàng lớn hoặc làm các phần mềm đóng gói. Cần tập trung đào tạo các thành phần công nhân tri thức. Đội ngũ kỹ thuật viên sẽ làm tăng khả năng ứng dụng thông tin và năng lực sản xuất của ngành công nghiệp phần mềm. Chính sách đầu tư và đào tạo chuyên gia công nghệ thông tin ở nước ngoài. Ưu tiên ngân sách cho đào tạo công nghệ thông tin. Chính sách giữ người tài ở trong nước để phát triển ngành phần mềm Việt Nam. Liên doanh với các công ty, trung tâm đào tạo công nghệ thông tin lớn của thế giới để giảng dạy tại Việt Nam theo hướng trực tuyến (online) để đào tạo kỹ sư có kiến thức và chứng chỉ đẳng cấp quốc tế. 2.4 Chính sách phát triển thị trường trong nước. Để mở rộng thị trường trong nước, Nhà Nước cần quan tâm đến các biện pháp tạo biện pháp cầu sản phẩm cho các doanh nghiệp phần mềm. Trước hết phải có chính sách và biện pháp để cho tất cả các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức của đất nước nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ thông tin trong hoạt động của họ. Khi các cấp lãnh đạo nhận thức đầy đủ về yêu cầu nâng cao hiệu quả làm việc dựa trên ứng dụng công nghệ thông tin, các cơ quan, doanh nghiệp sẽ đầu tư cho công nghệ thông tin và nhu cầu thị trường phần mềm sẽ tăng lên. Đồng thời tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ hiện có để có đủ khả năng sử dụng tin học trong công việc cụ thể của họ. Khi cán bộ có trình độ và năng lực, tiềm năng thị trường phần mềm sẽ trở thành nhu cầu thị trường thực sự cho các công ty phần mềm. Đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính nhà nước, tinh giản bộ máy hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước sẽ tạo nên động lực áp dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan, công sở nhà nước. Việc áp dụng tin học trong công sở nhà nước ngược lại là công cụ quan trọng để chống tham nhũng, quan liêu. Phải xác định đây là cuộc đấu tranh quyết liệt vì lực cản của cuộc cách mạng thông tin chính là con người, ở sức ỳ, ở thói quen lạc hậu của con người. Đấu tranh để sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý cũng là đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, bảo thủ. Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, tinh giản bộ máy quản lý, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Chính sách mở cửa và hội nhập của Việt Nam sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh bắt buộc các doanh nghiệp phải đổi mới nếu muốn tồn tại. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa nhận thức được nguy cơ không cạnh tranh đưọc dưới các điều kiện hội nhập. Đối với hàng chục ngàn doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa và nhỏ, để tăng cường áp dụng công nghệ thông tin, ngoài sức ép cạnh tranh thì trình độ của người quản lý là yếu tố quyết định. Vì vậy cần cung cấp đầy đủ thông tin về các ứng dụng công nghệ thông tin và hiệu quả của nó cho tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Cần thực hiện nhất quán chính sách các đơn vị, cơ quan được đầu tư cho công nghệ thông tin từ nguồn vốn ngân sách nhà nướcphải sử dụng các chương trình phần mềm do doanh nghiệp trong nước sản xuất. 2.5 Chính sách phát triển thị trường quốc tế Thành lập các tổ chức xúc tiến thương mại cho lao động làm phần mềm và các sản phẩm phần mềm của Việt Nam ở nước ngoài để hỗ trợ các doanh nghiệp trong tìm kiếm khách hàng ở nước ngoài. Phát huy vai trò các đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài trong tìm việc tìm kiếm khách hàng. Thực hiện cơ chế các doanh nghiệp phần mềm chia lợi nhuận cho các tổ chức của nhà nước khi khai thác được thị trường cho doanh nghiệp. Có chính sách khai thác tối đa năng lực của đồng bào Việt Nam ở nước ngoài trong việc tìm kiếm thị trường, thiết lập quan hệ và đại diện cho các doanh nghiệp phần mềm trong nước. Đây là phương thức thâm nhập vào thị trường nước ngoài rẻ hơn nhiều so với việc đầu tư cho các văn phòng đại diện của từng công ty ở các nước. Đầu tư cho hoạt động xúc tiến hình ảnh của ngành công nghiệp phần mềm của quốc gia trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp phần mềm liên kết với nhau để tham gia các hội chợ thương mại quốc tế, các hội thảo, và mở các trang web sử dụng chính công nghệ thông tin để giới thiệu năng lực và sản phẩm của mình ra thế giới. Các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam cần phối hợp với nhau và với cơ quan nhà nước để thành lập liên hội xuất khẩu phần mềm nhằm phối hợp với nhau và giảm chi phí xúc tiến trên thị trường. Thành lập các đơn vị xuất khẩu lao động làm phần mềm kỹ thuật cao của Việt Nam. Liên kết với các công ty nước ngoài thông qua các hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc gia công để thông qua các công ty nước ngoài giới thiệu sản phẩm của các công ty phần mềm Việt Nam. 2.6 Hoàn thiện mội trường luật pháp liên quan đến ngành công nghiệp phần mềm. Cần ban hành ngay các văn bản quy phạm pháp luật để bảo hộ quyền tác giả các sản phẩm phần mềm. Cần quy định rõ ràng hành vi xâm phạm quyền tác giả trong lĩnh vực phần mềm, các hành vi sử dụng hạn chế đối với phần mềm, thù lao tối thiểu cho tác giả…Quy định rõ chế tài xử phạt đối với các trường hợp vi phạm. Đồng thời ban hành luật chống độc quyền, nhằm ngăn chặn việc tăng giá phần mềm quá cao. Nếu chưa có luật này, cần có thông tư hướng dẫn về hợp đồng sử dụng sản phẩm, trong đó quy định mức phí li-xăng phần mềm sao cho phù hợp với khả năng của từng đối tượng tiêu thụ, trong đó nổi bật là hai đối tượng: các doanh nghiệp và các đơn vị hành chính sự nghiệp. Xây dựng hệ thống đánh giá, kiểm tra, kiểm soát chất lượng phần mềm. Cần thành lập cơ quan kiểm định chất lượng phần mềm và đánh giá giá trị của nó để thẩm định và làm trọng tài trong các hợp đồng mua bán phần mềm. Nhanh chóng hình thành hệ thống các công ty tư vấn độc lập để tư vấn chi người sử dụng phần mềm tìm giải pháp tốt nhất cho vấn đề của họ, đảm bảo tính khách quan trung thực trong mua bán. Việc tách công ty tư vấn với công ty cung cấp phần mềm là biện pháp tốt để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của sản phẩm phần mềm. Tuyên truyền giáo dục mọi người tôn trọng quyền tác giả đỗi với phần mềm, làm cho các cơ quan thực thi luật pháp hiểu rõ vấn đề thực hiện luật quyền tác giả trong lĩnh vực phần mềm là điều kiện sống còn cho việc phát triển công nghệ thông tin. Việc tuyên truyền này cần có sự phối hợp giữa các trường đại học, hội tin học, các cơ quan nhà nước và các tổ chức quốc tế… Cần quản lý chặt chẽ và xử phạt nghiêm minh các đối tượng vi phạm trọng điểm như các cửa hàng máy tính, các doanh nghiệp tin học (động cơ xâm phạm bản quyền là động cơ kinh tế nên cần phạt tiền là chủ yếu). Hoàn thiện luật pháp về tố tụng dân sự nhằm tạo điều kiện cho việc sử lý xâm phạm bản quyền theo thủ tục dân sự và hình sự. Nghiên cứu vận dụng kinh nghiệm của nước ngoài trong lĩnh vực này. Nâng cao nghiệp vụ của cục bản quyền tác giả và quản lý thị trường đỗ với việc bảo hộ phần mềm. Cục bản quyền là cơ quan tư vấn giám sát thực thi pháp luật, và quản lý thị trường là cơ quan thực thi chủ yếu, với sự tham gia của cảnh sát kinh tế và hải quan. Có chế độ đãi ngộ xứng đáng với cán bộ thực thi bảo vệ quyền tác giả và quần chúng cung cấp thông tin về người xâm phạm. Gắn việc xử lý vi phạm với thu nhập của cán bộ thực thi quyền tác giả. Nhà nước cần bắt buộc các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước chỉ sử dụng phần mềm có bản quyền, mua các bản quyền để sử dụng. 2.7 Chính sách thuế Chính sách thuế ưu đãi là một động lực thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng kinh doanh và người lao động trong ngành phần mềm sẽ tăng mạnh. Giảm thuế linh kiện phần cứng để giảm giá máy tính qua đó tăng người sử dụng ở Việt Nam. Đây là một trong những điều kiện để tăng ứng dụng tin học trong xã hội. Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, khuyến khích đầu tư thu nhập trở lại phát triển doanh nghiệp. 2.8 Hoàn thiện chính sách đầu tư, xây dựng và quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm. Nhà nước thi hành nhất quán chính sách khuyến khích đầu tư vào công nghiệp phần mềm cả trong nước và ngoài nước. Cần cải tiến thủ tục cấp đất, thuê đất, giao quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp để thực hiện chính sách tạo thuận lợi về đất đai cho các doanh nghiệp. Do đây là ngành công nghiệp non trẻ nên phần lớn các công ty có vốn ít, chưa có tích luỹ, vì vậy nhà nước cần đầu tư vốn để xây dựng một số khu công nghiệp tập trung để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phần mềm có cơ sở để sản xuất. Trọng tâm đầu tư ở đây là tạo cơ sở hạ tầng thuận lợi cho các doanh nghiệp. Điều này rất cần thiết cho các doanh nghiệp mới thành lập. Tuy nhiên, không cần thiết phải đầu tư xây dựng lớn và tràn lan gây nên tốn kém, không hiệu quả. Về lâu dài, Nhà nước cần đầu tư cho hạ tầng thông tin thật tốt để các doanh nghiệp có thể lựa chọn địa điểm kinh doanh thuận lợi cho họ. Xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm với cơ chế cho các doanh nghiệp vay với lãi suất ưu đãi. Xây dựng cơ chế bảo hiểm rủi ro trong đầu tư cho các doanh nghiệp phần mềm. Đối với các dự án phần mềm lớn cần có chính sách cho vay ưu đãi dài hạn. Kết luận Từ kinh nghiệm của những nước đi trước, từ những phân tích về thực tiễn và khả năng của Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định được rằng ngành công nghiệp phần mềm có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức của đất nước. Phát triển ngành này không những mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp mà quan trọng hơn là mang lại hiệu quả kinh tế cho toàn xã hội do khả năng làm thay đổi hiệu quả hoạt động của mọi ngành và mọi lĩnh vực. Phân tích thực trạng của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam cho thấy sự phát triển của ngành hoàn toàn chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn. Năng lực kinh doanh của ngành còn nhỏ bé, phân tán. Phần lớn các doanh nghiệp phần mềm quy mô nhỏ và chưa có chiến lược phát triển dài hạn. Hiệu quả kinh doanh của ngành thấp cả về doanh số và lợi nhuận. Tốc độ phát triển của ngành chậm. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin vào các ngành, các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội còn rất thấp. Quá trình hội nhập với khu vực và thế giới đang mang lại cho ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng nhiều thách thức. Đó là mức độ cạnh tranh ngày càng tăng trên cả thị trường trong nước lẫn thị trường nước ngoài. Với vị thế hết sức thấp kém hiện nay để cạnh tranh được trên thị trường thế giới cần nỗ lực rất lớn của các doanh nghiệp và chính phủ Việt Nam. Việt Nam cũng đã có nhiều chính sách nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp phần mềm phát triển nhưng phần lớn các chính sách chưa thực sự đi vào cuộc sống. Nguyên nhân chủ yếu là ở chỗ các chính sách chưa được cụ thể hoá và chưa được tổ chức đầy đủ. Trên cơ sở phân tích thực trạng toàn ngành, khoá luận tốt nghiệp đã đưa ra một số những kiến nghị bước đầu về phía các doanh nghiệp phần mềm và về phía quản lý vĩ mô của nhà nước để ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam phát triển một cách bền vững, thực sự trở thành động lực cho quá trình phát triển nền kinh tế tri thức đất nước. Với kiến thức còn hạn chế, thời gian nghiên cứu có hạn, việc soạn thảo và trình bày khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vậy em kính mong có sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Ngô Quý Nhâm, giảng viên Khoa Quản trị kinh doanh, đã nhiệt tình hướng dẫn em thực hiện Khoá luận tốt nghiệp này. Tài liệu tham khảo Công nghệ thông tin – Bước đột phá từ phần mềm - Lê Hoàn, 06/07/2001 Công nghiệp phần mềm Việt Nam – Cơ hội và thách thức – Thế Vinh - Công nghiệp phần mềm, bước đột phá để phát triển – Con đường tơ lụa của doanh nghiệp phần mềm Việt Nam, báo diễn đàn doanh nghiệp, ngày 4/12/2001 Dự báo phát triển về công nghệ thông tin trong thế kỷ XXI – Lê Hoàn- 13/07/2001 Hiện trạng công nghiệp phần mềm Việt Nam, Đề án xây dựng phát triển công nghiệp phần mềm, Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, 6/2001 How the Computer Software is Protected by Laws? Thai Son – Busines Vietnam, Vol9 – No 7/1997 IT Vietnam 2002– Outsourcing to an emerging market. – Marc Lopatin & Dan Stern, Directors, Research Vietnam - 02/2002 Kiến nghị đầu tư 70 triệu USD cho công nghiệp phần mềm – Quang Hiếu – Báo Tuổi Trẻ, 29/12/2000 Kinh tế tri thức, kinh nghiệm của một số nước phát triển – TS. Nguyễn Xuân Thắng – Phó viện trưởng Viện Kinh tế thế giới – Trung tâm KHXH & NVQG. Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam – GS. VS Đặng Hữu – ủy viên Trung ương Đảng, trưởng ban khoa giáo Trung ương. Một vài ý kiến về kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra với Việt Nam- GS. TS Đỗ Quốc Sam – Chủ tịch Hội đồng thẩm định nhà nước. Ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam: Vấn đề và chiến lược phát triển bền vững – Dự án nghiên cứu JICA – NEU tháng 3/2002 Ngành công nghiệp phần mềm đang phát triển của Việt Nam: Cạnh tranh, vị thế và chiến lược trên thị trường toàn cầu- Viện nghiên cứu Châu á Kenan, Văn phòng phát triển Quốc tế của Mỹ, tháng 10/2002 Nền kinh tế tri thức và mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Việt Nam trong tầm nhìn 2020 – TS. Đặng Ngọc Dinh – Nguyên viện trưởng Viện nghiên cứu chiến lược, Bộ khoa học, Công nghệ và Môi trường. Niên giám Công nghệ thông tin Việt Nam 2001 – Hội tin học Thành phố Hồ Chí Minh & Tạp chí Thế giới máy tính – Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2001 Ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam: Ưu đãi vẫn khó khăn - Báo Lao động số 297/2001 Xã hội tri thức và vài suy nghĩ về con đường hội nhập của chúng ta- GS. TS Phan Đình Diệu - Đại học quốc gia Hà Nội Xu thế phát triển của kinh tế tri thức và những tác động đối với quan hệ kinh tế quốc tế – Nguyễn Đức Hùng – Bộ Ngoại Giao Piracy of software: Unwareness and irrational pricing, Business Vietnam, Vol.11 – No 9/1999 Quyền sở hữu trí tuệ – một điều kiện cho phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam – TS. Phạm Đình Chướng – Cục trưởng Cục sở hữu Công nghệ, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Toàn cảnh Công nghệ thông tin Việt Nam, Hội tin học Thành phố Hồ Chí Minh, 8/2001

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van tot nghiep.doc
  • docMôc lôc.doc
Tài liệu liên quan