Trường đại học khởi nghiệp gắn với hoạt
động đổi mới sáng tạo, còn được coi là đại học
thế hệ thứ ba là xu hướng tất yếu trong chuyển
đổi mô hình các CSGDĐH theo đuổi định
hướng nghiên cứu trong bối cảnh đổi mới giáo
dục đại học trên thế giới. Mô hình này gắn liền
với sự phát triển của khởi nghiệp học thuật và
tự chủ đại học. Điều này đặt ra yêu cầu các
trường đại học, đặc biệt là trường công lập phải
đổi mới cơ cấu quản trị, tổ chức bộ máy và
quản lý điều hành theo định hướng thị trường,
tích hợp cơ cấu doanh nghiệp kinh doanh với
học thuật. Để thúc đẩy các hoạt động khởi
nghiệp học thuật và chuyển đổi sang mô hình
đại học khởi nghiệp, các CSGDĐH cần có đầy
đủ các điều kiện thực hiện tự chủ đại học, trong
đó có tự do học thuật và môi trường bên ngoài
thúc đẩy đổi mới sáng tạo [10].
Tuy nhiên, ở Việt Nam, thực hiện quyền tự
chủ gắn với tự do học thuật không chỉ phụ
thuộc vào năng lực các trường đại học mà cần
sự đổi mới mạnh mẽ và hoàn thiện khung khổ
quản lý giáo dục đại học và thể chế cho quản trị
đại học tiên tiến. Về khung khổ pháp luật,
Chính phủ cần bảo đảm các trường đại học thực
hiện được các quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm trước các bên liên quan ở mọi hoạt động
trong thực tiễn. Trong đó, tự chủ về tổ chức bộ
máy có ý nghĩa quan trọng để hình thành mô
hình đầy đủ cho các hoạt động học thuật gắn
với khởi nghiệp trong các trường đại học.
Các chính sách, quy định về hoạt động tài
chính, quản lý tài sản quyết định đến khả năng
tự chủ về nguồn lực và tác động đến năng lực
khởi nghiệp, đổi mới hoạt động mang tính học
thuật trong các trường đại học công lập. Do
vậy, các cơ chế, chính sách liên quan đến quản
lý giáo dục đại học và quản lý các trường đại
học cần được điều chỉnh theo hướng vừa tạo
môi trường thúc đẩy đổi mới sáng tạo, vừa hình
thành thiết chế quản trị đại học tiên tiến. Cơ chế
quản trị và các quy tắc cần đảm bảo sự giám sát
hoạt động trường đại học từ các bên liên quan,
trong đó có đại diện chủ sở hữu là hội đồng
trường và toàn xã hội khi các cơ sở này trở
thành tổ chức tự chủ. Việc thành lập ban kiểm
soát hay kiểm toán nội bộ nhằm giám sát, minh
bạch hóa mọi hoạt động, vì vậy cũng cần được
cân nhắc trong mô hình trường đại học hoạt
động theo cơ chế tự chủ để đảm bảo quyền lợi
các bên liên quan và thực thi các thông lệ tốt về
quản trị.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khởi nghiệp học thuật, mô hình trường Đại học khởi nghiệp và hàm ý chính sách cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 78-86
78
Original Article
Academic Entrepreneurialism and the Entrepreneurial
University Model and Policy Implications for Vietnam
Dinh Van Toan*
VNU University of Economics and Business, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 07 June 2020
Revised 10 December 2020; Accepted 12 December 2020
Abstract: The article describes entrepreneurship in higher education institutions, also known as
academic entrepreneurialism, based on theoretical research and the analysis of an entrepreneurial
university model. Thanks to the research of the model and in practice, it is indicated that in the
context of university transformation in Vietnam, policies and mechanisms in higher education
management should be improved so as to create an ecological environment to promote innovation
and to form advanced university governance.
Keywords: Entrepreneurship, academic entrepreneurialism, entrepreneurial university, university
governance.
D*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: dinhvantoan@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4375
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 78-86
79
Khởi nghiệp học thuật, mô hình trường đại học khởi nghiệp
và hàm ý chính sách cho Việt Nam
Đinh Văn Toàn*
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 07 tháng 6 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 10 tháng 12 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 12 tháng 12 năm 2020
Tóm tắt: Bài viết làm rõ về khởi nghiệp trong các cơ sở giáo dục đại học, còn gọi là khởi nghiệp
học thuật thông qua các nghiên cứu lý thuyết, đồng thời tập trung phân tích mô hình trường đại
học khởi nghiệp. Từ mô hình và các kết quả nghiên cứu trong thực tiễn cho thấy trong bối cảnh
chuyển đổi các trường đại học ở Việt Nam, các chính sách và cơ chế quản lý giáo dục đại học cần
được điều chỉnh, hoàn thiện theo hướng vừa tạo môi trường sinh thái thúc đẩy đổi mới sáng tạo,
vừa hình thành thiết chế cho quản trị đại học tiên tiến.
Từ khóa: Khởi nghiệp học thuật, đại học khởi nghiệp, quản trị đại học.
1. Tổng quan về khởi nghiệp học thuật và
trường đại học khởi nghiệp *
Thích ứng với sự phát triển nền kinh tế số
và tác động của cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 4, các cơ sở giáo dục đại học
(CSGDĐH) ngày nay không chỉ thực hiện các
sứ mệnh truyền thống của mình là đào tạo nhân
lực chất lượng cao, sáng tạo và truyền thụ tri
thức. Các sứ mệnh của CSGDĐH đã được quan
tâm, bàn luận trong vài thập kỷ qua gồm
chuyển giao tri thức, thương mại hóa các kết
quả nghiên cứu (sứ mệnh thứ ba) và khởi
nghiệp, phát triển doanh nghiệp (sứ mệnh thứ
tư) [1, 2]. Các hoạt động nhằm thực hiện các sứ
mệnh này còn được coi là khởi nghiệp kinh
doanh trong các CSGDĐH và được nhiều nhà
khoa học gần đây gọi chung là khởi nghiệp học
thuật [1, 3-8].
Trên thế giới, đặc biệt ở châu Âu đã chứng
kiến sự thay đổi nhanh chóng trong hoạt động
của các CSGDĐH trong hơn hai thập kỷ qua.
Theo đó, các cơ sở này tích cực hơn trong xã
hội khởi nghiệp và có sự hợp tác hiệu quả giữa
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: dinhvantoan@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4375
các bên trên cơ sở mô hình xoắn ba bên (triple
helix) giữa chính phủ - trường đại học - ngành
công nghiệp [7]. Do vậy thuật ngữ khởi nghiệp
học thuật gắn liền với các CSGDĐH. Các
trường đại học có năng lực nghiên cứu, phát
triển và tích cực triển khai các hoạt động này
được gọi là trường đại học khởi nghiệp và được
đề cập nhiều trong các công bố học thuật. Trong
số các nghiên cứu về khởi nghiệp học thuật và
đại học khởi nghiệp, nghiên cứu tiêu biểu nhất
được Clark công bố lần đầu tiên vào năm 1998
[9]. Gần đây, một số nghiên cứu sâu về trường
đại học khởi nghiệp đã được công bố [1, 10].
Nhiều học giả mô tả các trường đại học khởi
nghiệp như các trường hợp tiêu biểu cho “thành
công”, “tự chủ”, “thích ứng”, có thể gọi là “đại
học kinh doanh” hay “đại học sáng tạo” [7]. Có
một số quan điểm khác nhau, nhưng nhìn chung
các nghiên cứu đều chỉ ra quá trình chuyển đổi
mạnh mẽ của các CSGDĐH ở châu Âu và
nhiều quốc gia, đặc biệt là Mỹ và Australia. Sự
chuyển đổi này cũng được coi như quá trình
hình thành các trường đại học khởi nghiệp để
quản lý và tổ chức các hoạt động khởi nghiệp
học thuật, phát triển kinh tế - xã hội thông qua
việc tạo ra giá trị gia tăng nhờ khai thác các cơ
hội mang tính kinh doanh [11].
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 78-86
80
Trong hai thập kỷ qua, hai trào lưu nghiên
cứu liên quan trực tiếp đến đại học khởi nghiệp
là cải tổ hệ thống giáo dục đại học ở châu Âu
theo hướng tự chủ về tài chính và sự phát triển
bền vững của các CSGDĐH công lập trong môi
trường ngày càng tăng tính cạnh tranh về tài
chính đã được thảo luận nhiều ở cấp Liên minh
Châu Âu và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh
tế (OECD). Theo lập luận của Kwiek (2009), ý
tưởng về đại học khởi nghiệp được coi đánh
dấu sự xuất hiện của giáo dục đại học có tính
toàn cầu hóa hơn [12]. Có thể nhận thấy sự
thống nhất hơn về những gì trường đại học nên
làm và trường đại học nên được tổ chức như thế
nào cho phù hợp. Pinheiro và Stensaker (2014)
tranh luận rằng kiểu mẫu cũ của trường đại học
nghiên cứu có thể dần được thay thế bằng một
kiểu tổ chức mới của trường đại học khởi
nghiệp - đại diện cho một sự khởi đầu đáng kể
cách thức tổ chức các hoạt động và cấu trúc
trường đại học [13].
Tổng hợp kết quả các nghiên cứu trong
vòng 20 năm qua cho thấy các trường đại học
khởi nghiệp có các đặc điểm chung là đổi mới
quản trị theo hướng “doanh nghiệp”, hoạt động
và kết quả đầu ra gắn với khởi nghiệp, đổi mới
sáng tạo để đáp ứng yêu cầu của các bên liên
quan [10]. Đối với các quốc gia đang phát triển,
nghiên cứu của Farsi và cộng sự (2012) chỉ ra
các trường đại học có thể có một vài biểu hiện
về đặc điểm của các đại học khởi nghiệp [14].
Nhưng nhìn chung, các nghiên cứu cho đến nay
đều thống nhất các đặc điểm chung của các
trường đại học khởi nghiệp ở nhiều nước có nền
giáo dục đại học phát triển gồm: được nhìn
nhận như các tổ chức ứng phó với môi trường
thay đổi (khu vực, quốc gia và toàn cầu); và đặc
biệt ở châu Âu, theo Kwiek (2016) còn được
xác định là giải pháp cho các vấn đề về nhận
thức [7].
2. Khởi nghiệp học thuật và cơ cấu tổ chức
trường đại học khởi nghiệp
Khởi nghiệp được biết đến một cách rộng
rãi như sự tổng hợp các vai trò, chức năng của
doanh nhân gồm: khả năng và mong muốn của
các cá nhân trong hoặc ngoài tổ chức hiện có để
nhận biết, tạo nên cơ hội kinh doanh mới (sản
phẩm mới, phương pháp sản xuất mới, dự án tổ
chức kinh doanh mới hay sự kết hợp sản phẩm -
thị trường mới) và nỗ lực giới thiệu những ý
tưởng của họ tới thị trường [15, 16]. Đối với
các trường đại học, kể từ những năm cuối thập
niên 1990 đã chứng kiến khoảng cách nhận
thức giữa giới hàn lâm với giới doanh nghiệp
được rút ngắn và sự xuất hiện lớp người có tinh
thần kinh doanh trong giới học thuật [5]. Đây là
những người đi đầu trong các hoạt động hợp
tác, chuyển giao công nghệ và thương mại hóa
ra thị trường các kết quả nghiên cứu khoa học
(NCKH) theo định hướng tìm kiếm lợi nhuận.
Điều này làm thay đổi tư duy trong nhiều
trường đại học công lập ở nhiều quốc gia trên
thế giới cũng như ở Việt Nam. Theo đó, nguồn
vốn cho NCKH không còn được coi như các
khoản tài trợ từ chính phủ, mà được coi là
nguồn đầu tư cho phát triển. Bên cạnh đó là nỗ
lực của trường đại học tìm kiếm các đặt hàng,
địa chỉ ứng dụng nhằm thương mại hóa kết quả
nghiên cứu để phục vụ cộng đồng, tăng nguồn
thu và tăng thu nhập cho các nhà khoa học.
Theo Yokoyama (2006), trong bối cảnh của
các trường đại học, khởi nghiệp học thuật
không nhất thiết phải được hiểu với ý tưởng thu
lợi nhuận, chấp nhận rủi ro và mang tính
thương mại cao, mà còn liên quan đến thái độ
của các trường đại học trong việc cố gắng tự
chủ về tài chính, nâng cao năng lực và hiệu quả
của chuyển giao công nghệ [4]. Về bản chất,
khởi nghiệp học thuật là các hoạt động từ
nghiên cứu sáng tạo, cấp bằng sáng chế và giấy
phép công nghệ, kết nối để chuyển giao thương
mại hóa tới khởi nghiệp, ươm tạo và hình thành
các doanh nghiệp nhằm thực hiện các sứ mệnh
thứ ba và thứ tư của trường đại học [5]. Các
hoạt động đặc trưng của khởi nghiệp học thuật
gồm ba nhóm chính: chuyển giao, thương mại
hóa tài sản trí tuệ (gọi chung là thương mại hóa)
và hình thành các doanh nghiệp mới từ trường
đại học [10]. Trước đó, Clark (1998) đã khái
niệm hóa việc tìm kiếm các phương thức mới
mà năm trường đại học nghiên cứu của châu Âu
đã thực hiện nhằm giảm sự phụ thuộc nặng nề
vào sự hỗ trợ của chính phủ như sự “chuyển đổi
theo hướng khởi nghiệp kinh doanh” để chỉ sự
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 78-86
81
chuyển đổi nhờ tinh thần doanh nghiệp. Đây
chính là tiền đề quan trọng cho phát triển khởi
nghiệp học thuật [9]. Các thuật ngữ về khởi
nghiệp kinh doanh trong đại học cũng được sử
dụng để mô tả sự chuyển đổi trong quản trị
cùng với hình thành doanh nghiệp từ kết quả
của sự hợp tác rất thành công với tư nhân và
các cơ quan chính phủ ở Viện Công nghệ
Massachusetts (MIT) [3].
Như vậy, để triển khai được các hoạt động
trên, các trường đại học đã chuyển đổi từ mô
hình trường đại học truyền thống (chủ yếu thực
hiện sứ mệnh dạy học và nghiên cứu) sang mô
hình trường đại học khởi nghiệp. Đã có rất
nhiều nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận nhằm
giải thích hiện tượng mới trong tổ chức và quản
trị trường đại học theo mô hình đại học khởi
nghiệp [3, 9, 11, 14, 17, 18]. Tại châu Âu,
Sporn (2001) phân tích quá trình chuyển đổi
này thông qua các yếu tố nâng cao sự thích ứng
của các trường đại học ở các khía cạnh gồm: sứ
mệnh hướng ra bên ngoài, cấu trúc khác biệt,
quản lý nhà trường, tự chủ về thể chế và nguồn
kinh phí hoạt động đa dạng [19]. Michael
Shattock (2000) sau khi phân tích những điểm
nổi bật của các trường đại học thành công đã
chỉ ra sự xuất hiện nhiều hơn về tính cạnh tranh,
nắm bắt cơ hội, tạo thu nhập và giảm chi phí,
tính phù hợp, xuất sắc và danh tiếng [20]. Một
cách hệ thống, Burton Clark trong nghiên cứu
“Creating Entrepreneurial Universities” công bố
năm 1998 và “Sustaining Change in
Universities” năm 2004 chỉ ra năm yếu tố căn
bản và tối thiểu nhất làm nên sự khác biệt của
trường đại học khởi nghiệp so với các trường
đại học truyền thống gồm: bộ máy lãnh đạo chủ
chốt được tăng cường, phạm vi hợp tác được
mở rộng, nguồn tài trợ đa dạng, các hoạt động
học thuật được khích lệ và văn hóa khởi nghiệp
được tích hợp với học thuật [7].
Chuyển đổi sang mô hình trường đại học
khởi nghiệp, CSGDĐH cần thay đổi mục tiêu
theo hướng ứng dụng và khai thác tri thức
thông qua các hoạt động chuyển giao, thương
mại hóa các kết quả nghiên cứu. Nhưng bên
cạnh đó, các cơ sở này cần sự chuyển đổi về cơ
cấu tổ chức, bộ máy quản trị và phương thức
vận hành so với các đại học truyền thống [21].
Kết quả tổng hợp của Chang và cộng sự (2016)
cho thấy, các doanh nghiệp và các trung tâm
nghiên cứu có hợp tác với ngành công nghiệp là
các cấu phần quan trọng trong các CSGDĐH.
Các doanh nghiệp được hình thành từ ý tưởng
hay kết quả nghiên cứu, sáng tạo còn được gọi
là các công ty Spin-offs, do vậy có vai trò quan
trọng để triển khai các hoạt động khởi nghiệp
kinh doanh trong trường đại học khởi nghiệp.
So với các trường đại học truyền thống, trường
đại học khởi nghiệp cần có các đơn vị như văn
phòng chuyển giao công nghệ (TTO), vườn
ươm cho khởi nghiệp để hỗ trợ, kết nối nhà
khoa học trong trường với doanh nghiệp và thị
trường bên ngoài ngay từ giai đoạn đặt hàng
nghiên cứu, phát triển công nghệ [21]. Các
doanh nghiệp lúc này thực hiện chức năng hỗ
trợ sản xuất thử, tiếp nhận chuyển giao và tổ
chức triển khai các hoạt động thương mại hóa.
Họ cũng là cầu nối giữa các nhà khoa học và
các đơn vị trong nhà trường với thị trường và
người tiêu dùng. Xu hướng phát triển mạnh mẽ
các công ty trong các trường đại học để thúc
đẩy kinh doanh, thương mại hóa được Boffo và
Cocorullo (2019) chỉ rõ cùng với khái niệm
doanh nghiệp học thuật Spin-offs khá phổ biến
hiện nay [1].
3. Mô hình trường đại học khởi nghiệp ở
Việt Nam
Trường đại học khởi nghiệp, trước hết là
các CSGDĐH có năng lực nghiên cứu và định
hướng nghiên cứu. Trong cơ cấu tổ chức
trường, các đơn vị trực tiếp thực hiện chức năng
này như: phòng thí nghiệm, viện, trung tâm
nghiên cứu cho ra đời các ý tưởng kinh doanh,
công nghệ mới và các phát minh, sáng chế, giải
pháp hữu ích. Nhưng để có thể chuyển giao các
sản phẩm NCKH này và thúc đẩy quá trình
thương mại hóa, trường đại học cần thành lập
các văn phòng TTO và vườn ươm doanh
nghiệp. Hoạt động hiệu quả của các đơn vị này
sẽ thúc đẩy chuyển giao công nghệ, thử nghiệm
hướng đến các hoạt động kinh doanh để đưa các
sản phẩm dịch vụ từ kết quả nghiên cứu của các
nhà khoa học ra thị trường bên ngoài [22].
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 78-86
82
Quá trình thực hiện các chức năng nêu trên
đồng thời lại thúc đẩy sự hình thành các doanh
nghiệp Spin-offs, khuyến khích các hoạt động
khởi nghiệp gắn với đổi mới sáng tạo (Startup)
hoặc hợp tác giữa nhà khoa học với các công ty
trực thuộc, công ty liên kết đặt trong trường đại
học. Sự phát triển về cơ cấu tổ chức như vậy
hình thành một tổ chức hoàn chỉnh đã được đề
xuất [10] cho các đại học nghiên cứu đang
chuyển sang mô hình đại học khởi nghiệp ở
Việt Nam (Hình 1).
g
Hình 1.Mô hình trường đại học khởi nghiệp.
Nguồn: Đinh Văn Toàn, 2020 [10].
Trong mô hình này, trường đại học khởi
nghiệp cần tháo gỡ các vướng mắc có tính mâu
thuẫn giữa nhu cầu hình thành các doanh
nghiệp hay phát triển các đơn vị mới với việc
hạn chế việc tăng đầu mối và biên chế. Điều
này chỉ được giải quyết khi có sự thiết lập đồng
bộ trong cơ cấu để các đơn vị hỗ trợ chuyển
giao và ươm tạo (OTT và vườn ươm) thúc đẩy
hiệu quả các nghiên cứu có tính khả thi để
thương mại hóa trong các đơn vị nghiên cứu
(phòng thí nghiệm, trung tâm, viện). Kết quả là
sự thúc đẩy này giúp trường và các giảng viên
hình thành các công ty, đơn vị kinh doanh
(doanh nghiệp) giúp đưa sản phẩm, ý tưởng
sớm ra thị trường và thu lợi nhuận. Đến lượt
mình, các công ty khi hình thành, kêu gọi được
vốn lại có nhu cầu đầu tư kinh phí và thúc đẩy
hoạt động của các đơn vị nghiên cứu và hỗ trợ
khởi nghiệp. Mặt khác, các hoạt động hợp tác
của các doanh nghiệp với các cá nhân, tổ chức
trong trường đại học có tác động tích cực tới ý
định và mong muốn khởi nghiệp của các giảng
viên, nghiên cứu viên [10]. Điều này góp phần
làm tăng nhu cầu hoạt động hiệu quả của các
OTT, vườn ươm và khẳng định sự cần thiết
phát triển doanh nghiệp trong cơ cấu tổ chức
trường đại học khởi nghiệp, bởi lẽ tinh thần
doanh nghiệp là một yếu tố nền tảng trong số
các nguồn lực phát triển doanh nghiệp trong
trường đại học [23].
Xu hướng phát triển của các CSGDĐH trên
thế giới cho thấy cùng với sự chuyển đổi về tổ
chức bộ máy vừa nêu trên rất cần sự thay đổi
trong cơ chế quản lý và điều hành trong nội bộ
trường đại học. Ở mức tự chủ cao, chẳng hạn
như Đại học Surrey - Vương quốc Anh, có đặc
điểm tự quyết định về: thực hiện thể chế, cơ cấu
quản trị và cấu trúc quản lý theo định hướng thị
trường để tích hợp cơ cấu doanh nghiệp, kinh
doanh với học thuật. Ở hình thức lý tưởng, các
CSGDĐH có sự tự chủ hoàn toàn và tự lực để
chia sẻ rủi ro và trách nhiệm giữa các tác nhân
tham gia vào các hoạt động một cách rõ ràng,
tích hợp văn hóa kinh doanh, doanh nghiệp và
học thuật trong quản lý, phối hợp để không có
xung đột [4]. Do vậy, cùng với việc hoàn thiện
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 78-86
83
cơ cấu tổ chức thì lãnh đạo, quản lý theo hướng
doanh nghiệp là yếu tố quyết định. Trường đại
học khởi nghiệp cần một cơ cấu, hệ thống quản
trị (quản trị đại học) và phong cách quản lý với
tinh thần của nhà kinh doanh, tư duy khởi
nghiệp [24, 25]. Tuy nhiên, như Etzkowitz
(2004) đã chỉ ra, quản trị đại học cần các điều
kiện về quản lý nhà nước phù hợp [26], trong
đó phi thể chế hóa cần được coi như một điều
kiện cần thiết đối với chuyển đổi sang trường
đại học khởi nghiệp [27].
Các nghiên cứu về yếu tố đặc trưng của
trường đại học khởi nghiệp ở Việt Nam thông
qua khảo sát 4 trường đại học công lập ở phía
Bắc [10] và tại 43 CSGDĐH [2] cho thấy trong
thực tiễn có nhiều khó khăn, rào cản trong
chuyển đổi sang mô hình khởi nghiệp. Các
trường đại học ngoài công lập chưa quan tâm
đến phát triển kinh doanh trong nhà trường và
bị hạn chế bởi các cơ quan chủ quản trong việc
thành lập mới các đơn vị nếu có sử dụng các
nguồn lực của nhà trường. Hoạt động của các
doanh nghiệp đã được thành lập ở một số
trường công lập (Thủy lợi, Mỏ Địa chất, Xây
dựng) vẫn theo mô hình doanh nghiệp trực thuộc
trường và cách thức vận hành của doanh nghiệp
nhà nước. Đến nay vẫn chưa có được số liệu
chính thức về các công ty Spin-offs và Startup từ
các trường đại học được khảo sát [10].
Đối với các điều kiện cho quản trị đại học
và phát triển tinh thần kinh doanh, thực tế hoạt
động của 23 trường đại học công lập đang được
Chính phủ giao thực hiện thí điểm tự chủ (theo
đề án được Thủ tướng phê duyệt) cho thấy còn
rất nhiều vướng mắc trong thực hiện. Nguyên
nhân chính được đại diện lãnh đạo các trường
cho biết là do không có các hướng dẫn cụ thể và
phù hợp của các Bộ quản lý chuyên ngành, đặc
biệt ở các lĩnh vực: đầu tư xây dựng, tài chính
và kế toán, nhân sự, [10].
Về cơ cấu tổ chức và phương thức vận
hành, kết quả nghiên cứu tại 43 CSGDĐH có
phản hồi trong số 120 cơ sở được khảo sát năm
2018 của tác giả và các cộng sự cho thấy mô
hình quản trị trường đại học chưa hướng tới
mục tiêu thúc đẩy và tạo dựng môi trường lý
tưởng để khởi nghiệp. Ngược lại, các trường đại
học cơ bản điều hành và quản lý theo kiểu thứ
bậc hành chính. Trong khi đó, không gian bên
ngoài trường đại học cũng chưa hình thành
được mạng lưới đổi mới sáng tạo do chưa đồng
bộ, nhất quán trong hệ thống pháp luật, thiếu
các thiết chế và bộ phận cấu thành của hệ sinh
thái khởi nghiệp [2].
Do vậy, để chuyển đổi sang mô hình trường
đại học khởi nghiệp, các CSGDĐH đang vận
hành theo mô hình kiểu truyền thống như các
trường đại học công lập hiện nay cần đổi mới
trong quản trị nhà trường, trước hết là đổi mới
tổ chức và điều hành theo hướng loại bỏ tính
hành chính và quan liêu theo thứ bậc. Thay vào
đó, mô hình trường đại học khởi nghiệp cần cơ
chế vận hành dân chủ hơn đối với các giảng
viên, nghiên cứu viên, tôn trọng “tự do học
thuật” và điều hành hiệu quả để thực hiện được
sứ mệnh của mình, đáp ứng tốt yêu cầu của các
bên liên quan. Cùng với cơ cấu tổ chức bộ máy
đa dạng, cơ chế quản lý và điều hành được đổi
mới, mô hình trường đại học khởi nghiệp sẽ
phát huy hiệu quả tự chủ về cơ cấu tổ chức và
các nguồn lực, thúc đẩy nghiên cứu gắn với
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
4. Một số gợi ý và kiến nghị chính sách
Để áp dụng quản trị đại học tiên tiến, hướng
tới hoàn thiện mô hình tổ chức trường đại học
khởi nghiệp, các trường đại học Việt Nam cần
môi trường về thể chế theo hướng gỡ bỏ các rào
cản để chủ động tìm kiếm các nguồn lực, mở
rộng các hoạt động đầu tư, liên doanh, liên kết
và khởi nghiệp kinh doanh. Do vậy, về quản lý,
trong giai đoạn chuyển đổi từ mô hình truyền
thống như hiện nay, cần có sự thay đổi phương
thức và thay đổi thể chế trong quản lý giáo dục
đại học theo hướng đẩy mạnh tự chủ, tự do học
thuật, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và tinh thần
khởi nghiệp. Điều này cần sự thay đổi về chính
sách đối với các trường đại học từ khía cạnh
quản lý nhà nước.
Thứ nhất, Chính phủ cần cụ thể hóa chủ
trương đẩy mạnh tự chủ đại học để triển khai
trong thực tiễn thông qua quyết định của Thủ
tướng Chính phủ hoặc văn bản hướng dẫn của
các Bộ quản lý theo lĩnh vực. Tự chủ đại học
cần được làm rõ và hướng dẫn cụ thể trong các
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 78-86
84
văn bản quy phạm theo đúng nghĩa “tự trị đại
học” (autonomy) để được thực hiện nhất quán
tại các cơ quan quản lý. Khái niệm “tự chủ”
không nên được hiểu đơn thuần là CSGDĐH
được quyền quyết định về ba lĩnh vực chính
như đề cập trong Điều 13, Nghị định số
99/2019-NĐ-CP của Chính phủ: “tự chủ về học
thuật và hoạt động chuyên môn; tổ chức bộ máy
và nhân sự; tài chính và tài sản nhưng tuân thủ
các quy định của các cơ quan quản lý nhà
nước”. Vấn đề cần tháo gỡ hiện nay là các
trường đại học thực hiện được các quyền tự chủ
và tự chịu trách nhiệm trước các bên liên quan
ở mọi hoạt động trong thực tiễn. Rõ ràng, mức
độ thực hiện quyền tự chủ gắn với tự do học
thuật và tự chịu trách nhiệm phụ thuộc vào loại
hình và sứ mệnh trường đại học. Tuy nhiên, hệ
thống văn bản của các Bộ phải đảm bảo được ý
nghĩa thực sự của “tự chủ” và chỉ rõ được “mức
độ tự do của các cơ sở giáo dục trong việc điều
hành công việc của mình mà không có sự chỉ
dẫn hoặc ảnh hưởng của một cấp nào đó từ phía
chính phủ” [28].
Thứ hai, về tổ chức bộ máy, các trường đại
học, đặc biệt là trường công lập cần được linh
hoạt lựa chọn, thiết lập cơ cấu tổ chức phù hợp
và tuyển chọn, xây dựng đội ngũ nhân lực nội
bộ với quy trình “tự chủ” đáp ứng yêu cầu đặt
ra trong thực tế. Muốn vậy, cùng với thúc đẩy
tự chủ, tăng trách nhiệm giải trình và tự chịu
trách nhiệm, đã đến lúc cần xóa bỏ cơ chế cơ
quan, bộ chủ quản đối với các trường đại học
công lập. Hiện nay các cơ quan chủ quản quyết
định kiểm soát chặt chẽ các hoạt động này do
liên quan đến cơ chế quản lý viên chức và quỹ
lương từ ngân sách. Chính sách tuyển chọn,
đánh giá, đãi ngộ vẫn đang được thực hiện theo
quy định của Nhà nước đối với viên chức đôi
khi chưa tạo động lực đổi mới và phát huy tính
năng động cho các giảng viên, nghiên cứu viên.
Thứ ba, bên cạnh phát triển các yếu tố của
trường đại học khởi nghiệp và thể chế tự chủ,
các trường đại học cần môi trường bên ngoài
khuyến khích khởi nghiệp, thúc đẩy đổi mới
sáng tạo - còn gọi là hệ sinh thái khởi nghiệp,
đổi mới sáng tạo. Chính phủ cần khẩn trương
xây dựng khung pháp lý và các chính sách để
hoàn thiện hệ sinh thái này. Hệ thống chính
sách và cơ chế cần hoàn thiện về hoạt động
khoa học công nghệ; sử dụng đất và tài sản nhà
nước giao nhằm tháo gỡ các vướng mắc cho
hoạt động phát triển doanh nghiệp và khởi
nghiệp; đặc biệt cần bãi bỏ các quy định việc
công chức, viên chức (giảng viên trong các
trường đại học công lập) không được tham gia
quản lý doanh nghiệp riêng để thúc đẩy thành
lập doanh nghiệp học thuật và tham gia quản lý
các công ty khởi nguồn từ kết quả nghiên cứu,
chuyển giao công nghệ.
Thứ tư, về chính sách và cơ chế quản lý tài
chính và tài sản: các trường đại học cần được
tháo gỡ các quy định mang tính bó buộc về tài
chính và chế độ kế toán đang áp dụng. Nguyên
tắc thực hiện tự chủ tài chính trong các trường
đại học cần theo hướng: nhà trường toàn quyền
quyết định mức học phí tương ứng với quy mô
và chất lượng đào tạo; quyết định việc sử dụng
các khoản thu từ học phí và từ tài trợ, từ hoạt
động nghiên cứu, chuyển giao, kinh doanh.
Trong giai đoạn chưa tăng mạnh được các
nguồn thu này, Nhà nước cần nghiên cứu cơ
chế cấp phát, tài trợ ngân sách theo lộ trình
giảm dần căn cứ vào đóng góp xã hội và thông
qua các chính sách học bổng, cho vay học phí.
Bộ Tài chính cần sửa đổi và đề xuất điều chỉnh
phù hợp với mô hình trường đại học về chính
sách tài chính, chế độ kế toán, quản lý tài sản để
tháo gỡ được các rào cản trong phát triển doanh
nghiệp và khởi nghiệp học thuật.
Thứ năm, bên cạnh các điều chỉnh, cần
hoàn thiện về chính sách phù hợp với chuyển
đổi trường đại học truyền thống sang mô hình
đại học khởi nghiệp gắn với đổi mới, sáng tạo.
Mô hình quản trị cần thay đổi để đáp ứng yêu
cầu các bên liên quan và phù hợp với năng lực
và trách nhiệm “tự chủ” về mọi mặt của các
trường đại học. Theo đó, cần củng cố thiết chế
quản trị của hội đồng trường và ban kiểm soát
để làm rõ chức năng đại diện “chủ sử hữu” -
vốn chưa hiện hữu trong các trường đại học
công lập - và đảm bảo thực thi vai trò giám sát
của các thiết chế này đối với việc thực hiện của
các bên liên quan, trong đó có quản lý, điều
hành của ban giám hiệu.
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 78-86
85
5. Kết luận
Trường đại học khởi nghiệp gắn với hoạt
động đổi mới sáng tạo, còn được coi là đại học
thế hệ thứ ba là xu hướng tất yếu trong chuyển
đổi mô hình các CSGDĐH theo đuổi định
hướng nghiên cứu trong bối cảnh đổi mới giáo
dục đại học trên thế giới. Mô hình này gắn liền
với sự phát triển của khởi nghiệp học thuật và
tự chủ đại học. Điều này đặt ra yêu cầu các
trường đại học, đặc biệt là trường công lập phải
đổi mới cơ cấu quản trị, tổ chức bộ máy và
quản lý điều hành theo định hướng thị trường,
tích hợp cơ cấu doanh nghiệp kinh doanh với
học thuật. Để thúc đẩy các hoạt động khởi
nghiệp học thuật và chuyển đổi sang mô hình
đại học khởi nghiệp, các CSGDĐH cần có đầy
đủ các điều kiện thực hiện tự chủ đại học, trong
đó có tự do học thuật và môi trường bên ngoài
thúc đẩy đổi mới sáng tạo [10].
Tuy nhiên, ở Việt Nam, thực hiện quyền tự
chủ gắn với tự do học thuật không chỉ phụ
thuộc vào năng lực các trường đại học mà cần
sự đổi mới mạnh mẽ và hoàn thiện khung khổ
quản lý giáo dục đại học và thể chế cho quản trị
đại học tiên tiến. Về khung khổ pháp luật,
Chính phủ cần bảo đảm các trường đại học thực
hiện được các quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm trước các bên liên quan ở mọi hoạt động
trong thực tiễn. Trong đó, tự chủ về tổ chức bộ
máy có ý nghĩa quan trọng để hình thành mô
hình đầy đủ cho các hoạt động học thuật gắn
với khởi nghiệp trong các trường đại học.
Các chính sách, quy định về hoạt động tài
chính, quản lý tài sản quyết định đến khả năng
tự chủ về nguồn lực và tác động đến năng lực
khởi nghiệp, đổi mới hoạt động mang tính học
thuật trong các trường đại học công lập. Do
vậy, các cơ chế, chính sách liên quan đến quản
lý giáo dục đại học và quản lý các trường đại
học cần được điều chỉnh theo hướng vừa tạo
môi trường thúc đẩy đổi mới sáng tạo, vừa hình
thành thiết chế quản trị đại học tiên tiến. Cơ chế
quản trị và các quy tắc cần đảm bảo sự giám sát
hoạt động trường đại học từ các bên liên quan,
trong đó có đại diện chủ sở hữu là hội đồng
trường và toàn xã hội khi các cơ sở này trở
thành tổ chức tự chủ. Việc thành lập ban kiểm
soát hay kiểm toán nội bộ nhằm giám sát, minh
bạch hóa mọi hoạt động, vì vậy cũng cần được
cân nhắc trong mô hình trường đại học hoạt
động theo cơ chế tự chủ để đảm bảo quyền lợi
các bên liên quan và thực thi các thông lệ tốt về
quản trị.
Tài liệu tham khảo
[1] S. Boffo, A. Cocorullo, “University Fourth
Mission, Spin-offs and Academic
Entrepreneurship: Connecting public policies with
new missions and management issues of
universities”, Paper presented at the Higher
Education Forum 16 (2019) 125-142.
[2] D.V. Toan, “Development of Enterprises in
Universities and Policy Implications for
University Governance Reform in Vietnam”,
VNU Journal of Science: Economics and Business
35(1) (2019) 1-14. https://doi.org/10.25073/2588-
1159/vnueab.4201.
[3] H. Etzkowitz, MIT and The Rise of
Entrepreneurial Science, 1st Ed., Research Policy,
Routledge, London, 2002.
[4] K. Yokoyama, “Entrepreneurialism in Japanese
and UK Universities: Governance, Management,
Leadership and Funding”, Higher Education 52(3)
(2006) 523-555.
[5] C. Shore, L. McLauchlan, “Third mission’ activities,
commercialisation and academic entrepreneurs”,
Social Anthropology/Anthropologie Sociale 20(3)
(2012) 267-286.
[6] F.J. Yadolahi, M. Meisam, M. Mahmoud, S.
Aidin, “Institutional Factors Affecting Academic
Entrepreneurship: The Case of University of
Tehran”, Economic Analysis 47(1-2) (2014)
139-159.
[7] M. Kwiek, “Academic Entrepreneurialism and
Changing Governance in Universities: Evidence
from Empirical Studies”, in Jetta Frost, Fabian
Hattke, Markus Reihlen (Eds.), Multi-Level
Governance in Universities, 2016, pp. 49-74.
[8] D.V. Toan, “Entrepreneurialism in Vietnam’s
Public Universities in The Context of Transition
to Autonomy”, Journal of Economics and
Forecasting 30 (2019) 111-116.
[9] B.R. Clark, Creating Entrepreneurial Universities:
Organizational Pathways of Transformation, Elsevier
Science Regional Sales, New York, 1998.
[10] D.V. Toan, “Entrepreneurial Universities and the
Development Model for Public Universities in
Vietnam”, International Journal of
Entrepreneurship 24 (2020) 1.
D.V. Toan / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 4 (2020) 78-86
86
[11] M. Guerrero, D. Urbano, “The development of an
entrepreneurial university”, The Journal of
Technology Transfer 37(1) (2010) 43-74.
[12] M. Kwiek, Globalisation: Re-reading its impact
on the nation-state, the university, and educational
policies in Europe, in: M. Simons, M. Olssen, &
M. E. Peters (Eds.), Re-reading education
policies, A handbook studying the policy agenda
of the 21st century, Rotterdam: Sense Publishers,
2009, pp. 195-215.
[13] R. Pinheiro, B. Stensaker, “Designing the
Entrepreneurial University: The Interpretation of a
Global Idea”, Public Organiz Rev. 14 (2014) 497-516.
[14] J.Y. Farsi, N. Imanipour, and A. Salamzadeh,
“Entrepreneurial university conceptualization:
case of developing countries”, Global Business
and Management Research 4(2) (2012) 193-204.
[15] B. Barringer, F. Jones, D. Neubaum, A
quantitative content analysis of the characteristics
of rapid-growth firms and their founders, Journal
of Business Venturing 20(5) (2005) 663-687.
https://doi.org/10.1016/j.jbusvent.2004.03.004.
[16] G.T. Lumpkin, G.G. Dess, Clarifying the
entrepreneurial orientation construct and linking it to
performance, Academy of Management Review 21(1)
(1996) 135-172. https://doi.org/10.2307/258632.
[17] F.T. Rothaermel, S.D. Agung, L. Jiang, University
entrepreneurship: a taxonomy of the literature,
Industrial and Corporate Change 16(4) (2007)
691-791. https://doi.org/10.1093/icc/dtm023.
[18] A.A. Gibb, G. Haskins, Robertson, Leading the
entrepreneurial university, National Council for
Graduate Entrepreneurship (NCGE), 2009.
https://ncee.org.uk/wp-
content/uploads/2018/01/leading_the_entrepreneurial_
university.pdf (accessed 10 August 2020).
[19] B. Sporn, Building Adaptive Universities:
Emerging Organisational Forms Based on
Experiences of European and US Universities,
Education and Management 7 (2001) 121.
https://doi.org/10.1023/A:1011346201972.
[20] M. Shattock, Strategic Management in European
Universities in an Age of Increasing Institutional
Self Reliance, Tertiary Education and
Management 6 (2000) 93-104.
https://doi.org/10.1023/A:1009665119955.
[21] Y.C. Chang, P.Y. Yang, B.R. Martin, H.R. Chi
and T.F. Tsai-Lin, Entrepreneurial universities
and research ambidexterity: A multilevel analysis,
Technovation, 2016.
06 (accessed 10 August 2020).
[22] D.V. Toan, H.V. Hai, N.P. Mai, The Role of
Entrepreneurship Development in Universities to
Promote Knowledge Sharing: The Case of Vietnam
National University Hanoi, Proceedings of Asia
Pacific Conference on Information Management
2016: Common Platform to A Sustainable Society in
The Dynamic Asia Pacific, Vietnam National
University Press, October, 2016.
[23] D.V. Toan, Development of Enterprises in
Universities: From International Experience to
Practices in Vietnam (Monograph), Vietnam
National University Press, Hanoi, 2019, pp. 26-50.
[24] L.K. Sooreh, A. Salamzadeh, H. Safarzadeh, Y.
Salamzadeh, Defining and Measuring
Entrepreneurial Universities: A Study in Iranian
Context Using Importance-Performance Analysis
and TOPSIS Technique, Global Business and
Management Research: An International Journal
3(2) (2011) 182-199.
https://scholar.google.com.vn/scholar?q=Defining+an
d+Measuring+Entrepreneurial+Universities:+A+Stud
y+in+Iranian+Context+Using+Importance-
Performance+Analysis+and+TOPSIS+Technique&hl
=vi&as_sdt=0&as_vis=1&oi=scholart.
[25] J. Ropke, The entrepreneural university: innovation,
academic knowledge creation and regional
development in a globalized economy, 1998.
marburg.de/~roepke/Documents/entreuni.pdf.
[26] H. Etzkowitz, The evolution of the entrepreneurial
university, International Journal of Technology
and Globalisation (IJTG). 1(1) (2004) 64-77.
https://doi.org/10.1504/IJTG.2004.004551.
[27] D. Mowery, R. Nelson, B. Sampat, A.A. Ziedonis,
The growth of patenting and licensing by US
universities, an assesssment of the effects of the
Bayh-Dole act of 1980. Res. Policy. 3(1) (2001)
99-119.
[28] T.N. Thach, Higher Education Development
Policies - Impressive Achievements in the
Developed Countries and Lessons for Vietnam,
VNU Journal of Science: Education Research
33(1) (2017) 81-90.
https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4057.
p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoi_nghiep_hoc_thuat_mo_hinh_truong_dai_hoc_khoi_nghiep_va.pdf