Lời mở đầu
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu á - cuộc khủng hoảng lớn nhất trong khu vực kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai - đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế trong khu vực và sự tăng trưởng kinh tế thế giới.
Kể từ khi cơn lốc của cuôc khủng hoảng tài chính tiền tệ cuốn theo rất nhiều quốc gia vào vòng xoáy của nó, đến bây giờ cuộc khủng hoảng đã tạm qua đi, tình trạng thị trường đã trở nên ổn định hơn, quá trình khôi phục diễn ra mạnh mẽ. Mặc dù vậy các nước vẫn còn phải tiếp tục lịch trình tái cơ cấu.
Đã có rất nhiều sách báo, các cuộc hội thảo quốc tế và khu vực đã viết và bàn về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, dường như vẫn chưa đủ và người ta vẫn buộc phải nghĩ về nó, viết về nó vì nó vẫn đang ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế xã hội và chính trị của mỗi quốc gia, mỗi khu vực và thế giới. Các tổ chức tài chính, các trung tâm nghiên cứu quốc tế cũng đưa ra các bài học và dự báo về nguy cơ của các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong tương lai.
Tuy không nằm trong tiểu điểm của cơn lốc khủng hoảng, nhưng những ảnh hưởng và tác động của nó ngày càng được cảm nhận rõ rệt ở Việt Nam, thể hiện qua những chỉ số giảm đi cụ thể về thương mại, đầu tư, tốc độ phát triển kinh tế và du lịch
Hiện nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc nghiên cứu khủng hoảng, triển vọng và tác động của nó trong bối cảnh đất nước đang tham gia ngày càng sâu rộng hơn và liên kết khu vực, hội nhập với quốc tế. Đó là chính là động lực thúc đẩy nhóm chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Khủng hoảng tài chính trong khu vực và ảnh hưởng của nó tới Việt Nam”. Đề tài đã đặt vấn đề nghiên cứu cuộc khủng hoảng và chiều hướng diễn biến của nó, nhóm nghiên cứu đề tài tập trung vào phân tích những táac động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng, đề từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về chính sách phát triển kinh tế và chính sách kinh tế đối ngoại.
Nội dung đề tài gồm ba phần:Phần 1: Lý thuyết về khủng hoảng tài chính.
Phần 2: Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á
Phần 3: Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đến Việt Nam và các biện pháp đối phó của chính phủ.
Sau một thời gian nghiên cứu và nỗ lực hoàn thành nhóm chúng tôi đã cố gắng phác thảo một bức tranh toàn cảnh về cuộc khủng hoảng và nêu ra một số đánh giá và ý kiến đóng góp của mình dựa trên cơ sở những nghiên cứu tiến hành trong đề tài. Song với kiến thức và thời gian có hạn, đề tài của chúng tôi vẫn còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp của thầy giáo và các bạn để đề tài của chúng tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
25 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2161 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khủng hoảng tài chính trong khu vực và tác động của nó trước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i Lan
5,5
4,8
-8,1
+2,2
Malayxia
8,6
3,3
-4,9
+4,0
(Theo Tính bất ổn của hệ thống tài chính quốc tế-tr.68)
Song đằng sau những thành công mà cả thế giới đều phải ghi nhận là những “tảng đá ngầm” chứa đựng những nguy cơ tiềm tàng dẫn đến sự bất ổn. Có thể thấy rõ, đó là:
- Sự chậm trễ và cứng nhắc trong điều hành chính sách tỷ giá khiến các đồng bản tệ bị định giá cao giả tạo trong một thời gian dài so với đông đôla Mỹ. Tỷ giá được giữ ổn định quá lâu và sự gia tăng một khối lượng lớn vốn nước ngoài ngắn hạn vào trong nước do chính sách lãi suất cao đã kích thích sự gia tăng giá trị tài sản và cổ phiếu.Nền kinh tế trở nên nóng hơn, sự tăng giá tài sản, bất động sản và cổ phiếu đã tiềm ẩn trong lòng nó nguy cơ làm phát sinh một nền kinh tế ảo.
Từ năm 1995-1997, đồng USD đổi chiều liên tục, tăng giá tới 50% so với đồng yên,với Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ hơn 30% vào cuối năm 1994 cùng chính sách neo giữ tỷ giá vào USD nói trên khiến các đồng bản tệ tăng giá giả tạo.
- Chính sách tự do hoá các hoạt động kinh tế không được tiến hành đồng bộ đi đôi với việc tăng cường giám sát hoạt động của các cơ sở kinh doanh và các tổ chức tài chính ngân hàng. Tình trạng chung của các nước châu Á lúc bấy giờ là:
+ Nền kinh tế thị trường chưa hoàn hảo.
+ Sự can thiệp khá sâu vào nền kinh tế thông qua chính sách công nghiệp dẫn đến tình trạng bao cấp và cắt giảm thuế cho một số nghành Công nghiệp trong khu vực.
+Tình trạng thị trường lao động kém linh hoạt ( Hàn Quốc); hệ thống giám sát ngân hàng không hợp lý, thiếu minh bạch.
Thiếu đồng bộ và tính minh bạch trong hệ thống pháp luật, tình trạng tham nhũng và kinh tế ngầm phát triển.
- Có sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế như là kết qủa của nhưng sai lầm nêu trên. Mất cân đối lớn nhất và đe doạ trực tiếp đến sự ổn định của hệ thống tài chính-tiền tệ mỗi nước là sự thâm hụt tài khoản vãng lai và cơ cấu vốn nước ngoài đổ vào trong nước. Ngoài ra còn có sự kém phát triển của hệ thống giáo dục cộng với tình trạng thiếu lao động lành nghề, từ đó đẩy giá mức lương lao động lên nhanh hơn so với tốc độ tăng sản lượng, làm hao mòn sức cạnh tranh quốc tế và gây khó khăn cho viẹc pháat triển những ngành công nghệ cao.
* Nhóm nguyên nhân thứ hai: Sai lầm của các nhà đầu tư trong nước.
Trước hết phải khẳng định rằng một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra cơn bùng phát khủng hoảng tài chính tiền tệ hiện nay ở châu Á là do sự “nóng lên” dẫn đến “ khủng hoảng nợ” ở khu vực kinh tế tư nhân. Sự tăng lên ồ ạt của các khoản nợ đã làm cho nền kinh tế trở nên khó kiểm soát cộng thêm sự kiểm soát hết sức lỏng lẻo của chính phủ đã làm méo mó cơ chế thị trường dẫn đến sự sút giảm kim ngạch xuất khẩu đồng thời cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp cũng giảm sút đáng kể.
Trên khía cạnh cơ bản nhất, lý do chủ yếu của cuộc khủng hoảng Châu Á là việc không làm chủ được quá trình mở cửa tiếp nhận vốn nước ngoài.
Kindleberger đã nhận xét rằng là chi phí sử dụng đồng tiền quá thấp dường như là một yếu tố quan trọng trong sự bùng nổ của nhiều cuộc khủng hoảng tài chính: yếu tố này khiến các nhà đầu tư tìm cách lao vào các hoạt động rủi ro hơn để nhằm kiếm được những khoản lợi nhuận khá hơn.
* Nhóm nguyên nhân thứ ba: Các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của các nước trong khu vực.
- Trước hết, chính sách tiền tệ tín dụng của các nước lớn trong và ngoài khu vực châu Á, đặc biệt là Mỹ.
- Ảnh hưởng của những hoạt động tiền tệ tín dụng nước ngoài có tính đầu cơ đã thổi phồng các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và làm tăng khả năng lây nhiễm. Chính phủ cũng đưa lượng cung bản tệ lên quá cao.Theo tính toán của IMF, hầu hết các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á đều có mức tăng lượng cung tiền hàng năm từ 2-5 lần tốc độ tăng truởng GDP.
- Sự tham gia của một số nước mới đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ vào thị trường xuất khẩu của các nước Đông nam Á. Điều đó làm cho hàng hoá của những nước này mất đi lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế, xuất khẩu đình trệ.
- Cuối cùng là sự biến đổi nhanh chóng của tương quan cung cầu và vòng đời sản phẩm trên thị trường thế giới mà trình độ phát triển năng lực sản xuất hiện tại của các nước Châu Á chưa thể thích ứng kịp trong ngày một ngày hai.
Tóm lại ,xét cho cùng thì những nguyên nhân từ phía bản thân các nước đang chịu khủng hoảng nặng nề mới là lýdo chính yếu gây nên cuộc khủng hoảng này.
2. Những tác động hai mặt của cuộc khủng hoảng:
Không cần nói nhiều thì chúng ta cũng đã thấy được hậu quả nặng nề mà cuộc khủng hoảng đã để lại cho các nước Châu Á. Tuỳ theo tình hình thực tế ở mỗi nước, mỗi khu vực khác nhau mà hậu quả để lại cũng khác nhau. Song nhìn chung, cuộc khủng hoảng đã tác động đến các nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế theo hai hướng khác nhau: các tác động tích cực và các tác động tiêu cực.
2.1. Các tác động tiêu cực:
Trước hết, hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất mà hầu như nước nào nẳm trong khu vực chịu khủng hoảng cũng gặp phải đó chính là sự mất ổn định của đồng tiền và của các thị trường tiền tệ ở mỗi nước và khu vực: là sự giảm sút các luồng vốn nước ngoài đổ vào mỗi nước và toàn khu vực, là sự giảm sút ngay cả nguồn vốn trong nước do lãi suất cao và yếu tố lòng tin. Tất cả những điều đó đã làm cho giảm sút tốc độ tăng trưởng của các nước, giảm sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và tăng tài khoản thâm hụt vãng lai. Sự gắng gỏi giữ giá bản tệ đã làm hao kiệt nhanh chóng lượng dự trữ ngoại tệ của nhà nước, đồng bản tệ bị phá giá nhanh chóng. Cùng với điều đó là tình trạng thất nghiệp tăng nhanh, lạm phát cao.
Cuộc khủng hoảng cũng đánh dấu sự kết thúc một giai đoan tăng trưởng kinh tế nhanh, kéo dài hàng mấy thập kỷ trước đó và dựa vào các nguồn vốn nước ngoài của các nước đang phát triển khu vực, để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới với nhịp độ tăng trưởng ôn hoà hơn.
Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại cho các nước châu Á ít nhất là 300 tỷ USD, bằng khoảng 20% GDP của các nước bị khủng hoảng và thiệt hại chung toàn thế giới khoảng 500 tỷ. Qua đây chúng ta thấy được nhưng tác động có tính chất toàn cầu của cuộc khủng hoảng này. Lượng đầu tư tài chính ở châu Á giảm mạnh, theo tính toán khoảng 150 tỷ USD đã bị rút khỏi Đông nam Á. Các nhà đầu tư nước ngoai giảm niềm tin. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI bị sút giảm mạnh mẽ và tiếp tục giảm ở mức thấp trong những năm tiếp theo, kéo theo đó là tình trạng thiếu vốn đầu tư sẽ xảy ra.
Sự phá giá bản tệ đã làm tăng các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng nợ nần lên vai các công ty - con nợ, làm tăng tình trạng mất khả năng thanh toán, phá sản của chúng, nhất là đối với các Công ty phục vụ thị trường trong nước mà nhu cầu đang giảm sút nhanh chóng. Ở Inđônêxia, do phá giá tiền tệ, tỷ lệ nợ ngân hàng nước ngoài /GDP đã nhảy từ 35% lên đến 140%, hầu hết các ngân hàng bị coi là phá sản. Tình hình “bong bóng bất động sản” vỡ tung, các ngân hàng rơi vào tình trạng gánh chịu một đống nợ khó đòi hoặc giữ gìn bất đắc dĩ một lượng tài sản thế chấp ngày càng mất giá và khó bán.
Khủng hoảng cũng góp phần làm tăng lên nhanh chóng tình trạng thất nghiệp ở các nước trong khu vực(gấp đôi trong năm 1998 so với năm 1997 ở Thái Lan, Hàn Quốc và Inđônxia …) mà còn ở các nước bạn hàng của họ do đó thu hẹp quy mô nhập khẩu vì khủng hoảng.
2. 2. Các tác động tích cực:
Nhìn một cách khách quan thì cuộc khủng hoảng tài chính bên cạnh gây ra một loạt các tác động xấu vô cùng sâu sắc kể trên thì trong một chừng mực nào đó,nó cũng mang lại những tác động tích cực. Đó là đem toàn bộ nền kinh tế châu á nói chung và Đông Nam Á, Đông Bắc Á nói riêng sang một giai đoạn phát triển mới, thoát khỏi tình trạng nóng trước đó.
Thứ nhất, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp các chính phủ giảm thiểu được lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ quốc gia về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẽ khuyến khích và tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ đó cải thiện những cân đối tài chính của đất nước.
Thứ hai, nhiều nước sẽ nhận được nguồn tín dụng quốc tế chính thức để phục vụ cho mục tiêu cải cách và phát triển kinh tế sau khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng cũng giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, lành mạnh hoá hơn nền tài chính quốc gia. Có thể nói cuộc khủng hoảng sẽ như một cú “động” mạnh để xốc lại nền kinh tế cho cân bằng, hợp lý và hiệu quả. Toàn bộ nền kinh tế sau khi vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của khủng hoảng sẽ có định hướng thị trường nhiều hơn, đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện hơn, do đó hiệu quả và sức cạnh tranh cao hơn.
Thứ ba, cuộc khủng hoảng ít nhiều góp phần và là dịp để chính phủ và nhân dân mỗi nước thuộc khu vực cũng như các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế bổ khuyết những thiếu sót cả về chính sách, thể chế lẫn về những yếu tố thuộc con người… từ đó tạo ra những xung lực tích cực mới cho sự phát triển kinh tế.
Ngoài ra, tác động của cuộc khủng hoảng cũng chuyển dịch vị thế về kinh tế chính trị truyền thống của các cường quốc tại khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, các nước Asean vầ Mỹ, châu Âu.
3. Diễn biến ở một số nước
3.1. Thái Lan – Ngòi nổ của cuộc khủng hoảng:
Trước cuộc khủng hoảng Thái Lan có một nền kinh tế dường như rất mạnh, với tốc độ tăng trưởng ổn định và được coi là tấm gương về quản lí kinh tế hiệu quả. Thái Lan được xếp vào nhóm các nền kinh tế đạt thành tựu cao của Châu Á, lạm phát thấp ngân sách chính phủ luôn dư thừa, cán cân thanh toán có thể kiểm soát được, đầu tư tăng vọt, tình trạng thất nghiệp hầu như không có.
Thực tế của hình ảnh mạnh mẽ này lại che giấu nhiều vấn đề nghiêm trọng bên trong. Do nhận thức muộn mằn, thiếu một sự quản lý tốt kể cả sự quản lý ở cấp chính phủ lẫn cấp công ty, việc tự do hoá về tài chính các thị trường vốn trở nên dễ bị tác động bởi các cuộc tấn công của hoạt động đầu cơ khi những yếu tố căn bản của thị trường còn yếu.
Các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng kém phát triển và hiểu quả. Một đặc điểm đặc biệt ở Thái Lan là trong giai đoạn 1991-1996 đầu tư nước ngoài vào Thái Lan chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với đầu tư tài chính và sử dụng vốn vay ngắn hạn của nước ngoài. Việc sử dụng gần 90% vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài chính và tín dụng ngắn hạn sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các công ty vì phải trả lãi thường xuyên và bằng ngoại tệ (với tín dụng ngắn hạn). Hậu quả là nếu quản lý kinh doanh không tốt thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của các công ty sẽ thấp. Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản bình quân của các doanh nghiệp đã giảm từ 8%/ năm vào năm 1991 xuống chỉ còn 1%/năm vào năm 1996. Trong nền kinh tế mà lãi suất cho vay là 16.3%/năm còn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là 1%/năm thì rõ ràng đã và đang tích luỹ nguy cơ khủng hoảng “phá sản doanh nghiệp”.
Ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả, các ngân hàng và công ty tài chính Thái Lan đã rất tích cực vay nợ từ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp trong nước. Trong cùng thời gian này, tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản (ROA) của hệ thống ngân hàng Thái Lan giảm còn 0,09%/ năm. Rõ ràng Thái đang tích luỹ nguy cơ khủng hoảng “phá sản các ngân hàng”.
Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán trong suốt các năm 91-96, cán cân thương mại thâm hụt liên tục tổng cộng là 35,26 tỷ đôla. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 96 tới 4,7 tỷ đôla. Lý do của tình trạng này là xuất khẩu bị kìm hãm, nhập khẩu được khuyến khích, lạm phát cao, đồng baht lên giá. Để bù đắp thâm hụt thương mại, Thái Lan phải vay nợ nước ngoài , nợ nước ngoài tăng 35,99 tỷ đôla (năm 91) lên 89tỷ (năm 96), gấp 2,47 lằn trong 5 năm. Nợ ngắn hạn năm 95 và 96 gấp gần 1,18 lần dự trữ ngoại tệ quốc gia. Tức là Thái Lan thực tế đã mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài từ năm 95. Kết quả tỷ giá hối đoái tăng, dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, nguy cơ mất khả năng thanh toán của quốc gia này càng cao.
Tóm lại cuối năm 96 và đầu 97 ở Thái Lan đã xuất hiện 4 nguy cơ khủng hoảng ở mức cao. Khi xuất hiện 4 nguy cơ khủng hoảng, những người có đủ thông tin sẽ lo lắng, lo sợ ngân hàng và các tổ chức tài chính phá sản sẽ thúc đẩy họ rút tiền ra khỏi các tổ chức này. Lo sợ tỷ giá hối đoái tăng, đồng baht mất giá khiến họ đổ xô đi mua ngoại tệ làm cầu ngoại tệ tăng.
- Ngày 4 và 5tháng 3 năm 97 hơn 21, 4 tỷ baht đã được rút khỏi các ngân hàng và công ty tài chính.
- Sau đó ngày 9 tháng 4 năm 97 chính phủ ra lệnh đóng cửa 16 công ty tài chính, nâng tổng số công ty tài chính bị đóng cửa lên 58/91 (chiếm 64% toàn quốc). Chính phủ bán ngoại tệ làm dự trữ ngoại tệ giảm.
- Thấy trước nguy cơ ngày 2/7/1997 chính phủ Thái Lan thả nổi đồng baht. Cùng với sự phá giá đồng baht là các ngân hàng, các công ty tài chính sụp đổ, tỷ giá hối đoái tăng cao các doanh nghiệp phá sản hàng loạt là bùng nổ khủng hoảng kinh tế tài chính ở Thái khởi đầu cho khủng hoảng kinh tế tài chính ở Châu Á.
3.2. Inđônêxia-Hiệu ứng lan truyền của cuộc khủng hoảng:
Inđônêxia là nước đông dân nhất khu vực Đông Nam Á -202 triệu người. Inđônêxia phát triển liên tục trong suốt 30 năm với nhịp độ tăng trưởng trung bình 6% GDP/năm. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã bùng nổ ở Thái lan và nhanh chóng lan tràn vào Inđônêxia. Cũng giống như Thái Lan, cuộc khủng hoảng mang đầy đủ những nguy cơ và điểm yếu như đã đề cập.
Khủng hoảng tài chính tiền tệ được khởi đầu bằng việc mất giá của đồng Rupiah.
Tháng 7 khi Thái Lan thả nổi đồng baht thì In đônêxia buộc phải nới lỏng khoảng giao động của tỷ giá từ 8% lên tới 12%. Đến tháng 8 thì đồng Rupiah bắt đầu bị tấn công. Ngày 14-8 cơ chế ấn định tỷ giá hối đoái bị thaythế bởi tỷ giá hối đoái được thả nổi tự do. Đồng Rupiah rớt giá mạnh hơn. Mặc dù IMF đã hỗ trợ 23 tỷ USD để giải quyết hậu quả nhưng đồng Rupiah vẫn rớt giá không cứu vãn được, thời điểm rớt giá cao nhất lên tới trên 625%. Đồng Rupiah và thị trường chứng khoán Jakarta thấp kỷ lục trong lịch sử vào tháng 9.
Cuộc khủng hoảng làm cho mức sống người dân giảm xuống rất nhanh. Tỷ lệ thất nghiệp tăng 4 lần, tỷ lệ người sống dưới mức nghèo khổ tăng 3 lần so với trước khủng hoảng. Dự trữ ngoại tệ giảm xuống mức thấp nhất từ trước đến nay. Do thời gian ủ bệnh quá lâu, mức độ khá trầm trọng nên nét đặc trưng của khủng hoảng ở Inđônêxia là diễn biến của cuộc khủng hoảng với tốc độ cao và những hậu quả nặng nề, kéo dài hơn so với các nước khác.
3.3. Hàn Quốc-Sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế (Chaebol):
Sau một thời gian hoành hành ở các nước Đông Nam Á như Thái Lan , Inđônêxia, Malaixia,Philippines… đến tháng 10-1997 khủng hoảng tài chính bắt đầu xảy ra ở Hàn Quốc. Nhiều nhà kinh té nói, thực chất sự suy thoái kinh tế ở Hàn Quốc là sự sụp đổ một loạt các tập đoàn kinh tế lớn.
Các tập đoàn kinh tế lớn (chaebol) được coi là những trụ cột của nền kinh tế Hàn Quốc. Thế nhưng chưa đầy 10 tháng, 7 trong 30 tập đoàn lớn nhất đã gục ngã. Phải đến khi tập đoàn thép Hanbo-tập đoàn lớn thứ 14 của hàn Quốc gục ngã vì không đủ sức thanh toán tổng số vốn nợ thì nền kinh tế Hàn Quốc mới thực sự bị chấn động. Như một bênh dịch có khả năng lan truyền cao, hàng loạt tập đoàn khác lần lượt gục ngã. Sự đổ vỡ của một loạt tập đoàn lớn đã giáng một đòn nặng nề vào hệ thống tài chính ngân hàng của nước này vốn vẫn được coi là tụt hậu nhiều so với nền kinh tế. Mối lo ngại cho ngành tài chính ngân hàng là khả năng trả nợ nước ngoài, và việc đồng won mất giá.
Ngày 17/11/1997 đồng won giảm quá mức dự đoán là 1000 won/USD và tiếp tục giảm nhiều trong nhiều ngày sau đó. Ngày 22/11/1997 đồng won giảm xuống mức kỷ lục là 1153 won/USD, tức là giảm 36,6% so với cuối năm 1996 và 19,5% so với mức cuối tháng 10/1997. Thị truờng tiền tệ ở Hàn Quốc trở nên náo loạn. Rõ ràng những gì đang xảy ra ở Hàn Quốc là một cuộc khủng hoảng.
3.4. Nhật Bản - Sự sụt giá của đồng yên:
Vượt qua Hàn Quốc, cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ tràn vào đất nước mặt trời mọc - Nhật Bản. Một số công ty chứng khoán ở Nhật Bản bị phá sản, hàng ngàn nguời lao động mất việc và buộc thủ tướng Hashimoto phải từ chức.
Khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Nhật bản khởi đầu bằng việc sụt giá của đồng yên từ tháng 5/1998 có lúc lên cao 146,5 yên/ USD vào cuối tháng 8/1998 ở mức 145,5 yên/1USD. Tốc độ tăng trưởng chậm một cách đáng nhớ trong năm 1997, từ năm 5% xuống còn 1,6% và chìm đắm trong suy thoái 1998.
Như vậy sự yếu kém và mức độ bất ổn cao của đồng yên đã làm thay đổi tính chất của cuộc khủng hoảng. Không còn đơn thuần là cuộc khủng hoảng tài chính mà nó biến thành cuộc khủng hoảng kép ( khủng hoảng tài chính tiền tệ), kèm theo nguy cơ của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn diện.
Trên phạm vi toàn cầu, cơn bão tiền tệ Nhật Bản cũng đang chứng tỏ sức mạnh tàn phá của mình. Thị trường chứng khoán khắp nơi rung lên theo động thái lên xuỗng thất thường của đồng yên. Số phận của đồng USD và thị trường chứng khoán Hồng Kông đang đứng trước một thử thách mới gay gắt. Thực tế là tháng10/1997 thị trường chứng khoán Hồng Kông sụp đổ. 27/10/1997 chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm mạnh 554 điểm, thị trường chứng khoán New York tạm thời đóng băng.
3.5. Trung Quốc – một bức tường thành:
Kể từ khi biến động tài chính nổ ra ở Thái Lan tháng 7 năm 1997 và đã gây ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á, đến nay Trung Quốc là nước duy nhất đứng ngoài cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á và luôn là điểm sáng là đầu tầu tăng trưởng của khu vực này.
Do cuộc khủng hoảng, kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc bắt đầu giảm từ tháng 7/1997, xong mức giảm sút không nghiêm trọng lắm. Tỷ giá hối đoái của đồng yuan về cơ bản vẫn giữ được ổn định. Chỉ số tháng 1, tháng 6 và tháng 12 năm 1996 tương ứng là 105,82%; 107,16%; 109,08%. Như vậy sự biến động ở mức khá ổn định trong năm này. Do tỷ giá hối đoái của các đồng tiền Đông Nam Á và đồng Won nối đuôi nhau giảm xuống làm cho thị trường Trung Quốc có thể bị ảnh hưởng chút ít bởi cuộc khủng hoảng nhưng có một điều chắc chắn rằng thị trường tài chính của Trung Quốc sẽ vẫn ổn định và đồng yuan sẽ được duy trì một cách an toàn.
3.6. Phillipnes:
Ngân hàng trung ương tăng lãi suất lên 1, 75% vào tháng 5 năm 1997, tiếp tục tăng lên 2% vào ngày 19 tháng 6. Ngay khi Thái Lan bị khủng hoảng vào ngày 2 tháng 7 thì một ngày sau đó ngân hàng trung ương Phillipines bị buộc phải can thiệp để bảo vệ đồng peso tuy vậy đồng peso vẫn rớt giá một cách không ngờ, từ 26 peso/ USD tại thời điểm bắt đầu khủng hoảng, xuống mức 38 peso/ USD vào năm 2000, tại thời điểm cuối cuộc khủng hoảng thì con số này là 40 peso/ USD. Tại thị trường chứng khoán Phillipines, chỉ số PSE giảm xuống còn 1000 điểm từ mức 3000 điểm vào năm 1997. Cuộc khủng hoảng này đã dẫn tới sự ra đi của tổng thống Joseph Estrada, thay thế vị trí của ông là bà Gloria Macapagal-Arroyo, bà là người đưa đất nước Phillipines ra khỏi cuộc khủng hoảng này.
3.7. Malaysia:
Năm 1997, quốc gia này có một lượng lớn tài khoản vãng lai thâm hụt 6% GDP. Tháng 7, đồng Ringgit bị tấn công bởi những kẻ đầu cơ bằng việc bán đi một cách bất hợp pháp các cổ phần có nguồn gốc Malaysia ở Singapore. 4 ngày sau, Standard & Poor’s đánh giá thấp tỷ lệ nợ của Malaysia. 1 tuần sau, thị trường chứng khoán Kuala Lumpur sụt xuống còn 856 điểm, thấp nhất kể từ 1993. Mùng 2 tháng 10, đồng Ringgit lại một lần nữa rớt giá, thủ tướng Mahathir bin Mohamad ngay lập tức đưa ra chương trình kiểm soát vốn. Tuy nhiên, hệ thống tiền tệ vẫn không tránh khỏi sự sụp đổ vào cuối năm 1997 khi thủ tướng tuyên bố sẽ sử dụng 10 tỷ Ringgit vào các kế hoạch đường bộ, tàu điện và ống dẫn dầu. Năm 1998, sản lượng đầu ra của nền kinh tế bị suy giảm. Sản lượng của khu vực xây dựng rút xuống 23,5%, ngành công nghiệp thu hẹp 9% còn nông nghiệp là 5,9%. Xét tổng thể thì GDP của Malaysia giảm mạnh 6,2% năm 1998.
Singapore:
Luôn được coi là một nền kinh tế tương đối khoẻ mạnh so với các nước trong khu vực trong suốt thời kì khủng hoảng nhưng đương nhiên là quốc gia này vẫn bị ảnh hưởng ít nhiều. Tuy nhiên, xét về tổng thể thì khả năng chèo lái đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng vẫn được chú ý rộng rãi, chính sách tài khoá của Singapore rất đáng để cho các quốc gia láng giềng học tập. Là một nền kinh tế mở, đồng đôla Singapore cũng được mở tự do cho thị trường đầu cơ ngay từ 1985. Nền kinh tế đủ năng động để khiến Singapore trở thành một quốc gia có chỗ đứng độc lập, chính phủ Sing quản lý tỉ giá hối đoái để tránh khả năng tấn công của đầu cơ. Tuy đồng tiền của quốc gia này được coi là đồng tiền mạnh nhất ASEAN vậy mà vẫn bị rớt giá 10% so với đồng đôla Mỹ trong suốt thời kì khủng hoảng.
4. Vai trò của IMF và bài học rút ra:
IMF chịu trách nhiệm bảo vệ sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế. Vì vậy, vai trò trung tâm của IMF trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á là rất rõ ràng và đã được tái khẳng định bởi cộng đồng quốc tế trên nhiều diễn đàn đa phương. Ưu tiên của IMF cũng rất rõ ràng: Khôi phục lòng tin vào các nền kinh tế bị khủng hoảng tác động.
Phản ứng tức thì của IMF với cuộc khủng hoảng nhằm khôi phục lòng tin vào các quốc gia bị ảnh hưởng gồm các hoạt động cụ thể như sau:
Áp dụng phương thức tỷ giá hối đoái linh hoạt ở những nơi chưa sử dụng phương thức này:
- Tạm thời thắt chặt chính sách tiền tệ để hạn chế áp lực đối với cán cân thanh toán.
Hành động tức thì để khắc phục những đặc điểm dễ thấy trong hệ thống tài chính, đã cấu thành những yếu tố chính gây nên khủng hoảng.
Cải cách cơ cấu nhằm xoá bỏ những đặc điểm yếu kém của nền kinh tế gây cản trở cho sự phát triển (như độc quyền, hàng rào mậu dịch, thông lệ không minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp) và cải thiện hiệu quả của các định chế tài chính trung gian cũng như tính lành mạnh của hệ thống tài chính tương lai.
Nỗ lực khai thông hoặc duy trì những kênh tài trợ từ nước ngoài.
Duy trì chính sách tài chính lành mạnh, bao gồm chính sách tăng ngân sách chi cho cơ cấu lại ngành tài chính, trong khi vẫn đảm bảo chi tiêu xã hội.
Cải cách cơ cấu mạnh mẽ, sâu rộng và hạt nhân cuả tất cả các chương trình, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong những chương trình mà IMF đã tài trợ trong quá khứ, những vấn đề tồn tại trong các quốc gia là sự mất cân bằng, phản ánh chính sách kinh tế vĩ mô không phù hợp.
Dù được thiết kế phù hợp với hoàn cảnh đặc thù từng quốc gia, trong mọi trường họp chương trình vẫn nhằm thực hiện các mục tiêu:
+ Đóng cửa các tổ chức tài chính không còn khả năng tồn tại, cùng với điều chỉnh dòng vốn của các cổ đông.
+ Tái cơ cấu nguồn vốn cho các định chế thiếu vốn.
+ Tăng cường sự tham gia của nước ngoài vào hệ thống tài chính trong nước nhằm giải quyết các vấn đề về quản lí nhà nước đã góp phần gây nên khủng hoảng. Việc cải cách hệ thống tài chính đang được củng cố bằng các biện pháp được thiết kế nhằm cải thiện hiệu quả của các thị trường, phá vỡ mối liên hệ chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và chính phủ, triệt để tự do hoá thị trường. Tính công khai phải được tăng cường, cả trong việc công bố các dữ liệu kinh tế (cụ thể là về dự trữ ngoại tệ và nợ) lẫn trong hoạt động tiết lộ thông tin của khu vực tài chính, doanh nghiệp và khu vực ngân hàng.
Các biện pháp bổ sung do IMF thực hiện dể đối phó với cuộc khủng hoảng:
Ngoài các biện pháp đã nêu, IMF còn bổ sung thêm vào các biện pháp như thiết kế chương trình và cung cấp nguồn tài chính để hỗ trợ với các bước đã thực hiện sau đây:
- Hội đồng quản trị tự quản lý đã sử dụng trình tự quản lý nhanh được thiết lập theo cơ chế tài trợ khẩn cấp và điều khoản về tình trạng đặc biệt, để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của các nước thành viên về thời gian phê duyệt và khối lượng tài trợ.
- Chương trình dự trữ bổ sung đã được tạo lập để phục vụ các quốc gia thành viên trong tình trạng đặc biệt đang gặp khó khăn nghiêm trọng về cán cân thanh toán do nhu cầu lớn về tài chính ngắn hạn phát sinh từ việc mất lòng tin của thị trường.
- Sự phối hợp giữa IMF với các định chế tài chính quốc tế khác, đặc biệt là ngân hàng thế giới và ADB cũng như với các nhà tài trợ song phương, nhằm tập trung sự giúp đỡ thực sự của cộng đồng quốc tế đối với chương trình cải cách kinh tế ở các quốc gia chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính.
- Tăng cường cấp độ đối thoại giữa IMF với cử tri ở các quốc gia, tham gia chương trình đã được khởi xướng, bao gồm cả việc tham khảo ý kiến của các nhóm lao động và những mối liên hệ rộng mở với giới báo chí và công chúng .
- Các chương trình của IMF đã được tiếp tục bằng các nỗ lực hợp tác giữa các ngân hàng, chủ nợ quốc tế và các con nợ ở các quốc gia bị ảnh hưởng nhằm giải quyết những khó khăn nghiêm trọng trong việc tài trợ cho khu vực tài chính tư nhân vốn là trung tâm của cuộc khủng hoảng.
- Các biện pháp tạm thời đã được thực hiện khi cần thiết, bao gồm việc bổ nhiệm phó tổng giám đốc điều hành IMF - Prabhakar Narvekar làm cố vấn đặc biệt của tổng thống Inđônêxia, thành lập các văn phòng đại diện tại Hàn Quốc và Thái Lan và hàng loạt các hoạt động thông qua văn phòng khu vực Châu Á Thái Bình Dương của IMF mới được thành lập.
Trước nhu cầu cấp thiết đối với việc phối hợp cộng đồng quốc tế đối phó với khủng hoảng và sự bất ổn lớn ở Châu Á, các chương trình IMF trợ giúp, đã gặp phải sự dò xét của nhiều bình luận viên. Tuy nhiên, một số ý kiến phê phán là dựa trên những nhìn nhận sai lầm về phản ứng của IMF đối với những sự kiện ở Châu Á.
Những bài học từ cuộc khủng hoảng:
IMF đã xác định 6 khu vực chính mà những sáng kiến đã được đưa ra cần phải được tăng cường:
- Giám sát có hiệu quả hơn chính sách và thực thi chính sách kinh tế của các quốc gia, hỗ trợ bằng quá trình công khai hoá đầy đủ hơn tất cả dữ liệu kinh tế và tài chính quan trọng. IMF đã lập và sẽ tiếp tục cải tiến các chuẩn mực dữ liệu để hướng dẫn các quốc gia thành viên công bố dữ liệu một cách đáng tin cậy và kịp thời.
- Cải cách lĩnh vực tài chính, kể cả việc ban hành các quy định an toàn và giám sát cao hơn.
- Việc nuôi dưỡng quá trình tự do hoá tài khản vốn được tiến hành từng bước có trật tự và bài bản để tối đa hoá lợi nhuận, giảm thiểu rủi ro của sự tự do di chuyển vốn.
- Thúc đẩy quá trình giám sát trong khu vực.
- Nỗ lực trên khắp thế giới để thúc đẩy quản lý nhà nước để chống tham nhũng.
- Những cơ cấu hữu hiệu hơn để giải quyết nợ một cách tuần tự,kể cả luật phá sản tốt hơn ở cấp độ quốc gia và các giải pháp tốt hơn ở cấp độ quốc tế,để liên hiệp các chủ nợ và các nhà đầu tư của lĩnh vực tư nhân với các nỗ lực chính thức để giải quyết các vấn đề nợ quốc gia và nợ tư nhân.
Tất cả các bước ở trên nhằm phục vụ cho mục tiêu dài hạn trong giải pháp của IMF đối với cuộc khủng hoảng Châu Á, cho phép nền kinh tế bị tác động ở Châu Á phát triển mạnh mẽ hơn, nhanh chóng phục hồi tăng trưởng và giúp tăng cường hệ thống tiền tệ quốc tế, đương đầu với những thử thách trong thế kỷ tới.
III. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH KHU VỰC TỚI VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ VỚI KHỦNG HOẢNG CỦA CHÍNH PHỦ:
Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam được chia thành hai giai đoạn trước “đổi mới” và sau “đổi mới”. Trước đổi mới là thời kì từ năm 1976 đến năm 1985, sau đổi mới là giai đoạn từ năm 1986 đến nay. Hiện tại nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế mở. Từ khi “đổi mới” Việt Nam ngày càng mở rộng cửa hướng tới khu vực và thị trường thế giới, do đó cũng đã phải chịu những ảnh hưởng nhất định từ cuộc khủng hoảng tài chính khu vực 1997. Trên con đường chuyển đổi cơ chế và hội nhập Việt Nam đã đạt được không ít thành tựu cũng như phải đối đầu với không ít thách thức.Trong tiểu luận này chúng ta chỉ xét đến nền kinh tế Việt Nam kể từ thời kì mở cửa, khi mà đất nước ta có những ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á.
Tác động tiêu cực:
Xét về lĩnh vực thương mại, dưới thời kì kế hoạch hoá, Việt Nam kiểm soát chặt chẽ việc giao dịch thương mại nước ngoài. Tại thời điểm đó, Liên Xô cũ và Đông Âu là những đối tác thương mại chính của Việt Nam. Tất cả mọi giao dịch đều do các doanh nghiệp nhà nước thực hiện.
Sau đổi mới năm 1986, xuất khẩu được coi là mục tiêu số một. Rất nhiều chính sách đã được thi hành. Tự do hoá thương mại bằng việc giảm bớt sự hạn chế của hệ thống thuế quan và phi thuế quan nhằm khuyến khích người xuất khẩu. Năm 1990, tỷ lệ tăng trưởng của xuất khẩu đạt 23,5%. Năm 1991, tỷ lệ này giảm xuống -13,2% bởi sự tan rã của Liên bang Xô viết và Đông Âu, những đối tác thương mại chính của Việt Nam. Những năm sau, Việt Nam đã tìm kiếm nhiều thị trường xuất khẩu mới, đó là các quốc gia Đông Á như Singapore, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc. Tốc độ tăng trưởng thương mại tăng nhanh vượt 30% năm 94, 95, 96. Những con số này có xu hướng giảm từ năm 94 và giảm mạnh vào năm 97 và 98 do bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng ở Châu Á vì nước ta chủ yếu dựa vào thị trường này để phát triển xuất khẩu.
Về nhập khẩu, tỷ lệ này là 7,3% năm 1990, sau đó giảm xuống -15,1% năm 1991, sau sự tan rã của Liên Xô cũ và Đông Âu. Tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu đã tăng lại và đạt tới 54,4% năm 93. Nhập khẩu tăng mạnh như vậy bởi quá trình phát triển công nghiệp cần nhiều nguyên liệu và trang thiết bị. Đến năm 94 thì con số nhập khẩu lại giảm xuống vì nên kinh tế bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính khu vực, giảm xuống 4% năm 97 và -0,8% năm 98.
Nguồn vốn FDI, nói chung nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam phát triển qua 3 giai đoạn khác nhau, từ 1988 đến 1990, từ 1991 đến 1995 và từ 1996 đến nay. Trong giai đoạn đầu từ 1988 đến 1990, nguồn vốn FDI chảy vào Việt Nam không đáng kể. Chỉ có 37 dự án được cấp phép vào năm 1988 với mức vốn 371,8 triệu đôla, con số này tiếp tục tăng trong những năm sau, tốc độ tăng trưởng từ 56,6% năm 1989 giảm xuống 44% năm 1990. Giai đoạn hai, được đánh dấu bởi sự tăng lên vượt bậc của dòng vốn FDI. So với thời kì trước, năm 1991 dòng vốn đạt con số 1322,3 triệu đôla, tốc độ tăng trưởng của FDI tăng mạnh từ 57,5% lên 63,7% rồi lần lượt là 33,9%; 29,8% và 73,4% trong các năm 1992, 1993, 1994, 1995. Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy những nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tin tưởng viễn cảnh kinh tế Việt Nam. Nhưng đến giai đoạn ba, từ 1996 đến 1998, dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam ngày càng giảm. Khoản tiền cho các dự án giảm 16% năm 1996, 45,3% năm 1997, 16,1% năm 1998. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á năm 1997 ảnh hưởng lớn đến dòng vốn chảy vào Việt Nam và nguồn vốn FDI ở Việt Nam giảm mạnh trong 2 năm 97 – 98. Từ khi cuộc khủng hoảng nổ ra, các nhà đầu tư nước ngoài phải đối mặt với nhiều khó khăn tài chính, nhiều người đã phải thu hồi những khoản đầu tư ở nước ngoài, nhiều người khác không thể đầu tư thêm ra hải ngoại. Việt Nam đã phải chịu ảnh hưởng nghiêm trọng khi FDI bị rút khỏi đất nước vì chúng ta phụ thuộc nhiều vào các nhà đầu tư Châu Á. 60% nguồn vốn FDI tới từ các quốc gia Châu Á, 1/4 trong số đó là từ các nước ASEAN, nơi mà cuộc khủng hoảng tài chính xuất hiện đầu tiên và tiếp tục ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
Trong một nghiên cứu gần đây của Bộ Lao động thương binh và xã hội chỉ ra rằng lượng thất nghiệp trên toàn quốc tăng lên 6,6% trong lực lượng lao động năm 98. Lực lượng lao động nước ta tăng 1,1 triệu người hàng năm. Việc rút vốn FDI khiến cho càng có nhiều hơn những người thất nghiệp bởi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoại tạm ngừng sản xuất, càng làm cho vấn đề việc làm khó giải quyết hơn.
Lượng khách du lịch tới Việt Nam trong năm 98 giảm 10% so với năm trước đó, giảm 1,5 triệu và còn giảm hơn trong năm 99. Các khách sạn ở Tp. HCM phải đối mặt với khó khăn vì thiếu khách. Mặc dù giá phòng cho thuê đã giảm từ 30% tới 50% nhung tỷ lệ phòng có người đặt ở các khách sạn Tp. HCM chỉ đạt 35% và các công ty du lịch bị ảnh hưởng mạnh bởi việc khách hàng giảm đáng kể. Lý do của việc này là do sự giảm đáng kể của lượng khách đến từ Châu Á, nơi mà chiếm tới 70% tổng lượng khách du lịch vào Việt Nam. Lý do thứ hai là bởi việc sụt giảm trong nguồn vốn FDI khiến cho một lượng lớn doanh nhân nước ngoài không tới Việt Nam nữa.
Tác động tích cực:
Bên cạnh không ít ảnh hưởng tiêu cực, Việt Nam vẫn thu được những tác động tích cực. Vì lạc hậu về công nghệ và trang thiết bị mà sản phẩm làm từ Việt Nam không thể cạnh tranh nổi với những sản phẩm tương tự tại các quốc gia láng giềng không chỉ trên thị trường thế giới mà còn ở ngay cả thị trường khu vực. Công nghệ mới trở nên cấp thiết. Khi cuộc khủng hoảng khu vực xảy ra, máy móc, trang thiết bị trở nên rẻ hơn, khuyến khích các doanh nhân Việt Nam đầu tư và trang bị mới các xí nghiệp của họ sao cho hiệu quả nhất có thể như trường hợp nhà máy nhựa và dệt may.
Việt Nam giờ đây có thể tranh thủ thêm một số bài học rút ra từ khu vực và điều chỉnh chính sách nhằm ngăn chặn khủng hoảng. Thực tế từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng khu vực đến này, đã có một loạt các chủ trương chính sách và chương trình mới theo hướng cải cách nhận thức rõ sự cần thiết phải đạt được những tiến bộ lớn hơn về những biện pháp cải cách cụ thể như Nghị quyết 4 của Trung Ương Đảng tháng 12/1997, chính thức kêu gọi đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, thái độ thận trọng hơn của nhà nước khi bảo lãnh vay nợ của các doanh nghiệp, những cải tiến trong quy định về đầu tư nước ngoài trực tiếp.v.v. Vấn đề là làm sao cho những chủ trương chính sách này đi vào hoạt động.
Khả năng đầu tư tài chính từ các nước trong và ngoài khu vực giảm xuống có nghĩa tốc độ tài trợ của nước ngoài vào Việt Nam sẽ được điều chỉnh cho phù hợp hơn với tốc độ cải cách thực tế, như vậy giảm tình trạng đầu tư có tính rủi ro cao hay quá mức cần thiết. Trong tương lai, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chú ý nhiều hơn tới tính hợp lý của môi trường đầu tư tổng thể và khả năng thương mại của từng khoản đầu tư cụ thể.
Việc tăng cường sự cạnh tranh giữa các nước trong khu vực để giành được vốn đầu tư nước ngoài mà giờ đây trở nên khan hiếm hơn cuối cùng sẽ tác dụng thúc đẩy Việt Nam tiến hành các biện pháp cải cách cụ thể hơn nhằm thu hút được một phần đầu tư nước ngoài này và tránh bị tụt hậu quá nhiều so với các nước khác trong khu vực.
Tại sao cuộc khủng hoảng lại ít ảnh hưởng đến Việt Nam:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao trong những năm gần đây chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn nước ngoài (FDI và ODA), nay các nguồn này đang có chiều hướng giảm sút. Tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trong nước thấp, bởi vậy sẽ dễ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế.
Cán cân thanh toán vãng lai và cán cân thương mại thâm hụt kéo dài ở mức cao so với GDP gây sức ép với tỷ giá hối đoái và tăng số dư nợ nước ngoài của Việt Nam. Bội chi ngân sách nhà nước kéo dài và ở mức cao gây sức ép tăng vay nợ và làm hao hụt dự trữ ngoại tệ vốn đã nhỏ bé của nước ta.
Nợ nước ngoài của Việt Nam tăng khá nhanh từ sau khi nước ta bình thường hoá quan hệ với cộng đồng tài chính quốc tế.
Cơ cấu vốn đầu tư còn nhiều bất hợp lý, hệ thống tài chính ngân hàng chưa đáp ứng yêu cầu còn non yếu trong quản lý, kinh doanh, đặc biệt trong khâu phòng ngừa rủi ro.
Những nguyên nhân trên là lí do chính tại sao Việt Nam bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính khu vực tuy vậy không nặng nề như các quốc gia khác do:
- Thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam mới ở giai đoạn sơ khai, chưa nhập sâu vào thị trường tài chính khu vực, tại thời điểm khủng hoảng thị trường chứng khoán chưa hình thành. Đồng tiền Việt Nam chưa phải là đồng tiền chuyển đổi tự do nên ít chịu tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng.
- Vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu là đầu tư trực tiếp, dài hạn (chiếm trên 80%).
- Nợ nước ngoài chủ yếu là nợ chính phủ từ nguồn ODAvà chủ yếu là nợ trung, dài hạn (chiếm 90%) nên sức ép đột biến của viêc thanh toán nợ không mạnh. Việc vay trả nợ của các doanh nghiệp được quản lý chặt chẽ thông qua ngân hàng nhà nước.
- Chính sách tỷ giá được điều chỉnh từng bước linh hoạt. Cụ thể từ năm 1986 đến 1990 tỷ giá đồng Việt Nam so với USD tăng từ 80 VND/USD lên 6.500 VND/USD. Năm 1991 lên 12.000 VND/USD.
- Việc giảm đáng kể cán cân thâm hụt thương mại (nhập siêu năm 97 giảm 37,5% so với năm 96, 8 tháng đầu năm 98 giảm 9,2% so với cùng kì năm 97). Tiến bộ trong giải ngân ODA và FDI so với các năm trước đã góp phần làm giảm sức ép về cán cân thanh toán của Việt Nam.
3.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
Câu hỏi đặt ra sau một loạt những nhìn nhận đánh giá về cuộc khủng hoảng chính là bài học nào đáng để cho nền kinh tế Việt Nam học tập từ cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997?
Trong một thời gian dài, nhiều nền kinh tế trong khu vực có thể phát triển nhanh nhờ việc đi vay của nước ngoài, thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài để duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Điều này thực chất vượt quá tiềm năng nội lực của các quốc gia này. Tốc độ tăng trưởng cao thì kết quả là nợ nước ngoài cũng tăng cao, trong đó các khoản nợ ngắn hạn cũng chiếm vai trò quan trọng dẫn tới kết cục như trên.
Việc đầu tư không thích hợp và hiệu quả, đầu tư bất động sản tiếp tục bùng nổ trong khi thực tế thì các văn phòng, khách sạn và căn hộ đang phải nếm trải sự thiếu vắng khách hàng và phần lớn các khoản đầu tư tài chính đều bằng tiền đôla vì lãi suất của các khoản vay loại này thấp hơn so với vay bằng đồng nội tệ. Không có bất kì một sự quan tâm nào tới tính nguy hiểm của tỷ giá hối đoái trong tương lai.
Ấn định tỷ giá hối đoái trong một thời gian dài dẫn tới nâng giá trị tiền tệ và cạnh tranh không hiệu quả.
Hệ thống ngân hàng yếu kém, tín dụng bị tiêu dùng cạn kiệt tới mức chúng trở nên không thể quản lý nổi và các khoản vay xấu tăng lên.
Xuất khẩu – chiến lược này đã giúp cho các quốc gia Đông Nam Á đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong một thời gian dài. Nhưng khi phải đối mặt với sự không ổn định của thị trường quốc tế thì nó lại trở nên rất dễ bị tấn công.
Trường hợp của Việt Nam thì sao? Có thể nói rằng tình trạng hiện thời cho thấy nguy cơ khủng hoảng đang ngày càng nổi lên trong nền kinh tế Việt Nam. Ngân hàng và hệ thống pháp lý tương đối yếu. Lĩnh vực bất động sản, cả trong và ngoài nước gặp phải những rắc rối liên quan đến việc một lượng lớn bất động sản đang ách tắc không có người mua hay thuê. Sự xây dựng các căn hộ cao cấp và các khách sạn vượt quá nhu cầu. FDI đang giảm nhanh. Trong thời gian ngắn, sự vắng mặt các thị trường vốn và tiền tệ không dễ dàng chuyển đổi, Việt Nam vẫn có thể tiến lên. Nhưng trong dài hạn Việt Nam cần tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và tài chính để đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Thủ tục đầu tư được khuyến khích và đơn giản hoá là thực sự cần thiết để thu hút vốn đầu tư trong nước cũng như nước ngoài nhằm duy trì và mở rộng các hoạt động kinh tế trong tương lai.
Trên cơ sở đó ta tóm lược được ba bài học chính sau:
Bài học 1: Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và hiệu quả kinh té quốc gia là cơ sở quan trọng nhất đảm bảo cho phát triển bền vững và phải trở thành một mục tiêu và chỉ tiêu của quản lý kinh tế đất nước, quản lý ngành, quản lý doanh nghiệp. Để khắc phục sự thiếu chú ý đúng mức đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và phát triển, cần đưa vào hệ thống chỉ tiêu kinh tế phải báo cáo hàng năm của mỗi địa phương mỗi ngành và cả nước các chỉ tiêu như tỉ suất lợi nhuận và tỉ suất giá trị gia tăng trên vốn riêng của doanh nghiệp theo các ngành các thành phần kinh tế, đồng thời theo dõi chặt chẽ sự biến động của chỉ số ICOR với mỗi địa phương và cả nước.
Bài học 2: Để các doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển bền vững thì lãi suất vốn vay để đầu tư phải tương đương hoặc nhỏ hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Như vậy để phát triển bền vững lãi suất tín dụng chủ yếu hình thành qua hệ thống cung cầu vốn trên thị trường chứ không phải dựa vào ý chí của nhà nước. Nếu lãi suất tín dụng nhỏ hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp và sản phẩm doanh nghiệp có tính cạnh tranh cao thì các doanh nghiệp sẽ càng phát triển nhanh hiệu quả kinh doanh cao nếu càng vay được nhiều vốn. Tức là vay vốn mà lại phát triển bền vững.
Bài học 3: cần có một tổ chức chuyên trách của chính phủ theo dõi sự biến động của lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất tín dụng trong nước và quốc tế, cán cân tài khoản vãng lai, nợ quốc gia hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp để đề xuất các chính sách và điều tiết cần thiết bảo đảm phát triển quốc gia bền vững với tăng trưởng tương đối cao.
Những gợi ý về chính sách đối với Việt Nam:
(1) Nhu cầu cấp bách đối với Việt Nam là tăng cường hơn nữa tính công khai và cung cấp những thông tin đáng tin cậy, đặc biệt là về các ngân hàng và doanh nghiệp Việt Nam nhằm hạn chế nguy cơ thất bại của chính phủ và thị trường. Xuất phát từ hệ thống kế toán thiếu nhất quán và không đày đủ của Việt Nam trong những năm trước đây nên thiếu các số liệu đáng tin cậy để đánh giá thực trạng kinh doanh lỗ lãi và tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhà nước. Việc tăng cường hơn nữa tính công khai và có được những thông tin chính xác sẽ góp phần hạn chế rất nhiều tình trạng tham nhũng vốn là mối lo ngại ngày càng tăng của Đảng và Chính phủ bởi tham nhũng đã dẫn đến những khoản đầu tư chi phí cao và không bền vững ở các nước khủng hoảng.
(2) Hạn chế và phân bổ một cách thận trọng những khoản cho vay mới theo chỉ đạo của nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực thương mại. Chỉ nên dành khoản cho vay này cho những doanh nghiệp nhà nước đã chứng tỏ thực sự có lãi và ổn định. Việc cho vay vồn và đầu tư quá mức vào các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả sẽ dẫn tới thất bại của chính phủ, khi lên tới mức nguy hiểm thì sẽ đẩy lùi quá trình phát triển của đất nước. Như vậy, nhà nước nên tránh làm trầm trọng thêm tình trạng mất cân đối về tài chính hiện nay bằng các khoản nợ khó đòi tiếp theo.
(3) Cũng cần hết sức cắt giảm, hạn chế tối thiểu và giám sát chặt chẽ việc cho vay vốn dưới sự bảo lãnh của nhà nước. Để tránh mọi hiểu lầm trên thị trường về mức độ bảo hộ của nhà nước đối với các khoản đầu tư tư nhân, từ nước ngoài hay từ các nguồn khác, Nhà nước Việt Nam cần tuyên bố một cách công khai rộng rãi một chính sách rõ ràng và hết sức hạn chế bảo lãnh của nhà nước, dưới cả hình thức công khai và ngầm định. Nếu không sẽ có nguy cơ dẫn đến tình trạng nợ quá nhiều với các khoản đầu tư nước ngoài ở các cơ sở liên doanh của các doanh nghiệp nhà nước, xuất phát từ sự hiểu lầm về việc nhà nước sẵn sàng hay có khả năng hỗ trợ những khoản đầu tư đó trong trường hợp khó khăn về tài chính.
(4) Việc tiến tới xác lập một tỷ giá hối đoái của đồng tiền Việt Nam mang tính cạnh tranh hơn là một điều tất yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế sự tràn ngập của hàng hoá nhập khẩu rẻ tiền, khuyến khích việc lập kế hoạch tài chính hợp lý cho mọi khoản vay nước ngoài mới và tránh tình trạng kiệt quệ ngoại tệ nói chung. Vấn đề là phá giá đồng Việt Nam ở mức độ nào và tốc độ như thế nào cho phù hợp bối cảnh biến động và mất ổn định tài chính trong khu vực, tránh du nhập sự mất ổn định đó vào Việt Nam. Việc phá giá đồng Việt Nam có thể làm tăng chi phí tính bằng tiền Việt Nam cho việc thanh toán cáckhoản nợ nước ngoài, nhưng nó cũng sẽ cải thiện mạnh mẽ tình hình xuất khẩu, kiềm chế nhập khẩu, tăng lòng tin ở các nhà đầu tư quốc tế, thúc đẩy việc tính toán hợp lý hơn đối với các khoản vay nợ nước ngoài mới và về tổng thể gia tăng khối lượng ngoại tệ và các nguồn khác cho việc thanh toán những khoản nợ hiện có.
(5) Tỷ lệ tích luỹ trong nước thấp ở Việt Nam khoảng 16% GNP vào năm 1998 cần tiếp tục tăng đáng kể lên tới trên 30% GNP để tránh lệ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn nước ngoài, đặc biệt là vay nợ nước ngoài. Cần cải thiện môi trường tổng thể sao cho thuận lợi hơn, cải thiện khuôn khổ các biện pháp khuyến khích, phải có một chiến lược phát triển dựa trên xuất khẩu để tăng thu nhập. Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc duy trì môi trường với lãi suất thực dương, đảm bảo về pháp lý cho tính toàn vẹn lâu dài của các quyền về tài sản và sở hữu của cải vật chất, điều chỉnh tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý để cho người gửi tiết kiệm yên tâm về giá trị lâu dài của đồng tiền, xây dựng hệ thống ngân hàng an toàn, lành mạnh
(6) Chiến lược phát triển dựa trên xuất khẩu với những ngành sản xuất hàng xuất khẩu có hàm lượng lao động cao là chiến lược phát triển tốt nhất cho Việt Nam. Cần phải khẩn trương và khôn khéo chuyển mạnh hơn theo hướng chiến lược phát triển dựa trên xuất khẩu thoát khỏi chính sách bảo hộ thay thế nhập khẩu, cả trên phương diện chính sách và hành động cụ thể. Tăng cường mở cửa đối với thương mại quốc tế kết hợp với mức độ mở cửa đối với tài chính quốc tế được quản lý chặt chẽ đảm bảo cho các nhà sản xuất Việt Nam nhập nguyên liệu cũng như các sản phẩm trung gian với giá cạnh tranh để hỗ trợ cho sự cạnh tranh trong xuất khẩu cũng như cần thiết cho việc duy trì và phát triển khả năng tiếp cận các thị trường xuất khẩu. Một tỷ giá hối đoái mới cạnh tranh, các chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước theo phương thức trung lập như đã được áp dụng ở các nước công nghiệp mới thành công trước đây và việc sử dụng hiệu quả hệ thống Mạng thông tin toàn cầu (World Wide Web) để thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam là một chiến lược hiệu quả.
(7) Nhà nước cần tiếp tục chủ động và tích cực khuyến khích sự phát triển của khu vực ngoài quốc doanh nhiều hơn là hết sức cần thiết cho thành công của sự nghiệp phát triển ở Việt Nam. Ở các nước đã từng thành công trong và ngoài khu vực, phát triển và đang phát triển thì khu vực tư nhân là động lực chính cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Điển hình là Trung Quốc, nhân tố tạo nên sự thành công của quốc gia này chính là những đặc khu kinh tế đi theo hướng xuất khẩu và khu vực tư nhân hoặc bán tư nhân, đặc biệt là các xí nghiệp hương trấn đầy năng động. Ở Việt Nam đòi hỏi phải có biện pháp cụ thể để hợp lý hoá các doanh nghiệp nhà nước nhằm giải phóng các nguồn lực cho khu vực ngoài quốc doanh, cải cách phát triển khu vực tài chính, thiết lập hệ thống thuế thu nhập hợp lý hơn, xây dựng hệ thống pháp lý và điều tiết quy định rõ ràng về việc đảm bảo tính toàn vẹn các quyền tài sản và sở hữu của cải vật chất cũng như quyền tự do sử dụng các tài sản cho mục đích thế chấp tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn thông tin đáng tin cậy và bổ ích.
(8) Thực hiện những biện pháp cải cách cụ thể và phát triển ngành tài chính là cần thiết cho việc xây dựng chiến lược phát triển dựa trên xuất khẩu, cải cách khu vực tài chính, phát triển khu vực ngoài quốc doanh và cần thiết cho sự phát triển nông thông và xoá đói giảm nghèo bền vững. Việc xây dựng chiến lược phát triển theo định hướng xuất khẩu đòi hỏi phải tự do hoá thương mại kể cả tự do hoá nhập khẩu. Cải cách lĩnh vực ngân hàng và tài chính cũng phụ thuộc vào cải cách các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp này lệ thuộc rất nhiều vào các khoản tín dụng ngân hàng do nhà nước chỉ đạo, hiện nay chất lượng đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước ngày càng trở nên đáng ngờ vực. Cuộc cải cách có hiệu quả đòi hỏi phải tiến hành cổ phần hoá nhiều doanh nghiệp nhà nước hơn nữa. Tiến hành tư nhân hoá tất cả các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực thương mại khi những doanh nghiệp này có lãi hay trước khi nó trở thành gánh nặng quốc gia.
(9) Hoàn thiện hơn công tác quản lý nợ nước ngoài xuất phát từ những bài học rút ra từ khu vực cũng như những khó khăn kéo dài của Việt Nam trong việc tôn trọng thư tín dụng, một phương tiện quan trọng để tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế và sự nghiệp phát triển. Cần phải có thông tin có chất lượng hơn về tổng nợ nước ngoài, cả về số lượng và thời hạn trả nợ (kể cả DNNN và liên doanh), tạo cơ sở cho việc điều chỉnh chính sách góp phần ngăn chặn cuộc khủng hoảng về cán cân thanh toán trong tương lai. Cần có thông tin có chất lượng hơn về sự bảo lãnh của nhà nước đối với các khoản vay nợ trong nước và nước ngoài của hệ thống các ngân hàng và công ty, hay về bất cứ khoản nợ dự phòng nào khác có thể ảnh hưởng tới tình hình tài chính của nhà nước và cán cân thanh toán trong tương lai. Con số nợ nước ngoài ở mức khá lớn, theo số liệu năm 1998 chỉ riêng những khoản nợ tính bằng ngoại tệ mạnh đã vượt quá 35% GNP và 75% kim ngạch xuất khẩu năm 1996.
(10) Nhà nước thực hiện chế độ công khai hơn và trách nhiệm giải trình nghiêm túc hơn, phân bổ công bằng các chi phí cũng như thành quả của quá trình phát triển là rất quan trọng đối với việc giảm thiểu rủi ro dẫn đến tình trạng mất ổn định xã hội khi nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Điều này có thể đạt được thông qua sự phát triển cân đối hơn về mặt địa lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp phát triển con người, hỗ trợ có hiệu quả hơn đối với công cuộc xoá đói giảm nghèo. Tăng cường tính công khai trong quy trình làm ngân sách và đầu tư công cộng của chính phủ, kết hợp với sự tham gia mạnh mẽ hơn của dân chúng vào quy trình này ở các cấp cơ sở, nâng cao hiệu quả và công bằng trong chi tiêu ngân sách nhà nước.
(11) Một “quĩ dự trữ xã hội” hay “quỹ phát triển con người” cần phải được xây dựng trong thời kì tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao nhằm trang trải cho hệ thống bảo trợ xã hội mạnh hơn khi nền kinh tế bị suy thoái. Vào thời gian khủng hoảng tài chính, nguồn kinh phí bổ sung hầu như khan hiếm hoặc thậm chí không có. Vì vậy, một quỹ dự trữ xã hội như vậy cần phải được tích luỹ chủ yếu trong thời gian nền kinh tế tương đối phát triển. Kinh phí cho việc xây dựng quỹ này có thể lấy từ nguồn thuế đánh vào các mặt hàng xa xỉ phẩm (và cũng có thể từ nguồn thu từ quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước) và sử dụng cho mục đích trợ cấp thu nhập tạm thời cũng như đào tạo lại số lao động bị dôi ra.
(12) Đảm bảo ổn định trong khi thực hiện chính sách mở cửa: Xuất phát từ tất cả các kinh nghiệm rút ra từ khu vực, việc duy trì chính sách mở cửa ở mức độ đáng kể để tiếp nhận các cơ hội bên ngoài là hết sức căn bản để đạt được tốc độ phát triển nhanh chóng, bền vững. Trong bối cảnh hiện nay, các biện pháp tốt nhất để giữ vững sự ổn định về kinh tế – xã hội là: quản lý kinh tế tài chính đúng đắn bao gồm việc điều chỉnh thường xuyên và có trật tự các biến số tài chính phù hợp sự thay đổi của tình hình, đa dạng hoá sự phát triển nói chung đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu, giảm thiểu mức độ lệ thuộc vào các khoản nợ nước ngoài ngắn hạn để giảm tới mức thấp nhất tính rủi ro trong các vấn đề thanh khoản hay của các dòng vốn đầu tư mang tính chất đầu cơ xuất phát từ các yếu tố bên ngoài, sự phân bổ công bằng các phí tổn cũng như thành quả của quá trình phát triển, bao gồm cả trong thời kì điều chỉnh về cơ cấu và tài chính.
www.TCDN45C.net.tf
quangson107@vol.vnn.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khung_hoang_tai_chinh_62.doc