Kĩ thuật nuôi hầu

H ầ u phân b ố chủ y ế u ở vùng nhi ệ t đới và c ậ n nhiệ t đới. M ặ c dù H ầ u có khả n ă ng thích nghi t ố t vớ i đ iề u ki ệ n nuôi nh ưng ngh ề nuôi h ầ u ch ỉ phát triể n ở và i qu ốc gia ở vùng nhi ệ t đới. S ả n lượng Hầ u thu đượ c ch ủ y ế u là khai thác từ t ự nhiên. Các loà i H ầ u hi ệ n nay đang đượ c nuôi và khai thác bao g ồm ba nhóm (giống) chính: Ostrea, Crassotrea, Saccotrea . S ả n lượng Hầ u chủ yế u thu đượ c từ nhóm Crassotrea.

pdf11 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2370 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kĩ thuật nuôi hầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10 CHƯƠNG II KỸ THUẬT NUÔI HẦU (OSTREACEA) Hầu phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Mặc dù Hầu có khả năng thích nghi tốt với điều kiện nuôi nhưng nghề nuôi hầu chỉ phát triển ở vài quốc gia ở vùng nhiệt đới. Sản lượng Hầu thu được chủ yếu là khai thác từ tự nhiên. Các loài Hầu hiện nay đang được nuôi và khai thác bao gồm ba nhóm (giống) chính: Ostrea, Crassotrea, Saccotrea. Sản lượng Hầu chủ yếu thu được từ nhóm Crassotrea. Bảng 2.1. Sản lượng Hầu thu được ở các quốc gia từ 1978-1983 Quốc gia Loài 1978 1979 1980 1981 1982 1983 Kenya Ostrea sp. 1 3 1 1 2 Mexico Ostrea sp. Crassostrea virginica 1740 33591 2495 36059 2606 41303 4244 37706 4509 30397 3294 32723 Cuba C. rhizophorae 2100 2700 2012 2525 2577 2370 Venezuela C. rhizophorae 803 0 16 575 1240 755 Dominican C. rhizophorae 43 5 1 2 13 13 Columbia Crassostrea sp. 49 56 52 56 53 19 Senegal Crassostrea sp. 123 92 149 136 124 124 Sierra Leone Crassostrea sp. 1092 950 980 940 900 900 Brazil Crassostrea sp. 377 135 178 149 212 400 Indonesia Crassostrea sp. 186 912 605 573 1981 1866 Thailand Crassostrea sp. 221 562 5410 7856 3690 3477 Tổng 40326 43969 53313 54763 45708 45991 Những nghiên cứu về sinh học của Hầu đa số tập trung trên các đối tượng vùng ôn đới. Galtsoff (1964) đã tập hợp một số dẫn liệu sinh học tổng quát loài Crassostrea virginica. Quayle (1975) cũng đã tập hợp các danh mục tham khảo về sinh học và kỹ thuật nuôi các loài Hầu vùng nhiệt đới. Gần đây Breisch và Kennedy (1980) đã đưa ra danh mục tham khảo bao gồm nhiều lãnh vực như phân loại, sinh học và kỹ thuật nuôi với hơn 3000 tư liệu. 11 1 ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC 1.1 Phân bố Hầu phân bố rộng trên toàn thế giới, nhưng đa số tập trung ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Vùng phân vố của các loài được trình bày theo bảng sau: Bảng 2.2. Vùng phân bố của các loài Hầu trên thế giới. Loài Vùng phân bố Nuôi Khai thác tự nhiên Ostrea equestris Vịnh Mexico * O. iridescens Vịnh California đến Peru * O. palmula Vịnh California đến Ecuador * * O. stentina Bồ đào nha và Angola O. folium Úc đến Malaysia; Morroco đến Gabon * O. megadon Vịnh California đến miền nam Peru O. nomades Nam Thái bình dương; Bắc Úc O. trapezina Bắc Úc Crassostrea virginica Bờ biển từ Mexico đến Venezuela * C. rhizophorae Quần đảo Antilles, Tây Indies, Từ Venezuela đến Brazil * * C. paraibanensis Đông Bắc Brazil * C. brasiliana Brazil * C. corteziensis Vịnh California đến Panama * * C. fischeri Baja California đến Ecuador * C. columbiensis Baja California đến Chile * C. gasar Senegal đến Angola * C. madrasensis Đông nam Ấn Độ đến ven biển Nam Trung Hoa * C. ariakensis Nam Nhận Bản đến Pakistan * * C. gryphoides Ven biển Tây Ấn Độ * C. tulipa Senegal đến Angola * C. iredalei Philippines * C. belcheri Ven biển Nam Trung Hoa Saccostrea cucultata Vùng Ấn Độ Tây Thái bình dương * * 12 S. commercialis (glomerata) Phía nam nước Úïc đến Thái Lan * S. lugubris Nam Trung Hoa đến New Guinea * S. echinata Philippines, Indonesia, các đảo Tây Thái bình dương * * S. malabonensis Philippines * S. palmipes Philippines * S. tuberculata Phía tây nước Úïc, Philippines S. manilai Philippines Hầu phân bố theo độ sâu từ trung triều (intertidal) đến độ sâu 10 m (so với 0 hải đồ). Chúng phân bố ở các thủy vực có nồng độ muối từ 5-35%o. 1.2 Phương thức sống Ở giai đoạn ấu trùng chúng sống phù du. Ấu trùng Hầu có khả năng bơi lội nhờ vào hoạt động của vành tiêm mao hay đĩa bơi. Ở giai đoạn trưởng thành Hầu sống bám trên các giá thể (sống cố định) trong suốt đời sống của chúng. 1.3 Thức ăn và phương thức bắt mồi. Thức ăn của ấu trùng bao gồm vi khuẩn, sinh vật nhỏ, tảo Silic (Criptomonas, Platymonas, Monax) hoặc trùng roi có kích thước 10m hoặc nhỏ hơn. Âúu trùng cũng có thể sử dụng vật chất hòa tan trong nước và những hạt vật chất hữu cơ (detritus). Giai đoạn trưởng thành thức ăn chủ yếu là thực vật phù du và mùn bã hữu cơ. Các loài tảo thường gặp là các loài tảo Silic như: Melosira, Coscinodiscus, Cyclotella, Skeletonema, Navicula, nitzschia, Thalassiothrix, Thalassionema... Phương thức bắt mồi của Hầu là thụ động theo hình thức lọc. Cũng như các loài Bivalvia khác, Hầu bắt mồi trong quá trình hô hấp nhờ vào cấu tạo đặc biệt của mang. Khi hô hấp nước có mang theo thức ăn đi qua bề mặt mang, các hạt thức ăn sẽ dính vào các tiêm mao trên bề mặt mang nhờ vào dịch nhờn được tiết ra từ tiêm mao. Hạt thức ăn kích cỡ thích hợp (nhỏ) sẽ bị dính vào các dịch nhờn và bị tiêm mao cuốn thành viên sau đó chuyển dần về phía miệng, còn các hạt thức ăn quá lớn tiêm mao không giữ được sẽ bị dòng nước cuốn đi khỏi bề mặt mang sau đó tập trung ở mép màng áo và bị màng áo đẩy ra ngoài. Mặc dù Hầu bắt mồi thụ động nhưng với cách bắt mồi này chúng có thể chọn lọc theo kích thước của hạt thức ăn. Quá trình chọn lọc được thực hiện 4 lần theo phương thức trên: lần thứ 1 xảy ra trên bề mặt mang; lần thứ 2 xảy ra trên mương vận chuyển; lần thứ 3 xảy ra trên xúc biện; lần thứ 4 xảy ra tại mang nang chọn lọc thức ăn. Thức ăn sau khi được chọn lọc bởi mang nang chọn lọc được đưa trở lại dạ dày đề tiêu hóa. Tại dạ 13 dày thức ăn bị tiêu hóa một phần bởi các men Amylase, Bylyrase, Glycogenase và Rennet do mang tinh cá tiết ra. Sau đó thức ăn được chuyển đến manh tiêu hóa, tại đây thức ăn tiếp tục được tiêu hóa bởi các men Amylase, Lactase, Glycogenase, Lipase, Maltase, Protease. Hạt thức ăn không thích hợp được đẩy thẳng xuống ruột và ra ngoài qua hậu môn. Các tác nhân ảnh hưởng đến cường độ bắt mồi của Hầu là thủy triều, lượng thức ăn và các yếu tố môi trường (nhiệt độ, nồng độ muối...) - Khi triều lên cường độ bắt mồi tăng, triều xuống cường độ bắt mồi giảm. - Trong môi trường có nhiều thức ăn thì cường độ bắt mồi thấp và ít thức ăn thì cường độ bắt mồi cao. - Khi các yếu tố môi trường (nhiệt độ, nồng độ muối...) trong khoảng thích hợp thì cường độ bắt mồi cao và khi các yếu tố môi trường ngoài khoảng thích hợp thì cường độ bắt mồi thấp. Hình 2.1. Cấu tạo mang của Bivalvia, đường vận chuyển thức ăn (Purchon, 1968). (A) Cấu tạo tơ mang, tiêm mao, (B) Rãnh vận chuyển thức ăn, (C) Tiết diện ngang của tơ mang và rảnh vận chuyển thức ăn, (D) Tiết diện ngang của mang (®) Chiều vận chuyển của thức ăn. 14 1.4 Sinh trưởng Nhiệt độ là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của Hầu. Ở vùng nhiệt đới nhiệt độ ấm áp nên tốc độ sinh trưởng của Hầu rất nhanh và quá trình sinh trưởng diễn ra quanh năm. Thí dụ loài Crassostrea paraibanensis có thể đạt chiều cao 15cm trong một năm (Singaraja 1980). Ở vùng ôn đới quá trình sinh trưởng chỉ diễn ra trong mùa xuân-hè, mùa thu-đông Hầu gần như không sinh trưởng. Sự sinh trưởng của Hầu còn phụ thuộc vào mật độ, ở Venezuela Hầu trong các đầm nước lợ thì chậm lớn vì độ quá cao nhưng trong điều kiện nuôi thì chúng đạt 6cm trong vòng không đầy 6 tháng. Tốc độ sinh trưởng của Hầu cũng khác nhau tùy theo loài và vùng phân bố do điều kiện môi trường nước của từng vùng khác nhau và do đặc tính riêng của từng loài (yếu tố di truyền). Một đặc điểm nổi bậc của Hầu vùng nhiệt đới là sinh trưởng rất nhanh trong 6-12 tháng đầu tiên sau đó chậm dần. 1.5 Đặc điểm sinh sản của Hầu. - Giới tính: có hiện tượng biến tính (thay đổi giới tính) ở Hầu. Trên cùng cơ thể có lúc mang tính đực, có lúc mang tính cái và cũng có khi lưỡng tính. Tỉ lệ lưỡng tính trong quần thể thường thấp. - Phương thức sinh sản: tùy theo loài mà hình thức sinh sản khác nhau. Nhóm Crassostrea và Saccostrea thì đẻ trứng và tinh trùng ra môi trường nước, quá trình thụ tinh và phát triển ấu trùng diễn ra trong nước. Đối với nhóm Ostrea thì quá trình thụ tinh và phát triển ấu trùng diễn ra bên trong xoang màng áo của cá thể mẹ đến giai đoạn diện bàn hoặc muộn hơn mới ra khỏi cơ thể mẹ. - Mùa vụ sinh sản: ở vùng nhiệt đới sau một năm đã thành thục và tham gia sinh sản. Mùa vụ sinh sản xảy ra quanh năm nhưng tập trung từ tháng 4-6. Mùa vụ sinh sản ở vùng nhiệt đới thường ít tập trung và kéo dài hơn so với vùng ôn đới. Tác nhân chính kích thích đến quá trình thành thục và sinh sản của Hầu là nhiệt độ, nồng độ muối và thức ăn có trong môi trường. 1.6 Địch hại và khả năng tự bảo vệ Địch hại của Hầu bao gồm cá yếu tố vô sinh (nồng độ muối, nhiễm bẫn, độc tố, lũ lụt...) và yếu tố hữu sinh bao gồm các sinh vật cạnh tranh vật bám (Balanus, Anomia...), sinh vật ăn thịt (Rapana, Thais, sao biển, cá...), sinh vật đục khoét (Teredo, Bankia...), sinh vật ký sinh (Myticola, Polydora...) và các loài tảo gây nên hiện tượng hồng triều (Ceratium, Peridium...). Hầu có khả năng tự bảo vệ nhờ vào vỏ, khi gặp kẻ thù chúng khép vỏ lại. Ngoài ra chúng còn có khả năng chống lại các dị vật (cát, sỏi), khi dị vật rơi vào cơ thể màng áo sẽ tiết ra chất xà cừ bao lấy dị vật. 15 2 KỸ THUẬT NUÔI. 2.1 Chọn bãi nuôi. Khi chọn bãi nuôi Hầu cần chú ý đến một số vấn đề sau: - Độ sâu và đặc điểm nền đáy - Các yếu tố môi trường nằm trong khoảng thích hợp cho hầu, đặc biệt là nồng độ muối, độ trong... không bị nhiễm bẩn, không có nguồn nước ngọt đổ ra trực tiếp - Dòng chảy và độ cao của thủy triều - Nguồn nước có đầy đủ thức ăn - Địch hại - Ít sóng gió, ít tàu bè qua lại, giao thông thuận lợi 2.2 Nguồn giống. 2.2.1 Giống tự nhiên Trước khi lấy giống cần thực hiện bước dự báo nguồn giống. Có thể dự báo giống dựa vào tỉ lệ thành thục của bố mẹ thành phần và số lượng ấu trùng phù du trên bãi. - Xác định tỉ lệ thành thục: định kỳ theo dõi tỉ lệ thành thục của bố mẹ bằng cách quan sát tế bào sinh dục của Hầu bố mẹ. Khi thành thục sinh dục (chín) trứng có hình tròn hay hình quả lê, các hạt trừng tách rời, tinh trùng bắt đầu cử động khi cho vào nước. Xác định tỉ lệ thành thục chúng ta có thể dự đoán được mùa vụ sinh sản của bố mẹ. Cách này không xác định chính xác thời gian lấy giống nên phải kết hợp với phương pháp theo dõi thành phần và số lượng của ấu trùng phù du. - Theo dõi thành phần và số lượng của ấu trùng phù du: trong mùa sinh sản của Hầu, chúng ta phải thường xuyên theo dõi thành phần (tỉ lệ các giai đoạn phát triển) của ấu trùng phù du trên bãi. Khi biết được thành phần của ấu trùng chúng ta sẽ biết được chính xác thời gian để lấy giống (xem bảng thời gian phát triển của ấu trùng và hình 23). Bảng 2.3: Thời gian phát triển của các giai đoạn ấu trùng. Giai đoạn Kích thước (mm) Thời gian trải qua (ngày) Thời gian đạt đến ấu trùng bám (ngày) Straight-hinge <100 < 4 10-12 Very early umbone 100-150 4-6 9-10 Early umbone 150-200 7-9 7-8 Umbone 200-250 10-11 3-4 Umbone >250 12 1-2 16 Hình 2.2. Các giai đoạn phát triển của ấu trùng Hầu Crassostrea gigas A. Straight-hinged (90mm); B. Very early unbone (110mm); C. Early Umbone (160mm); D. Umbone (200mm); E. Umbone (250mm); F. Advanced umbone (300mm) Đồng thời với việc xác định thành phần chúng ta cần định lượng ấu trùng có trong môi trường để có thể xác định thời gian cần thiết để lấy giống. 2.2.2 Giống nhân tạo. Sản xuất giống có thể xem là một giải pháp hoàn hảo để cung cấp giống một cách chủ động, nhưng đòi hỏi phải đầu tư rất lớn về phương tiện, nhân lực. Ở Bắc Mỹ và châu Âu chỉ có vài trại kinh doanh sản xuất giống là có thể tồn tại (sản xuất có hiệu quả) trong số rất nhiều trại. Thí dụ, không quá một phần ngàn sản lượng Hầu của thế giới được sản xuất từ con giống nhân tạo. Tất cả các trại giống đang hoạt động đều sản xuất giống các loài ôn đới. Điều khiển quá trình sinh sản của các loài vùng nhiệt đới không dể dàng như các loài vùng ôn đới. Điều kiện cần thiết cho sinh sản là nhiệt độ, ở những thủy vực ôn đới mùa vụ sinh sản phụ thuộc sự gia tăng nhiệt độ vào mùa xuân, cực điểm của sự chín của tuyến sinh dục khi nhiệt độ nước đạt mức ngưỡng sinh sản. Nhiệt độ thích hợp cũng cần thiết cho sự phát triển của ấu trùng. Riêng nhiệt độ ở vùng Đông-Nam Á thì thường không phải là yếu tố kích thích sinh sản, nhưng sự tăng của nhiệt độ (trong khoảng thích hợp) thì tuyến sinh dục sẽ chín. Chính vì thế tăng nhiệt độ là một biện pháp kích thích sinh sản trong sản xuất giống nhân tạo. Sự kích thích sinh sản nhân tạo được thực hiện ở phòng thí nghiệm hoặc trại giống, nơi có thể điều khiển chính xác các kích thích sinh sản như nhiệt độ hay hóa chất. Kích thích nhiệt bằng cách nâng nhiệt độ lên từ 3-5OC so với nhiệt độ nuôi. Có thể kích thích sinh sản bằng những hóa chất khác nhau như Ammonium hydroxide (NH4OH), serotonin (5-HT)... hoặc những chất trích từ sản phẩm sinh dục. Việc dùng serotonin trong các trại giống gần đây cho thấy có hiệu quả cao hơn các hóa 17 chất khác. Những kích thích tố từ sản phẩm sinh dục không chỉ có tác dụng đối với một loài mà còn có tác dụng với nhiều loài thân mềm khác. Chất tiết từ sản phẩm sinh dục sẽ kích thích động vật thân mềm sinh sản khi chúng hấp thu được trong quá trình bắt mồi. Khi một vài cá thể sinh sản, sản phẩm sinh dục của chúng sẽ kích thích các cá thể khác trong quần thể sinh sản một cách đồng loạt. Cách này đã được ứng dụng để kích thích sinh sản nhân tạo Hầu trên một diện tích rộng. Ở vùng nhiệt đới nhiệt độ là nhân tố tương đối ổn định, trong khi độ muối biến động cao. Sự biến động độ muối được xem là nhân tố kích thích sinh sản của các loài thân mềm nhiệt đới. Cho nên thay đổi nồng độ muối cũng kích thích một số loài Bivalvia nhiệt đới sinh sản. Sau khi bố mẹ sinh sản, vớt bố mẹ ra khỏi bể và chuyển trứng và tinh trùng sang bệ thụ tinh (nếu cho cá thể đực và cái sinh sản riêng), hoặc chuyển trực tiếp sang bể ương ấu trùng. Môi trường bể ương cần duy trì nhiệt độ từ 25-28OC, nồng độ muối thì tùy theo loài mà chúng ta duy trì ở mức thích hợp và pH là 7,5. Khi ấu trùng phù du xuất hiện cần cung cấp tảo để làm thức ăn cho ấu trùng và thay nước hàng ngày. Đến giai đoạn ấu trùng bám cần phải cung cấp giá thể cho ấu trùng. Giá thể có thể cát sỏi, lưới, khay... kích thước khoảng 2-4 mm. Sau khi ấu trùng đã bám thì chuyển sang bể ương lớn hơn. 2.3 Lấy giống và nuôi lớn. Hầu là loài sống bám nên giá thể thì rất cần thiết trong suốt quá trình sống của chúng. Trong tự nhiên ấu trùng bám vào các loại giá thể khác nhau như vỏ nhuyển thể, đá, cọc... Tuy nhiên, khi không có giá thể cứng chúng cũng có thể bám vào rong biển. Giá thể thích hợp là những giá thể có chứa calci như vỏ động vật thân mềm hoặc đá vôi. Vật liệu dùng làm giá thể cho các loài sống bám như Hầu thường là vỏ của động vật thân mềm, ngoài ra có thể dùng dây thừng, tre, ống nhựa, gổ hoặc sọ dừa và các loại vật liệu khác. Sự lựa chọn giá thể tùy theo hình thức và qui mô nuôi. Giá thể dùng để nuôi treo (bè, giàn) thì thường lớn và bền hơn giá thể dùng nuôi đáy. Giá thể thích hợp thì phải đạt được một số tiêu chuẩn sau: - Giá rẻ và có thể cung cấp với số lượng lớn - Rắn, hơi nhám, bề mặt sạch (màu sắc không quan trọng) - Trọng lượng riêng vừa phải đảm bảo không quá nặng khi treo nhưng cũng phải đủ nặng để không bị nổi - Dễ dàng vận chuyển - Diện tích bề mặt lớn nhất trên cùng một đơn vị thể tích - Dòng nước phải chảy qua toàn bộ bề mặt của giá thể và đường kính của cọc phải đủ lớn cho sinh trưởng của ấu trùng đến khi đạt cỡ thu hoạch. 18 - Thích hợp cho cả nuôi treo hoặc nuôi đáy - Ít tích tụ bùn trên bề mặt giá thể - Đối với giá thể dùng nuôi đáy phải dể dàng phân hủy sau một thời gian nuôi. Hình 2.3. Giá thể là vỏ Điệp tròn (Placuna) Hình 2.4. Chuổi giá thể bằng fibro Hình 2.5. Giá thể hình que (a: ngang; b: dọc) Hình 2.6. Chuổi giá thể bằng vỏ nhuyễn thể Hình 2.7. Chuổi giá thể treo trên giàn Hình 2.8. Chuổi giá thể treo trên bè Lấy giống là một giai đoạn quan trọng nhưng nó chỉ là một giai đoạn ngắn trong quá trình nuôi. Vì vậy tùy điều kiện cụ thể mà chọn giá thể sao cho thu được nhiều ấu trùng nhất nhưng chi phí thấp nhất. 19 Có một số phương pháp lấy giống và nuôi lớn sau: - Nuôi đáy (bottom culture): giá thể thường dùng trong phương pháp nuôi đáy là đá, sỏi, vỏ động vật thân mềm... Giá thể được rải xuống nền đáy ở vùng triều hoặc dưới triều. Cách nuôi này được áp dụng ở những nơi có nền đáy cứng, ít phù sa hay xác bã hữu cơ (xem hình 24). - Phương pháp nuôi que, cọc (sticks culture): thường dùng các giá thể là cọc tre, gổ hay bê tông... phương pháp này áp dụng ở những nơi có nền đáy mềm, có nhiều phù sa và xác bã hữu cơ. - Phương pháp nuôi bằng giàn (rack culture): vật bám là các khay (tray), que (stick) hay các chuổi (string) giá thể làm bằng các vật liệu khác nhau như: vỏ động vật thân mềm, gáo dừa, gổ... Phương pháp này áp dụng nơi có nhiều phù sa, xác bã hữu cơ hay nhiêu sinh vật địch hại sống đáy như sao biển, ốc... - Phương pháp nuôi bè (raft culture): bè là một khung gổ hoặc tre hoặc dây thừng kết nối lại với nhau và được làm nổi bởi hệ thống phao. Bè được giữ cố định bằng bốn dây neo ở bốn góc của bè. Các chuổi giá thể được treo trên khung của bè, giá thể dùng trong nuôi bè cũng tương tự như giá thể dùng trong cách nuôi bằng giàn (khay, que, chuổi. Hình 2.9. Nuôi dây treo Hình 2.10. Nuôi đáy Hình 2.11. Nuôi giàn Hình 2.12. Nuôi cọc 2.4 Quản lý, chăm sóc. Quá trình quản lý, chăm sóc bao gồm san thưa và phòng trừ địch hại cho Hầu. Trong quá trình nuôi thì Hầu lớn lên dần chúng ta phải san thưa bằng cách làm thưa các chuổi giá thể để đảm bảo điều kiện thức ăn cho Hầu. Trong điều kiện môi trường bất lợi chùng ta phải có biện pháp đề phòng hay di dời Hầu đến bãi khác. Chú ý tiêu diệt các sinh vật địch hại của Hầu. Các sinh vật địch hại của Hầu bao gồm: 20 - Sinh vật bám: sinh vật bám có thể làm chết Hầu đặc biệt là giai đoạn giống, chúng cũng làm giảm sinh trưởng và cạnh tranh giá thể với hầu làm giảm hiệu quả lấy giống. Sinh vật bám thường ít gây hại đối với hệ thống nuôi ở vùng triều nhưng sẽ gây hại đối với hệ thống nuôi ở vùng dưới triều. Sinh vật bám cũng ít gây hại ở vùng có nồng độ muối dao động lớn bởi vì chúng là những sinh vật hẹp muối. Các sinh vật bám bao gồm: Hải miên (Cliona), Ruột khoang, Thủy tức (Obelia), Giun ống (Polydora), Sun (Balanus), Vẹm (Mytilus, Perna), động vật có đuôi sống (Halocynthia), tảo (Ulva, Enteromorpha, Laminaria)và vi khuẩn. Có thể khống chế các sinh vật bám bằng các biện pháp vật lý, hóa học và sinh học. Phương pháp vật lý hiệu quả nhất là phơi các sinh vật dưới ánh nắng mặt trời. Biện pháp hóa học là sử dụng một số hóa chất như Sulphat đồng 1-2% trong 1 giờ, tuy nhiên phương pháp này tốn nhiều công sức và đắt tiền. Khi áp dụng biện pháp sinh học chúng ta cần hiểu rõ chu kỳ sống, đặc điểm sinh thái, đặc biệt là mùa sinh sản của các sinh vật bám. Khi biết được các đặc điểm trên chúng ta có thể chủ động lấy giống trành những thời điễm xuất hiện nhiều sinh vật bám. - Ký sinh trùng: bao gồm các nguyên sinh động vật (Mastigophora, Sarcodina), bào từ trùng (Telasporea, Nematopsis), nhóm bào tử đơn bội (Minchinia nelsoni, Minchinia costalis), nhóm tiểu bào tử (Chytridiopsis mytilovum), trùng tơ (Ancistrum), vi khuẩn Vibrio,Virus, nấm (Perkinsus), bọt biển (Cliona), giun dẹp (Stylochus, Pseudostylochus), sán lá (Busephalus, Gymnophallus), sán dây (Echeneibothrium, Tylocephalum), giun tròn (Echinocephalus), giun đốt (Polydora), động vật thân mềm (Odostomia), giáp xác (Mytilicola, Myicola, Ostrincola). - Sinh vật ăn thịt: bao gồm ốc (Tritonidae, Naticidae), cua , sao biển...Đối với nhóm này các phòng trừ chủ yếu là nhặt bằng tay khi triều xuống hoặc dùng bẩy và áp dụng biện pháp nuôi giàn, bè để hạn chế địch hại từ đáy. 2.5 Thu hoạch. Sau một năm nuôi thì có thể thu hoạch. Mùa vụ thu hoạch Hầu có liên quan đến chất lượng sản phẩm. Thường vào mùa sinh sản khi tuyến sinh dục của Hầu phát thành thục thì chất lượng thịt cao nhất, lúc đó hàm lượng đạm cao và hàm lượng nước trong thịt thấp. Do đó đối với Hầu thì mùa vụ khai thác tốt nhất là váo mùa sinh sản. Tuy nhiên, nếu thu hoạch vào mùa sinh sản cần chú ý đến vấn đề bảo vệ nguồn lợi. Nên chọn giải pháp bảo vệ nguồn lợi thích hợp như: phân vùng khai thác, quy định kích cỡ khai thác phải lớn hơn kích cỡ các thể có khả năng tham gia sinh sản lần đầu hay hay giới hạn sản lượng thu hoạch... sao cho trên bãi vẫn còn đủ số lượng Hầu bố mẹ sinh sản nhằm phục hồi quần thể.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfCHUONGIIKYTHUATNUOIHAUOSTREACEA.pdf