Cần nâng cao chất lượng của nguồn lao
động trong nông nghiệp bằng cách đầu tư vào
giáo dục – đào tạo, y tế và dinh dưỡng để nâng
cao trình độ chuyên môn cho nguồn lao động
nông nghiệp, điều này phát huy được những
thành tựu của khoa học kỹ thuật vào trong sản
xuất nông nghiệp. Ngoài trình độ chuyên môn
được nâng lên thông qua giáo dục – đào tạo thì
cũng cần phải quan tâm vấn đề sức khỏe bởi
điều này sẽ làm tăng năng suất và sản lượng
trong sản xuất nông nghiệp.
Đất canh tác cho nông nghiệp mặc dù
trong ngắn hạn có tác động âm đến tăng trưởng
nông nghiệp ĐBSCL nhưng vẫn nằm trong xu
thế và đúng với các lý thuyết tăng trưởng nông
nghiệp là nếu tăng quy mô đất cho sản xuất
nông nghiệp sẽ làm tăng trưởng nông nghiệp
ĐBSCL. Tuy nhiên đất đai canh tác là nguồn
lực bị giới hạn và sẽ giảm dần theo sự gia tăng
của đô thị hóa và công nghiệp hóa, vì vậy nhà
nước cần phải có chính sách quan tâm đến
nguồn lực này tránh bị sử dụng lãng phí, và gia
tăng chất lượng của nguồn lực canh tác này
trong tương lai.
Riêng nguồn lực phân bón vô cơ thì theo
như kết quả ước lượng cho thấy nguồn lực này
không khuyến khích gia tăng sử dụng. Để gia
tăng năng suất và sản lượng thì thay vì sử dụng
phân vô cơ, nhà nước khuyến khích người dân
sử dụng phân bón hữu cơ hoặc vi sinh. Điều
này sẽ giải quyết được các vấn đề về cả sản
xuất và vấn đề môi trường
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiểm định tính năng động dài hạn của các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
46 Nguyễn T. Lương và Võ T. Danh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 46-55
KIỂM ĐỊNH TÍNH NĂNG ĐỘNG DÀI HẠN CỦA CÁC YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG NÔNG NGHIỆP
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
NGUYỄN THỊ LƯƠNG1,* và VÕ THÀNH DANH1
1Trường Đại học Cần Thơ
*Email: ntluong@ctu.edu.vn
(Ngày nhận: 05/10/2019; Ngày nhận lại: 03/12/2019; Ngày duyệt đăng: 05/12/2019)
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu là kiểm định mối quan hệ năng động trong dài hạn của các yếu tố
ảnh hưởng đến tăng trưởng nông nghiệp ĐBSCL cũng như tốc độ điều chỉnh của tăng trưởng nông
nghiệp để trở về trạng thái cân bằng. Nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng trung gian
(PMG) được đề xuất bởi Perasan và Smith (1995) và phát triển bởi Pesaran và cộng sự (1999) cho
mẫu với N = 13 và T = 26. Từ kết quả ước lượng cho thấy lao động, đất, máy bơm và máy kéo đều
có mối quan hệ dương trong khi phân bón vô cơ lại tác động âm với tăng trưởng nông nghiệp
ĐBSCL trong dài hạn. Tuy trong dài hạn các yếu tố đều có ý nghĩa ở mức 1%, nhưng trong ngắn
hạn thì chỉ có phân bón, đất và máy kéo có mối quan hệ năng động với biến phụ thuộc. Kết quả
cũng cho thấy các yếu tố bất thường có làm tăng trưởng nông nghiệp chệch khỏi sự cân bằng, tuy
nhiên tốc độ điều chỉnh để trở về trạng thái cân bằng khá nhỏ chỉ ở mức 11,39%/năm.
Từ khóa: Đồng bằng sông Cửu Long; Quan hệ năng động; Tăng trưởng nông nghiệp; Ước
lượng PMG
Testing dynamic relationship in long - run of determinants affecting on agricultural
growth in Mekong Delta
ABSTRACT
This paper examines the dynamic relationship of agricultural growth and its determinants in
long-term as well as the speed of adjustment of any deviation from the equilibrium state due to
any shock in the process in Mekong Delta region. The Pooled mean group (PMG) estimation
techniques developed by Pesaran and Smith (1995) and Pesaran et al (1999) is applied to the case
study of 13 provinces of Mekong Delta over the long period of 25 years from 1990 to 2015. On
the one hand, the estimation result reveals that agricultural labor forces, farmlands and
mechanization have significant positive effects at 1% level, while fertilizer has a negative
influence on the long - term growth in Mekong Delta agriculture. On the other hand, fertilizer,
farmlands and tractors are three main factors contributing to the short – term growth. The empirical
result also indicates that shocks cause the agricultural growth to deviate from the equilibrium stage.
However, the speed of the adjustment of growth agricultural back to the stability is quite small at
11,39% per year.
Keywords: Mekong Delta; Dynamic relationship; Agricultural growth; PMG estimator
Nguyễn T. Lương và Võ T. Danh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 46-55 47
1. Đặt vấn đề
Từ lý thuyết cho đến thực tiễn đều cho thấy
vai trò to lớn của lĩnh vực nông nghiệp đối với
nền kinh tế, rất nhiều nhà nghiên cứu kinh tế đã
tìm ra mối liên hệ chặt chẽ giữa tăng trưởng
lĩnh vực nông nghiệp với sự tăng trưởng của
nền kinh tế, tăng trưởng của lĩnh vực công
nghiệp, thương mại – dịch vụ (Koo and Lou,
1997; Meijerink và Pim, 2007), giữa tăng
trưởng nông nghiệp và đa dạng thu nhập cho
nông hộ, giảm nghèo đói (World Bank, 2008;
Christiaensen, 2012). Vai trò của nông nghiệp
trong phát triển là cung cấp nguồn lao động cho
lĩnh vực công nghiệp, đáp ứng nhu cầu lương
thực thực phẩm với sự gia tăng về dân số, cung
cấp nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp, mở
rộng thị trường cho sản phẩm công nghiệp,
mang lại nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu sản phẩm
nông sản và cung cung cấp nguồn nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến (Johnston và Mellor,
1961; Delgado và cộng sự, 1998).
Việt Nam là một nước đi lên từ nông
nghiệp, từ một trong những quốc gia nghèo
trên thế giới, phải nhập khẩu lương thực – thực
phẩm đến quốc gia có thu nhập dưới trung bình
và có những vị trí cao trong xuất khẩu một số
mặt hàng nông sản như lúa gạo, cà phê, cao su
và thủy sản. Đạt được thành công đó chủ yếu
là do sự đóng góp của nông nghiệp và nông
thôn Việt Nam. Trong sự đóng góp đó không
thể phủ nhận vai trò to lớn của nông nghiệp
vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhất là trong
hoạt động sản xuất lúa, thủy sản và cây ăn trái.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam
trong năm 2013 cho thấy sản lượng lúa thu
hoạch, sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai
thác và sản lượng trái cây thu hoạch của Đồng
bằng sông Cửu Long so với cả nước lần lượt là
56,7%, 56,62% và 70,62%.
Mặc dù có những thành công nhất định
nhưng tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam vẫn
còn nhiều tồn tại, tăng trưởng vẫn chủ yếu theo
chiều rộng - dựa vào sự gia tăng đầu tư về vốn;
tăng diện tích đất canh tác do thâm canh, tăng
vụ, hoặc do công tác thủy lợi; hoặc do tăng
lượng lao động thô mà không phải là do tăng
hiệu quả sử dụng các nguồn lực sản xuất hay
ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất
(Barker và cộng sự, 2004; Vu Hoang Linh,
2009; Nguyen Ngoc Que và Goletti, 2001;
Huynh Vinh Thanh và Le Sy Tho, 2010).
Cho đến thời điểm này có nhiều nghiên
cứu về tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam, tuy
nhiên nghiên cứu tăng trưởng nông nghiệp cho
riêng vùng đất Cửu Long vẫn còn rất ít. Để phát
huy hết lợi thế của vùng đất ĐBSCL cũng như
hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực của
các vấn đề về quản lý, chính sách cũng như
những điều kiện tự nhiên bất lợi thì cần phải
hiểu được thực trạng và nguồn gốc tăng trưởng
nông nghiệp vùng đất này, những yếu tố nào là
ảnh hưởng đến tăng trưởng nông nghiệp. Trong
tăng trưởng kinh tế nói chung và tăng trưởng
nông nghiệp nói riêng có những yếu tố chỉ ảnh
hưởng trong ngắn hạn hay chỉ ảnh hưởng trong
dài hạn hoặc cả hai, vì vậy chính sách cho mỗi
yếu tố đó sẽ khác nhau cho phù hợp. Mục tiêu
của bài nghiên cứu này nhằm kiểm định mối
quan hệ trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn
của các yếu tố đầu vào ảnh hưởng đến tăng
trưởng nông nghiệp ĐBSCL và đề xuất các
hàm ý chính sách cho tăng trưởng nông nghiệp
của vùng đất này.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Cơ sở lý thuyết về tăng trưởng và
tăng trưởng nông nghiệp
Tăng trưởng kinh tế là một đề tài được sự
quan tâm của rất nhiều nhà kinh tế học nổi tiếng
từ rất sớm cho đến nay. Nguồn gốc tăng trưởng
kinh tế đã được các nhà kinh tế nghiên cứu và
công bố trong các tác phẩm kinh điển của họ.
Vốn hay tư bản là một yếu tố được xem là
ảnh hưởng nhiều nhất đến tăng trưởng kinh tế.
Sự gia tăng tích lũy và đầu tư tư bản vào sản
xuất làm gia tăng về năng suất lao động của xã
hội (Adam Smith, 1776); tăng tổng cầu và từ
đó làm gia tăng sản lượng và việc làm trong
ngắn hạn (Harrod – Domar, 1939); tạo ra kiến
thức mới - là một yếu tố tạo ra sự tăng trưởng
thần kỳ cho nền kinh tế (Aghion và Howitt,
48 Nguyễn T. Lương và Võ T. Danh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 46-55
1992). Sự thiếu hụt về vốn đầu tư vào cơ sở hạ
tầng, y tế, giáo dục nên không thể nâng cao chất
lượng lao động để gia tăng năng suất lao động
(Samuelson, 1948). Không chỉ ảnh hưởng đến
chất lượng lao động thông qua đầu tư vào y tế
- giáo dục do thiếu hụt vốn mà còn ảnh hưởng
đến hoạt động nghiên cứu và phát triển để tạo
kiến thức mới – công nghệ mới.
Lao động là yếu tố tạo nên sự tăng trưởng
kinh tế nói chung và trong nông nghiệp nói
riêng. Nếu như Solow - Swan chỉ đề cập đến
lao động đơn giản hay lao động thô ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế, thì các nhà kinh tế học
theo thuyết tăng trưởng mới hay tăng trưởng
nội sinh cho rằng lao động thô sẽ không giải
thích được sự tăng trưởng dài hạn hoặc khác
biệt về thu nhập bình quân đầu người giữa các
quốc gia. Vì vậy trong nghiên cứu của mình thì
Mankiw – Romer – Weil (1992) đã đề cập đến
lao động có trình độ, kỹ năng và kinh nghiệm
– gọi là vốn con người – vào trong mô hình
tăng trưởng của Solow. Nếu vốn con người là
hàng hóa không thể thay thế và loại trừ thì sự
chênh lệch về tăng trưởng giữa các nước là do
vốn con người – nguồn lao động hiệu quả bao
gồm khả năng, kỹ năng và kiến thức của mỗi
người lao động riêng lẻ.
Sự tăng trưởng của các quốc gia sẽ bị giới
hạn bởi sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, và lĩnh vực nông nghiệp sẽ không thoát
khỏi quy luật lợi tức giảm dần do giới hạn về
nguồn lực đất đai (David Ricardo, 1817). Đất
đai là nguồn lực chủ yếu cho hoạt động sản
xuất nông nghiệp của các quốc gia trong nền
nông nghiệp tự cung – tự cấp (Todaro, 1969)
hoặc giai đoạn sơ khai (Sung Sang Park, 1992).
Quá khứ và hiện tại đã cho thấy nguồn tài
nguyên thiên nhiên nói chung và đất đai nói
riêng không phải là nguồn lực ảnh hưởng quá
lớn đến tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng nông
nghiệp. Nhật Bản, Isarel hay Singapore là
những quốc gia không có nguồn tài nguyên dồi
dào, diện tích canh tác ít nhưng lại là những
quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao,
nền nông nghiệp phát triển như Isarel. Công
nghệ chính là yếu tố đã được đề cập đến trong
hầu hết các lý thuyết tăng trưởng cổ điển, tân cổ
điển hay tăng trưởng mới. Công nghệ có thể
được hình thành dựa trên kinh nghiệm sản xuất
và thử nghiệm của người nông dân (David
Ricardo, 1817) hoặc là một sản phẩm phụ của
quá trình sản xuất hàng hoá (Arrow, 1962). Các
quốc gia muốn có sự tăng trưởng nhanh thì cần
có sự đầu tư của Chính phủ vào hoạt động
nghiên cứu và phát triển (R&D), đầu tư của
Chính phủ cùng với đầu tư tư nhân là những
động lực thúc đẩy trong việc tạo ra kiến thức
mới (Rosow; 1961; Romer, 1990; Grossman và
Helpman, 1991; Aghion và Howitt, 1992). Các
nước nghèo có trình độ kỹ thuật sản xuất thấp
kém có thể bắt chước công nghệ của các nước
đi trước, và là giải pháp để các nước nghèo tăng
trưởng kinh tế, bắt kịp các nước phát triển
(Samuelson, 1962). Các nguồn lực sản xuất để
tăng trưởng kinh tế bị giới hạn, vốn vật chất và
lao động có thể giảm dần thì công nghệ là
không giới hạn nên chính công nghệ là nhân tố
tạo ra sự tăng trưởng thần kỳ cho nền kinh tế.
Trong nền nông nghiệp đa dạng thì công nghệ
sinh học làm gia tăng năng suất nông nghiệp và
trong nền nông nghiệp phát triển cao nhất là thì
vốn cùng công nghệ là hai yếu tố đóng góp chủ
yếu vào sự gia tăng năng suất và sản lượng nông
nghiệp (Sung Sang Park, 1962; Todaro, 1969)
và khi nền kinh tế đạt trạng thái toàn dụng vì
không còn tình trạng dư thừa lao động ở khu
vực nông nghiệp vì đã ứng dụng mức độ cao
của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, vì vậy khoa
học công nghệ đóng vai trò then chốt trong phát
triển nông nghiệp (Sung Sang Park, 1962).
Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp thì
ngoài các yếu tố đầu vào cơ bản như lao động,
vốn, đất thì còn phụ thuộc vào thời tiết khí hậu,
nhất là nền nông nghiệp ở giai đoạn sơ khai.
Đến giai đoạn phát triển thì tăng trưởng nông
nghiệp còn do gia tăng lượng phân bón, thuốc
bảo vệ thực vật sử dụng (Sung Sang Park,
1962).
2.2. Đánh giá tổng quan
Điều kiện tự nhiên của đất là một nhân tố
Nguyễn T. Lương và Võ T. Danh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 46-55 49
chính ảnh hưởng đến năng suất đất, quyết định
đầu tư của nông dân vào đất đai canh tác và
hoạt động sản xuất nông nghiệp có thể làm tăng
hoặc giảm năng lực sản xuất của đất đai. Sự
hạn chế về nguồn vốn của người nông dân dẫn
đến mức đầu thấp vào công cụ, cải thiện đất đai
và vốn con người (Zepela, 2001). Đối với các
nước kém phát triển do thu nhập thấp và giới
hạn về thị trường tài chính nên ảnh hưởng đến
việc đầu tư tái tạo đất, kết hợp với việc sử dụng
đất không hợp lý lâu dài sẽ ảnh hưởng đến năng
suất của đất.
Trong một nghiên cứu của Jin và cộng sự
(2015) về ảnh hưởng của việc sử dụng đất đến
sự thay đổi năng suất nông nghiệp ở lưu vực
sông Hoàng Hải – Trung Quốc cho thấy việc
chuyển đổi đất trồng trọt thành đất xây dựng có
ảnh hưởng quan trọng đến sự khác biệt về năng
suất giữa các vùng nghiên cứu, diện tích đất
canh tác bình quân đầu người có quan hệ ngược
chiều với năng suất và việc quản lý sử dụng đất
hiệu quả đóng vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy hệ thống sinh học và phát triển kinh tế
ổn định và bền vững.
Tương tự như lao động thì đất đai vẫn giữ
một vai trò quan trọng đối với các nước có nền
nông nghiệp kém phát triển, đất đai canh tác
vẫn có những đóng góp đáng kể vào tăng
trưởng giá trị nông nghiệp trong nước. Trong
dài hạn thì tổng diện tích đất canh tác có ảnh
hưởng tích cực đến tăng trưởng giá trị nông
nghiệp của Pakistan trong giai đoạn từ 1970
đến 2009, còn trong ngắn hạn thì độ co giãn của
diện tích đất canh tác với giá trị sản lượng nông
nghiệp Pakistan là 0,47 (Awan và Mustafa,
2012). Không phải bao giờ đất đai cũng đóng
góp vào sự gia tăng của sản lượng nông nghiệp
mà có thể làm giảm sản lượng do diện tích canh
tác giảm xuống. Sự giảm xuống của đất có thể
do nhiều yếu tố trong đó là do quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra - điều này tìm
được bằng chứng ở Trung Quốc (Zhou, 2013)
và Việt Nam (OECD, 2015) và nông nghiệp
Mỹ (Wang và cộng sự, 2015).
Capallbo và Denny (1986) khi nghiên cứu
về mối quan hệ giữa chỉ số tổng năng suất và
năng suất ròng của Canada và Mỹ đã ước lượng
được sự tăng trưởng của năng suất các yếu tố
tổng hợp được đóng góp bởi 50% là năng suất
lao động. Lượng của các yếu tố đầu vào ảnh
hưởng trực tiếp đến năng suất lao động như đất,
lao động, các yếu tố đầu vào trung gian và vốn
vật chất. Hoạt động sản xuất nông nghiệp của
các quốc gia kém phát triển có đặc điểm là sử
dụng nhiều lao động và ít vốn vật chất và mức
độ cơ giới hóa rất thấp. Vì vậy hệ số co giãn
của lao động đến giá trị gia tăng nông nghiệp
thường rất cao ở các nước kém phát triển
(Fuglie và Rada, 2013; Dias Avila và Evenson,
2010; Zepeda, 2001). Tuy nhiên đối với các
quốc gia có nền nông nghiệp tiên tiến, mức độ
cơ giới hóa cao thì sự đóng góp của yếu tố này
giảm xuống (Wang và cộng sự, 2015). Wang
khi nghiên cứu tăng trưởng năng suất nông
nghiệp của Mỹ đã cho thấy có sự giảm xuống
về lượng lao động, cụ thể năm 2011 lượng lao
động của Mỹ chỉ bằng ¼ so với năm 1948
nhưng tốc độ tăng năng suất lao động lại tăng
lên, điều đó phản ảnh sự tăng lên của chất
lượng lao động thông qua giáo dục. Gia tăng sử
dụng hóa chất và máy móc nông nghiệp làm
giảm lượng lao động trong hoạt động sản xuất
nông nghiệp của Mỹ, vì vậy lao động đã làm
giảm mức tăng trưởng của năng suất các yếu
tố tổng hợp của nông nghiệp Mỹ trong giai
đoạn 1948 - 2011, kết luận này tương tự khi
Zhou và Peng (2011) nghiên cứu tăng trưởng
năng suất nông nghiệp Trung Quốc giai đoạn
1985 - 2010.
Phân bón là một trong những yếu tố đầu
vào hữu hình của hoạt động canh tác cây trồng
và được đưa vào trong hầu hết tất cả các nghiên
cứu về năng suất nông nghiệp. Phân bón cung
cấp ba thành phần dinh dưỡng quan trọng là
đạm, lân và kali. Nhu cầu đối với ba thành phần
cơ bản của phân bón của cây trồng phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như loại đất, loại cây trồng và
sự sẵn có về nguồn nước.
Đối với các nước có nền nông nghiệp kém
phát triển thì sự đóng góp của lượng phân bón
50 Nguyễn T. Lương và Võ T. Danh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 46-55
sử dụng là đáng kể vì đường sản xuất còn ở
thấp. Zhou và Peng (2011) khi xem xét các yếu
tố ảnh hưởng đến năng suất nông nghiệp Trung
Quốc giai đoạn 1985 – 2010 đã cho thấy việc
gia tăng sử dụng các yếu tố đầu vào đóng góp
vào sự gia tăng sản lượng đầu ra là 40,6%, và
trong các yếu tố đầu vào thì lượng phân bón
hoá chất sử dụng đóng góp quan trọng nhất vào
sự gia tăng sản lượng đầu ra. Nền nông nghiệp
Việt Nam có nhiều tương đồng với nền nông
nghiệp Trung Quốc, nên lượng phân bón sử
dụng ở Việt Nam giai đoạn 1990 – 1999 đã
tăng gấp 3 lần và sử dụng ở mức 250 kg
NPK/ha canh tác. Chính phân bón là chi phí
đầu vào bằng tiền chủ yếu của nông dân Việt
Nam. Lượng phân bón sử dụng gia tăng ở Việt
Nam có nhiều nguyên nhân, một trong những
nguyên nhân là do chính sách trợ giá của chính
phủ cho các yếu tố đầu vào như phân bón,
nước tưới tiêu và chính sách ổn định giá hàng
nông sản (Baker và cộng sự, 2004). Lượng
phân bón và thuốc bảo vệ thực vật của nông
nghiệp Mỹ có xu hướng tăng lên, cụ thể là
lượng phân bón sử dụng giai đoạn 1948 – 1980
tăng gấp ba lần, sau đó ổn định ở những năm
1980, còn lượng thuốc bảo vệ thực vật tăng 10
lần từ năm 1948 đến 1980. Sự thay đổi này thì
theo Wang và cộng sự (2015) là do thay đổi
việc canh tác hoặc phương pháp kiểm soát dịch
bệnh. Trong các nghiên cứu thực nghiệm cũng
tìm qua mối quan hệ nghịch chiều giữa lượng
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và lượng lao
động sử dụng.
Mặc dù trong hầu hết các nghiên cứu về sự
ảnh hưởng của lượng phân bón sử dụng đối với
năng suất cây trồng đều chỉ ra mối quan hệ
cùng chiều giữa lượng phân bón sử dụng và
năng suất nông nghiệp. Tuy nhiên khi lượng
phân bón đã sử dụng ở mức tối ưu, phù hợp với
điều kiện sản xuất hiện tại thì việc gia tăng
lượng phân bón, đặc biệt là phân vô cơ, sẽ gây
ảnh hưởng xấu đến chất lượng đất và môi
trường canh tác. Lượng phân bón vô cơ đưa
vào đất quá nhiều, cây trồng không hấp thụ hết
sẽ gây ra tình trạng đất bị chai và ô nhiễm, gây
ảnh hưởng đến năng suất của đất và từ đó gián
tiếp ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng
nông nghiệp.
3. Mô hình và phương pháp ước lượng
3.1. Mô hình ước lượng
Dựa vào hàm sản xuất Cobb – Douglas, tác
giả xây dựng mô hình động với dữ liệu bảng
gồm biến phụ thuộc là GDP nông nghiệp và các
biến độc lập là những yếu tố đầu vào quan
trọng của hoạt động sản xuất nông nghiệp bao
gồm đất nông nghiệp, lượng lao động nông
nghiệp, lượng phân bón vô cơ, lượng máy kéo
và máy bơm dùng cho hoạt động nông nghiệp.
Trong đó diện tích đất cho nông nghiệp bao
gồm diện tích đất canh tác có chất lượng khác
nhau, lượng lao động trong nông nghiệp nằm
trong độ tuổi lao động.
𝑌𝑖𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1𝑌𝑖𝑡−1 + 𝛽𝑗𝑋𝑖𝑡
′ + 𝑒𝑖𝑡
Với i =13 tỉnh/thành ĐBSCL, t là thời gian
từ 1990 – 2015, 𝑋𝑖𝑡 là vecto các biến độc lập
như đã trình bày ở trên.
3.2. Phương pháp ước lượng
Tác giả sử dụng số liệu thứ cấp thu thập
được từ nhiều nguồn khác nhau chủ yếu là từ
niên giám thống kê. Do những ưu điểm của số
liệu bảng so với số liệu chéo và thời gian, vì
vậy số liệu được sử dụng để kiểm định mối
quan hệ trong dài hạn của các yếu tố đầu vào
ảnh hưởng đến tăng trưởng nông nghiệp
ĐBSCL được thu thập trong 26 năm (1990 –
2015) với số liệu của chỉ tiêu như diện tích đất
nông nghiệp, lượng lao động trong nông
nghiệp, số liệu máy kéo, máy cày dùng để đại
diện cho chỉ tiêu vốn và lượng phân bón vô cơ
của 13 tỉnh/thành ĐBSCL.
Với những phương pháp ước lượng truyền
thống cho số liệu bảng như mô hình hiệu ứng
cố định (FE) hay mô hình hiệu ứng thay đổi
(RE) sẽ hiệu quả khi số liệu với T và N đủ lớn.
Tuy nhiên vì giới hạn về nguồn số liệu và
không gian nghiên cứu nên bài viết sẽ sử dụng
mẫu có T= 26 và N = 13, với cỡ mẫu như vậy
thì không phải là lý tưởng để ước lượng các hệ
số bằng mô hình RE hay FE, mặt khác các mô
hình ước lượng truyền thống cho dữ liệu bảng
Nguyễn T. Lương và Võ T. Danh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 46-55 51
thì không chỉ ra được mối liên hệ trong dài hạn
và ngắn hạn của các yếu tố. Vì vậy nghiên cứu
sử dụng một phương pháp ước lượng trung
gian (PMG) của Pesaran và cộng sự (1999) với
nhiều ưu điểm trong việc xử lý tính không đồng
nhất trong ngắn hạn và dài hạn của số liệu
bảng. Thật vậy, các phương pháp ước lượng
truyền thống thì bắt buộc các tham số đồng
nhất giữa các đơn vị bảng và điều đó các làm
sai lệch các hệ số hồi quy trong dài hạn, trong
khi PMG cho phép các đặc tính năng động
trong ngắn hạn khác nhau giữa các đơn vị bảng
nhưng ràng buộc các hệ số trong dài hạn phải
đồng nhất, đồng thời không yêu cầu tính đồng
nhất các hệ số gốc trong ngắn hạn cho phép đặc
tính năng động khác nhau giữa các nhóm.
Trong nghiên cứu này phương pháp PMG cho
phép: (i) ước lượng độ co giãn giữa tăng trưởng
nông nghiệp và các yếu tố đầu vào quan trọng
và (ii) ước lượng tốc độ điều chỉnh để trở về
cân bằng dài hạn.
PMG được sử dụng để ước lượng các hệ
số co giãn và tốc độ điều chỉnh như sau:
∆𝑌𝑖𝑡−1 = 𝜙𝑆𝑖𝑡−1 + ∑ 𝛿Δ𝑋𝑖𝑡−1 + 𝜂𝑖 + 𝜀𝑖𝑡
𝑚
𝑗=1
Trong đó: 𝑆𝑖𝑡−1 = 𝑌𝑖𝑡−1 − 𝜃𝑋𝑖𝑡−1
𝑆𝑖𝑡−1 là biến phát sinh từ cân bằng dài hạn
ở bất kỳ thời gian nào đối với nhóm i và là hệ
số điều chỉnh sai số (ec) phản ánh tốc độ điều
chỉnh, vecto 𝜃 và 𝛿 lần lượt là hệ số hồi quy dài
hạn và ngắn hạn của các biến độc lập X đến
biến phụ thuộc Y, vecto 𝜂𝑖 và 𝜀𝑖𝑡 lần lượt là sai
số không quan sát được và quan sát được.
Ước lượng mô hình vecto đồng liên kết
PMG đòi hỏi các biến đưa vào mô hình phải có
tính đồng liên kết, vì vậy cần phải kiểm định
tính dừng của chuỗi số liệu và kiểm định tính
đồng liên kết của biến phụ thuộc và các biến
độc lập đưa vào mô hình.
Mô hình sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị
bằng kiểm định Fisher dựa trên nền tảng
Augmented Dickey Fuller và Philips Perron
với độ trễ là 2 cho hai trường hợp có và không
có xu hướng.
Để kiểm định tính đồng liên kết bảng của
các biến đưa vào mô hình thì tác giả sử dụng
kiểm định Westerlund (2007).
4. Kết quả và thảo luận
4.1. Các kiểm định cần thiết
Như đã đề cập trong phần phương pháp,
tác giả sử dụng kiểm định Fisher dựa trên nền
tảng Augmented Dickey Fuller và Philips
Perron với độ trễ là 2 cho hai trường hợp có và
không có xu hướng. Kết quả kiểm định được
trình bày ở Bảng 1 như sau:
Bảng 1
Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi số liệu
Biến Dickey Fuller Philips Perron
Không xu hướng Có xu hướng Không xu hướng Có xu hướng
Ln Gdp 0.0000*** 0.0000*** 0.0000*** 0.0000***
Lndat 0.0000*** 0.2100 0.0000*** 0.2200
Lnlaodong 0.0000*** 0.0007*** 0.0000*** 0.0007***
Lnphanbon 0.0006*** 0.0000*** 0.0006*** 0.0000***
Lnmaybom 0.0003*** 0.9979 0.0003*** 0.9979
Lnmaykeo 0.4648 0.0007*** 0.4648 0.0007***
Nguồn: Kết quả ước lượng.
52 Nguyễn T. Lương và Võ T. Danh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 46-55
Dựa trên kết quả kiểm định thì 6 chuỗi số
liệu đều dừng hoặc theo kiểm định Dickey
Fuller hoặc theo kiểm định Philips Perron
ở trường hợp có xu hướng hoặc không có
xu hướng.
Ước lượng đồng liên kết PMG có giá trị
chỉ khi các chuỗi có mối liên kết đồng kết hợp
trong dài hạn. Kiểm định Westerlund với giả
thuyết Ho (không có đồng kết hợp) và giả
thuyết đối có hai sự lựa chọn (Một vài chuỗi có
mối quan hệ đồng kết hợp và tất cả các chuỗi
có mối quan hệ đồng kết hợp), ở nghiên cứu
này tác giả chọn giả thuyết đối là tất cả các
chuỗi có mối quan hệ đồng kết hợp. Kết quả
kiểm định cho thấy các chuỗi đưa vào ước
lượng mô hình PMG có mối quan hệ đồng liên
kết, điều này làm tăng độ tin cậy cho các giá trị
ước lượng được từ mô hình PMG.
Bảng 2
Kết quả ước lượng Westerlund
Giả thuyết Giá trị t P value Kết luận
Ho: không có đồng kết hợp 3.9151 0.000 Bác bỏ
Ha: tất cả có mối quan hệ đồng kết hợp Chấp nhận
Nguồn: Kết quả ước lượng.
3.2. Kiểm định tính năng động dài hạn và ngắn hạn của các yếu tố ảnh hưởng đến tăng
trưởng nông nghiệp ĐBSCL
Bảng 3
Kết quả kiểm định tính năng động dài hạn và ngắn hạn
Các vectơ đồng liên kết dài hạn
Biến phụ thuộc: tăng trưởng nông nghiệp (Gdp)
Biến độc lập Giá trị ước lượng Giá trị kiểm định
Lndat 0.8577*** 9.87
Lnlaodong 1.6743*** 3.84
Lnphanbon -0.9732*** -2.73
Lnmaybom 0.2872*** 4.52
Lnmaykeo 0.7056*** 3.87
Tính năng động ngắn hạn
Biến phụ thuộc: Tăng trưởng nông nghiệp (Gdp)
Hiệu chỉnh sai số (ec) -0.1139*** -8.57
∆lndat -0.0616*** -4.48
∆ lnlaodong -0.0617 -0.32
∆ lnphanbon 0.1002* 1.66
∆lnmaybom 0.0917 1.08
∆ lnmaykeo 0.2798*** 3.36
Cons -0.7691*** -7.79
Log likelihood 384.1467
Nguồn: Kết quả xử lý.
Nguyễn T. Lương và Võ T. Danh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 46-55 53
Dựa trên kết quả kiểm định tính năng động
dài hạn và ngắn hạn của các yếu tố ảnh hưởng
đến tăng trưởng nông nghiệp ĐBSCL cho thấy
mối liên kết khá chặt chẽ trong dài hạn của các
yếu tố đầu vào đến giá trị sản lượng nông
nghiệp của ĐBSCL vì giá trị kiểm định khá cao
so với giá trị để đưa đến quyết định chấp nhận
hay bác bỏ mối quan hệ của các yếu tố đầu vào
này, tất cả các yếu tố đầu vào được đưa vào mô
hình đồng kết hợp PMG đều có ý nghĩa ở mức
1% trong dài hạn, còn trong ngắn hạn thì có
một số yếu tố không có ý nghĩa đến tăng trưởng
nông nghiệp ĐBSCL. Chiều tác động trong dài
hạn của đất, lao động, máy bơm và máy kéo
trong nghiên cứu này tương đồng với các
nghiên cứu trước đây về nông nghiệp Việt Nam
như Hồ Đình Bảo (2012), (Nguyen Ngoc Que
và Francesco Goletti, 2001), (Vu Hoang Linh,
2009), trong khi phân bón vô cơ lại khác biệt
so với các nghiên cứu trước đây.
Đất là một yếu tố có ý nghĩa trong cả dài
hạn lẫn trong ngắn hạn, tuy nhiên nếu trong dài
hạn thì đất canh tác có tác động dương đến giá
trị sản lượng nông nghiệp nghĩa là khi tăng diện
tích đất canh tác sẽ làm tăng giá trị sản lượng
nông nghiệp trong dài hạn, tuy nhiên trong
ngắn hạn có thể khi gia tăng diện tích đất canh
tác làm thay đổi quy mô sản xuất và nếu nông
dân chưa có kiến thức và kỹ thuật đáp ứng được
sự thay đổi về quy mô đất sản xuất dẫn đến làm
giảm năng suất và sản lượng thu hoạch vì vậy
hệ số co giãn của đất canh tác trong ngắn hạn
mang giá trị âm.
Trong các yếu tố đầu vào thì lao động là
yếu tố có độ co giãn trong dài hạn lớn nhất. Tuy
trong dài hạn yếu tố này có hệ số ước lượng lớn
nhất nhưng trong ngắn hạn thì yếu tố này
không có ý nghĩa. Điều này được giải thích như
sau: trong ngắn hạn thì không có sự thay đổi
nhiều về chất lượng của nguồn lao động nông
nghiệp như trình độ học vấn, kinh nghiệm hay
kiến thức về sản xuất nên trong ngắn hạn lao
động không có ý nghĩa đến gia tăng giá trị nông
nghiệp, tuy nhiên trong dài hạn chất lượng
nguồn lao động có thể được nâng cao và cải
thiện vì vậy trong dài hạn lao động có mối liên
kết với tăng trưởng nông nghiệp.
Trái ngược với yếu tố lao động là phân vô
cơ – nếu trong dài hạn gia tăng nguồn lao động
sẽ tác động gia tăng giá trị sản lượng nông
nghiệp thì trong dài hạn phân bón lại làm giảm
đến giá trị sản lượng nông nghiệp. Trong ngắn
hạn khi gia tăng lượng phân bón vô cơ làm gia
tăng sản lượng nhưng tác động lâu dài của phân
vô cơ đối với đất canh tác lại không như mong
đợi giống như trong ngắn hạn. Thực tế đã cho
thấy việc sử dụng phân bón vô cơ lâu dài sẽ làm
giảm độ tơi xốp và màu mỡ của đất canh tác và
gây ra những tác hại khác về mặt môi trường
sống và môi trường canh tác, từ đó làm giảm
sự hấp thu chất dinh dưỡng của cây trồng từ đất
và gia tăng dịch bệnh trên cây trồng và vật
nuôi. Kết quả ước lượng này khác với các kết
quả ước lượng trước đây về sự tác động của
phân bón vô cơ đến tăng trưởng nông nghiệp
được thực hiện cho nông nghiệp Việt Nam bởi
lẽ các nghiên cứu trước đây đều sử dụng các
phương pháp ước lượng truyền thống.
Máy bơm và máy kéo là hai yếu tố được
đưa vào mô hình kiểm định nhằm đại diện cho
vốn đầu tư trong nông nghiệp. Hai yếu tố này
đều có tác động trong dài hạn đến tăng trưởng
nông nghiệp, tuy vậy trong ngắn hạn thì chỉ có
máy kéo là có ý nghĩa ở mức 1%.
Hiệu chỉnh sai số (ec) cho thấy tốc độ điều
chỉnh của các yếu tố trong ngắn hạn để điều
chỉnh về cân bằng trong dài hạn. Tốc độ điều
chỉnh trong mô hình ước lượng này có ý nghĩa
ở mức 1% và có giá trị tuyệt đối nhỏ, thể hiện
trong dài hạn những điều kiện bất thường có
thể làm cho các yếu tố đầu vào tác động đến
tăng trưởng nông nghiệp bị chệch ra khỏi trạng
thái cân bằng và mức chệch này không lớn. Vì
vậy tốc độ điều chỉnh thể hiện qua giá trị ước
lượng của hệ số điều chỉnh không lớn.
5. Kết luận và hàm ý chính sách
Như mong đợi, với 5 yếu tố được đưa vào
để kiểm định mối liên hệ trong dài hạn với tăng
trưởng nông nghiệp ĐBSCL đều có ý nghĩa ở
mức 1% với chiều tác động dương, chỉ có yếu tố
54 Nguyễn T. Lương và Võ T. Danh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 46-55
phân bón vô cơ là có tác động âm đến tăng trưởng
nông nghiệp trong dài hạn. Tuy vậy không phải
trong ngắn hạn các yếu tố trên đều có tác động
đến tăng trưởng kinh tế - đất canh tác, phân bón
và máy kéo là 3 trong số 5 yếu tố có sự ảnh hưởng
trong ngắn hạn. Với kết quả trên tác giả có một
vài đề xuất cho việc hoạch định cho tăng trưởng
nông nghiệp ĐBSCL như sau:
Cần nâng cao chất lượng của nguồn lao
động trong nông nghiệp bằng cách đầu tư vào
giáo dục – đào tạo, y tế và dinh dưỡng để nâng
cao trình độ chuyên môn cho nguồn lao động
nông nghiệp, điều này phát huy được những
thành tựu của khoa học kỹ thuật vào trong sản
xuất nông nghiệp. Ngoài trình độ chuyên môn
được nâng lên thông qua giáo dục – đào tạo thì
cũng cần phải quan tâm vấn đề sức khỏe bởi
điều này sẽ làm tăng năng suất và sản lượng
trong sản xuất nông nghiệp.
Đất canh tác cho nông nghiệp mặc dù
trong ngắn hạn có tác động âm đến tăng trưởng
nông nghiệp ĐBSCL nhưng vẫn nằm trong xu
thế và đúng với các lý thuyết tăng trưởng nông
nghiệp là nếu tăng quy mô đất cho sản xuất
nông nghiệp sẽ làm tăng trưởng nông nghiệp
ĐBSCL. Tuy nhiên đất đai canh tác là nguồn
lực bị giới hạn và sẽ giảm dần theo sự gia tăng
của đô thị hóa và công nghiệp hóa, vì vậy nhà
nước cần phải có chính sách quan tâm đến
nguồn lực này tránh bị sử dụng lãng phí, và gia
tăng chất lượng của nguồn lực canh tác này
trong tương lai.
Riêng nguồn lực phân bón vô cơ thì theo
như kết quả ước lượng cho thấy nguồn lực này
không khuyến khích gia tăng sử dụng. Để gia
tăng năng suất và sản lượng thì thay vì sử dụng
phân vô cơ, nhà nước khuyến khích người dân
sử dụng phân bón hữu cơ hoặc vi sinh. Điều
này sẽ giải quyết được các vấn đề về cả sản
xuất và vấn đề môi trường
Tài liệu tham khảo
Aghion, P., & Howitt, P. (1992). A model of growth through creative destruction. Econometrica,
60(2), 323-351.
Arrow, K.J. (1962). The economic Implications of Learning by Doing. Review of Economic
Studies, 29, 155-173.
Barker. R., Ringler. C., Nguyen Minh Tien, & Rosegrant. M. (2004). Macro Policies and
Investment Priorities for Irrigated Agricultural in Vietnam. Comprehensive Assessment of
water management in agriculture, Research Report 6.
Christiaensen. L. (2012). The Role of Agriculture in a Modernizing Society: Food, Farms and
Fields in China 2030. World Bank, Washington, D.C.
Delgado, C. L., Hopkins. J., Kelly. V., Hazell. P.B.R., Mackena. A. A., Gruhn. P., Hojjati. B., &
Courbois. C. (1998). Agricultural Growth Linkages in Sub – Saharan, Africa. Research Report
107, Interntional Food Pollicy Research Institute. Retrieved from http:
www.ifpri.org/publication/agricultural-growth-linkages-sub-saharan-africa
Dickey, D.A., & Fuller, W.A. (1979). Distribution of the estimators for autoregressive time series
with a unit root. Journal of the American Statistical Association, 74(336a), 427-431.
Domar, E.D. (1946). Capital expansion, rate of growth and employment. Econometrica, 14, 137-147.
Fuglie, K. O. (2010). Sources of growth in Indonesian agriculture. Published online: 16 September
2009.
Grossman, G. M., & Helpman, E. (1991). Trade, knowledge spillovers, and growth. Economic
Review, 35, 517-526.
Nguyễn T. Lương và Võ T. Danh. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 46-55 55
Huỳnh Vĩnh Thanh và Lê Sỹ Thọ (2010). Nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập WTO – thời cơ
và thách thức. Nhà xuất bản Lao động – Xã hội.
Jonhston, B. F and Mellor, J. W. (1961). The role of agriculture in economic development. The
American Economic Review, 51(4), 566-593.
Koo, W. W., & Lou, J. (1997). The relationship between the agricultural and industrial sectors in
Chinese economic development. Agricultural Economics Report No. 368. North Dakota State
University, Fargo, ND 58105-5636.
Meijerink, G., & Pim, R. (2007). The role of agriculture in economic development. Markets, chains
and sustainable development. Stragegy and Policy paper no.5, Wagenigen University.
Mankiw, N.G., Romer, D., & Weil, D. (1992). A contribution to the empirics of economic growth.
Quartely Journal of Economics, 107, 401-437.
Nguyen Ngoc Que, & Goletti, F. (2001). Explaining agricultural growth in Viet Nam. Agrifood
Consulting International. Retrieved from
%20Agricultural%20Growth.pdf
Park, S.S. (1992, Bản dịch). Tăng trưởng và phát triển. Viện nghiên cứu quản lý Trung ương. Trung
tâm thông tin – tư liệu, Hà Nội
Perasan, M. H., & Smith, R. P. (1997). Estimating long – run relationships from dynamic
heterogeneity panels (Placeholder1). Journal of Econometrics, 68, 79-113.
Perasan, M. H., Shin, Y., & Smith, R. P. (1999). Pooled mean group estimation of dynamic
heterogeneity panels. Journal of American Statistic Association, 94, 621-34
Ricardo, D. (1817). On the principles of political economy and taxation, London: John Murray,
1821. Retrieved from http:// www.econlib.org/library/Ricardo/ricPContenst.html
Rostow, W. W. (1961). The stages of economic growth, Cambridge: Cambridge University Press.
Smith, A. (1776). An inquiry into the nature and causes of the wealth of nations, London 1904,
Methuen & Co., Ltd. Retrieved from
Todaro, M. P. (2000). Economic Development, 7th edn, NewYork University, Addision – Wesley.
Vu Hoang Linh, (2009).Vietnam’s agricultural productivity: A Malmquist index approach. VDF
working Paper No. 0903
Wang, S.L., Heisley, P., Schimmelpfenning, D., & Ball, E. (2015). Agricultural productivity
growth in the United State: Measurement, trends, and drivers: Economic Research Report 189.
Retrieved from https://www.ers.usda.gov/publications/pub-details/?pubid=45390
World Bank. (2008). Agriculture for development. world development report. Washington, D.C.
Retrieved from
WDR%202008%20-%20English.pdf?sequence=3&isAllowed=y
Westerlund, J. (2007). Testing for error correction in panel data. Oxford Bulletin of Economics
and Statistics, 69(6), 709-748.
Zhou, L., & Peng, Z. H. (2013). Productivity growth in China’s agriculture during 1985-2010.
Journal of Integrative Agriclture, 12(10), 1896-1904.
Zepeda, L. (2001). Agricultural investment, production capacity and productivity in developing
countries. Produced by Economic and Social Development Department. Retrieved from
Các file đính kèm theo tài liệu này:
kiem_dinh_tinh_nang_dong_dai_han_cua_cac_yeu_to_anh_huong_de.pdf