Kiểm soát doanh nghiệp độc quyền, thành tựu nghiên cứu nổi bật của giải Nobel kinh tế 2014
          
        
            
            
              
            
 
            
                
                    Kết luận
Jean Tirol đã tạo ra mô hình chung để điều
tiết các ngành, được xây dựng dựa trên khung lý
thuyết chuẩn – “thiết kế cơ cấu”. Dù vậy, nếu đặt
câu hỏi cho Jean Tirol rằng ông có lời khuyên
gì cho Việt Nam không thì có lẽ câu trả lời nhận
được sẽ giống như cách nhiều lần Jean Tirol đã
khẳng định: không có một giải pháp chung cho
mọi ngành mà mỗi ngành đều có một cấu trúc
đặc trưng riêng và phải điều tiết theo cấu trúc đặc
trưng riêng đó. Thay vì câu hỏi chung chung, hãy
đặt những câu hỏi cụ thể hơn: Một doanh nghiệp
nào đó trong ngành đang có sức mạnh thị trường
lớn cỡ nào? Cấu trúc thông tin trong ngành đó
là gì? Hay có đề xuất nào để điều tiết các doanh
nghiệp lớn hiệu quả hơn? Cũng may mắn là đã
có Jean Tirol và các cộng sự, giúp tập hợp những
tình huống cá biệt đó và mô hình hóa chúng. Lý
thuyết của Jean Tirol cho thấy, để giải quyết vấn
đề độc quyền, cần bắt tay vào làm, chứ không thể
ngồi im và đợi thị trường hay cạnh tranh có thể lo
liệu hết tất cả mọi việc. Ít nhất, giải Nobel kinh tế
2014 đã phát đi tín hiệu chỉ ra rằng, kinh tế học
hiện đại không còn ủng hộ quan điểm thị trường
tự do nữa, và bằng cách chấp nhận thị trường
không hoàn hảo, thông tin bất cân xứng, thậm
chí méo mó bởi độc quyền - giải thưởng Nobel
năm nay cũng sẽ có những tác động cần thiết để
thúc đẩy hoạt động kiểm soát doanh nghiệp độc
quyền ở Việt Nam chúng ta một cách hiệu quả
hơn trong thời gian tới.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
5 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 619 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiểm soát doanh nghiệp độc quyền, thành tựu nghiên cứu nổi bật của giải Nobel kinh tế 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TÓM TẮT
Phần lớn các thị trường như thị trường: điện, sữa, xăng dầu mà chúng ta đối 
mặt hàng ngày là những thị trường không hoàn hảo cả về mặt thông tin lẫn mặt 
cạnh tranh. Do vậy, việc vận dụng những kiến thức của kinh tế học truyền thống 
để nghiên cứu các trường hợp cạnh tranh hoàn hảo trong điều kiện thị trường lý 
tưởng không còn phù hợp nữa. GS Jean Tirol được trao giải Nobel Kinh tế 2014 là 
nhờ các công trình nghiên cứu trong ba mươi năm về một lĩnh vực riêng của kinh 
tế vi mô có tên Industrial Organization (tạm dịch là Tổ chức thị trường). Các phân 
tích của ngành này tập trung vào từng thị trường không hoàn hảo đặc thù, vào 
các doanh nghiệp độc quyền và vạch ra các mối nguy hại tiềm tàng của việc thiếu 
quản lý hoặc quản lý không đúng. Từ đó thiết kế ra những phương pháp quản lý thị 
trường hiện đại nhằm hỗ trợ cho Chính phủ trong việc quản lý các dạng thị trường 
này – và đó cũng là những khía cạnh cần trình bày trong phạm vi của bài viết này.
ABSTRACT
Controlling monopolies, an outstanding research achievement 
of the Nobel Prize for Economics in 2014
Most of the markets such the electricity, milk, oil etc. markets that we face 
every day are no perfect markets, both in terms of information and competition. 
Therefore, applying the knowledge of traditional economics to study cases of per-
fect competition under ideal market conditions are no longer applicable. Profes-
sor Jean Tirol won the Nobel prize in Economics in 2014 as a result of 30 years of 
research in one particular field of microeconomics only, called Industrial Organi-
zation. The analysis of this sector focuses solely on imperfect markets, and on mo-
nopoly businesses and outlines the potential dangers of the lack of management or 
improper management. From there it designs modern market management meth-
ods in order to support governments in managing these types of markets. And that 
is the aspect to be described within the scope of this article.
KIỂM SOÁT DOANH NGHIỆP ĐỘC QUYỀN, THÀNH TỰU 
NGHIÊN CỨU NỔI BẬT CỦA GIẢI NOBEL KINH TẾ 2014
Nguyễn Hoàng Giang* 
* TS, Trường ĐH Lao động - Xã hội (CSII)
I. Khi nhóm độc quyền các doanh nghiệp 
thống lĩnh thị trường
Trong thời kỳ bao cấp trước đây, kế hoạch hóa 
tập trung là giải pháp tối ưu cho nền kinh tế, tất 
cả tuân theo kế hoạch của Chính phủ. Đến mức 
mà những khái niệm như cạnh tranh hay marker-
ing là hết sức xa lạ, ngay cả trong các trường đại 
học có đào tạo về kinh tế. Tiếp đến là thời kỳ mà 
nhiều người không hề nghi ngờ rằng thị trường 
tự do mới là giải pháp duy nhất đúng. Người ta 
lý tưởng hóa khái niệm “bàn tay vô hình” hay 
khả năng tự điều tiết của thị trường mà không 
cần Chính phủ can thiệp. Đến khi phải đối mặt 
với những hiện tượng như độc quyền nhóm, khi 
một vài doanh nghiệp thống lĩnh cả thị trường, 
thì dường như các niềm tin lại thay đổi. Người ta 
tin là để tăng lợi nhuận thì các nhà độc quyền sẽ 
tăng giá, và vì tăng giá nên xã hội sẽ bị thiệt hại. 
Chính phủ lại được cầu cứu để can thiệp vào thị 
trường. Liệu có một chính phủ nước nào đó đứng 
ra qui định mức giá cho sản phẩm độc quyền 
không? Có gì bảo đảm mức giá đó là giá hợp lý? 
Câu chuyện càng phức tạp nếu có một nhóm các 
doanh nghiệp thống lĩnh thị trường. Làm cách 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
65SỐ 8 - THÁNG 8/2015
nào để các nhà độc quyền nhóm không liên kết 
với nhau tăng giá, đồng thời vẫn tạo động lực để 
mỗi doanh nghiệp cố gắng trở nên hiệu quả hơn? 
Đó là câu chuyện thị trường khi chưa có những 
đóng góp những công trình khoa học nghiên cứu 
về kinh tế vi mô của GS. Jean Tirol, người nhận 
giải Nobel Kinh tế 2014 - trong đó có thành tựu 
nghiên cứu về thị trường độc quyền tự nhiên và 
cách quản lý - điều tiết thị trường này.
- Độc quyền mua - độc quyền bán
Nền kinh tế truyền thống chỉ ra các khái niệm 
quen thuộc về độc quyền - điển hình như “độc 
quyền bán”: Chỉ có một hoặc một nhóm doanh 
nghiệp có khả năng sản xuất và bán ra một mặt 
hàng quan trọng cho người tiêu dùng.
Hay hiện tượng “độc quyền mua”, liên quan 
đến câu chuyện “lúa gạo giá rẻ” ở Việt Nam. Khi 
người nông dân sản xuất ra hàng chục triệu tấn 
gạo mỗi năm nhưng đầu ra xuất khẩu dường như 
chỉ nằm trong tay hai tập đoàn (Tổng Công ty 
Lương thực miền Bắc và Tổng Công ty Lương 
thực miền Nam). Do hệ thống “chân rết” của hai 
cửa ra này không nhiều nên lúa gạo thường ùn ứ, 
tạo kẽ hở cho thương lái làm giá với nông dân. 
Thế nên dân chỉ còn cách bán rẻ.
Theo Hệ thống tài khoản Quốc gia (SNA) 
của LHQ mà Việt Nam đã áp dụng từ năm 1993 
với quyết định số 183/TTg của Thủ tướng Chính 
phủ, phạm trù sản xuất bao gồm cả các hoạt động 
quản lý Nhà nước, theo định nghĩa này thì các 
sản phẩm dịch vụ của hoạt động quản lý Nhà 
nước cũng mang tính độc quyền. Hoạt động của 
các cơ quan này do tiền thuế của người dân (thuế 
trực thu và gián thu) và nghĩa vụ của các cơ quan 
này là cung cấp những dịch vụ tương xứng với 
tiền của dân bỏ ra “mua” sản phẩm của họ; quan 
hệ này thực chất đã trở thành quan hệ giữa “xin” 
và “cho” hầu hết người dân không biết và không 
hiểu mình đã bỏ tiền ra trước đó thông qua thuế 
để ”mua” các sản phẩm dịch vụ này.
Những doanh nghiệp kiểu này không cần 
xác định quan hệ giữa cung và cầu, không cần 
mối quan hệ giữa giá trị và giá cả; dù sản phẩm 
của họ có tốt hay không người sử dụng vẫn phải 
mua. Những doanh nghiệp này độc quyền cả 
về mua và bán, việc chuyển giá khai gian giá 
của sản phẩm “đầu vào” thường xảy ra, từ đó 
dẫn đến hạch toán lỗ, chất lượng sản phẩm của 
những doanh nghiệp độc quyền ra sao người dân 
và doanh nghiệp đều phải chịu. Việc độc quyền 
này không chỉ xẩy ra với các ngành như điện, 
xăng dầu mà ai cũng có thể thấy mà còn rất 
nhiều các hoạt động độc quyền khác.
II. Kiểm soát doanh nghiệp độc quyền tại 
Việt Nam - những điều rút ra được từ thành 
tựu nghiên cứu lý thuyết kinh tế vi mô của 
Jean Tirol
Chỉ ít lâu sau thông tin Nobel Kinh tế năm 
nay được trao cho Jean Jean Tirol, đã có một câu 
hỏi đặt ra: “Việt Nam có thể áp dụng được chính 
sách gì dựa trên lý thuyết của Jean Tirol?”. Tuy 
nhiên, chưa cần phải có ngay một trả lời như câu 
hỏi đúng-sai. Hãy thử bắt đầu xem xét từ chính 
những gì dễ thấy nhất sau đây:
1. Việc áp đặt “mức giá tối ưu” của nhà 
nước
Thông thường Nhà nước còn kiểm soát các 
doanh nghiệp độc quyền bằng cách áp đặt mức 
giá tối ưu. Việt Nam cũng áp dụng biện pháp 
này trong các ngành như điện, nước, xăng dầu,... 
Hình 1: “Độc quyền: phía Cung” 
trong điều kiện cạnh tranh thị trường
Hình 2: “Độc quyền: phía Cầu” 
trong điều kiện cạnh tranh thị trường
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
66 SỐ 8 - THÁNG 8/2015
tiêu dùng thiệt, mà cả ngành kinh tế cũng chịu 
thiệt 
Tuy nhiên, cổ phần hóa (hoặc là tư nhân hóa 
ở các nước phương Tây) không phải “chiếc chìa 
khóa vạn năng”. Mục tiêu của cổ phần hóa là 
thúc đẩy đổi mới và hiệu quả của các doanh 
nghiệp độc quyền Nhà nước trước kia. Tuy nhiên 
lý thuyết của Jean Tirol đã chỉ ra rằng, phương 
pháp này cũng có hai mặt. Giống như British 
Telecom và British Rail - hai “doanh nghiệp độc 
quyền” tại Anh, dù đã được cổ phần hóa hoàn 
toàn nhưng lại có vấn đề mới được đặt ra: Làm 
cách nào để ngăn ngừa các doanh nghiệp này 
không bành trường sức mạnh độc quyền, lấn át 
sự kiểm soát của nhà nước và “không mặn mà” 
đầu tư cho đổi mới?
Thách thức của trên cũng được Ủy ban Nobel 
khẳng định trong báo cáo khoa học tóm tắt các 
thành quả nghiên cứu của Jean Tirol trong hàng 
chục năm qua: “Kết quả thực nghiệm của việc áp 
dụng tư nhân hóa cũng không đồng nhất, thường 
khó khăn hơn dự kiến và các doanh nghiệp sau 
khi được tư nhân hóa hoạt động không đúng như 
mong đợi”.
3. Doanh nghiệp độc quyền ngày càng 
mạnh thông qua hoạt động thâu tóm và sáp 
nhập - (M&A)
Nếu không chịu điều tiết, thì không điều gì 
có thể ngăn doanh nghiệp tận dụng sức mạnh thị 
trường để đạt được lợi nhuận siêu ngạch, và cũng 
hiếm có doanh nghiệp nào không dùng chính sức 
mạnh thị trường hiện có để trở nên mạnh hơn. Có 
hai cách để một “doanh nghiệp độc quyền” trở 
nên lớn hơn, một là mua lại những công ty tạo ra 
cùng sản phẩm trong ngành, hai là liên kết (hoặc 
mua lại) những công ty trong cùng ngành nhưng 
ở công đoạn khác.
Vì thế, mối lo ngại chính của Chính phủ là 
hiện tượng “hội nhập ngang”, xảy ra khi một 
công ty mua một hoặc nhiều công ty khác có 
hoạt động kinh doanh tương tự trong ngành. Bên 
cạnh đó, “hội nhập dọc” cũng cho thấy nhiều rủi 
ro, đó là khi công ty độc quyền một công đoạn 
nào đó trong chuỗi sản xuất, liên kết với các 
công ty ở những công đoạn khác để gia tăng sức 
Nhưng cần lưu ý, mức giá tối ưu đó được thiết 
lập dựa trên chi phí mà doanh nghiệp gởi cho cơ 
quan điều hành. Trong một môi trường thông tin 
“bất cân xứng”, nguy cơ dễ xảy ra nhất là các 
doanh nghiệp này lừa dối cơ quan quản lý để đội 
chi phí.
“Các nhà quản lý vừa thiếu thông tin về chi 
phí của doanh nghiệp vừa thiếu thông tin về chất 
lượng hàng hóa và dịch vụ cung cấp. Vô tình, 
những cái thiếu này lại cung cấp một lợi thế độc 
quyền khác cho các doanh nghiệp”, báo cáo của 
Ủy ban Nobel nhận định. Nếu các doanh nghiệp 
độc quyền có thể thuyết phục Chính phủ rằng chi 
phí phải bỏ ra là rất lớn, thì họ có quyền định giá 
cao để thu lợi nhuận lớn mà không cần quá nỗ 
lực trong đổi mới, đầu tư hay giảm giá bán áp đặt 
cho khách hàng. Vậy thì việc tìm ra một mức giá 
tối ưu để ấn định sẽ là một điều không khả thi.
2. Giải pháp cổ phần hóa của Chính phủ
Lo lắng thường xoay quanh vấn đề độc quyền 
khi doanh nghiệp kiểm soát phần lớn sức mạnh 
trên thị trường nhờ sở hữu nguồn lực đặc biệt 
nào đó hoặc nguồn lực tài chính dồi dào để có thể 
đầu tư lớn vào chi phí cố định để tạo ra rào cản 
gia nhập ngành đối với mọi đối thủ tiềm năng.
Việt Nam cũng giống như nhiều quốc gia 
trên thế giới từng đối mặt với vấn đề độc quyền 
mà theo Jean Tirol, thường diễn ra trong các 
ngành đường sắt, điện, nước, các ngành năng 
lượng tiêu dùng. Cho đến những năm sau này, 
câu hỏi lớn vẫn đặt ra đó là: Nên đối xử thế nào 
đối với những “doanh nghiệp độc quyền” trong 
các ngành độc quyền tự nhiên đó? Lúc này, giải 
pháp được thực hiện phổ biến chính là cổ phần 
hóa các doanh nghiệp nhà nước đang sở hữu sức 
mạnh độc quyền. 
Nếu để thị trường tự quyết, kết quả sẽ là mức 
giá độc quyền (cao) và mức sản lượng độc quyền 
(thấp) để các “doanh nghiệp độc quyền” có dịp 
thu được thứ lợi nhuận siêu ngạch. Nhưng điều 
nguy hiểm không chỉ có thế. Khi lợi nhuận là tất 
cả, có thể bán giá cao mà không quan tâm đến 
chi phí, các “doanh nghiệp độc quyền” sẽ chẳng 
còn mấy động lực để nỗ lực cải tiến công nghệ 
hay gia tăng năng suất. Vậy thì không chỉ người 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
67SỐ 8 - THÁNG 8/2015
mạnh trên thị trường. Jean Tirol là một trong số 
các nhà kinh tế đã vận dụng lý thuyết trò chơi để 
chứng minh rằng, trong thực tế doanh nghiệp có 
thể tạo ra lợi nhuận lớn hơn với việc tăng cường 
liên kết với chuỗi sản xuất trên thị trường để tăng 
sức mạnh thị trường.
Chẳng hạn, một công ty sở hữu bằng sáng chế 
về một công nghệ đổi mới giúp cắt giảm chi phí. 
Nếu bằng sáng chế đó được bán cho tất cả các 
công ty khác, thì toàn xã hội sẽ thu được lợi ích. 
Tuy nhiên, chủ sở hữu bằng sáng chế đó có thể 
kiếm được nhiều lợi nhuận hơn bằng cách bán 
sáng chế độc quyền cho một công ty đối tác duy 
nhất. Sau đó, công ty này vận dụng công nghệ, 
cắt giảm chi phí và định giá bán thấp hơn so với 
các đối thủ cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường. 
Theo Jean Tirol, cuối cùng có thể công ty sở hữu 
bằng sáng chế đầu tiên sẽ phải mua lại chính đối 
tác duy nhất của mình. Kết quả tiêu cực của hành 
vi trên đó là, có ít cạnh tranh hơn trên thị trường 
và giá bán ra có thể cao hơn. 
4. Cân bằng trong điều kiện độc quyền
Theo Jean Tirol, đây là trò chơi đang diễn 
ra giữa hai người chơi, có những mục tiêu khác 
nhau, những bí mật khác nhau mà họ có thể giấu 
diếm lẫn nhau. Theo cách nói của lý thuyết trò 
chơi, đây là vấn đề giữa ông chủ và người đại 
diện (Principal - Agent Problem). Trong đó, 
Chính phủ là ông chủ và doanh nghiệp là người 
đại diện. Trường hợp Việt Nam – như ở tập đoàn 
Điện: thì Chủ tịch HĐTV là người đại diện cho 
Chính phủ – còn Tổng Giám đốc là người đứng 
đầu doanh nghiệp. Khi đó, câu hỏi lớn hơn được 
đặt ra chính là: Liệu có thể thiết kế nên một hệ 
thống điều tiết có thể khuyến khích cả hai người 
chơi làm những điều có lợi cho toàn xã hội.
Tuy nhiên, cũng nên tránh nhầm lẫn quan 
điểm của Jean Tirol là luôn luôn phải quản lý 
chặt chẽ các “doanh nghiệp độc quyền”. Trong 
một số trường hợp, có thể các nhà quản lý phải 
lùi lại, không khuyến khích các doanh nghiệp 
đầu tư và đổi mới. Bởi trong nhiều ngành kinh tế, 
những “đánh đổi” là không thể tránh khỏi giữa 
thúc đẩy tiến bộ công nghệ với việc ngăn các 
doanh nghiệp khỏi làm tổn hại đến người tiêu 
dùng. Ngoài ra, Jean Tirol cũng chỉ ra rằng, mọi 
nỗ lực kiểm soát “doanh nghiệp độc quyền” đều 
Hình 3: Điều tiết thị trường cạnh tranh độc quyền
vô nghĩa khi các doanh nghiệp này thao túng 
chính các nhà quản lý. Vậy mới nói "điều tiết 
các doanh nghiệp có sức mạnh trên thị trường là 
việc hết sức khó khăn". Lựa chọn duy nhất của 
chúng ta là thấu hiểu những khó khăn đó, nhận 
biết sự phức tạp và tỉ mỉ trong mỗi tình huống cá 
biệt, và làm những điều tốt nhất có thể.
III. Kết luận
Jean Tirol đã tạo ra mô hình chung để điều 
tiết các ngành, được xây dựng dựa trên khung lý 
thuyết chuẩn – “thiết kế cơ cấu”. Dù vậy, nếu đặt 
câu hỏi cho Jean Tirol rằng ông có lời khuyên 
gì cho Việt Nam không thì có lẽ câu trả lời nhận 
được sẽ giống như cách nhiều lần Jean Tirol đã 
khẳng định: không có một giải pháp chung cho 
mọi ngành mà mỗi ngành đều có một cấu trúc 
đặc trưng riêng và phải điều tiết theo cấu trúc đặc 
trưng riêng đó. Thay vì câu hỏi chung chung, hãy 
đặt những câu hỏi cụ thể hơn: Một doanh nghiệp 
nào đó trong ngành đang có sức mạnh thị trường 
lớn cỡ nào? Cấu trúc thông tin trong ngành đó 
là gì? Hay có đề xuất nào để điều tiết các doanh 
nghiệp lớn hiệu quả hơn? Cũng may mắn là đã 
có Jean Tirol và các cộng sự, giúp tập hợp những 
tình huống cá biệt đó và mô hình hóa chúng. Lý 
thuyết của Jean Tirol cho thấy, để giải quyết vấn 
đề độc quyền, cần bắt tay vào làm, chứ không thể 
ngồi im và đợi thị trường hay cạnh tranh có thể lo 
liệu hết tất cả mọi việc. Ít nhất, giải Nobel kinh tế 
2014 đã phát đi tín hiệu chỉ ra rằng, kinh tế học 
hiện đại không còn ủng hộ quan điểm thị trường 
tự do nữa, và bằng cách chấp nhận thị trường 
không hoàn hảo, thông tin bất cân xứng, thậm 
chí méo mó bởi độc quyền - giải thưởng Nobel 
năm nay cũng sẽ có những tác động cần thiết để 
thúc đẩy hoạt động kiểm soát doanh nghiệp độc 
quyền ở Việt Nam chúng ta một cách hiệu quả 
hơn trong thời gian tới.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
68 SỐ 8 - THÁNG 8/2015
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Vinh Dự (2014), “Nobel kinh tế 2014 và vấn đề quản lý thị trường”, Tuổi trẻ cuối tuần, 
số 40.
[2] Đỗ Thị Kim Hảo (2010), “Giám sát các tập đoàn tài chính”, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân 
hàng, số 1-2/2012.
[3] Nguyễn Hoàng Giang (2005), Lưa chọn cơ chế tỷ giá trong chính sách kinh tế vĩ mô ở Việt 
Nam, Luận án tiến sĩ chuyên ngành kinh tế học, ĐHQG TP.HCM.
[4] Nguyễn Hoàng Giang (6/2014), “Hoạt động đầu tư và thị trường tài chính Châu Á trước tác 
động của khủng hoảng từ EU”, Tạp chí khoa học tài chính kế toán, Số 2, tr.20.
[5] Nguyễn Hoàng Giang (2006), “Quản trị tài chính doanh nghiệp”, NXB Lao Động – Xã hội, 
Hà Nội.
[6] Nguyễn Phú Giang, Nguyễn Hoàng Giang (2010), Giáo trình kế toán quốc tế, NXB Tài chính, 
Hà Nội.
[7] Nguyễn Hoàng Giang (2006), Giáo trình lưu thông tiền tệ tín dụng, NXB Lao động xã hội, Hà 
Nội.
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
69SỐ 8 - THÁNG 8/2015
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
kiem_soat_doanh_nghiep_doc_quyen_thanh_tuu_nghien_cuu_noi_ba.pdf