Kiểm soát xung đột lợi ích nhằm phòng ngừa tham nhũng

Mới đây, Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng đã đưa ra khái niệm: “XĐLI là tình huống mà trong đó cán bộ, công chức, viên chức thực hiện hoặc không thực hiện một nhiệm vụ được giao có thể mang lại lợi ích không chính đáng cho cá nhân họ, cho người thân thích của họ” (Điều 28). Đồng thời, Dự luật này cũng đưa ra các quy định để xử lý vấn đề XĐLI, bao gồm: Trách nhiệm thông tin, báo cáo về XĐLI; Trách nhiệm xử lý thông tin, báo cáo về XĐLI. Dự luật cũng giao trách nhiệm cho người đứng đầu các cơ quan, ngành, lĩnh vực quy định về kiểm soát XĐLI trong ngành và lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của mình. Đây là những quy định hết sức cơ bản và cần phải được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật sau này. Ngoài ra, những quy định về công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động công quyền, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân sẽ là những điều kiện quan trọng để người dân có thể giúp Nhà nước kiểm soát tốt XĐLI. Việc nâng cao trách nhiệm giải trình và minh bạch hóa việc xử lý XĐLI một cách chủ động cũng là những yếu tố quan trọng nâng cao uy tín của nền công vụ, góp phần xây dựng một Chính phủ liêm chính và phục vụ

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiểm soát xung đột lợi ích nhằm phòng ngừa tham nhũng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KIÏÍM SOAÁT XUNG ÀÖÅT LÚÅI ÑCH NHÙÇM PHOÂNG NGÛÂA THAM NHUÄNG Đinh Văn Minh* Tham nhũng được định nghĩa là những hành vi lợi dụng quyền lực công để đạt được những lợi ích vật chất hay tinh thần (hành vi vụ lợi). Như vậy có thể thấy, bản chất của tham nhũng là lợi ích phi pháp, và từ đó, mục tiêu của cuộc chiến chống tham nhũng chính là loại trừ những yếu tố tiềm ẩn nguy cơ có thể thực hiện hành vi tham nhũng. Nhìn từ một khía cạnh khác, tham nhũng được hiểu là dùng quyền lực công để mưu lợi ích tư. Bài viết bàn về khái niệm và những vấn đề xung quanh việc xử lý xung đột lợi ích (XĐLI) công - tư đối với người có chức vụ, quyền hạn để tìm ra giải pháp góp phần phòng ngừa tham nhũng. 1. Xung đột lợi ích và tham nhũng Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đều thừa nhận lợi ích là động lực của mọi hoạt động của con người trong xã hội, là động lực của sự phát triển. Có thể khẳng định rằng, lợi ích kinh tế là động lực cơ bản, là mục tiêu hoạt động của con người và là nguồn gốc của sự phát triển xã hội, đó cũng chính là mục tiêu của những kẻ cầm quyền “tha hoá”, tham nhũng. Mác đã từng nói rằng, cội nguồn của sự phát triển xã hội không nằm trong quá trình nhận thức mà ở trong các quan hệ vật chất, tức là trong các lợi ích kinh tế của con người. Trong tư duy biện chứng, xung đột nói chung và XĐLI nói riêng được đề cập ở khía cạnh đấu tranh của các mặt đối lập. XĐLI là trạng thái đấu tranh, tương khắc của các lợi ích với tính cách là những mặt đối lập trong một quan hệ lợi ích nhất định. XĐLI có thể xảy ra giữa các chủ thể khác nhau hoặc trong cùng một chủ thể. Sự xung đột giữa lợi ích công và lợi ích tư đặt cán bộ, công chức vào sự lựa chọn khó khăn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Đấu tranh chống tham nhũng là đấu tranh với thói hư tật xấu, là việc chống lại sự lợi dụng quyền lực để mưu lợi cá nhân, chống lại sự tha hoá của những người thực thi quyền lực. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng là sự đấu tranh giữa lợi ích công và lợi ích tư. Cuộc đấu tranh này không chỉ là sự đấu tranh với sự lạm dụng quyền lực để thu vén cho lợi ích cá nhân, mà còn xảy ra ngay trong bản thân mỗi công chức trong quá trình thực thi công vụ của mình, đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, giữa trách nhiệm và đạo đức công vụ với những nhu cầu cá nhân thôi thúc. 28 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 24 (328) T12/2016 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT * TS. Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra - Thanh tra Chính phủ Đấu tranh chống tham nhũng không chỉ là việc đưa những giải pháp, những phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng mà ngày nay, người ta đặc biệt coi trọng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng như là trọng tâm căn bản của cuộc chiến khó khăn này. Các biện pháp phòng ngừa hướng tới việc làm triệt tiêu các nguy cơ tham nhũng ngay khi nó còn là khả năng, mầm mống xuất hiện những mâu thuẫn hay XĐLI, chưa “phát tác” và vi phạm pháp luật. Nguy cơ thường được hiểu như là trạng thái tiềm tàng mà nếu không có giải pháp ngăn chặn xử lý, nó sẽ trở thành hiện thực với những hành vi phạm pháp. XĐLI là một nguy cơ như vậy. XĐLI là trạng thái, tình huống, trong khi tham nhũng là hành vi hiện thực. Vì vậy, nó cần được nhận diện, kiểm soát và xử lý kịp thời, không để dẫn đến hành vi lợi dụng công quyền mà tư lợi, tham nhũng. 2. Kiểm soát xung đột lợi ích từ quan niệm quốc tế Theo quan niệm phổ biến, XĐLI là những tình huống cụ thể phát sinh khi công chức có thể đưa ra quyết định hoặc thực hiện hành vi có lợi cho mình trong hoạt động công vụ, qua đó làm phát sinh tham nhũng. XĐLI khác tham nhũng ở chỗ nó mới chỉ là trạng thái mà chưa phải là hành vi vi phạm pháp luật. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), “XĐLI là tình huống trong đó một cán bộ, công chức, trong thẩm quyền chính thức của mình, đưa ra hoặc phải đưa ra các quyết định, hoặc có những hành động có thể tác động tới lợi ích cá nhân của họ”1 Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc xây dựng quy tắc ứng xử có điểm chung là đều xoay quanh việc giải quyết vấn đề XĐLI trong hoạt động công vụ của các nhân viên công quyền. Có thể nói, sự cần thiết và tầm quan trọng của việc nhận dạng và giải quyết XĐLI đối với việc thúc đẩy và giữ gìn tính liêm chính và sự minh bạch của nền hành chính công đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới nhận thức một cách đầy đủ và từ đó định ra cho mình lộ trình, hành động, biện pháp cụ thể nhằm góp phần phòng ngừa tham nhũng. Ngày 12/12/1996, Đại hội đồng Liên hiệp quốc (LHQ) ra Nghị quyết số 51/59 về Hành động chống tham nhũng, trong đó nêu rõ: Công chức không được lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình để có được lợi thế hoặc lợi ích tài chính bất hợp pháp cho mình và gia đình mình; không được tham gia vào bất kỳ giao dịch nào, tiếp nhận vị trí hay trách nhiệm nào hoặc có bất kỳ lợi ích tài chính nào không tương thích với chức trách, nhiệm vụ của mình. Phần này cũng quy định về việc kê khai những hoạt động về tài chính hoặc hoạt động khác mà công chức thực hiện để kiếm tiền ngoài giờ làm việc và có thể dẫn đến, hoặc tiềm ẩn nguy cơ gây XĐLI. Theo kết quả khảo sát do LHQ tiến hành, đa số các quốc gia thành viên đều đã đưa quy tắc ứng xử vào các chính sách và pháp luật trong nước với những quy định cụ thể và phù hợp với từng lĩnh vực. Nội dung của các bộ quy tắc ứng xử đó đều tập trung xoay quanh những nguyên tắc và vấn đề chung bao gồm: sự tận tụy, tính hiệu quả, hiệu lực, liêm chính, công bằng, không thiên vị, việc lạm dụng chức vụ, quyền hạn và việc tặng - nhận quà cũng như các lợi ích khác. 29 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 24 (328) T12/2016 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 1 Nhóm Ngân hàng Thế giới & Thanh tra Chính phủ, Kiểm soát xung đột lợi ích trong khu vực công - Quy định và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, H., 2016, tr. 21. Một số quốc gia có quy định yêu cầu công chức, trong trường hợp có nảy sinh XĐLI, phải kê khai về những lợi ích thu được qua hoạt động kinh doanh, thương mại, tài chính và các hoạt động khác được thực hiện nhằm mục đích kiếm tiền. Một số quốc gia thì đề ra những quy định cụ thể để điều chỉnh những tình huống như trong vòng 5 năm kể từ sau khi thôi giữ chức vụ mà công chức được nhận hoặc có được cổ phần, việc làm hoặc lợi ích dưới bất kỳ dạng thức nào khác từ phía một công ty tư nhân hoặc nhà nước mà công chức đó thực thi trách nhiệm theo dõi hoặc giám sát2. Bộ quy tắc ứng xử mẫu của LHQ đưa ra định nghĩa tương đối rộng về những tình huống có thể gây XĐLI, theo đó, bất kỳ tình huống nào mà ở đó công chức có lợi ích cá nhân và nó ảnh hưởng hoặc có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của công chức khi thực thi công vụ. Do vậy, Bộ quy tắc này khuyến nghị một loạt vấn đề để tránh rủi ro XĐLI đối với công chức: - Công chức đó phải báo cáo ngay với cấp có thẩm quyền về xung đột khi nhận thức được về nó và phải tuân thủ đúng những gì mình được yêu cầu phải làm. Mọi xung đột về lợi ích cần phải được giải quyết trước khi tuyển dụng người mới hoặc bổ nhiệm công chức giữ chức vụ mới. - Công chức không được tham gia vào những hoạt động bên ngoài khi mà hoạt động đó xung đột với chức năng, nhiệm vụ của mình. Nếu không rõ về vấn đề gì thì phải yêu cầu được giải thích. Công chức phải xin phép và được phép của cấp có thẩm quyền thì mới được tham gia vào công việc ở bên ngoài (cho dù có được trả tiền hay không). - Công chức phải khai báo về tư cách thành viên hoặc mối quan hệ với bất kỳ tổ chức nào mà có thể gây ra sự cản trở đối với việc thực thi công vụ của mình; đồng thời, trong cuộc sống riêng tư hay trong công việc, công chức không được đặt mình vào tình huống mà mình bắt buộc phải trả ơn người khác bằng một ưu đãi hay ân huệ nào đó. Cùng với những quy định trên, đa số các quốc gia đều có chính sách và pháp luật nhằm bảo đảm trách nhiệm giải trình của công chức về hành vi, quyết định mà họ thực hiện khi thi hành công vụ; đồng thời yêu cầu các công chức phải giải trình về những quyết định và hành vi hành chính đã được tiến hành mà ảnh hưởng đến lợi ích của công dân. Các biện pháp xử lý vi phạm cũng được áp dụng đối với những loại hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm đạo đức. 3. Vấn đề xung đột lợi ích và kiểm soát xung đột lợi ích ở Việt nam 3.1 Kiểm soát XĐLI trong lịch sử XĐLI không phải là vấn đề mới ở Việt Nam. Trong các văn bản pháp luật từ trước đến nay đã có những quy định để loại trừ sự “thiên vị” hay những tình huống có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của công chức trong khi thực hiện công vụ. Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập, Chính phủ đã tìm cách ngăn chặn tâm lý “một người làm quan, cả họ 30 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 24 (328) T12/2016 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 2 Tháng 7/1998, tại Nghị quyết số 1998/21 về “Các tiêu chuẩn và định mức của LHQ quốc về phòng ngừa tội phạm và tư pháp hình sự”, Hội đồng Kinh tế xã hội (ECOSOC) đã đề nghị Tổng thư ký LHQ cho xây dựng các công cụ khảo sát dành cho Bộ quy tắc ứng xử quốc tế của công chức và Tuyên bố của LHQ về Chống tham nhũng và Hối lộ trong các giao dịch thương mại quốc tế. Theo đề nghị của ECOSOC, cuối năm 1999, Trung tâm Phòng ngừa tội phạm quốc tế của Cơ quan kiểm soát ma túy và phòng ngừa tội phạm của Tổng thư ký LHQ đã gửi đến các quốc gia thành viên hai bảng hỏi liên quan đến hai công cụ nói trên (theo: noichinh.vn, 31 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 24 (328) T12/2016 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT được nhờ”, tình trạng bè cánh, cục bộ trong cán bộ. Trong Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ viết ngày 1/3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thẳng thắn phê bình, kiểm thảo “Những đồng chí còn giữ thói một người làm quan cả họ được nhờ, đem bà con, bạn hữu đặt vào chức này việc kia, làm được hay không, mặc kệ. Hỏng việc, Đoàn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là được”. Từ thời phong kiến, việc này cũng được thực hiện khá nghiêm ngặt thông qua Luật “Hồi tỵ”. Luật Hồi tỵ được áp dụng ở Nhà nước phong kiến Việt Nam trong các thời Lê, Nguyễn. “Hồi tỵ”, được Hán - Việt từ điển của học giả Đào Duy Anh giải nghĩa là “tránh đi”. “Hồi” là trở về, “tỵ” là lánh đi (như trong chữ tỵ nạn); tức là nếu được bổ nhiệm về bản quán thì phải tránh đi. Luật Hồi tỵ được ban hành đầu tiên dưới thời vua Lê Thánh Tông. Trong bộ Lê triều Hình luật (còn gọi là Luật Hồng Đức) có quy định: “Quan lại không được lấy vợ, kết hôn, làm thông gia ở nơi mình cai quản; cũng như không được tậu đất, vườn, ruộng, nhà ở nơi mình làm quan lớn, không được dùng người cùng quê làm người giúp việc”. Quy định được áp dụng từ việc cắt đặt xã quan ở các làng xã. Theo Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, thực lục nhà Lê) năm 1488, Vua Lê Thánh Tông xuống dụ quy định: “Từ nay các quan phủ, huyện, châu xét đặt xã trưởng, hễ là anh em ruột, anh em con chú, con bác, bác cháu, cậu cháu với nhau thì chỉ cho một người làm xã trưởng, không được cho cả hai cùng làm để trừ mối tội bè phái hùa nhau”. Đến năm 1497, Vua tiếp tục có dụ quy định bổ sung: “Các viên quan quản quân, quản dân nếu người nào có quê quán ở ngay phủ, huyện mình cai trị, có nhà ở nha môn mình làm việc, thì Bộ lại điều động đi nơi khác, chọn người khác bổ thay”. Sang đến thời Nguyễn, sau khi Vua Gia Long thiết lập bộ máy nhà nước, đến thời Minh Mạng, Luật Hồi tỵ còn triệt để hơn, được mở rộng phạm vi, đối tượng áp dụng và bổ sung những quy định mới. Năm 1831, Vua Minh Mạng ban hành Luật Hồi tỵ gồm các quy định cụ thể: Khi bố trí quan về trị nhậm các địa phương cần phải tránh những nơi: Quê gốc (quê cha) là nơi có quan hệ họ nội nhiều đời; Trú quán là nơi bản thân đã ở lâu, học hành, sinh hoạt; Quê ngoại (bao gồm quê mẹ, quê vợ và nơi theo học trước đây). Ai man trá các điều này sẽ bị nghiêm trị. Ngoài các điểm chung như Luật Hồi tỵ thời Lê Thánh Tông, Vua Minh Mạng còn có nhiều quy định tích cực và triệt để hơn, như: Các dịch lại ở các nha môn, các bộ ở Kinh đô và các tỉnh là bố con, anh em ruột, anh em con chú con bác với nhau thì phải tách ra, đổi bổ đi nơi khác. Các quan lại không được làm quan ở nơi cư trú (nơi ở một thời gian lâu), ở quê vợ, quê mẹ mình; thậm chí cả nơi học tập lúc nhỏ hoặc lúc trẻ tuổi. Các lại mục, thông lại cũng không được làm việc ở phủ, huyện là quê hương của mình. Các lại mục, thông lại các nha phủ thuộc phủ huyện là người cùng làng cũng phải chuyển bổ đi nơi khác. Các quan viên từ Tham biện trở lên ở các trấn, tỉnh về Kinh đô dự đình nghị (họp bàn để quyết định một vấn đề), song trong các cuộc họp có bàn việc liên quan đến địa phương mà mình trị nhậm thì không được vào dự. Đến năm 1836, Luật Hồi tỵ còn được bổ sung những quy định khắt khe hơn: Các quan đầu tỉnh như Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát, Lãnh binh, Đốc học đều không được cử những người cùng chung một quê. Trong từng Bộ, Nha, Sở, Cục không được bố trí những người có quan hệ cha-con, anh-em, thông gia, thầy-trò, họ hàng... Khi thanh tra, thụ lý án, nếu trong đó có tình tiết liên quan đến người thân phải bẩm báo để triều đình cử người khác thay thế. 32 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 24 (328) T12/2016 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT Quan lại không được coi thi, chấm thi ở nơi nào có những người ruột thịt, thân quen dự thi. Nếu có, phải tâu trình thay người khác coi, chấm thi. Nghiêm cấm các quan đầu tỉnh đặt quan hệ giao du, kết thân, kết hôn với phụ nữ nơi mình trị nhậm, cấm tậu nhà, tậu ruộng trong địa hạt cai quản của mình3 3.2 Kiểm soát XĐLI trong giai đoạn hiện nay Kiểm soát XĐLI chính là quá trình tác động của nhân tố chủ quan đến các XĐLI hay cụ thể hơn là đến các xu hướng khách quan của sự cạnh tranh, đấu tranh giữa các lợi ích trong cùng chủ thể. Trong bối cảnh phòng, chống tham nhũng thì kiểm soát XĐLI chính là ngăn chặn hiện thực hóa từ nguy cơ trở thành tham nhũng. Điển hình và dễ nhận thấy nhất trong quy định của pháp luật hiện đại có lẽ là quy định về hồi tỵ cáo tỵ trong tố tụng. Thẩm phán hoặc hội thẩm nhân dân phải từ chối tham gia xét xử nếu có quan hệ nào đó với một trong các bên đương sự. Vấn đề XĐLI được quan tâm và các quy định nhằm xử lý vấn đề XĐLI ngày càng nhiều hơn kể từ khi chúng ta tăng cường các biện pháp đấu tranh chống tham nhũng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến các giải pháp phòng ngừa, cố gắng giảm bớt các nguy cơ, điều kiện tham nhũng. Mặt khác, với tư cách là một nước thành viên tham gia Công ước của LHQ về Chống tham nhũng, Việt Nam có nghĩa vụ thực thi các quy định của Công ước trên thực tế, trong đó có chế định liên quan đến kiểm soát XĐLI trong hoạt động công vụ. Nhìn từ góc độ pháp luật thì những quy định liên quan đến kiểm soát XĐLI hiện nay chủ yếu được quy định như là quy tắc ứng xử của công chức, những điều cấm đối với công chức. Cụ thể là: quy định tại Điều 37 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005; quy định về việc tặng quà và nhận quà tặng, một tình huống điển hình nảy sinh XĐLI tại Điều 40 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005; Quyết định số 64/2007/QĐ-TTg ngày 10/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ, ban hành quy chế về việc tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng của cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Ngoài ra, ở một số văn bản pháp luật khác cũng có những điều khoản nhằm loại trừ XĐLI, phần lớn là dưới dạng quy tắc ứng xử hoặc điều cầm đối với các cá nhân về một hành vi nhất định trong hoạt động công vụ. Như vậy, cho đến hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa có một định nghĩa chung về XĐLI, dẫn đến khó khăn trong việc định ra thiết chế để xử lý (hay kiểm soát) XĐLI nhằm phòng ngừa tham nhũng. Thiếu vắng những quy định có tính chất tổng quát khiến cho trong nhiều trường hợp rất khó xác định có hay không XĐLI và xử lý như thế nào trong trường hợp xảy ra XĐLI, với cả người có liên quan và cả cơ quan có trách nhiệm xử lý. Chẳng hạn, việc bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo quản lý mà người bổ nhiệm và người được bổ nhiệm có mối quan hệ thân quen, thậm chí là huyết thống cận kề (cha - con, chị - em), những mỗi quan hệ giữa công chức với khu vực tư (thường được gọi là “sân sau”). Những quy định rải rác và cụ thể cho các trường hợp dù có phát triển đến đâu cũng là không đủ để xử lý. Việc sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng sắp tới là cơ hội để giải quyết căn bản vấn đề này. 3 Theo Lê Tiến Long, Luật cấm cha con làm quan một chỗ, Tri thức trẻ, cho-20160917235357774.htm; Luật Hồi tỵ thời phong kiến đã cấm “cả họ làm quan” ở một nơi, dan/luat-hoi-ty-thoi-phong-kien-da-cam-ca-ho-lam-quan-o-mot-noi-20160921102647143.htm. 17 Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Phó Chủ tịch nước (i) được Quốc hội bầu theo đề nghị của Chủ tịch nước (Khoản 1 Điều 88); (i) là người giúp việc, thừa uỷ nhiệm của Chủ tịch nước và giữ quyền Chủ tịch nước, khi khuyết Chủ tịch nước (Điều 92). Thay lời kết Những nghiên cứu trên cho thấy, trong hệ thống chức danh của bộ máy nhà nước, “Phó” NTQG là chức danh có nhiều điểm đặc thù, thú vị. So sánh thực tiễn tổ chức thiết chế Chủ tịch nước ở Việt Nam, chúng ta cũng thấy có một số điểm tương đồng như: Phó Chủ tịch nước là người nắm quyền Chủ tịch nước khi khuyết Chủ tịch nước và trên thực tế, chỉ có một Phó Chủ tịch nước Tuy nhiên, vẫn còn những điểm khác biệt và thực tế này đặt ra yêu cầu tiếp tục được nghiên cứu, nhất là Hiến pháp năm 2013 đang thiết kế chức danh Phó Chủ tịch nước theo hướng đề cao vai trò thay mặt (chức danh mang tính hành chính17), hơn là vai trò thay thế (chức danh mang tính chính trị)  “PHOÁ” NGUYÏN THUÃ QUÖËC GIA... (TiÕp theo trang 21) 33 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 24 (328) T12/2016 BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT Kiểm soát XĐLI tất yếu cần sự điều chỉnh của pháp luật. Xét từ góc độ công cụ quản lý, hệ thống pháp luật là căn cứ xác định các lợi ích hợp pháp và các hành vi thực hiện lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể. Vì thế, theo chúng tôi, có một số nội dung cần thể hiện trong chế định này: Đưa ra một khái niệm chung về XĐLI. Khái niệm đó phải vừa mang tính khái quát, vừa dễ hiểu và có thể bao hàm hầu hết các tình huống có XĐLI; Quy định trách nhiệm báo cáo (đối với công chức gặp tình huống XĐLI) hoặc phản ảnh (đối với người khác) khi thấy có XĐLI; Quy định các phương án xử lý khi xảy ra XĐLI nhằm loại trừ nguy cơ dẫn đến hành vi tham nhũng; Quy định xử phạt những vi phạm về trách nhiệm báo cáo hoặc xử lý khi xảy ra XĐLI. Mới đây, Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng đã đưa ra khái niệm: “XĐLI là tình huống mà trong đó cán bộ, công chức, viên chức thực hiện hoặc không thực hiện một nhiệm vụ được giao có thể mang lại lợi ích không chính đáng cho cá nhân họ, cho người thân thích của họ” (Điều 28). Đồng thời, Dự luật này cũng đưa ra các quy định để xử lý vấn đề XĐLI, bao gồm: Trách nhiệm thông tin, báo cáo về XĐLI; Trách nhiệm xử lý thông tin, báo cáo về XĐLI. Dự luật cũng giao trách nhiệm cho người đứng đầu các cơ quan, ngành, lĩnh vực quy định về kiểm soát XĐLI trong ngành và lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của mình. Đây là những quy định hết sức cơ bản và cần phải được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật sau này. Ngoài ra, những quy định về công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động công quyền, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân sẽ là những điều kiện quan trọng để người dân có thể giúp Nhà nước kiểm soát tốt XĐLI. Việc nâng cao trách nhiệm giải trình và minh bạch hóa việc xử lý XĐLI một cách chủ động cũng là những yếu tố quan trọng nâng cao uy tín của nền công vụ, góp phần xây dựng một Chính phủ liêm chính và phục vụ 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkiem_soat_xung_dot_loi_ich_nham_phong_ngua_tham_nhung.pdf