Đối tượng kiểm toán: có thể là một báo cáo, một hoạt động hay một sản phẩm, dịch vụ( kết quả của hoạt động) .Đối tượng của kiểm toán tuân thủ rất đa dạng, có thể là một báo cáo tài chính, hoạt động của một cửa hàng, một chi nhánh, một công trình, hạng mục công trình hay một quy trình.
Cơ sở của kiểm toán: Là các quy định cần phải kiểm tra sự tuân thủ đối với đối tượng kiểm toán.
Hình thức kiểm toán: phụ thuộc vào yêu cầu đối với từng cuộc kiểm toán.
c) Kiểm toán hoạt động
Khái niệm: Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xem xét và đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động được kiểm toán.
95 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1227 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại Sở Giao Dịch III - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i một hợp đồng tín dụng được ký kết có mẫu chung của ngân hàng, được đưa ra trong cẩm nang tín dụng BIDV. Tuy nhiên đối với đối tượng khách hàng khác nhau lại có các điều khoản riêng, có thỏa thuận nhằm đảm bảo quyền lợi của khách hàng và cả phía ngân hàng. Các điều khoản này sẽ được cán bộ tín dụng rà soát và được trưởng phòng Quan hệ khách hàng kiểm tra kỹ lưỡng.
Như vậy việc KTNB đối với quyết định tín dụng tập trung vào việc kiểm tra, rà soát xem hợp đồng tín dụng đã theo đúng chuẩn mực của BIDV hay chưa, việc ký kết với khách hàng có đúng theo phân quyền tín dụng hay chưa. Kiểm tra chữ ký, cam kết của các bên xem có chính xác hay chưa. Bởi bất kỳ một sai sót nào trong các giấy tờ liên quan của hợp đồng tín dụng đều dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Nhìn chung các quyết định tín dụng của SGD III đều đáp ứng tốt yêu cầu, chính sách đề ra. Theo đúng quy định trong phân cấp, phân quyền tín dụng. Với những quyết định vượt thẩm quyền của Trưởng phòng Quan hệ khách hàng được xem xét đưa ra Hội đồng tín dụng để xét duyệt nhằm đảm bảo nguyên tắc tối thiểu hóa rủi ro.
Trong đó, Phòng quản lý rủi ro tín dụng là thành viên thường trực của Hội đồng tín dụng, các quyết định tín dụng vượt cấp được phòng tham gia biểu quyết, có ý kiến. Đồng thời phòng Quản lý rủi ro tín dụng cũng làm công tác kiểm tra nội bộ đối với hoạt động tín dụng làm công tác kiểm tra rà soát quy trình. Như vậy xét về mặt tích cực thì giúp cho quy trình tín dụng được trơn tru, thống nhất, thuận lợi. Nhưng xét về tính khách quan thì có thể nói là vừa đá bóng lại vừa thổi còi.
e, Kiểm tra đối với quá trình giám sát tín dụng
Tại SGD III, các khoản vay thường là lớn, vì các khách hàng doanh nghiệp là lớn. Cho nên đối với các khoản giải ngân cũng thường là lớn. Theo tâm lý chung thì khi hợp đồng tín dụng được ký kết tức là đã thực hiện xong khâu quan trọng nhất của quy trình tín dụng cho nên công tác giải ngân thường không được chú trọng đánh giá kiểm tra bởi chính cán bộ tín dụng phụ trách. Sau khi có quyết định tín dụng, hồ sơ giải ngân sẽ được chuyển sang Phòng Quản trị tín dụng, tại đây cán bộ phòng sẽ thực hiện công việc giám sát giải ngân. Điều đó cũng thể hiện sự cố gắng chuyên môn hóa trong công tác tín dụng của ngân hàng. Bộ phận KTNB là người sẽ phát hiện ra các rủi ro và có định hướng cho cán bộ tín dụng, giảm thiểu các thiệt hại mà ngân hàng có thể gặp phải.
Trong quá trình kiểm tra đối với quá trình giám sát khoản vay, bộ phận KTNB đã có những nhận định như sau:
Bộ phận được giao nhiệm vụ kiểm soát đã làm tốt chức năng và thực hiện đúng quy trình. Các cán bộ tín dụng phụ trách khách hàng cũng thường xuyên theo dõi và thông báo, nhắc nhở về việc hoàn trả đúng kỳ hạn.
Tuy nhiên, dựa trên hồ sơ giải ngân hay các hợp đồng thanh toán gốc, lãi của khách hàng đối với ngân hàng cho thấy có lúc bỏ sót giấy tờ xác nhận khi giải ngân. Nguyên nhân chính xuất phát từ tình hình công tác thực tế cho nên đôi khi cán bộ tín dụng cũng bỏ sót hay bổ sung giấy tờ xác nhận sau.
Kiểm tra cho thấy quá trình giám sát và sử dụng tiền vay gặp rất nhiều khó khăn do đặc trưng tình hình của doanh nghiệp và hạn chế thời gian của cán bộ tín dụng. Cho nên việc giám sát tình hình sử dụng tiền vay của khách hàng không được sâu sát, đây cũng là tình hình chung của toàn ngành chứ không riêng gì SGD III.
f.Kiểm tra quá trình thu nợ và lãi:
Cũng như đối với tất cả các chi nhánh hay NHTM khác, quá trình thu hồi nợ và đôn đốc khách hàng trả nợ đủ và đúng hạn là việc hết sức quan trọng. Công việc này trong quá trình tín dụng cũng được ngân hàng rất quan tâm và chú đến một cách thường xuyên.
Theo như báo cáo kết quả hoạt động tín dụng trong vòng 2 năm 2007 và 2008, tháng 1/2009 thì SGD III không có nợ xấu, không có nợ quá hạn. Trong đó chỉ có 1 khách hàng bị chuyển sang nhóm 2 do cơ cấu lại thời hạn nợ.
SGD III luôn chú trọng đến công tác đôn đốc và thu nợ. Không có các khoản nợ khó đòi cho nên yêu cầu kiểm tra đối với nghiệp vụ này của bộ phận KTNB hầu như là không có.
Cùng với sự quan tâm chỉ đạo của ban lãnh đạo BIDV cũng như BGĐ SGD III, phòng Quan hệ khách hàng của SGD III đã không ngừng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với khoản vốn cho vay. Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đảm bảo theo tiêu chuẩn ISO. Từ đó xứng đáng với vị thế dẫn đầu toàn hệ thống của SGD III.
Với hoạt động của bộ phận phụ trách KTNB và đoàn kiểm tra của Hội sở chính đã đem lại hiệu quả tốt. Góp phần đưa ra báo cáo kiểm toán trung thực, hợp lý được chấp nhận và thống nhất.
Nói chung trong năm vừa rồi theo các báo cáo về hoạt động KTNB bao gồm các hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ về hoạt động tín dụng và đảm bảo chất lượng tín dụng theo tiêu chuẩn ISO. Tại SGD III không có một vụ việc nào là sai phạm nghiêm trọng, mà chỉ có một vài thiếu sót nhỏ song đã được kiến nghị giải quyết kịp thời. Công tác kiểm tra nội bộ của SGD III diễn ra thường xuyên, gắn với công việc tham mưu giám sát hàng ngày. Hệ thống các quy trình được ban hành đảm bảo tính thống nhất trong công việc, làm căn cứ để kiểm tra và rà soát các công đoạn trong các hoạt động tín dụng. Vì thế tạo thuận lợi cho công việc giám sát của cán bộ làm nhiệm vụ kiểm tra nội bộ tại SGD III.
2.3 ĐÁNH GIÁ VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ CỦA SGD III
2.3.1 Những đóng góp của KTNB tại SGD III
Với biên chế hoạt động như trên, trong thời gian qua bộ phận làm công tác KTNB đã có những đóng góp lớn cho SGD III trong việc kiểm tra và giám sát hoạt động tín dụng.
Trước hết bộ phận làm nhiệm vụ KTNB là đầu mối phối hợp với ban KTNB của hội sở chính trong việc kiểm tra định kỳ cũng như đột xuất về hoạt động tín dụng tại SGD III. Đồng thời cũng là đầu mối tiếp xúc với các cơ quan quản lý, kiểm tra, thanh tra của nhà nước về chi nhánh để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Bộ phận làm công tác KTNB, mà cụ thể là Phòng Quản lý rủi ro tín dụng giữ vai trò đảm bảo chất lượng của hệ thống và kiểm tra nội bộ đã tham mưu, giúp cho ban giám đốc quản lý, điều hành thông suốt, đúng chính sách và đúng pháp luật.
Với việc đi sâu theo sát và kiến nghị kịp thời đã góp phần đảm bảo an toàn cho tài sản của ngân hàng, nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh của SGD III nói chung.
Trong quá trình hoạt động khi phát hiện ra những sai phạm, thiếu sót, KTNB đã có những đề xuất kiến nghị xử lý kịp thời.Thông báo kịp thời cho BGĐ. Nhờ vậy mà giúp cho công tác của cán bộ tín dụng đảm bảo chính xác, hiệu quả hơn và cũng nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong công tác của mình.
Với công tác đặc thù của mình, KTNB đã kịp thời phổ biến các văn bản, quy trình nghiệp vụ. Giám sát đảm bảo chất lượng hoạt động tín dụng theo tiêu chuẩn ISO. Vì vậy mà đưa hoạt động tín dụng của ngân hàng vào nề nếp, kỷ cương thống nhất. Tuân thủ theo đúng chính sách, quy định của ngân hàng cũng như đảm bảo tuân thủ theo những quy định của pháp luật.
Tóm lại với hoạt động của mình KTNB hoạt động tín dụng tại SGD III đã có đóng góp to lớn trong kết quả hoạt động kinh doanh của Sở. Điều đó thể hiện qua chỉ tiêu lợi nhuận bình quân theo đầu người của SGD III trong năm 2008 đạt xấp xỉ 1 tỷ đồng. Tuy nhiên những hoạt động của ngân hàng cũng còn tồn tại nhiều điều cần khắc phục từ đó phục vụ tốt hơn nữa mục tiêu phát triển của ngân hàng.
2.3.2 Những hạn chế của công tác KTNB tại SGD III
Hoạt động kiểm tra nội bộ chủ yếu diễn ra theo yêu cầu chung và đề cương của Hội sở cho nên chưa thể đảm bảo đem lại hiệu quả cao nhất. Có nhiều sai phạm tiềm ẩn mà bộ phận kiểm tra chưa thể phát hiện ra do hạn chế chuyên môn.
Phòng Quản lý rủi ro tín dụng làm công tác kiểm tra nội bộ tại SGD III, do đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ cho nên đối với công tác KTNB thực sự chưa có định hướng theo rủi ro mà chủ yếu do hoạt động nghiệp vụ xét đoán cá nhân.
Còn có hạn chế về kỹ thuật kiểm toán, vì hoạt động kiểm toán diễn ra theo phương thức truyền thống, tức là kiểm tra tuân thủ.Tốn nhiều thời gian vào công tác kiểm tra đối chiếu số liệu, tài liệu phát hiện các thiếu sót và sai phạm.
Theo Quyết định số 99/ QĐ-TCHC, ngày 01/10/2008 về chức năng nhiệm vụ của phòng Quản lý rủi ro tín dụng đã đề cập đến nhiệm vụ đảm bảo công tác quản lý hệ thống theo tiêu chuẩn ISO. Kiểm toán hệ thống được tiến hành tại ngân hàng xong chưa sâu sắc và đem lại hiệu quả cao. Việc đánh giá hiệu quả, hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ chưa được chú trọng đúng mức cần thiết với vai trò của nó. Vì vậy mà hiệu quả của công tác KTNB thực hiện không mang lại kết quả tốt nhất.
Hoạt động kiểm toán không phải là chức năng chuyên môn cho nên bộ phận phụ trách KTNB cũng chưa lựa chọn được phương pháp kiểm toán linh hoạt theo từng điều kiện cụ thể.
Còn thiếu hỗ trợ về các phần mềm kiểm toán làm công cụ cho các cuộc kiểm toán.
Bộ phận KTNB chủ yếu dừng lại ở việc kiểm tra, đánh giá phát hiện những sai sót mà chưa thực hiện được chức năng tư vấn - là chức năng làm nổi bật nét đặc trưng của hoạt động kiểm toán. Như vậy chưa thực hiện đầy đủ chức năng của KTNB trong ngân hàng.
Cũng do việc quy định chức năng KTNB một cách lồng ghép cho nên đội ngũ phân công làm công tác kiểm tra chưa có điều kiện phát triển về chuyên môn. Điều đó chưa tạo đà cho bước phát triển về sau của hoạt động KTNB trong Ngân hàng.
Trong toàn hệ thống BIDV do mô hình hoạt động KTNB còn bị trùng về mặt lãnh đạo. Nổi bật vai trò của KTNB làm công tác kiểm tra giúp Tổng giám đốc, điều này cũng chưa thực sự đảm bảo tính độc lập của KTNB. Vì vai trò của nó là phục vụ cho phía người sở hữu. Điều mà sẽ trở thành hiện thực khi mà BIDV tiến hành cổ phần hóa trong thời gian tới.
Tại SGD III, hoạt động KTNB chưa thực sự đảm bảo tính độc lập do việc bị lồng ghép chức năng vào phòng Quản lý rủi ro tín dụng và chịu sự lãnh đạo trực tiếp của BGĐ ngân hàng. Cho nên bộ phận KTNB trở thành tham mưu giúp việc cho Giám đốc, vì vậy có mối quan hệ ràng buộc về lợi ích kinh tế... làm cho bộ phận KTNB không kiểm tra chính vai trò lãnh đạo của BGĐ. Đồng thời cũng do tâm lý chung, không muốn KTNB tham gia sâu trong công tác quản lý điều hành của mình cho nên KTNB thường chỉ làm những công việc đơn giản.
Một vai trò đặc biệt nữa của KTNB đem lại, đây là nơi ươm mầm cán bộ lãnh đạo chủ chốt sau này của bộ máy cơ quan. Đây cũng là xu hướng chung trong hoạt động KTNB của các doanh nghiệp đã, đang và sẽ diễn ra trên thế giới. Nhưng điều này thực sự chưa được quan tâm, thể hiện đúng mức tại ngân hàng. Đây cũng là nét chung có thể thấy của toàn hệ thống NHTM ở Việt Nam.
Bộ phận KTNB tại SGD III cũng phải làm công tác tiếp nhận, thực hiện chức năng giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiện tong tại ngân hàng cho nên ảnh hưởng đến công tác KTNB của mình.
2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế
2.3.3.1 Nguyên nhân khách quan
Kiểm toán nội bộ là công việc mới mẻ tại Việt Nam, nó chỉ thực sự ra đời và phát triển khi mà Luật Sarbanes-Oxley của Mỹ ra đời năm 2002. Luật này quy định các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ phải báo cáo về hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ công ty.
Hiện tại ở Việt Nam không phải ai cũng hiểu rõ bản chất của công tác kiểm toán chưa nói gì đến KTNB.
Quá trình đổi mới kinh tế của Việt Nam diễn ra chưa lâu, chúng ta chưa có điều kiện tốt nhất để hoàn chỉnh phát triển công tác KTNB. Các doanh nghiệp của Việt Nam đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ cho nên chưa có điều kiện để phát triển công tác KTNB, có thể nó là chưa cần thiết nhưng cũng là chưa thực sự được chú trọng đến một cách nghiêm túc.
2.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan
Hiện nay các văn bản ở Việt Nam quy định chi phối về vấn đề KTNB chưa nhiều chưa sát và thậm chí là chưa cập nhật. Cho nên chưa tạo ra hành lang pháp lý tốt cho KTNB hoạt động.
Các văn bản quy định như Luật các TCTDđều đưa ra quy định về KTNB là bộ phận hoạt động thuộc bộ máy điều hành của tổ chức nên công việc KTNB chủ yếu chịu sự điều hành của BGĐ ngân hàng. Phụ thuộc vào thái độ, sự chú trọng của Ban lãnh đạo về công tác KTNB.
Các văn bản pháp lý của BIDV về KTNB vẫn chưa hoàn chỉnh cho hoạt động kiểm tra nội bộ của các chi nhánh. Chưa có thước đo chuẩn mực về hiệu quả hoạt động của công tác KTNB.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến KTNB của BIDV nói chung và SGD III nói riêng chưa đạt được sự độc lập cần thiết là theo mô hình tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ cho thấy. KTNB trực thuộc quyền quản lý của Tổng giám đốc, ban kiểm soát trực tiếp do HĐQT quản lý nhưng lại phụ trách mảng thi đua khen thưởng và xử lý nợ. Sở dĩ còn tồn tại điều này là vì tuy xác định mô hình phát triển của BIDV trong tương lai theo hướng tập đoàn nhưng hoạt động quản lý điều hành vẫn mang nặng tính nhà nước quan liêu bao cấp.
Tuy hiện nay tại SGD III thực hiện phân hệ, xếp hạng tín nhiệm được quản lý theo hệ thống SIBS nhằm tăng tính bảo mật, tăng tốc độ và quản lý cơ sở dữ liệu của ngân hàng. Nhưng nhìn chung là công nghệ vẫn chưa hoàn chỉnh và chưa được vận hành khai thác hết hiệu quả.
Về mặt nhân sự chưa đáp ứng được yêu cầu công việc của KTNB, bởi vì KTNB phải được đứng riêng không phụ thuộc và làm công tác kiểm tra, giám sát cũng như tư vấn cho các bộ phận khác cũng như tuân thủ theo nguyên tắc hoạt động của ban KTNB trung ương. Tuy nhiên việc lồng ghép chức năng như trên tại SGD III dẫn đến hiệu quả KTNB tín dụng nói riêng chưa đáp ứng kết quả mong đợi cũng như chưa tạo điều kiện phát triển trình độ của đội ngũ KTV. Chưa thực sự trở thành nơi ươm mầm cán bộ lãnh đạo tương lai của ngân hàng.
CHƯƠNG 3:
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI SỞ GIAO DỊCH III
3.1 ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KTNB HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
3.1.1 Định hướng hoạt động tín dụng giai đoạn 2009-2010 của SGD III
Mục tiêu chung trong giai đoạn 2009 - 2010 của SGD là tìm kiếm khách hàng, xây dựng nền tảng khách hàng mục tiêu theo chiến lược đã định, xây dựng nền tảng khách hàng có khả năng gắn bó lâu dài và sử dụng nhiều sản phẩm ngân hàng.
Bám sát định hướng tín dụng của BIDV, vận hành thành công hoạt động tín dụng theo mô hình TA2, hướng tới thông lệ, chuẩn mực quốc tế.
Xây dựng quy trình tín dụng phù hợp với mô hình hoạt động.
Tiếp tục kiểm soát và nâng cao chất lượng tín dụng, thực hiện tốt mục tiêu tăng trưởng và kiểm soát cơ cấu, danh mục tín dụng.
Tăng trưởng tín dụng tập trung vào những ngành, lĩnh vực kinh tế có hiệu quả và an toàn tín dụng.
Hoàn thiện cơ cấu tín dụng, các kỹ năng, thao tác tín dụng cho lực lượng CBTD.
Những đối tượng khách hàng mục tiêu SGD III hướng tới gồm:
- Ban quản lý Dự án có quan hệ với SGD III và các tổng công ty, Tập đoàn kinh tế lớn đã, đang hoặc chưa có giao dịch và có quan hệ với BIDV( nhưng chưa được đáp ứng xứng tầm).
- Các khách hàng sử dụng nguồn vốn ODA và các đối tác thực hiện các dự án có nguồn vốn ODA do SGD III phục vụ giải ngân.
- Các doanh nghiệp có trụ sở đăng ký trên địa bàn Hà Nội( tập trung nhóm đối tượng khách hàng có năng lực tài chính, hoạt động kinh doanh có hiệu quả và hiện đã hết dư nợ hoặc đang vay vốn tại các TCTD ngoài hệ thống BIDV.
Một số mục tiêu hoạt động tín dụng cụ thể:
- Dư nợ tín dụng: Đảm bảo mục tiêu tăng trưởng dư nợ đáp ứng yêu cầu kiểm soát an toàn, có tính đến mức độ khủng hoảng, suy giảm kinh tế
+ Định hướng mức dư nợ tín dụng năm 31/12/2009 là 643 tỷ đồng
+ Định hướng mức dư nợ tín dụng năm 31/12/2010 là 1200 tỷ đồng
- Cơ cấu tín dụng: Phấn đấu năm 2009-2010 tỷ trọng tín dụng Trung - Dài hạn ≤ 90%, trong đó tín dụng dài hạn < 70%.
- Tỷ trọng dư nợ có Tài sản đảm bảo: Định hướng tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo giai đoạn 2009-2010 là tối thiểu 20%.
- Tỷ lệ nợ Nhóm 2: định hướng giai đoạn 2009-2010, tỷ lệ nợ nhóm 2< 3%
- Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu: Định hướng giai đoạn 2009-2010, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu < 1%
- Tỷ lệ dư nợ NQD( ngoài quốc doanh)/Tổng dư nợ tối thiều đạt 30%.
Trong công tác KTNB về hoạt động tín dụng tiếp tục hoàn thiện, củng cố về tổ chức bổ sung nhân sự. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát và rà soát đối với hoạt động tín dụng. Hoàn thành nhiệm vụ do ban lãnh đạo ngân hàng giao cho. Thực hiện giám sát quản lý chất lượng tín dụng theo tiêu chuẩn ISO. Việc thực hiện kiểm tra tuân thủ theo tiêu chuẩn ISO tối thiểu mỗi năm 1 lần, nhưng đối với công tác của bộ phận KTNB của SGD III thì phải tiến hành 1 cách thường xuyên.
Về mục tiêu kinh doanh cụ thể được ngân hàng định hướng thể hiện qua bảng sau:
Bảng 6- Một số chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2009
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2008
Kế hoạch 2009
1
Định biên lao động
Người
118
135
15%
2
Số vốn huy động
Tỷ VND
5675
7548
33%
3
Số vốn mới uỷ thác
Triệu USD
1500
1500
0%
4
Dư nợ cho vay dự án TCNT
Tỷ VNĐ
3400
4420
30%
5
Dư nợ đại lý uỷ thác
Tỷ VNĐ
5200
5876
13%
6
Dư nợ thương mại
Tỷ VNĐ
160
643
402%
7
Nợ xấu
%
0
< 1%
8
Lợi nhuận trước thuế
Tỷ VNĐ
120
168
40%
3.1.2 Định hướng hoạt động KTNB
Cùng với việc định hướng của Sở trong phát triển tín dụng chú ý phát triển mảng tín dụng thương mại. Đặc biệt là tìm kiếm thêm nhiều khách hàng nhằm đa dạng hóa danh mục sản phẩm, dịch vụ và khách hàng có quan hệ. Với mức phấn đấu dư nợ tín dụng thương mại đến hết năm 2009 là 643 tỷ đồng, tăng 402% so với năm 2008. Điều đó thể hiện bước phát triển mạnh mẽ của hoạt động tín dụng thương mại mà SGD III đang hướng tới.
Song song với việc đẩy mạnh mở rộng phạm vi hoạt động tín dụng thương mại và đa dạng hóa cung cấp dịch vụ, sản phẩm tín dụng thì yêu cầu đối với kiểm tra quản lý cũng được đặt ra đồng thời.
SGD III trước hết cần duy trì chế độ kiểm tra, giám sát nội bộ đối với hoạt động tín dụng để phát hiện kịp thời các sai phạm có thể dẫn tới ảnh hưởng đến vị thế, uy tín và kết quả hoạt động của mình. Đồng thời có nhưng kiến nghị, tư vẫn nhằm hoàn thiện cơ chế, quy trình tín dụng, phù hợp với điều kiện ngân hàng trong điều kiện kinh tế – tai chính khủng hoảng.
Bộ phận chịu trách nhiệm KTNB tại Sở đảm bảo giám sát việc thực hiện chất lượng tín dụng theo tiêu chuẩn ISO.
Việc KTNB cần diễn ra thường nhật, nắm bắt kịp thời tất cả những hoạt động tín dụng của Sở. Dự đoán và phát hiện được những rủi ro để có báo cáo và tư vấn nhằm giải quyết kịp thời vấn đề.
Nhằm đảm bảo cho tính độc lập của bộ phận KTNB thì việc được trao thêm quyền hạn và phạm vi làm việc là điều tất yếu. Đồng thời được trang bị tốt hơn điều kiện về công nghệ, nhân lực để đảm bảo thực hiện đúng và đủ chức năng của mình.
KTNB tiếp tục là đầu mối liên kết, tiếp xúc làm việc với Ban KTNB khi có yêu cầu. Là bộ phận đắc lực giúp cho hoạt động KTNB của Ban kiểm tra được diễn ra nhanh chóng, chính xác và hiệu quả.
Bộ phận KTNB của Sở cần phải có sự gắn kết hơn nữa với Ban KTNB vùng. Cần phải thường xuyên báo cáo trực tiếp tình hình hoạt động tín dụng của đơn vị mình phụ trách, có những phát hiện, dự đoán và đề xuất để kịp thời đánh giá tình hình và có những điều chỉnh nhanh chóng, hợp lý.
KTNB với sự kết hợp của KTNB tại đơn vị với Ban Kiểm Tra hội sở tiến hành kiểm tra, đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng trên tất cả các mặt. Trong đó bao gồm cả tính hiệu quả công tác lãnh đạo của BGĐ ngân hàng, tính chính xác, nhanh chóng, hiệu quả của những quyết định tín dụng. Hiệu quả hoạt động của Sở theo cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ mới.
3.2 GIẢI PHÁP:
3.2.1 Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán nội bộ
Muốn cho hoạt động KTNB được hiệu quả và thông suốt, trước hết cần phải có một cơ chế điều tiết hữu hiệu. Điều đó được thể hiện qua hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động của KTNB. Là văn bản hướng dẫn thực hiện và là chuẩn mực, thước đo cho hoạt động KTNB.
Hệ thống các chuẩn mực quy định bao gồm của nhà nước và bản thân ngân hàng. Đến ngày nay, hệ thống văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động KTNB nói riêng còn thiếu và yếu. Thiếu về số lượng văn bản hướng dẫn, điều chỉnh và yếu về tính cưỡng chế xử lý các sai sót.
Trên thực tế thì không chỉ riêng SGD III - BIDV mà toàn bộ các NHTM khác cũng chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp quy đó, nhưng đó là các văn bản còn chưa đạt sự chuẩn mực và có nhiều văn bản chưa được chuẩn hóa thành văn bản, chế tài điều chỉnh chính thức.
Cho nên điều thiết yếu bây giờ về phía nhà nước là cần ban hành thêm các văn bản điều chỉnh cụ thể hơn nữa về hoạt động kiểm toán. Vì đa phần các văn bản quy định về hoạt động kiểm toán không cập nhật so với tình hình thực tế hiện nay vốn biến động phức tạp. Văn bản ban hành gần đây nhất về hoạt động KTNB là: Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 của Thống đốc NHNN. Như vậy về phía cơ quan quản lý nhà nước cần tạo ra một hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ làm cơ sở chung cho các NHTM làm căn cứ thực hiện.
Ngoài các văn bản điều chỉnh chung, về phía BIDV cũng cần có những văn bản hướng dẫn nhằm cụ thể hóa hoạt động. Điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho các chi nhánh, phòng giao dịch trong toàn hệ thống vận hành hoạt động một cách trơn tru. Làm căn cứ cho các chi nhánh tổ chức cơ cấu hoạt động KTNB, cũng như ban hành chính sách, quy chế về kiểm tra, kiểm soát nội bộ cũng như giám sát đảm bảo quản lý hệ thống theo tiêu chuẩn ISO về chất lượng tín dụng.
SGD III là chi nhánh của BIDV, giữ một vị trí quan trọng trong toàn hệ thống cả về vị trí hoạt động cũng như đóng góp về kết quả hoạt động kinh doanh. Cùng với sự đổi mới về tổ chức cũng như phạm vi hoạt động, BIDV hướng tới mục tiêu là trở thành một NHTM bán lẻ đến năm 2011. Như vậy cùng với sự vận động và phát triển chung của toàn hệ thống BIDV thì SGD III cũng đang dần đa dạng về phạm vi hoạt động và danh mục sản phẩm tín dụng. Tức là công tác quản lý, điều hành cũng đòi hỏi cao hơn và sâu sát hơn nữa cũng như độ phức tạp của hoạt động tín dụng tăng lên nhiều lần. Như vậy kéo theo rủi ro tín dụng tăng lên, đòi hỏi công tác KTNB càng phải được chú trọng và cải tiến chất lượng hoạt động để đáp ứng yêu cầu phát triển chung và vai trò riêng vốn có của KTNB. SGD III là chi nhánh trực thuộc Hội sở chính tuy nhiên SGD III vẫn được phép ban hành các văn bản quy chế riêng hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của đơn vị.
SGD III chính là nơi hiểu rõ nhất những điểm mạnh cũng như hạn chế của mình, dự đoán được những rủi ro tiềm tàng trong hoạt động tín dụng của chi nhánh mình. Vì vậy ngoài quy trình tín dụng chung của BIDV ban hành thì SGD III cũng cần nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp hơn với hoạt động của mình, SGD III có thể đề nghị tới HĐQT cũng như Ban Tổng Giám Đốc sửa đổi một số bước quy trình nghiệp vụ tín dụng cho phù hợp hơn và đem lại hiệu quả cao hơn.
Nhưng trước hết đội ngũ cán bộ tín dụng của SGD III vẫn cần phải thực hiện tốt và đúng nguyên tắc quy trình hoạt động tín dụng. Đảm bảo sự sâu sát trong công tác tín dụng của mình, tích cực trau dồi nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cũng như theo dõi, giám sát các khoản cho vay do mình phụ trách. Thường xuyên tổ chức đánh giá rủi ro của các khoản vay.
Như vậy điều quan trọng trước hết về hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động KTNB của SGD III là phía SGD III cần phải có văn bản bổ sung nhằm làm rõ hơn chức năng công tác cũng như tổ chức hoạt động của KTNB, tránh tình trạng chức năng KTNB bị lồng ghép vào phòng nghiệp vụ khác như hiện nay.
3.2.2 Cải cách tổ chức KTNB tại SGD III
Theo Quyết Định 680/QĐ-HĐQT ban hành ngày 03/9/2008 về mô hình tổ chức mẫu của BIDV, theo công văn số 5292/CV-TCCB3 ngày 1/10/2008 của BIDV về chuyển đổi mô hình tổ chức tại SGD III. Và quyết định số 4598/QĐ-TCCB2 ngày 4/9/2008 về ban hành chức năng nhiệm vụ của các phòng trực thuộc chi nhánh.
Theo đó làm căn cứ, SGD III đã ban hành Quyết định 99/QĐ - TCHC ngày 1/10/2008 về việc đổi tên phòng và quy định tạm thời chức năng nhiệm vụ của phòng Quản lý rủi ro tín dụng. Trong đó,quy định cụ thể về chức năng và nhiệm vụ KTNB đối với hoạt động tín dụng tại SGD III do bộ phận này phụ trách.
Như vậy, công tác KTNB của SGD III được lồng ghép vào phòng Quản lý rủi ro. Nhiệm vụ KTNB thuộc về phòng quản lý rủi ro phụ trách, bên cạnh đó phòng còn làm luôn nhiệm vụ đảm bảo hệ thống quản lý chất lượng tín dụng theo tiêu chuẩn ISO. Mà đòi hỏi của KTNB là phải có tính độc lập cao, KTNB mới phát huy hết khả năng hiệu quả công tác của mình. Hoạt động của KTNB tốt sẽ góp phần bảo vệ và nâng cao giá trị của SGDIII, tăng sức mạnh thương hiệu của BIDV nói chung và SGD III nói riêng, làm tăng sức cạnh tranh của ngân hàng đối với các ngân hàng khác.
Yêu cầu nên làm hiện nay đối với tổ chức bộ máy KTNB là tách rời chức năng nhiệm vụ KTNB ra đứng riêng. Để bộ phận này chỉ chuyên trách nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát nội bộ và là bộ phận giúp việc đắc lực cho Ban KTNB trung ương. Vì với tổ chức như hiện nay, công tác KTNB còn nằm trong phòng nghiệp vụ khác, chịu nhiều mối quan hệ tác động qua lại về lợi ích với BGĐ và phòng ban khác trong ngân hàng.
Muốn được như vậy thì bước đầu tiên cần phải điều chỉnh tổ chức KTNB phải chịu trực tiếp sự quản lý điều hành của HĐQT. Điều đó sẽ làm tăng tính hiệu quả của KTNB trong kiểm tra, kiểm soát nội bộ với hoạt động tín dụng nói riêng. Điều này sẽ đáp ứng cho yêu cầu chuyển đổi mô hình của ngân hàng và lộ trình cổ phần hóa trước mắt.
Như vậy với việc tách bộ phận KTNB ra đứng riêng rẽ và trực tiếp chịu sự chỉ đạo của ban KTNB theo vùng. Điều này sẽ làm tăng tính hỗ trợ và sâu sát hơn nữa, giúp cho Ban KTNB trung ương kịp thời nắm bắt được tình hình chi nhánh và có những đánh giá, đề xuất kịp thời.
Khi đó bộ phận KTNB tại SGD III sẽ phát huy được hết vai trò và hiệu quả của mình.
Dưới đây là mô hình tổ chức KTNB để cho BIDV nói chung và SGD III có thể tham khảo, và nếu có thể thì ứng dụng để hoàn thiện hơn công tác KTNB của mình.
Sơ đồ 8- Mô hình kiểm toán nội bộ cải tiến của BIDV
HĐQT
BAN KTNB
BAN TGĐ
KTNB VÙNG1
KTNB VÙNG 2
KTNB VÙNG 3
PHÒNG KTNB CHI NHÁNH
PHÒNG KTNB CHI NHÁNH
PHÒNG KTNB SGD III
Như vậy điều có thể nhận thấy sau khi có điều chỉnh như vậy, hoạt động KTNB của BIDV nói chung và SGD III sẽ được cải thiện lên rất nhiều về tính hiệu quả và độc lập. Nhờ đó có thể phát huy hết khả năng, vai trò của bộ phận KTNB. Trong tương lai hoạt động thì đây sẽ là cái nôi đào tạo cán bộ nguồn, cán bộ lãnh đạo cho SGD III nói riêng và của toàn hệ thống BIDV nói chung. Điều đó sẽ giúp cho công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng. Mà trên hết là sẽ đảm bảo cho bộ phận KTNB làm tốt chức năng tư vấn đồng thời giám sát hoạt động quản lý điều hành của BGĐ đơn vị.
Trong đó ban KTNB theo vùng vẫn tiến hành các cuộc kiểm toán theo định kỳ và đột xuất kết hợp với hoạt động của KTNB tại đơn vị theo quyền hạn của mình. Mô hình trên đây là mô hình KTNB kết hợp vừa tập trung vừa phân tán. Nhưng nó sẽ phù hợp với hoạt động của SGD III hiện tại và trong tương lai và sẽ thích hợp cho cả hệ thống kiểm soát nội bộ của BIDV.
3.2.3 Lựa chọn cách thức kiểm toán linh hoạt
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ đạo của các NHTM nói chung cũng như đối với SGD III nói riêng, nhưng hoạt động tín dụng thì luôn đi kèm với nó là những rủi ro tiềm ẩn. Rủi ro tín dụng chi hết khi hợp đồng tín dụng đó kết thúc. Nhưng không chỉ có rủi ro trong quy trình tác nghiệp mà còn có cả rủi ro về mặt đạo đức, hành vi của khách hàng, của cán bộ tín dụng hay chính của lãnh đạo...Vì vậy tiến hành KTNB đối với hoạt động tín dụng không thể chỉ có một khuân mẫu cứng nhắc đối với mọi đối tượng được kiểm toán mà cần có một cách thức thích hợp, linh hoạt với đối tượng áp dụng cụ thể. Đó không chỉ là thực hiện kiểm tra, kiểm soát cụ thể nghiệp vụ tín dụng mà còn là sự giám sát, điều chỉnh từ xa bằng các quy định, chế tài. Việc lựa chọn cách thức kiểm toán nội bộ đúng đã thể hiện sự thành công bước đầu của công tác KTNB tại đơn vị.
Xu hướng chung hiện nay trong các doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng đang có sự chuyển dịch từ kiểm toán cơ bản( chi tiết) sang kiểm toán hệ thống. Với việc tiến hành theo phương pháp kiểm toán hệ thống sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu chi phí thời gian, nhân lực và vật lực. Nhưng đem lại hiệu quả cao hơn vì các KTV khoanh vùng được rủi ro, có cái nhìn tổng thể về hoạt động, vì thế mà kết quả kiểm toán tốt hơn và có những đánh giá cũng như kiến nghị giải pháp điều chỉnh xử lý đạt hiệu quả cao hơn.
Cũng từ điều chỉnh này thì đòi hỏi các cán bộ làm công tác KTNB cần có năng lực cao hơn, có hiểu biết sâu rộng hơn nữa về các hoạt động quản lý điều hành cũng như nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng. KTV cần tận dụng khai thác triệt để các phần mềm hỗ trợ để dùng phân tích đánh giá rút ra những nhận xét chính xác hơn về các sai phạm. Đồng thời các KTV cũng phải xây dựng cho mình phương pháp thu thập bằng chứng một cách khách quan, khoa học và việc thiết lập các hồ sơ công tác.
Các cán bộ làm công tác KTNB phải tiến hành khảo sát, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng cơ cấu tín dụng, quy trình cấp phát tín dụng. Để từ đó có những đánh giá đúng đắn về rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng của đơn vị. Không chỉ dừng lại ở đó KTNB còn phải tiến hành kiểm toán giữa các bộ phận nghiệp vụ tín dụng có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Đây cũng là điều mà ngân hàng chưa thực hiện tốt được khi mà nhiệm vụ KTNB còn nằm trong phòng ban thực hiện công tác nghiệp vụ của mình.
Trước mắt ngân hàng cần làm công tác lên kế hoạch kiểm toán chi tiết các nghiệp vụ, bố trí thời gian kiểm toán phù hợp để không làm ảnh hưởng đến công tác hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Để có được định hướng đúng về quy trình thực hiện kiểm toán của mình thì các cán bộ phụ trách KTNB cần tận dụng hết khả năng phân tích cũng như xây dựng bảng câu hỏi nhằm đánh giá về các chốt kiểm soát của cán bộ tín dụng trong quy trình tín dụng như:
+ Khi các thông tin không rõ ràng, thiếu minh bạch thì có nên tiến hành khấu trừ giá trị của tài sản thế chấp không?
+ Văn bản hướng dẫn có liệt kê đầy đủ yêu cầu của hồ sơ về mặt pháp lý không?
+ Việc phân cấp thẩm quyền cấp tín dụng được ngân hàng quy định bằng các văn bản có đúng và đủ hay không?
+ Quy định về hạn mức tín dụng, gia hạn tín dụng hay cơ cấu lại thời hạn tín dụng đối với khách hàng có phù hợp hay không? Có phải điều chỉnh gì không?..
+ Việc tiến hành giám sát đối với khoản vay của khách hàng có được tiến hành sâu sát và thường xuyên hay không?
+ Có thường xuyên kiểm tra và đánh giá lại tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng hay không?
3.2.4 Cải thiện, nâng cao trình độ của đội ngũ làm công tác KTNB
Sự tăng trưởng nóng hiện nay của các ngân hàng thương mại đòi hỏi có những KTV nội bộ để giảm thiểu các rủi ro. KTV nội bộ có khả năng ngăn chặn, phát hiện và chỉnh sửa các vấn đề tiêu cực phát sinh cao nhất trong nội bộ ngân hàng, đóng vai trò như một người bảo vệ giá trị của ngân hàng. Song hiện tại nguồn cung các KTV chuyên nghiệp vẫn còn quá mỏng chưa đáp ứng được so với nhu cầu của ngân hàng.
Từ việc phân tích về tổ chức và cách thức hoạt động ở trên của bộ phận phụ trách KTNB của SGD III, thì cán bộ chuyên trách là ít trong khi theo nhận định của em về khối lượng công việc kiểm toán là nhiều và ngày càng nhiều và phức tạp trong tương lai gần.
Vì vậy yêu cầu đặt ra cho hệ thống KTNB tại SGD III nói riêng và BIDV nói chung là việc tách rời bộ phận KTNB ra đứng riêng rẽ làm chức năng nhiệm vụ của mình. Bên cạnh đó là yêu cầu đào tạo thêm các KTV mới, bồi dưỡng cho các cán bộ làm công tác kiểm toán nâng cao trình độ khả năng của mình. Sự thiếu về cán bộ cũng đã được đề cập tới trong định hướng công tác năm 2009, trong đó định hướng bổ sung thêm vào đội ngũ cán bộ 17 người. Trong đó bổ sung lực lượng cán bộ cho bọ phận liên quan đến hoạt động tín dụng là 6 -7 người.
Với đội ngũ KTV giỏi có năng lực sẽ giúp ích rất nhiều cho hoạt động quản lý điều hành của BGĐ ngân hàng. Làm tăng tính chính xác và an toàn trong các quyết định đưa ra. Tức là KTV thực hiện vai trò tư vấn của mình, vì thế đòi hỏi KTV phải có trình độ năng lực tốt,có hiểu biết chuyên sâu về nhiều lĩnh vực quản lý, kế toán và tín dụngVà còn một điều nữa là KTV cần giữ được sự bí mật trong nghề nghiệp, giữ được sự độc lập cần thiết trong công việc. KTV cần đáp ứng được 1 tiêu chuẩn nghề nghiệp kiểm toán quan trọng là đạo đức nghề nghiệp, đảm bảo sự vô tư, khách quan, công tâm, nhiệt tình và chính xác. Ngoài việc bồi dưỡng cho nguồn cán bộ hiện có làm công tác KTNB, ngân hàng nên tuyển chọn thêm một số cán bộ bổ sung. Tuy nhiên tuyển chọn KTV làm công tác nội bộ là không đơn giản và phải có tiêu chí, đòi hỏi rõ ràng hơn đối với các vị trí tuyển dụng khác. Có thể căn cứ vào một số tiêu chí sau đây:
KTV phải có trình độ đại học trở lên và có chuyên môn trong lĩnh vực làm kiểm toán: tài chính, ngân hàng, kế toán, công nghệ thông tinCần có thêm điều kiện bổ sung đối với các ứng viên này có thâm niên, kinh nghiệm công tác ở vị trí làm công tác kiểm toán. Điều này giúp cho ngân hàng giảm bớt gánh nặng và chi phí đào tạo đối với cán bộ làm công tác KTNB.
KTV cần có năng lực chuyên môn chuyên sâu, cần nắm chắc các quy trình nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng mình...đồng thời không ngừng tích lũy cải thiện khả năng, hiểu biết của mình về các lĩnh vực khác của ngân hàng. Nắm bắt được xu thế vận động của ngân hàng trong tương lai. Điều này sẽ góp phần tăng thương hiệu của SGD III nói riêng và BIDV nói chung, góp phần tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong hoạt động tín dụng với các đối thủ cạnh tranh khác. Thực hiện mục tiêu vươn lên trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu của Việt Nam.
Về đạo đức nghề nghiệp: cán bộ làm công tác KTNB cần phải không ngừng rèn luyện phẩm chất, tính kiên định, làm việc khách quan, tính độc lập trong công việc. Giữ tính bí mật trong công tác, không bao che cho các sai phạm, có khả năng giao tiếp thuyết trình để thực hiện công tác thu thập thông tin kiểm toán thuận lợi hơn và rõ ràng hơn.
Chính vì vậy, ngân hàng cần chú trọng ngay vào công tác bồi dưỡng, đào tạo cho cán bộ kiểm toán, lựa chọn ra các KTV giỏi đáp ứng tốt yêu cầu vị trí của công việc. Ngân hàng có thể tận dụng việc tuyển các sinh viên có trình độ khá, giỏi từ nguồn các trường đại học như Kinh Tế Quốc Dân, Học Viện Ngân Hàng, Học Viện Tài Chính
Nhưng giải pháp trước mắt để ngân hàng giải quyết vấn đề nhân sự cho bộ phận KTNB là việc chọn các cán bộ từ phòng ban khác có năng lực phù hợp sang làm nhiệm vụ KTNB chuyên biệt. Thực hiện được yêu cầu đó thì việc KTNB hoạt động tín dụng sẽ trở nên đơn giản và hiệu quả.
Cùng với định hướng phát triển của BIDV sẽ trở thành NHTM bán lẻ hàng đầu của Việt Nam đến năm 2011, và việc triển khai theo mô hình mới của SGD III cũng như việc mở rộng phạm vi hoạt động, cung cấp đa dạng hóa danh mục sản phẩm. Như vậy công tác quản lý phức tạp và yêu cầu cũng cao và cấp thiết hơn. Mà trong đó hoạt động tín dụng vẫn giữ vai trò chủ đạo, chiếm phần lớn nguồn thu của ngân hàng. Cho nên KTNB đối với hoạt động tín dụng càng phải chú trọng hơn, sâu sát hơn. Đòi hỏi KTV nắm bắt tốt hơn kỹ năng nghiệp vụ, hiểu rõ hơn quy trình nghiệp vụ ngân hàng hiện đang áp dụng thực hiện.
Việc cải thiện và nâng cao trình độ cán bộ làm công tác KTNB thực sự là đòi hỏi nâng cao cả về chất và lượng. Đáp ứng được yêu cầu đó sẽ giúp cho hoạt động kiểm toán đạt hiệu quả cao hơn. Trong giai đoạn hiện nay, các ngân hàng không chỉ cạnh tranh nhau trong việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ chăm sóc khách hàng mà còn cạnh tranh nhau về thương hiệu, uy tín của ngân hàng. Chính hoạt động KTNB là chìa khóa giải quyết vấn đề này của ngân hàng.
3.2.5 Có chế độ quan tâm ưu đãi đối với đội ngũ làm công tác KTNB
Đối với SGD III thì bộ phận làm công tác KTNB là cơ quan giúp việc đắc lực cho BGĐ, ngoài việc tư vấn cho BGĐ thì bộ phận KTNB còn làm công tác kiểm tra, giám sát mọi hoạt động tại ngân hàng. Ngay từ khi tuyển cán bộ công tác KTNB như nói ở trên đã có những đòi hỏi cao hơn bộ phận khác của TCTD, chính vì vậy cần có một chế độ đối nội hợp lý cho KTV nội bộ cũng như có chế độ đãi ngộ hợp lý.
Trước hết ngân hàng cần quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của KTV nội bộ bằng chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý cân bằng với chức năng nhiệm vụ của bộ phận KTNB nhưng cũng không thái quá so với mức độ công việc được giao, thực hiện.
Ngân hàng tạo điều kiện đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ công tác cho cán bộ làm công tác KTNB của mình bằng việc cho cán bộ đi tham dự các lớp học bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn do NHNN tổ chức, do BIDV tổ chức hay các cuộc hội thảo về công tác KTNB của ngân hàng
Có chế độ thưởng hợp lý phù hợp với kết quả công việc của KTV nội bộ, động viên khích lệ kịp thời đối với hoạt động của KTNB khi có những đề xuất, giải pháp tối ưu và tiên tiến.
BGĐ đồng thời cũng là đối tượng kiểm toán của bộ phận KTNB cho nên BGĐ cần tạo mọi điều kiện cho KTNB hoạt động, phát triển đảm bảo tính độc lập và hiệu quả cao.
Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng có nhiều hợp đồng được ký kết, chính các cán bộ tín dụng trực tiếp quản lý là người hiểu rõ và nắm bắt chắc nhất đối với khoản vay, khách hàng. Việc kiểm tra tất cả các hoạt động tín dụng là không phải dễ vì vậy các cán bộ tín dụng cần cung cấp một cách đầy đủ, xác thực các thông tin cần thiết khi được cán bộ KTNB yêu cầu.
Các thông tin hoạt động tín dụng cần được cung cấp, chuyển về bộ phận KTNB một cách thường xuyên, cập nhật hàng ngày để tiện cho KTNB giám sát và rà soát.
Ngân hàng tạo điều kiện cho các cán bộ KTNB làm việc trong môi trường độc lập, mà không chịu bất kể sự chi phối nào khi đưa ra các kết luận, đánh giá và nhận xét của mình.
Ngân hàng cần xây dựng hệ thống văn bản điều chỉnh để thấy rõ hơn vai trò hoạt động của KTNB tín dụng. Từ đó để cho cán bộ làm công tác KTNB thấy rõ hơn vai trò và trách nhiệm của mình trong thực hiện kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng cũng như lợi ích khi tham gia công tác KTNB. Điều đó sẽ góp phần làm cho cán bộ KTNB có động lực làm việc và tích cực đóng góp, gắn bó với ngân hàng. Từ đó góp phần giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, tăng cường hiệu quả kinh doanh do hoạt động tín dụng mang lại.
3.2.6 Cải tiến và ứng dụng khoa học công nghệ thông tin tiên tiến trong hoạt động KTNB
Ngày nay, việc ứng dụng công nghệ tin học hiện đại vào trong hoạt động của các NHTM đã trở nên phổ biến, là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển. Đa phần các ngân hàng đã ứng dụng mạng WAN( wide area network), là mạng diện rộng trong hoạt động của mình.Từ đó mà việc liên kết giữa các chi nhánh của ngân hàng với nhau đảm bảo tính thông suốt. Các thông tin trong hoạt động tín dụng được cập nhật hơn. Tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý dữ liệu và điều hành công tác. Một hiện trạng của các ngân hàng hiện nay khi tiến hành kiểm toán vẫn còn mang tính thủ công, còn mất nhiều thời gian cho việc phân tích, đối chiếu và so sánh các chứng từ, hồ sơ..
Bộ phận KTNB cần làm tốt hơn việc đối chiếu so sánh thông qua công tác quản lý lưu trữ hồ sơ và thông tin cập nhật về phòng. Điều này đòi hỏi các cán bộ làm công tác KTNB cũng phải có trình độ nhất định về tin học để đáp ứng kịp yêu cầu công việc. Vận dụng được ưu điểm của công nghệ tin học trong quản lý, đối chiếu, so sánh và phân tích các dữ liệu.
Hơn nữa KTNB còn mang tính giám sát, dự báo và tư vấn cho nên cần có thêm phần mềm tin học tiên tiến đặc thù hơn nữa phục vụ cho công tác kiểm toán. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào KTNB đối với hoạt động tín dụng sẽ làm giảm bớt khối lượng thời gian, công việc nhưng đảm bảo chất lượng và tính chính xác cao hơn.
Việc ứng dụng công nghệ tin học tiên tiến hiện nay vào công tác KTNB của các NHTM ở Việt Nam mới bắt đầu được chú ý, đầu tư cho nên việc cải tiến công nghệ ứng dụng tại SGD III là phải mang tính lộ trình và phụ thuộc nhiều vào hội sở chính.
Tuy nhiên có thể thấy SGD III có điều kiện thuận lợi là có phòng Đào tạo và công nghệ thông tin cho nên việc cải tiến công nghệ ứng dụng vào trong hoạt động sẽ nhanh chóng và dễ dàng hơn. Đây cũng là điểm thuận lợi tạo điều kiện bồi dưỡng nâng cao trình độ khả năng tin học cho đội ngũ nhân viên hiện thời của ngân hàng. Đảm bảo tính thống nhất và áp dụng đồng bộ công nghệ mới cho ngân hàng.
Tóm lại SGD III cần tăng cường đầu tư cho công tác phát triển ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông đề làm nền tảng đáp ứng tốt nhất cho hoạt động kinh doanh và quản trị điều hành theo hướng phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại
3.2.7 Tăng cường công tác kiểm tra tín dụng
Theo các Quyết định số 4275/QĐ-VP ngày 25/8/2008 về Quy trình tín dụng khách hàng doanh nghiệp hay Quyết định số 4321/QĐ-TD3, Ngày 27/8/2008 về quy trình cấp tín dụng bán lẻ cho thấy quy trình cấp tín dụng bao gồm rất nhiều bước, mỗi bước là một mắt xích có mối liên quan tới nhau.Trong đó có những mắt xích trọng yếu và mắt xích bổ trợ. Chính vì vậy mà công tác KTNB không chỉ diễn ra sau khi hợp đồng tín dụng kết thúc( hết rủi ro tín dụng với hợp đồng đó) để kiểm tra lại việc thực hiện tốt hay không? hay trước khi diễn ra ký kết hợp đồng tín dụng nhằm kiểm soát rủi ro là không đầy đủ và hợp lý. Việc kiểm toán phải được diễn ra cả trước, trong và sau ký kết hợp đồng tín dụng. Việc kiểm tra nội bộ đối với hoạt động tín dụng sẽ đưa ra cái nhìn khái quát về tính tuân thủ các chính sách, nguyên tắc trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Điều này sẽ đảm bảo cho mọi hoạt động được diễn ra an toàn linh hoạt nhưng vẫn tuân thủ đúng các chuẩn mực của quy trình tín dụng.
Việc kiểm tra, kiểm soát tốt chính là tiền đề cho hoạt động KTNB được diễn ra thuận lợi và hiệu quả. Vấn đề kiểm tra giám sát hoạt động tín dụng trước hết cần đề cao ở ngay chính các cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng trước hết cần làm tốt công tác tự kiểm tra, giám sát tín dụng của mình để giảm thiểu rủi ro hoạt động cũng như có báo cáo đầy đủ kịp thời cho bộ phận kiểm tra nội bộ theo dõi phân tích và đánh giá.
Việc kiểm tra đối với hoạt động tín dụng cần được phân tách cụ thể cho từng đối tượng cán bộ trong ngân hàng. Nhưng điều có thể thấy là rất cần thiết, đó chính là việc kiểm tra tín dụng cần được tiến hành thường nhật. Bởi hoạt động tín dụng vốn dĩ đã rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn mà không phải ngân hàng có thể kiểm soát được hết. Nhưng mục đích chung là góp phần hạn chế và cải thiện hiệu quả tín dụng.
3.2.8 Phối kết hợp giữa KTNB tại đơn vị với KTNB của hội sở
Với cơ chế hiện nay của BIDV, thì tại SGD III, Phòng quản lý rủi ro làm nhiệm vụ kiểm tra nội bộ và là đầu mối phối hợp với đoàn kiểm tra nội bộ của hội sở đối với hoạt động tín dụng của mình.
Như vậy có thể thấy tại SGD III đã có bộ phận làm chức năng KTNB và đảm bảo hệ thống quản lý chất lượng tín dụng theo tiêu chuẩn ISO. Việc đoàn kiểm tra của hội sở hay nói đúng hơn là đoàn kiểm tra theo phân vùng chỉ làm công tác xem xét lại một lần nữa mang tính hệ thống về việc đảm bảo chất lượng ISO và tính tuân thủ trong hoạt động tín dụng của SGD III.
Như vậy điều cho thấy trước mắt cần sửa đổi mà em đã nêu ở giải pháp trên là việc tách riêng bộ phận KTNB ra đứng riêng rẽ thực hiện chuyên biệt chức năng của mình. Cần có sự liên hệ gắn kết chặt chẽ hơn nữa giữa bộ phận KTNB tại ngân hàng với ban KTNB vùng. KTNB tại ngân hàng thực hiện tốt 2 chức năng của mình là:
- Đảm bảo chất lượng
- Kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Bộ phận KTNB tại ngân hàng nên báo cáo thường xuyên trực tiếp tình hình giám sát, kiểm tra của ngân hàng lên Ban KTNB vùng từ đó để Ban KTNB có nhưng kết quả tổng hợp đánh giá kịp thời và có những báo cáo lên ủy ban KTNB trung ương.
Chính vì vậy mà các giải pháp kiến nghị của bộ phận KTNB mới được nắm bắt và triển khai kịp thời, góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động của KTNB. Đồng thời cũng đảm bảo KTNB tại ngân hàng đảm bảo được tính độc lập khách quan. Thực hiện được đúng và đủ vai trò chức năng của vị trí KTNB trong ngân hàng.
3.3 KIẾN NGHỊ
3.3.1 Kiến nghị đối với NHNN và các cơ quan quản lý nhà nước
Các văn bản pháp lý hiện nay quy định về KTNB là chưa đủ và chưa đáp ứng tính thực tiễn cũng như độ phức tạp ngày càng cao của công tác kiểm toán nói chung và KTNB nói riêng. Hai văn bản mới nhất quy định về công tác kiểm toán được NHNN Việt Nam ban hành vào năm 2006. Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN về “ Ban hành quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD” và Quyết định số 37/2006/ QĐ-NHNN về “quy chế KTNB của TCTD”.
Các văn bản trên được NHNN ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu thiết yếu bấy giờ nhằm định hình cho công tác KTNB trong các TCTD. Tuy nhiên cùng với tình hình kinh tế biến động phức tạp trong 3 năm từ 2006 đến nay, cùng với đó là hoạt động tín dụng trở nên phong phú và phức tạp hơn rất nhiều. Sự phát triển bùng phát của hệ thống NHTM, sự cạnh tranh khốc liệt và kèm theo đó là rủi ro trong hoạt động tín dụng trở nên phức tạp, khó lường hơn trước. Trước yêu cầu đó KTNB cần phát triển tương xứng để với vai trò của mình có thể góp phần làm cho hoạt động tín dụng trở nên lành mạnh hiệu quả.
Vậy yếu tố tiên quyết là phía NHNN nên có những chỉnh sửa, điều chỉnh và bổ sung hợp lý và thống nhất các văn bản pháp luật điều chỉnh trong phạm vi hoạt động kiểm toán này.
Việc chỉnh sửa bổ sung các văn bản quy định điều chỉnh hoạt động KTNB trước hết cần phải thống nhất với nhau về nội dung cơ bản của kiểm toán, KTNB, có tính hiệu lực cao, văn bản mang tính mở để có thể bổ xung sửa chữa kịp thời nếu cần. Điều đầu tiên nên làm là cần tiếp tục xem xét, bổ sung luật các TCTD 02/1997/QH10. Trong đó có những đề cập về KTNB và hệ thống kiểm soát nội bộ.
Các văn bản cần nêu bật được khái niệm, chức năng, tổ chức của hệ thống KTNB để tránh tình trạng cách hiểu không thống nhất hiện nay giữa các ngân hàng. Cần có quy định chuẩn về tiêu chí tổ chức hoạt động, cán bộ KTNB.
Quy định về kế hoạch kiểm toán, cách thức kiểm toán để làm căn cứ cho các NHTM thực hiện, vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của ngân hàng mình nhưng vẫn mang tính đồng bộ về cơ bản trong quá trình tiến hành.
Đồng thời NHNN cần quy định về sự phối hợp kiểm tra giữa cơ quan thanh tra, giám sát của NHNN với bộ phận KTNB của ngân hàng. Điều đó đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, làm tăng tính hiệu quả của công tác kiểm tra của NHNN vừa đảm bảo chức năng quản lý các TCTD của NHNN. Vì như vậy cùng hướng chung tới một mục đích là tăng hiệu quả kiểm tra, giám sát nội bộ, đảm bảo tính tuân thủ các nguyên tắc, chính sách hoạt động tín dụng của các TCTD.
Vì vậy có thể nói rằng các văn bản quy định cần đảm bảo tính sát thực, thống nhất, đồng bộ tạo nên hành lang pháp lý cơ bản cho hoạt động KTNB của ngân hàng tuân theo.
3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Với xu thế phát triển mạnh mẽ hiện nay của các NHTM và định hướng phát triển theo mô hình tập đoàn tài chính của BIDV thì việc cần hoàn thiện hệ thống tổ chức nói chung và hệ thống KTNB nói riêng là bước đi cấp thiết và hết sức quan trọng.
Hiện nay, BIDV triển khai tổ chức theo mô hình tập trung theo chiều dọc. Hệ thống KTNB trực thuộc lãnh đạo của Tổng Giám Đốc, bao gồm có các ban KTNB theo phân vùng. Như vậy điều kiện cho bước phát triển tiếp theo là phải chú trọng tới công tác KTNB ngay tại các chi nhánh cấp 1. Công tác kiểm tra giám sát phải được thực hiện tốt ngay từ khâu cơ sở, như vậy việc tuân thủ nguyên tắc, chính sách mới được đảm bảo tốt.
BIDV cần ban hành bổ sung thêm các quy định về tổ chức, quy trình, chức năng cũng như nhiệm vụ của bộ phận KTNB tuyến cơ sở. Ban hành cẩm nang về KTNB cho toàn bộ các hội viên cũng như nhân viên trong toàn hệ thống.
Hướng các cán bộ làm công tác KTNB làm việc một cách chủ động linh hoạt và sáng tạo, nhưng trên nguyên tắc thống nhất và đảm bảo phù hợp với thực tiễn.
Cần có văn bản điều chỉnh hướng dẫn cho KTV chú trọng vào công tác lựa chọn kỹ thuật kiểm toán cũng như phương pháp kiểm toán.
Chú trọng tới công tác bồi dưỡng đào tạo cán bộ có năng lực, đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ khắt khe của công tác kiểm tra, giám sát nội bộ. Tổ chức cho KTV tham dự các buổi hội thảo có liên quan đến lĩnh vực kiểm toán của ngành, hay do NHNN tổ chức.
KẾT LUẬN
Để thực sự nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng và đảm bảo quản lý hệ thống chất lượng tín dụng theo tiêu chuẩn ISO thì công tác KTNB phải thực sự được chú trọng và quan tâm phát triển.
Với sự phát triển của KTNB thì hoạt động tín dụng sẽ ngày càng phát triển một cách lành mạnh hóa, đảm bảo chính xác và an toàn hơn. Giúp ích cho ban lãnh đạo ngân hàng trong việc ra các quyết định tín dụng một cách an toàn và hiệu quả.
Trước yêu cầu phát triển hội nhập của toàn ngành thì ban lãnh đạo giờ đây đã nhận thức sâu sắc hơn về sự cần thiết của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ.KTNB không đơn thuần chỉ là phương tiện góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng mà nó còn là công cụ tư vấn hiệu quả cho ban lãnh đạo ngân hàng.
KTNB từ khi được ra đời và phát triển cho đến nay, đã ngày càng thể hiện rõ vai trò, vị thế của mình trong công tác hoạt động tín dụng của các NHTM. Nó là trợ lý đắc lực cho ban lãnh đạo ngân hàng, giúp ngân hàng đạt các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả tối ưu hơn.
KTNB đã dần chuyển sang theo hướng kiểm toán hệ thống để đáp ứng theo yêu cầu hoạt động kinh doanh đã đề ra.
KTNB là chìa khóa để cho ngân hàng nắm bắt cơ hội chiến thắng trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng với nhau. Nó góp phần bảo vệ và tăng giá trị của ngân hàng.
KTNB sẽ dần là nơi ươm mầm cho các cán bộ nguồn, cán bộ lãnh đạo tương lai của ngân hàng. Là nơi cung cấp cán bộ lãnh đạo chủ chốt cho toàn hệ thống.
Trong phạm vi cho phép, với nội dung của khóa luận đã nêu ra, chỉ rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác KTNB của SGD III. Hy vọng trong thời gian tới SGD III sẽ có những bước đi tiếp đúng đắn từng bước nâng cao hơn nữa hiệu quả của KTNB tại đơn vị.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình kiểm toán ngân hàng – Học viện ngân hàng
Giáo trình lý thuyết kiểm toán – Học viện tài chính
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
Kiểm toán nội bộ hiện đại ( Victor Z.Brink and Herbert V.Wirt)
Internal Auditing : Basic and Best Practices( David Mc Namee)
Đề án khung đối với các cơ chế kiểm tra nội bộ trong các tổ chức ngân hàng của ủy ban BASEL về giám sát ngân hàng 9/1998
Tạp chí ngân hàng
Luật các tổ chức tín dụng
Trang web của hiệp hội các NHTM Việt Nam: www.vnba.org.vn
Trang web kiểm toán Việt Nam : www.kiemtoan.com.vn
Và các nguồn tin Internet khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2113.doc