Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều kiện tặng cho quyền sử dụng đất
Trong thời hạn sử dụng đất
Khoản 2 Điều 15 Luật Đất đai năm
2013 ghi nhận, Nhà nước quy định thời
hạn sử dụng đất bằng các hình thức sau
đây: (a) Sử dụng đất ổn định lâu dài; (b)
Sử dụng đất có thời hạn.
Khi xác lập hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất, cả bên tặng cho và
bên được tặng cho đều phải kiểm tra thời
hạn sử dụng đất. Nếu đất thuộc trường
hợp được sử dụng ổn định, lâu dài thì
các bên hoàn toàn yên tâm về thời hạn
sử dụng đất. Tuy nhiên, nếu đất thuộc
trường hợp sử dụng có thời hạn thì bên
tặng cho chỉ được phép tặng cho quyền
sử dụng đất cho người khác khi họ còn
thời hạn sử dụng đất. Đối với bên được
tặng cho thìthời hạn sử dụng đất khi
nhận chuyển quyền sử dụng đất có thời
hạn là thời gian sử dụng đất còn lại của
thời hạn sử dụng đất (khoản 1 Điều 128
Luật Đất đai năm 2013). Ví dụ: Một người
được giao sử dụng đất trong vòng 70 năm.
Họ đã sở hữu quyền sử dụng đất được 20
năm, sau đó họ tặng cho quyền sử dụng đất
cho người khác thì người được tặng cho chỉ
được sở hữu trong thời gian còn lại là 50
năm. Với trường hợp, người được tặng
cho được tặng loại đất được sử dụng ổn
định lâu dài thì họ được sử dụng đất
ổn định lâu dài mà không bị hạn chế về
thời gian.
Để xác lập hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất thì người tặng cho
phải còn thời gian sử dụng đất. Đây là
điều kiện hoàn toàn cần thiết và phù
hợp. Bởi nếu người tặng cho đã hết thời
hạn sử dụng đất thì họ cũng không có
tư cách để tặng cho quyền sử dụng đất
đó cho người khác. Điều kiện này đặt
ra yêu cầu khi một người được tặng cho
quyền sử dụng đất thì họ cần kiểm tra
thời hạn sử dụng đất để xác lập hợp
đồng cho phù hợp.
Tóm lại, Luật Đất đai năm 2013 đã
đi vào thực tiễn được một thời gian,
nhưng các bất cập trên đã gây khó khăn
trong việc tặng cho quyền sử dụng đất,
không phát huy được những điểm tiến
bộ của chính sách đất đai mà Đảng và
Nhà nước đã nỗ lực đổi mới. Hy vọng
rằng, các bất cập kể trên về điều kiện
tặng cho quyền sử dụng đất sẽ sớm
được bổ sung và hoàn thiện trong thời
gian tới.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 199 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về điều kiện tặng cho quyền sử dụng đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
45Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ ĐIỀU KIỆN TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
LÊ THỊ GIANG *
Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 quy định người sử dụng đất được thực
hiện quyền tặng cho quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
“a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186
và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;
b) Đất không có tranh chấp;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
d) Trong thời hạn sử dụng đất”.
Theo quy định trên, để quyền sử dụng đất trở thành đối tượng của các
giao dịch dân sự nói chung, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất nói riêng
thì cần phải đáp ứng các điều kiện nhất định. Tuy nhiên, quy định hiện hành
vẫn còn bất cập gây khó khăn cho thực tiễn thi hành. Vì vậy, bài viết tập
trung phân tích thực trạng pháp luật về điều kiện tặng cho quyền sử dụng
đất; qua đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Luật
Đất đai năm 2013 đối với vấn đề này.
Từ khóa: Tặng cho, quyền sử dụng đất, điều kiện tặng cho quyền sử
dụng đất.
Article 88 of the Land Law in 2013 regulates land users can exercise the
right to donate land use rights when meeting the following conditions:
a) Having the certificate, except the case prescribed in clause 3, Article
186 and the case of receiving inheritance prescribed in clause 1, Article 168
of this Law;
b) The land is dispute-free;
c) The land use rights are not distrained to secure judgment enforcement;
d) Within the land use term.
According to these regulations, land use rights have to fulfill those
certain conditions to become the objects of the civil transactions, in general,
and of the contract on the donation of land use rights, in particular. In fact, the
current law still reveals inadequacies which cause difficulties in the practical
implementation. The paper mainly focuses on analyzing the legal actual
situation of conditions for donating land use rights; accordingly, the author
proposes some recommendations to perfect the provisions of the Land Law
in 2013 on this issue.
Keywords: Donation, land usr rights, condition for donating land use
rights.
* Thạc sĩ, Khoa Pháp luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT...
46 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
1. Có giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất
Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất là chứng thư pháp lý
để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác
gắn liền với đất hợp pháp của người có
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền
với đất. Thông qua việc được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, chủ sở
hữu đất được công nhận quyền sở hữu
hợp pháp của họ đối với quyền sử dụng
đất. Về nguyên tắc chung, khi một chủ
thể được cấp giấy chứng nhận thì họ
mới được thực hiện các quyền chuyển
nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho,
thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất.
Việc quy định điều kiện này xuất phát
từ lý do sau đây: Quyền sử dụng đất là
tài sản có giá trị lớn và có ý nghĩa quan
trọng trong đời sống của mỗi cá nhân,
hộ gia đình; không những vậy, việc sở
hữu loại tài sản này còn liên quan đến
an ninh quốc gia. Do đó, đây là loại
tài sản mà Nhà nước có sự kiểm soát
chặt chẽ thông qua việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng. Chỉ những quyền
sử dụng đất đã được cấp giấy chứng
nhận mới được tặng cho để nhằm tránh
trường hợp bên tặng cho cố ý tặng cho
tài sản của người khác và đồng thời bên
được tặng cho có thể kiểm tra nguồn gốc
cũng như chủ sở hữu thực sự của quyền
sử dụng đất.
Khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai
năm 2013 quy định hai ngoại lệ về giao
dịch quyền sử dụng đất mà quyền sử
dụng đất chưa được cấp giấy chứng
nhận gồm: trường hợp thừa kế quyền
sử dụng đất theo quy định tại khoản 3
Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế
quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật
Đất đai năm 2013. Như vậy, đối với
tặng cho tài sản thì trong mọi trường
hợp quyền sử dụng đất đều phải được
cấp giấy chứng nhận.
Liên quan đến vấn đề này, có một
số quan điểm cho rằng, Luật Đất đai
năm 2013 nên bổ sung thêm quy định
trường hợp cha mẹ tặng quyền sử dụng
đất cho con cái thì không bắt buộc
quyền sử dụng đất đã có giấy chứng
nhận quyền sở hữu. Kiến nghị này
xuất phát từ thực tiễn tặng cho quyền
sử dụng đất tại nước ta. Hiện nay, trên
cả nước, đặc biệt là vùng nông thôn,
nhiều cá nhân, hộ gia đình không có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
và họ cũng không có ý định làm hồ sơ,
thủ tục để xin cấp giấy chứng nhận. Khi
con cái lấy vợ hoặc lấy chồng thì cha mẹ
vẫn tiến hành tặng cho con cái quyền sử
dụng đất để xây nhà ở riêng. Nếu áp
dụng theo quy định tại Điều 188 Luật
Đất đai năm 2013 thì hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất giữa cha mẹ và
con cái sẽ bị vô hiệu vì quyền sử dụng
đất không đáp ứng điều kiện có giấy
chứng nhận để giao dịch. Nhiều quan
điểm cho rằng, việc giải quyết như vậy
là tương đối cứng nhắc, không phù hợp
với thực tiễn tặng cho tại nước ta.
Không đồng tình với quan điểm
trên, theo tác giả việc tặng cho quyền
sử dụng đất bao gồm cả trường hợp
LÊ THỊ GIANG
47Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
cha mẹ tặng cho con cái thì quyền
sử dụng đất đều phải thỏa mãn điều
kiện đã được cấp giấy chứng nhận.
Quy định này sẽ thúc đẩy các bên có ý
thức trong việc lập hồ sơ, thủ tục xin
cấp giấy chứng nhận; đồng thời, việc
xác minh nguồn gốc đất được rõ ràng
tránh trường hợp bên tặng cho không
có tư cách tặng cho.
Điều kiện quyền sử dụng đất phải
có giấy chứng nhận thì chủ sở hữu mới
được xác lập hợp đồng tặng cho là điều
kiện phù hợp, cần thiết, đặc biệt trong
công tác quản lý đất đai của Nhà nước.
Bên cạnh đó, điều kiện này cũng tạo cơ
sở cho bên được tặng cho trong việc xác
minh nguồn gốc và chủ sở hữu đất; hạn
chế thấp nhất trường hợp họ được tặng
cho đất trái phép hoặc đất thuộc sở hữu
của người khác.
2. Đất không có tranh chấp
Tranh chấp đất đai là những tranh
chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử
dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong
quan hệ đất đai. Các bên chỉ được xác
lập, thực hiện hợp đồng tặng cho tài
sản với đất không có tranh chấp; còn
với những đất có tranh chấp thì không
thể trở thành đối tượng của hợp đồng
tặng cho tài sản. Hợp đồng tặng cho là
hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu
đối với tài sản; do vậy, về nguyên tắc
chủ thể được tặng cho tài sản phải là
chủ sở hữu tài sản. Trong khi đó, đối
với đất đang có tranh chấp thì chưa thể
xác định được chủ sở hữu quyền sử
dụng đất là ai nên trường hợp này các
bên không được xác lập việc tặng cho
là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên, liên
quan đến điều kiện này, tác giả nhận
thấy quy định của pháp luật còn tồn tại
hai điểm hạn chế sau đây:
- Thứ nhất, điểm b khoản 1 Điều 188
Luật Đất đai năm 2013 sử dụng thuật
ngữ “tranh chấp đất” là không chính
xác. Vì theo quy định tại Điều 53(1) Hiến
pháp năm 2013 và Điều 4(2) Luật Đất đai
năm 2013, đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
và thống nhất quản lý; còn cá nhân, hộ
gia đình và các chủ thể khác trong xã
hội được Nhà nước công nhận có “quyền
sử dụng đất”. Do vậy, cá nhân, hộ gia
đình và các chủ thể khác xác lập hợp
đồng tặng cho thì đối tượng tặng cho
là quyền sử dụng đất mà không phải là
đất đai. Vì lẽ đó, cần phải sửa đổi quy
định này để thống nhất với quy định
trong Hiến pháp và đúng với đối tượng
tặng cho tài sản. Hơn thế nữa, quy định
này còn không thống nhất với chính nội
dung được ghi nhận tại khoản 1 Điều
188 Luật Đất đai năm 2013. Vì khoản 1
của Điều luật này ghi nhận: “Người sử
dụng đất được thực hiện các quyền chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại,
thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng
đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi
có các điều kiện sau đây:..”. Rõ ràng, quy
định này cũng đã xác định rất rõ các
1 Điều 53 Hiến Pháp năm 2013
Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,
nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên
nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản
lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
2 Điều 4. Sở hữu đất đai (Luật Đất đai năm 2013)
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao
quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy
định của Luật này.
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT...
48 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
điều kiện để thực hiện quyền tặng cho
“quyền sử dụng đất” mà không phải là
điều kiện để “tặng cho đất”.
Từ những phân tích và dẫn chứng
trên, tác giả kiến nghị cần sửa đổi quy
định “tranh chấp đất” thành “tranh chấp
quyền sử dụng đất”.
- Thứ hai, Điều luật quy định điều
kiện “đất không có tranh chấp” còn chung
chung, chưa chính xác.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm “tranh chấp đất đai”.
Có quan điểm cho rằng, “tranh chấp đất
đai” chỉ là những tranh chấp liên quan
đến quyền sở hữu quyền sử dụng đất.
Quan đểm khác thì cho rằng, tranh
chấp đất đai là mọi tranh chấp phát
sinh trong quan hệ đất đai bao gồm
tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh
chấp về tài sản gắn liền với đất, tranh
chấp liên quan đến địa giới hành chính,
mục đích sử dụng đất... Vấn đề được
hiểu chưa thống nhất nên có quan điểm
cho rằng, vì luật chỉ quy định chung
là “đất không có tranh chấp” nên phải
hiểu rằng đất không bị tranh chấp cả về
quyền sở hữu và các dạng tranh chấp
khác (tranh chấp liên quan đến việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở
hữu quyền sử dụng đất) thì mới trở
thành đối tượng tặng cho. Với những
trường hợp mặc dù đã xác định rõ chủ
sở hữu quyền sử dụng đất nhưng lại có
tranh chấp liên quan khác như tranh
chấp về việc mở lối đi trên đất, tranh
chấp liên quan đến việc khai thác đất
không đúng pháp luật gây thiệt hại cho
các gia đình xung quanh thì quyền sử
dụng đất này cũng không thể trở thành
đối tượng của hợp đồng tặng cho tài
sản. Quan điểm khác lại cho rằng, chỉ
khi đất bị tranh chấp về quyền sở hữu
thì mới không thể trở thành đối tượng
của tặng cho tài sản; còn với các dạng
tranh chấp khác không liên quan đến
quyền sở hữu thì quyền sử dụng đất
vẫn đủ điều kiện để tặng cho.
Để hiểu chính xác nhất về điều kiện
này thì cần phải lý giải dựa trên mục
đích của hợp đồng tặng cho tài sản. Mục
đích của hợp đồng tặng cho tài sản là
chuyển giao quyền sở hữu; do vậy, với
các tranh chấp không liên quan đến
quyền sở hữu thì bên tặng cho vẫn có
thể tặng cho quyền sử dụng đất thuộc sở
hữu của họ mà không gây ra bất kì một
hậu quả pháp lý bất lợi nào đối với bên
đang có tranh chấp với bên tặng cho. Ví
dụ: Ông Nguyễn Văn T và bà Trần Vân B
đang tranh chấp nhau về lối đi; cụ thể, bà B
cho rằng bà có quyền được mở lối đi trên đất
nhà ông T nhưng ông T không đồng ý. Khi
tranh chấp chưa được giải quyết, ông T lập
hợp đồng tặng cho con gái diện tích đất này.
Mặc dù quyền sử dụng đất mà ông T tặng
cho con gái đang bị tranh chấp nhưng đây
là tranh chấp về việc mở lối đi qua bất động
sản liền kề mà không phải là tranh chấp về
quyền sở hữu nên ông T hoàn toàn có quyền
tặng cho mà không phải chịu sự hạn chế của
pháp luật.
Theo phân tích và ví dụ minh chứng
đưa ra ở trên, nếu quyền sử dụng đất
đang bị tranh chấp nhưng dạng tranh
chấp không phải thuộc trường hợp
tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu
thì quyền sử dụng đất này hoàn toàn có
LÊ THỊ GIANG
49Số 02 - 2018 Khoa học Kiểm sát
thể trở thành đối tượng của hợp đồng
tặng cho tài sản. Để tránh các cách hiểu
không thống nhất như hiện nay và nhằm
hạn chế việc giải quyết trái ngược giữa
các Tòa án liên quan đến vấn đề này thì
Luật Đất đai năm 2013 cần có sự sửa đổi
cho phù hợp và chính xác.
Cũng cùng tính chất với điều kiện
tặng cho quyền sử dụng đất được quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 188 Luật
Đất đai năm 2013, nhưng quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 118 Luật Nhà ở
ghi nhận chính xác và cụ thể hơn, điều
này được thể hiện như sau: nếu đối với
quyền sử dụng đất, Điều 188 Luật Đất
đai năm 2013 chỉ ghi nhận chung chung
là “đất không bị tranh chấp” thì Điều 118
Luật Nhà ở năm 2014 quy định “Nhà
ở không thuộc diện đang có tranh chấp về
quyền sở hữu”. Như vậy, Luật Nhà ở
đã quy định rõ về loại tranh chấp và
thời điểm xảy ra tranh chấp, cụ thể:
một là, Điều luật này ghi nhận “Nhà ở
không thuộc diện đang có”. Chỉ một
từ “đang” đã xác định thời điểm xảy
ra tranh chấp là tại thời điểm tặng cho
nhà ở không bị tranh chấp về quyền sở
hữu; còn với các tranh chấp về quyền
sở hữu đã xảy ra và kết thúc thì nhà
ở vẫn đủ điều kiện để tặng cho; hai là,
quy định này đã xác định và giới hạn rõ
loại tranh chấp là tranh chấp về quyền
sở hữu. Đây là điểm tiến bộ hơn của
Luật Nhà ở năm 2014 so với Luật Đất
đai năm 2013.
Qua các phân tích trên, tác giả kiến
nghị sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1
Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 từ “đất
không có tranh chấp” thành “quyền sử dụng
đất không thuộc diện đang có tranh chấp về
quyền sở hữu” để bảo đảm đúng về đối
tượng giao dịch là quyền sử dụng đất và
thống nhất cách hiểu về loại tranh chấp là
tranh chấp về quyền sở hữu.
3. Quyền sử dụng đất không bị kê
biên để bảo đảm thi hành án
Quyền sử dụng đất bị kê biên để
bảo đảm cho việc thi hành án được phân
thành hai nhóm sau:
- Quyền sử dụng đất là đối tượng
trực tiếp bị kê biên để bảo đảm cho việc
thi hành án;
- Quyền sử dụng đất bị kê biên theo
khi tài sản gắn liền với đất (bao gồm cả
nhà ở) bị kê biên để bảo đảm việc thi hành
án. Ví dụ: Trường hợp nhà ở bị kê biên để
thi hành án thì quyền sử dụng đất để xây
dựng nhà ở đó cũng bị kê biên theo.
Kể từ thời điểm quyền sử dụng đất
bị kê biên để bảo đảm việc thi hành án
thì chủ sở hữu quyền sử dụng đất không
được phép xác lập các giao dịch bao gồm
cả hợp đồng tặng cho tài sản.
Điều kiện quyền sử dụng đất không
bị kê biên để bảo đảm thi hành án là
điều kiện được ghi nhận từ rất sớm
trong Luật Đất đai và tiếp tục được kế
thừa trong các văn bản Luật Đất đai
ban hành sau. Tuy nhiên, điều kiện này
chưa bao quát đầy đủ các trường quyền
sử dụng đất bị kê biên. Bên cạnh trường
hợp quyền sử dụng đất bị kê biên để
bảo đảm cho việc thi hành án thì quyền
sử dụng đất còn có thể bị kê biên để
chấp hành quyết định hành chính đã
có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT...
50 Khoa học Kiểm sát Số 02 - 2018
nước có thẩm quyền. Điều này được
thể hiện rất rõ tại điểm b khoản 2 Điều
86 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012, cụ thể: các biện pháp cưỡng chế
thi hành quyết định xử phạt hành chính
bao gồm biện pháp kê biên tài sản có
giá trị tương ứng với số tiền phạt để
bán đấu giá. Áp dụng quy định này
với trường hợp quyền sử dụng đất bị
kê biên để chấp hành quyết định hành
chính đã có hiệu lực pháp luật thì chủ
sở hữu quyền sử dụng đất không thể
xác lập hợp đồng tặng cho tài sản.
Để khắc phục điểm thiếu sót trên của
điểm c khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm
2013, tác giả kiến nghị bổ sung quy định
này như sau: “Quyền sử dụng đất không bị
kê biên để bảo đảm thi hành án hoặc không bị
kê biên để chấp hành quyết định hành chính đã
có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền”.
4. Trong thời hạn sử dụng đất
Khoản 2 Điều 15 Luật Đất đai năm
2013 ghi nhận, Nhà nước quy định thời
hạn sử dụng đất bằng các hình thức sau
đây: (a) Sử dụng đất ổn định lâu dài; (b)
Sử dụng đất có thời hạn.
Khi xác lập hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất, cả bên tặng cho và
bên được tặng cho đều phải kiểm tra thời
hạn sử dụng đất. Nếu đất thuộc trường
hợp được sử dụng ổn định, lâu dài thì
các bên hoàn toàn yên tâm về thời hạn
sử dụng đất. Tuy nhiên, nếu đất thuộc
trường hợp sử dụng có thời hạn thì bên
tặng cho chỉ được phép tặng cho quyền
sử dụng đất cho người khác khi họ còn
thời hạn sử dụng đất. Đối với bên được
tặng cho thìthời hạn sử dụng đất khi
nhận chuyển quyền sử dụng đất có thời
hạn là thời gian sử dụng đất còn lại của
thời hạn sử dụng đất (khoản 1 Điều 128
Luật Đất đai năm 2013). Ví dụ: Một người
được giao sử dụng đất trong vòng 70 năm.
Họ đã sở hữu quyền sử dụng đất được 20
năm, sau đó họ tặng cho quyền sử dụng đất
cho người khác thì người được tặng cho chỉ
được sở hữu trong thời gian còn lại là 50
năm. Với trường hợp, người được tặng
cho được tặng loại đất được sử dụng ổn
định lâu dài thì họ được sử dụng đất
ổn định lâu dài mà không bị hạn chế về
thời gian.
Để xác lập hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất thì người tặng cho
phải còn thời gian sử dụng đất. Đây là
điều kiện hoàn toàn cần thiết và phù
hợp. Bởi nếu người tặng cho đã hết thời
hạn sử dụng đất thì họ cũng không có
tư cách để tặng cho quyền sử dụng đất
đó cho người khác. Điều kiện này đặt
ra yêu cầu khi một người được tặng cho
quyền sử dụng đất thì họ cần kiểm tra
thời hạn sử dụng đất để xác lập hợp
đồng cho phù hợp.
Tóm lại, Luật Đất đai năm 2013 đã
đi vào thực tiễn được một thời gian,
nhưng các bất cập trên đã gây khó khăn
trong việc tặng cho quyền sử dụng đất,
không phát huy được những điểm tiến
bộ của chính sách đất đai mà Đảng và
Nhà nước đã nỗ lực đổi mới. Hy vọng
rằng, các bất cập kể trên về điều kiện
tặng cho quyền sử dụng đất sẽ sớm
được bổ sung và hoàn thiện trong thời
gian tới./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kien_nghi_hoan_thien_phap_luat_ve_dieu_kien_tang_cho_quyen_s.pdf