Nhìn nhận theo góc độ thực tiễn áp
dụng, Luật Thương mại chỉ điều chỉnh đối
với giao dịch có ít nhất 1 bên là thương
nhân. Trong trường hợp giao kết hợp đồng,
nếu cá nhân hoạt động thương mại với bên
kia không phải là thương nhân thì hợp
đồng đó là hợp đồng dân sự và Luật điều
chỉnh là Bộ Luật Dân sự. Và hợp đồng
giữa cá nhân hoạt động thương mại với
nhau hay cá nhân hoạt động thương mại
với người tiêu dùng thì kể cả hoạt động của
họ luôn nhằm mục đích sinh lời cũng
không được chọn Luật Thương mại để điều
chỉnh, tức là hợp đồng đó không phải là
hợp đồng thương mại.
Quy định này cho thấy có sự phân biệt
đối xử nhất định giữa những nhà kinh
doanh với nhau. Ví dụ, trong trường hợp
Hợp đồng giữa hai cá nhân hoạt động
thương mại có sự vi phạm. Điều 301 Luật
Thương mại 2005 quy định, bên vi phạm
sẽ phải chịu phạt tối đa 8% giá trị hợp đồng
hoặc giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm,
trong khi đó, thực tế Luật Dân sự điều
chỉnh hợp đồng này nên bên vi phạm sẽ
phải chịu phạt theo thỏa thuận, kể cả việc
hoàn trả số phạt này họ sẽ không còn khả
năng tái kinh doanh được nữa. Tuy là cá
nhân hoạt động thương mại nhưng cũng
chưa thể khẳng định được quy mô của họ
là hoàn toàn nhỏ theo tinh thần của luật
định, chính vì thế, điều này cũng gây ảnh
hưởng không nhỏ đến việc phát triển bền
vững của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, cũng có thể nhận thấy
rằng phạm vi áp dụng của Luật Thương
mại hiện hành và Luật Trọng tài Thương
mại năm 2010 đang có sự khác biệt đáng
kể. Luật Trọng tài Thương mại điều chỉnh
những tranh chấp giữa các bên phát sinh từ
hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh
giữa các bên trong đó ít nhất một bên có
hoạt động thương mại; tranh chấp khác
giữa các bên mà pháp luật quy định được
giải quyết bằng Trọng tài. Có thể khẳng
định, Luật Trọng tài Thương mại có phạm
vi áp dụng rõ ràng hơn, rộng hơn và hợp lý
hơn Luật Thương mại hiện hành. Do đó, để
tránh việc thiếu thống nhất giữa các luật,
cần cân nhắc thống nhất phạm vi áp dụng
của các luật này.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 276 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số bất cập đối với hoạt động thương mại của thương nhân trong pháp luật thương mại hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 (31) - Thaùng 8/2015
3
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số bất cập đối với
hoạt động thương mại của thương nhân trong
pháp luật thương mại hiện hành
Proposals to commercial activities carried out by traders as individual status in the
present commercial law
TS. Hồ Xuân Thắng
Trường Đại học Sài Gòn
Ph.D. Ho Xuan Thang
Sai Gon University
Tóm tắt
Mua bán hàng hóa và dịch vụ thương mại của thương nhân đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động
thương mại để thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Vấn đề xác định cụ thể vị thế của hoạt động thương mại là cá nhân trong các quy định
của pháp luật thương mại một cách hợp lý giữa lý luận và thực tiễn là một trong những yêu cầu có tính
nguyên tắc cao trong xây dựng quy định pháp luật. Bài viết tập trung phân tích và kiến nghị sửa đổi
những bất cập về xác định thương nhân hoạt động thương mại trong luật thương mại hiện hành, làm cơ
sở để áp dụng chung thống nhất về thương nhân và hoạt động thương mại của thương nhân hoàn thiện
hơn trong thời kì hội nhập nền kinh tế thế giới ở nước ta.
Từ khóa: hoạt động thương mại của thương nhân, khái niệm thương nhân, cá nhân thương nhân hoạt
động thương mại, những ngành nghề, danh mục hàng hóa có điều kiện
Abstract
Buying and selling of goods and commercial services carried out by traders play a major role in
commercial activities to promote the development of the many economic sectors oriented market
economy socialist in our country. The specific issue to define the position of commercial activities as
individuals status within the provisions of trade law in a reasonable manner between theory and practice
is one of the principal requirements in legislative development. With this article, the authors focuses on
the analyses and propose amendments to the commercial traders doing business in the current law,
functioning as the basis for uniform application of traders and uniform commercial activities of traders
during more complete integration in our country.
Keywords: commercial activities of traders, traders concept, traders individual commercial activities,
the trades, the list of goods possible
Luật thương mại 2005 và các quy định
của pháp luật có liên quan đến hoạt động
thương mại của thương nhân được các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành đã
thể hiện rõ vai trò to lớn đối với quá trình
hội nhập kinh tế thế giới của Việt nam
trong gần một thập niên qua. Tuy nhiên,
quá trình thực hiện pháp luật này trong
4
thực tiễn nó đã bộc lộ một số bất cập,
khiếm khuyết làm cho cơ quan quản lý nhà
nước và các chủ thể tham gia hoạt động
thương mại gặp không ít khó khăn và thách
thức. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để hoạt
động thương mại của các thương nhân diễn
ra trong thị trường có hiệu quả và pháp luật
thương mại có thực sự đi sâu vào thực tiễn
đời sống hoạt động thương mại nhằm mục
đích sinh lời của các chủ thể tham gia hay
không? Đó là những câu hỏi lớn đang đặt
ra trong thực tiễn xã hội cần có lời giải
thuyết phục làm cơ sở pháp lý để áp dụng
chung thống nhất từ trung ương đến địa
phương. Trong khuôn khổ bài viết này,
chúng tôi phân tích một số vấn đề bất hợp
lý, đồng thời kiến nghị hướng sửa đổi bổ
sung nhằm tạo khuôn khổ pháp lý thương
mại khả thi hơn trong thực tiễn phát triển
kinh tế hội nhập quốc tế toàn cầu hóa của
nước ta.
Một là: Khái niệm thương nhân
quy định tại Điều 6 và Điều 7 Luật
Thương mại 2005 chưa rõ ràng, thiếu
tính nhất quán trong cách hiểu
Như chúng ta đã biết, Khái niệm
thương nhân được quy định tại Khoản 1
Điều 6 Luật Thương mại thực sự diễn giải
phức tạp, không rõ ràng và cụm từ:
“thương nhân là tổ chức được thành lập
hợp pháp” trong khái niệm này rất mâu
thuẫn. Tuy nhiên, xét về bản chất một tổ
chức được coi là thành lập hợp pháp khi tổ
chức đó được thành lập theo đúng trình tự,
thủ tục quy định của pháp luật và trong
nhiều trường hợp một tổ chức chỉ được coi
là thành lập hợp pháp khi có giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Dó đó, quy định
thương nhân phải là tổ chức được thành lập
hợp pháp là không hợp lý, có sự trùng lặp
với quy định phải “có đăng ký kinh doanh”
tại đoạn cuối của điều luật. Bên cạnh đó
việc đưa ra điều kiện “thương nhân phải
hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên” là không rõ ràng và không
cần thiết, Luật quy định phải hoạt động
thương mại một cách độc lập thường
xuyên, nhưng như thế nào là hoạt động
thương mại độc lập, thường xuyên lại chưa
được quy định cụ thể.
Nghiên cứu theo góc độ tính hợp lý
của quy định pháp luật thì khái niệm
thương nhân tại khoản 1 Điều 6 Luật
thương mại chưa hợp lý, nó đã hạn chế
quyền được hưởng quy chế thương nhân
của nhiều chủ thể tham gia hoạt động
thương mại và hạn chế phạm vi áp dụng
của Luật Thương mại, bởi vì:
- Thứ nhất: Quy định tại Khoản 1
Điều 6 Luật Thương mại: “thương nhân
phải hoạt động thương mại một các độc
lập, thường xuyên” là hạn chế phạm vi áp
dụng của Luật Thương mại. Trên thực tế có
nhiều hoạt động thương mại của thương
nhân cũng nhằm mục đích sinh lợi nhưng
do tính chất của lĩnh vực hoạt động hoặc
lĩnh vực hàng hóa nên hoạt động thương
mại đó không thường xuyên như buôn bán
ôtô, bất động sản Nếu các chủ thể hoạt
động thương mại với điều kiện phải hoạt
động thương mại độc lập, thường xuyên
mới được coi là thương nhân thì chính Luật
Thương mại hiện hành đã loại bỏ đi một
nhóm các đối tượng cũng hoạt động
thương mại, cũng có đăng ký kinh doanh
nhưng không hoạt động thường xuyên khỏi
phạm vi áp dụng của Luật Thương mại vì
nhóm đối tượng này không được coi là
thương nhân theo quy định tại Khoản 1
Điều 6 Luật Thương mại 2005.
- Thứ hai: Quy định “thương nhân
phải đăng ký kinh doanh” cũng không hợp
lý bởi lẽ, theo Điều 3 Luật Thương mại
5
2005 nêu rõ đối tượng điều chỉnh của Luật
Thương mại xét đến cùng vẫn bao gồm các
tổ chức, cá nhân có hoạt động thương mại,
các tổ chức cá nhân hoạt động thương mại
độc lập thường xuyên có đăng ký kinh
doanh hay không vẫn thuộc sự điều chỉnh
của Luật Thương mại do đó việc đặt ra quy
định phải có đăng ký kinh doanh mới được
coi là thương nhân là không cần thiết
Hơn nữa trên thực tế có không ít trường
hợp chủ thể hoạt động thương mại thường
xuyên, độc lập nhưng lại không được coi là
“thương nhân” và rõ ràng, các hành vi
thương mại của họ nằm ngoài sự điều
chỉnh của Luật Thương mại hiện hành.
Chính điều này đã dẫn đến nhiều trường
hợp chủ thể kinh doanh lợi dụng quy định
của Luật Thương mại để trốn tránh việc
thực hiện nghĩa vụ của mình đối với chủ
thể thương mại khác trong quá trình tham
gia vào sân chơi thương mại thế giới
(WTO) nhằm mục đích sinh lời.
Xét theo góc độ tính thống nhất của
điều luật, thì thực sự quy định về thương
nhân thiếu tính thống nhất. Tại Điều 6 Luật
Thương mại quy định thương nhân bao
gồm tổ chức kinh tế được thành lập một
cách hợp pháp, cá nhân đáp ứng đủ 2 điều
kiện cơ bản là “Hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên; Có đăng ký
kinh doanh”. Như vậy, theo định nghĩa này,
thì điều kiện cần để công nhận tổ chức, cá
nhân đó là thương nhân phải đăng ký kinh
doanh. Tuy nhiên, nếu so sánh ngay trong
nội dung Luật Thương mại quy định về
khái niệm lại thể hiện sự phủ định lẫn nhau.
Ví dụ: Điều 7 Luật Thương mại 2005, quy
định: “Thương nhân có nghĩa vụ đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Trường hợp chưa đăng ký kinh doanh,
thương nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về
mọi hoạt động của mình theo quy định của
Luật này và quy định khác của pháp luật”.
Như vậy, có thể hiểu thương nhân là cá
nhân, tổ chức hoạt động thương mại độc
lập, thường xuyên không nhất thiết phải có
đăng ký kinh doanh cũng không sai.
Pháp luật một số nước trên thế giới
quy định về thương nhân cũng đều dựa trên
những tiêu chí đơn giản, đi sâu vào bản
chất khái niệm. Ví dụ như: Luật Thương
mại Pháp quy định thương nhân là người
thực hiện những hành vi thương mại và đó
là nghề thương xuyên của họ. Theo Bộ
Luật Thương mại Hoa Kỳ thì thương nhân
quy định tại Điều 104 là những người thực
hiện các nghiệp vụ đối với một loại nghề
nghiệp nhất định là đối tượng của các hợp
đồng Thương mại. Ngoài ra, một số quốc
gia khác còn quy định thêm một dấu hiệu
của thương nhân là phải thực hiện các hành
vi thương mại nhân danh mình và lợi ích
của bản thân mình. Như vậy, trong pháp
luật của các nước thường chỉ xác định điều
kiện trở thành thương nhân dựa trên yếu tố
cơ bản nhất, bản chất nhất đó là “thực hiện
hoạt động thương mại”. Rõ ràng các tiêu
chí là thương nhân quy định trong Luật
Thương mại của nước ta chưa thống nhất
gây nhiều tranh cãi trong quá trình thực thi
pháp luật
Với những quy định khái niệm thương
nhân chồng chéo không rõ ràng, thiếu logic
như pháp luật hiện hành thực sự làm hạn
chế quyền kinh doanh của một số tổ chức cá
nhân hoạt động thương mại. Do đó chúng
tôi kiến nghị cần sửa đổi khái niệm thương
nhân theo hướng đơn giản hóa dễ hiểu và
phải dựa trên cơ sở các tiêu chí mang tính
bản chất của thương nhân là có hoạt động
thương mại nhằm mục đích sinh lời:
Một: Bỏ quy định thương nhân là tổ
chức thành lập hợp pháp;
Hai: Bỏ điều kiện thương nhân phải
6
hoạt động thường xuyên
Ba: Bỏ quy định nghĩa vụ đăng kí kinh
doanh của thương nhân tại Điều 7 Luật
Thương mại năm 2005, bởi vì trong thực
tiễn trường hợp có đăng ký kinh doanh thì
thực hiện theo Luật Thương mại, trường
hợp không có đăng ký kinh doanh mà vẫn
kinh doanh thì người kinh doanh vẫn phải
chịu trách nhiệm theo Bộ Luật Dân sự và
các luật liên quan về an toàn thực phẩm, vệ
sinh dịch tễ và môi trường, đồng thời phải
chịu trách nhiệm hành chính trước pháp
luật về hành vi kinh doanh không đăng ký.
Hai là: Quy định về cá nhân hoạt động
thương mại chưa rõ ràng, trùng lặp và
khó hiểu
Vấn đề này, tại Điểm a Khoản 1 Điều
3 Nghị định 39/2007/NĐ-CP của Chính
phủ quy định về hoạt động thương mại một
cách độc lập thường xuyên không phải
đăng kí kinh doanh (gọi tắt là Nghị định
39/2007/NĐ-CP) giải thích khái niệm cá
nhân hoạt động thương mại chưa rõ ràng,
có sự trùng lặp không cần thiết, gây khó
hiểu. Cụ thể: “Buôn bán rong (buôn bán
dạo) là các hoạt động mua, bán không có
địa điểm cố định”, trong khi đó điểm b,c lại
quy định “Buôn bán vặt là hoạt động mua
bán những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không
có địa điểm cố định”; “Bán quà vặt là hoạt
động bán quà bánh, đồ ăn, nước uống
(hàng nước) có hoặc không có địa điểm cố
định”. Việc giải thích như thế có thể dẫn
đến việc hiểu rằng bán quà vặt và buôn bán
vặt là hoạt động buôn bán nằm trong buôn
bán rong, không có sự khác biệt rõ ràng
trong việc giải thích 3 điều khoản. Bên
cạnh đó, cụm từ “không có địa điểm cố
định” được quy định lặp đi lặp lại ở cả 3
khoản a, b, c, tạo sự nhàm chán khi tiếp
cận, thiếu tính dứt khoát, giảm giá trị của
quy phạm pháp luật.
Chúng tôi kiến nghị cần phải sửa đổi
những quy định tại điểm a, b, c, không nên
sử dụng 3 điều khoản để giải thích cho ba
cụm từ có nội dung gần giống nhau, thay
vào đó sử dụng một điều khoản và sử dụng
cụm từ có thể bao quát hết cả ba khái niệm,
như vậy sẽ tránh được việc trùng lặp không
cần thiết đồng thời thể hiện pháp luật phải
rõ ràng, dễ hiểu gắn kết với đời sống thực
tiễn hơn.
Ba là: Quy định về luật áp dụng đối với
cá nhân hoạt động thương mại chưa
rõ ràng, không hợp lý, ảnh hưởng đến
quyền tự do kinh doanh của cá nhân
tham gia hoạt động thương mại
Điều 4 Nghị định 39/2007/NĐ-CP và
Khoản 3 Điều 2 Luật Thương mại năm
2005 quy định, cá nhân hoạt động thương
mại phải tuân theo “pháp luật về thương
mại áp dụng đối với thương nhân” không
rõ ràng. Theo quy định này thì có thể hiểu
cá nhân hoạt động thương mại chỉ tuân
theo những quy định pháp luật được áp
dụng với thương nhân mà thôi. Trong khi
đó, những quy định nào của pháp luật
thương mại được áp dụng đối với thương
nhân lại không được quy định chi tiết, tức
là không có quy định nào cụ thể kể cả Luật
Thương mại và Nghị định hướng dẫn thi
hành Luật Thương mại của các cơ quan có
thẩm quyền. Xét thấy, việc quy định như
Điều 4 của Nghị định hướng dẫn thi hành
là không rõ ràng, chưa hợp lý, ảnh hưởng
rất lớn đến quyền tự do kinh doanh của cá
nhân hoạt động thương mại.
Theo quan điểm của chúng tôi: Chính
phủ cần thiết phải sửa đổi quy định tại
Điều 4 Nghị định 39/2007/NĐ-CP theo
hướng “Hoạt động thương mại của cá
nhân phải tuân theo quy định của Nghị
định này, pháp luật về thương mại và pháp
luật có liên quan” để đảm bảo tính chặt
7
chẽ của quy phạm pháp luật điều chỉnh các
hoạt động thương mại có hiệu quả và đồng
thời không ảnh hưởng đến quyền tự do
kinh doanh của cá nhân tham gia hoạt động
thương mại.
Bốn là: Quy định cho phép cá nhân
hoạt động thương mại kinh doanh các
loại hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục
hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện
không hợp lý và tính khả thi không cao
Tại Khoản 2 Điều 5 Nghị định
39/2007/NĐ-CP có quy định việc kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục
hàng hóa có điều kiện, đòi hỏi chủ thể hoạt
động thương mại phải đáp ứng những điều
kiện nghiêm ngặt của pháp luật quy định
tại Điều 7 Nghị định 59/2006/NĐ-CP. Bởi
vì, việc kinh doanh này ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung
và lợi ích của người tiêu dùng nói riêng.
Tuy nhiên, theo như quy định tại Điều 3
Nghị định 39/2007/NĐ-CP, thì cá nhân
kinh doanh thường là những chủ thể kinh
doanh nhỏ lẻ, không phải đăng ký kinh
doanh, tiềm lực kinh tế (quy mô vốn đầu tư
của cá nhân kinh doanh) cũng như trình độ
chuyên môn không cao. Do đó, nếu để cá
nhân hoạt động thương mại kinh doanh các
loại hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục
hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện
thì trước tiên sẽ khó xác định trách nhiệm
của chủ thể kinh doanh và không bảo đảm
quyền lợi của người tiêu dùng, cũng như
không phù hợp với sự phát triển bền vững
của quốc gia.
Nếu nhìn nhận dưới góc độ tính thống
nhất thì Điều luật cho phép cá nhân hoạt
động thương mại được phép kinh doanh
các loại hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục
hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện,
tuy nhiên theo quy định tại Điểm b Khoản
1 Điều 7 Nghị định 59/2006/NĐ-CP để đáp
ứng điều kiện kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ kinh doanh có điều kiện thì chủ thể kinh
doanh phải là thương nhân theo quy định
của Luật Thương mại. Như vậy là có sự
mâu thuẫn giữa Khoản 2 Điều 5 Nghị định
39/2007/NĐ-CP và Điểm b Khoản 1 Điều
7 Nghị định 59/2006/NĐ-CP và rõ ràng khi
áp dụng trong thực tiễn thi hành rất lúng
túng đặc biệt rất khó khăn khi đăng kí kinh
doanh đối với các chủ thể là cá nhân, tổ
chức tham gia hoạt động thương mại.
Xét theo tính khả thi, điều này sẽ khó
có thể thực hiện trên thực tế. Bởi lẽ để
được kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc
danh mục hàng hóa dịch vụ kinh doanh có
điều kiện chủ thể kinh doanh phải đáp ứng
rất nhiều điều kiện như: Cơ sở kinh doanh
phải bảo đảm các yêu cầu về kỹ thuật,
trang thiết bị, cán bộ quản lý, cán bộ kỹ
thuật và nhân viên trực tiếp mua bán hàng
hóa, nhân viên trực tiếp thực hiện địch vụ
phải bảo đảm các yêu cầu về trình độ
nghiệp vụ, chuyên môn, kinh nghiệm nghề
nghiệp và sức khỏe theo quy định của pháp
luật, Trong khi đó, các cá nhân hoạt
động thương mại thường là các chủ thể
kinh doanh nhỏ lẻ, sẽ rất khó để họ có thể
đáp ứng được tất cả các điều kiện pháp luật
quy định trên thực tế. Do đó mặc dù được
nghị định trao quyền nhưng cá nhân hoạt
động thương mại khó khăn để thực hiện
được quyền kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ kinh
doanh có điều kiện.
Để đảm bảo cho pháp luật phù hợp với
thực tiễn, mang tính khả thi và phát triển
bền vững, theo quan điểm của chúng tôi,
nên sửa đổi quy định tại Khoản 2 Điều 5
Nghị định 39/2007/NĐ-CP của Chính phủ
quy định về hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên không phải
đăng kí kinh doanh trên tinh thần đảm bảo
8
sự nhất quán với quy định tại Điểm b
Khoản 1 Điều 7 Nghị định 59/2006/NĐ-CP
ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định
chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch
vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và
kinh doanh có điều kiện.
Năm là: Quy định về phạm vi hàng hóa,
dịch vụ kinh doanh của cá nhân hoạt động
thương mại không hợp lý
Điều 5 Nghị định 39/2007/NĐ-CP quy
định về phạm vi kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ kinh doanh của cá nhận hoạt động
thương mại không theo hình thức kinh
doanh lưu động và kinh doanh cố định mà
quy định chung cho cả hai hình thức này.
Trong khi đó, xét về thực tế cá nhân hoạt
động thương mại hoạt động dưới hai hình
thức là lưu động và cố định. Ta đặt giả
thiết, trường hợp cá nhân kinh doanh lưu
động, không có địa điểm cố định thì việc
xác định trách nhiệm của cá nhân kinh
doanh trong vệ sinh an toàn thực phẩm,
phòng cháy chữa cháy rất khó, điều này có
thực sự phù hợp hay không đối với sự phát
triển bền vững trong quá trình tham gia
hoạt động thương mại của các chủ thể
nhằm mục đích sinh lời.
Theo ý kiến chúng tôi, cần quy định
về phạm vi kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
của cá nhân hoạt động thương mại theo
hình thức kinh doanh lưu động và kinh
doanh cố định trong pháp luật thương mại
hiện hành. Đồng thời cần quy định cụ thể
về trách nhiệm đảm bảo vệ sinh an toàn
thực thẩm cũng như phòng cháy chữa cháy
của cá nhân kinh doanh trong cả trường
hợp kinh doanh lưu động và cố định. Như
vậy, quy định của pháp luật thương mại
điều chỉnh hành vi của thương nhân sẽ
hoàn thiện để bảo đảm hoạt động thương
mại một cách có hiệu quả trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta.
Sáu là: Quy định về phạm vi địa điểm
kinh doanh của cá nhân hoạt động
thương mại Điểm a, d Khoản 1 Điều 6
Nghị Định số 39/2007/NĐ-CP bất hợp lý
và không có tính khả thi
Nghị định 39/2007/NĐ-CP nghiêm
cấm cá nhân thực hiện hoạt động thương
mại ở một số số địa điểm như: di tích lịch
sử, văn hóa đã được xếp hạng; bệnh viện,
cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng. Xét cho cùng thì
Pháp luật quy định như trên nhằm mục đích
bảo vệ sự tôn nghiêm, trang trọng và an
ninh trật tự của một số địa điểm đặc biệt.
Song đối với một số mặt hàng như hương,
hoa, dịch vụ như nhiếp ảnh, hướng dẫn du
lịch mà cá nhân hoạt động thương mại
đem lại, nếu được quản lý theo các điều
kiện của pháp luật thì chắc chắn không gây
ảnh hưởng đến tính tôn nghiêm đó. Vì vậy,
quy định cấm của pháp luật có phần bất
hợp lý, cản trở quyền tự do kinh doanh của
cá nhân; làm hạn chế sự phát triển của một
số ngành dịch vụ. Bên cạnh đó còn ảnh
hưởng đến lợi ích của những du khách tham
quan các địa điểm này trong quá trình phát
triển kinh tế văn hóa xã hội
Theo quan điểm của chúng tôi đã kiến
nghị, cần bỏ quy định cấm cá nhân thực
hiện hoạt động thương mại tại khu vực di
tích lịch sử, văn hóa, bệnh viện, cơ sở tôn
giáo, tín ngưỡng; thay vào đó quy định cụ
thể: “việc thực hiện hoạt động thương maị
bên cạnh hoặc gần với các khu vực di tích,
lịch sử, văn hóa, bệnh viên, có sở tôn giáo,
tín ngưỡng phải tuân theo các quy định của
từng địa phương”. Đồng thời cần giao trách
nhiệm cho cơ quan quản lý địa phương là
cơ quan có trách nhiệm quản lý trực tiếp
các địa điểm, căn cứ vào điều kiện, hoàn
cảnh của mỗi địa điểm mà quy định nội
quy hay quy chế thực hiện các hoạt động
thương mại tại các địa điểm này. Bên cạnh
9
đó việc yêu cầu các tổ chức cá nhân thực
hiện hoạt động thương mại ở các địa điểm
đến đăng ký hoạt động với cơ quan quản lý
là diều bắt buộc rất cần thiết, giúp cho việc
quản lý, giám sát hoạt động của những chủ
thể này thuận tiện hơn, đảm bảo an ninh
trật tự cũng như tính trang nghiêm tại
những địa điểm này.
Bảy là: Phạm vi áp dụng quy định tại
Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại 2005
chưa thực sự rõ ràng và hợp lý
Nhìn nhận theo góc độ thực tiễn áp
dụng, Luật Thương mại chỉ điều chỉnh đối
với giao dịch có ít nhất 1 bên là thương
nhân. Trong trường hợp giao kết hợp đồng,
nếu cá nhân hoạt động thương mại với bên
kia không phải là thương nhân thì hợp
đồng đó là hợp đồng dân sự và Luật điều
chỉnh là Bộ Luật Dân sự. Và hợp đồng
giữa cá nhân hoạt động thương mại với
nhau hay cá nhân hoạt động thương mại
với người tiêu dùng thì kể cả hoạt động của
họ luôn nhằm mục đích sinh lời cũng
không được chọn Luật Thương mại để điều
chỉnh, tức là hợp đồng đó không phải là
hợp đồng thương mại.
Quy định này cho thấy có sự phân biệt
đối xử nhất định giữa những nhà kinh
doanh với nhau. Ví dụ, trong trường hợp
Hợp đồng giữa hai cá nhân hoạt động
thương mại có sự vi phạm. Điều 301 Luật
Thương mại 2005 quy định, bên vi phạm
sẽ phải chịu phạt tối đa 8% giá trị hợp đồng
hoặc giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm,
trong khi đó, thực tế Luật Dân sự điều
chỉnh hợp đồng này nên bên vi phạm sẽ
phải chịu phạt theo thỏa thuận, kể cả việc
hoàn trả số phạt này họ sẽ không còn khả
năng tái kinh doanh được nữa. Tuy là cá
nhân hoạt động thương mại nhưng cũng
chưa thể khẳng định được quy mô của họ
là hoàn toàn nhỏ theo tinh thần của luật
định, chính vì thế, điều này cũng gây ảnh
hưởng không nhỏ đến việc phát triển bền
vững của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, cũng có thể nhận thấy
rằng phạm vi áp dụng của Luật Thương
mại hiện hành và Luật Trọng tài Thương
mại năm 2010 đang có sự khác biệt đáng
kể. Luật Trọng tài Thương mại điều chỉnh
những tranh chấp giữa các bên phát sinh từ
hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh
giữa các bên trong đó ít nhất một bên có
hoạt động thương mại; tranh chấp khác
giữa các bên mà pháp luật quy định được
giải quyết bằng Trọng tài. Có thể khẳng
định, Luật Trọng tài Thương mại có phạm
vi áp dụng rõ ràng hơn, rộng hơn và hợp lý
hơn Luật Thương mại hiện hành. Do đó, để
tránh việc thiếu thống nhất giữa các luật,
cần cân nhắc thống nhất phạm vi áp dụng
của các luật này.
Theo quan điểm của chúng tôi, quy
định rõ Luật Thương mại sẽ áp dụng nếu
đáp ứng ít nhất một trong hai điều kiện:
Một trong số các bên là “thực thể thương
mại” (“legal entity”); hoặc có mối liên hệ
với “hoạt động thương mại”. Với cách quy
định như thế này, Luật Thương mại sẽ điều
chỉnh được cả những tình huống tranh chấp
hợp đồng có ít nhất một bên là cá nhân
hoạt động thương mại, cũng như các tranh
chấp phát sinh từ hoạt động thương mại nói
chung như quy định của một số nước phát
triển trong khu vực và trên thế giới mà tiêu
biểu là quy định trong pháp luật thương
mại Nhật Bản.
Tám là: Quyền chọn luật trong
giao dịch thương mại có yếu tố nước
ngoài quy định tại Khoản 2 Điều 5 Luật
Thương mại 2005 chưa có sự thống nhất
với các luật khác có liên quan
Vấn đề này, tại Khoản 2 Điều 5 Luật
Thương mại 2005 quy định “Các bên trong
10
giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài
được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước
ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu
pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại
quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam”. Trong khi đó
tại Điều 769 Bộ Luật dân sự 2005 có quy
định rõ “giao dịch ký kết và thực hiện hoàn
toàn tại Việt Nam thì phải tuân theo Luật
Việt Nam”.
Như vậy, đối với một số giao dịch
thương mại các bên buộc phải áp dụng
pháp luật Việt Nam chứ không được quyền
lựa chọn. Đây là một quy định cứng nhắc,
không linh hoạt nên rất thiếu tính khả thi
trong thực tiễn, đặc biệt nó sẽ là một rào
cản lớn đối với các thương nhân của Việt
Nam khi mà họ muốn mở rộng hình thức
hoạt động kinh doanh thương mại ra các
nước khác hoặc người nước ngoài hoạt
động thương mại tại Việt nam cũng gặp
phải không ít những khó khăn bởi quy định
như đã nêu trên.
Do đó, chúng tôi kiến nghị: cần sửa
đổi Khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại 2005
theo hướng, bổ sung quy định “trừ trường
hợp pháp luật của VN có quy định khác”
để đảm bảo tính thống nhất trong các quy
định của pháp luật liên quan đến hoạt động
thương mại có yếu tố nước ngoài trong giai
đoạn hội nhập nền kinh tế thế giới mang
tính toàn cầu như hiện nay ở nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự (2005).
2. Luật Thương mại (2005).
3. Luật Trọng tài thương mại (2010).
4. Trần Văn Nam (Chủ biên) (2013), Giáo trình
Luật Thương mại Quốc tế, Nxb Đại học Kinh
tế Quốc dân.
5. Nghị định 39/2007/NĐ-CP quy định về phạm
vi kinh doanh hàng hóa, dịch vụ kinh doanh
của cá nhận hoạt động thương mại.
6. Nghị định 59/2006/NĐ-CP của Chính phủ
Quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng
hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh
doanh và kinh doanh có điều kiện.
Ngày nhận bài: 14/5/2015 Biên tập xong: 15/8/2015 Duyệt đăng: 20/8/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kien_nghi_sua_doi_bo_sung_mot_so_bat_cap_doi_voi_hoat_dong_t.pdf