Trong điều kiện chưa có đủ cơ sở để xác định
các hệ số riêng cho các phương pháp tính toán sức
chịu tải của cọc, có thể tiếp thu kinh nghiệm của các
nước tiên tiến đã chuyển đổi tiêu chuẩn thiết kế
móng từ ƯSCP sang TTGH. Một trong những cách
đơn giản nhất là đảm bảo cho hệ số an toàn tương
đương trong thiết kế theo TTGH không chênh lệch
nhiều so với hệ số an toàn áp dụng trong thiết kế
theo TTGH. Đối với trường hợp cụ thể của TCVN
10304:2014 có thể thực hiện theo nguyên tắc sau:
a) Áp dụng các hệ số điều kiện làm việc  0 và hệ
số tin cậy về tầm quan trọng của công trình  n đã
qui định trong tiêu chuẩn, chỉ hiệu chỉnh hệ số tin
cậy theo đất theo công thức biến đổi từ (10)
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 938 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến nghị về sử dụng phương pháp tính toán sức chịu tải của cọc lấy từ thiết kế theo ứng suất cho phép trong thiết kế theo trạng thái giới hạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
16 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 
KIẾN NGHỊ VỀ SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÍNH TOÁN 
SỨC CHỊU TẢI CỦA CỌC LẤY TỪ THIẾT KẾ THEO ỨNG SUẤT 
CHO PHÉP TRONG THIẾT KẾ THEO TRẠNG THÁI GIỚI HẠN 
TS. TRỊNH VIỆT CƯỜNG 
Viện KHCN Xây dựng 
Tóm tắt: Kinh nghiệm ở một số quốc gia tiên tiến 
cho thấy việc chuyển đổi các phương pháp hoặc 
công thức tính toán sức chịu tải của cọc từ thiết kế 
theo ứng suất cho phép sang thiết kế theo trạng thái 
giới hạn là vấn đề phức tạp. Hệ số an toàn tương 
đương là một trong những chỉ tiêu đánh giá sự phù 
hợp của hệ số tin cậy khi chuyển đổi. Bài báo này 
trình bày một số nhận xét về việc sử dụng một số 
phương pháp tính toán sức chịu tải của cọc lấy từ 
thiết kế theo ứng suất cho phép trong tiêu chuẩn 
thiết kế móng cọc của Việt Nam và kiến nghị cách 
xác định hệ số an toàn tương đương. 
1. Mở đầu 
Những phiên bản đầu tiên của tiêu chuẩn thiết 
kế móng cọc như TCXD 21-72 và 20TCN 21-86 
được biên soạn hoàn toàn dựa trên tiêu chuẩn của 
Liên Xô, trong đó các tính toán sức chịu tải của cọc 
chủ yếu dựa trên tương quan giữa chỉ tiêu vật lý 
của đất với ma sát bên và sức chống dưới mũi cọc 
(thường được gọi là phương pháp tra bảng). Những 
phiên bản sau này như TCXD 205:1998 và mới nhất 
là TCVN 10304:2014 đã bổ sung một số phương 
pháp tính toán sức chịu tải và độ lún của móng cọc 
lấy từ các tiêu chuẩn và tài liệu tham khảo của các 
nước khác như Nhật Bản và Canada. Những nội 
dung đó, đặc biệt là một số phương pháp tính toán 
sức chịu tải của cọc từ kết quả khảo sát hiện trường, 
đã được áp dụng rộng rãi trong thiết kế móng cọc 
trong những năm vừa qua. 
Thực tế cũng đã cho thấy có một số vấn đề 
chưa được giải quyết một cách hợp lý khi đưa các 
công thức tính toán từ các nguồn tài liệu dựa trên 
thiết kế theo ứng suất cho phép vào tiêu chuẩn dựa 
trên thiết kế theo trạng thái giới hạn của Việt Nam. 
Bài báo này trình bày kinh nghiệm chuyển đổi từ 
thiết kế theo ƯSCP sang TTGH ở nước ngoài và 
một số tồn tại khi bổ sung một số phương pháp tính 
toán sức chịu tải của cọc ở Việt Nam. Việc áp dụng 
hệ số an toàn tương đương trong chuyển đổi có thể 
được áp dụng trong điều kiện chưa có những 
nghiên cứu đủ tin cậy dựa trên xử lý thống kê các 
số liệu thí nghiệm gia tải cọc trong điều kiện cụ thể 
ở Việt Nam. 
2. Thiết kế theo ứng suất cho phép và theo trạng 
thái giới hạn 
2.1 Thiết kế theo ứng suất cho phép 
Trong thiết kế theo ứng suất cho phép, tải trọng 
tác dụng lên cọc phải đáp ứng điều kiện: 
FS
R
QQ ua  (1) 
trong đó: 
Q - tải trọng làm việc của cọc (lấy bằng tải trọng 
tiêu chuẩn); 
aQ - sức chịu tải cho phép của cọc; 
uR - sức chịu tải giới hạn của cọc, lấy giá trị 
nhỏ hơn sức kháng của đất nền và độ bền của kết 
cấu cọc; 
FS – hệ số an toàn tổng thể. Thông thường 
FS=24, tùy theo loại cọc, đặc điểm của công trình, 
phương pháp thi công và phương pháp kiểm tra 
sức chịu tải của cọc. 
Phương pháp ƯSCP đơn giản, dễ áp dụng 
nhưng việc lựa chọn hệ số an toàn cho thiết kế là 
chủ quan và không đưa ra được mức độ tin cậy của 
xác suất phá hoại. Tuy vậy khái niệm hệ số an toàn 
đã ăn sâu vào tư duy của các kỹ sư kết cấu nên 
việc đánh giá độ an toàn của các sản phẩm thiết kế 
vẫn dễ dàng hơn nếu có thể đưa ra được giá trị cụ 
thể của hệ số an toàn tổng thể. 
2.2 Thiết kế theo trạng thái giới hạn (TTGH) và 
hệ số an toàn tương đương 
2.2.1 Nguyên tắc chung của thiết kế theo trạng thái 
giới hạn 
Thuật ngữ thiết kế theo TTGH được sử dụng để 
chỉ phương pháp thiết kế trong đó kết cấu không 
được vượt quá những giới hạn mà vượt quá chúng 
thì kết cấu không đáp ứng yêu cầu đặt ra đối với 
khả năng chịu tải và chuyển vị cũng như biến dạng 
của nền và móng. Khác với ƯSCP, trong thiết kế 
theo TTGH sử dụng các hệ số riêng cho tải trọng và 
cho sức chịu tải của cọc. Thông thường các hệ số 
riêng làm tăng giá trị của các tải trọng và làm giảm 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 17 
sức chịu tải của cọc. Phần lớn các tiêu chuẩn thiết 
kế móng cọc ở các quốc gia tiên tiến trên thế giới 
đã áp dụng phương pháp TTGH, đi đầu là Liên Xô 
(cũ), sau đó là các quốc gia châu Âu và muộn hơn 
là những quốc gia như Mỹ và Canada. 
Trong thiết kế cọc theo TTGH về cường độ cần 
đáp ứng quan hệ giữa tải trọng và sức chịu tải: 
kRkLd RQQ   (2) 
trong đó: 
dQ , kQ - lần lượt là trị tính toán và trị tiêu 
chuẩn của tải trọng truyền lên cọc; 
L , R - lần lượt là hệ số độ tin cậy của tải 
trọng và của sức chịu tải của cọc; 
kR - trị tiêu chuẩn sức chịu tải của cọc. 
Cách xác định giá trị của tải trọng, sức chịu tải 
của cọc và các hệ số riêng tương ứng được qui 
định trong các tiêu chuẩn. Ở Việt Nam hiện nay, các 
tiêu chuẩn có liên quan đến vấn đề này là TCVN 
2737:1995 (đối với tải trọng và tác động) và TCVN 
10304:2014 (đối với thiết kế móng cọc). 
2.3 Xác định hệ số an toàn tương đương tđFS 
2.3.1 Tóm tắt qui định về tải trọng và tác động của 
TCVN 2737:1995 
Tiêu chuẩn qui định chi tiết về các loại tải trọng, 
giá trị tiêu chuẩn của chúng và cách xác định các 
giá trị tính toán của tải trọng theo các tổ hợp khác 
nhau. Có thể lấy ví dụ về tổ hợp tải trọng cơ bản với 
2 hoạt tải: 
)( c nhhtnhht
c
dhhtdhhtTH
c
tttt
d
tt qqqq    (4) 
trong đó: 
d
ttq - tải trọng tính toán 
c
ttq , 
c
dhhtq  , 
c
nhhtq  - lần lượt là trị tiêu chuẩn của 
tĩnh tải, của thành phần dài hạn và ngắn hạn của 
hoạt tải; 
tt , dhht , nhht - lần lượt là hệ số độ tin cậy 
của tĩnh tải, của thành phần dài hạn và ngắn hạn 
của hoạt tải; 
TH - hệ số tổ hợp của hoạt tải. 
Đối với mỗi trường hợp cụ thể có thể xác định 
quan hệ: )( c nhht
c
dhht
c
tt
tđd
tt qqqKq   (5) 
Theo kinh nghiệm, có thể lấy hệ số cho tải trọng 
tương đương, theo kinh nghiệm tđK 1,15 cho các 
kết cấu nhà thường gặp, tức là: 
 )(15,1 c nhht
c
dhht
c
tt
d
tt qqqq   
Từ đó, tải trọng truyền lên cọc là: 
 kd QQ 15,1 (6) 
2.3.2 Tóm tắt qui định về xác định sức chịu tải của 
cọc theo TCVN 10304:2014 
Tải trọng dọc trục tính toán dQ phải đáp ứng 
điều kiện: dc
n
o
d RQ ,
 (7) 
trong đó: dcR , là trị tính toán của sức chịu tải trọng 
nén dọc trục cọc. Thay 
k
uc
k
kc
dc
RR
R
,,
,  vào (7), 
có được: 
uc
kn
o
d RQ ,
 (8) 
trong đó: dcR , - trị tính toán sức chịu tải của cọc; 
kcR , , ucR , - lần lượt là trị tiêu chuẩn và trị giới 
hạn sức chịu tải của cọc. Quan hệ giữa hai đại 
lượng này là kcR , = ucR , , trong đó  là hệ số xác 
định theo điều 7.1.12 của TCVN 10304:2014 (Trong 
báo cáo này lấy  =1,0); 
0 , n , k - lần lượt là hệ số điều kiện làm 
việc của cọc, hệ số tin cậy về tầm quan trọng của 
công trình và hệ số tin cậy theo đất. 
Thay (6) vào (8) và biến đổi:
uc
kn
o
k RQ ,15,1 
 (9) 
Từ đó có được hệ số an toàn tương đương để 
so sánh với các thiết kế theo ứng suất cho phép: 
o
kn
tđFS 
15,1
 (10) 
3. Kinh nghiệm chuyển đổi ở nước ngoài 
Những tiêu chuẩn thiết kế kết cấu đầu tiên trên 
thế giới được ban hành ở Mỹ vào những thập kỷ 
đầu tiên của thế kỷ 20, năm 1910 ACI đưa ra 
"Standard Building Regulations for the Use of 
Reinforced Concrete" còn “Standard Specification 
for Structural Steel for Buildings” AISC được ban 
hành vào năm 1923 đều dựa trên phương pháp 
thiết kế theo ứng suất cho phép. Đến nay ở một số 
quốc gia vẫn duy trì phương pháp thiết kế theo ứng 
suất cho phép, trong số đó có những nền kinh tế lớn 
như Nhật Bản [1], Ấn Độ [2],... Đến những năm 
1950, thiết kế theo trạng thái giới hạn lần đầu được 
đưa vào tiêu chuẩn ở Liên Xô và một số nước châu 
Âu, sau đó phương pháp này dần được chấp nhận 
ở nhiều quốc gia khác như Mỹ và Canada vào 
những năm 1980 và 1990. 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
18 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 
Chuyển đổi các tiêu chuẩn từ thiết kế theo 
ƯSCP sang thiết kế theo TTGH đòi hỏi phải điều 
chỉnh một cách đồng bộ các tiêu chuẩn của cả hệ 
thống. Vào đầu những năm 1980, Cơ quan Giao 
thông Vận tải Ontario (Canada) đã tổ chức biên 
soạn tiêu chuẩn thiết kế nền móng của cầu và hạ 
tầng theo TTGH. Thông qua so sánh các tính toán 
thiết kế theo ƯSCP và TTGH và thực hiện một số 
hiệu chuẩn, tiêu chuẩn mới đã chấp nhận các hệ số 
giảm (c và tanφ) của tiêu chuẩn Đan Mạch, với các 
hệ số 0,5 và 0,8 lần lượt cho c và tanφ. Tuy nhiên, 
các tính toán hiệu chỉnh cho thấy có nhiều chênh 
lệch trong kết quả thiết kế theo 2 phương pháp. Một 
hệ số mới, gọi là hệ số điều chỉnh sức kháng đã 
được sử dụng để cải thiện sự phù hợp của 2 
phương pháp cũ và mới. Tuy vậy sau khi ban hành 
tiêu chuẩn mới đã có rất nhiều ý kiến về việc thiết 
kế theo ƯSCP và TTGH chênh lệch nhiều ở một số 
lớn các dự án, đặc biệt là đối với tường chắn cao và 
nhóm cọc lớn. Nguyên nhân chủ yếu của các chênh 
lệch đó là do việc áp dụng một cách cứng nhắc các 
giá trị của hệ số riêng cho sức kháng thay vì xem 
xét kinh nghiệm thực tế về điều chỉnh hệ số an toàn 
cho mỗi bài toán cụ thể về nền móng và phương 
pháp phân tích. Các phiên bản tiếp theo của tiêu 
chuẩn đã có những điều chỉnh bổ sung về phương 
pháp tính toán và các hệ số an toàn riêng với mục 
đích xét đến những điều kiện đa dạng của đất nền 
và của tải trọng [3]. 
Ở Mỹ, AASHTO là tổ chức đi đầu trong chuyển 
đổi từ thiết kế theo ƯSCP sang TTGH, với tiêu chuẩn 
thiết kế cầu theo hệ số tải trọng và sức kháng 
(LRFD). Quá trình chuyển đổi được thực hiện thận 
trọng và kéo dài trong nhiều năm: Vào năm 1994 ban 
hành phiên bản đầu tiên của LRFD, sau đó vào các 
năm 1998 và 2004 ban hành các phiên bản tiếp theo. 
Trong giai đoạn 1994-2007 đã cho phép tồn tại song 
song các tiêu chuẩn thiết kế theo ƯSCP và LRFD và 
người sử dụng có thể tùy ý lựa chọn áp dụng 1 trong 
2 tiêu chuẩn đó. Tới 2007, tức là 13 năm sau khi ban 
hành tiêu chuẩn LRFD đầu tiên, thì tất cả các công 
trình đường cao tốc sử dụng nguồn vốn liên bang 
của Mỹ bắt buộc phải sử dụng tiêu chuẩn mới. Một 
trong những nội dung quan trọng để áp dụng tiêu 
chuẩn mới là hiệu chuẩn hệ số riêng của tải trọng và 
sức kháng theo phương pháp ƯSCP vốn đã được 
sử dụng trước đó ở mỗi bang. Bảng 1 trình bày kết 
quả so sánh giữa hệ số an toàn tương đương (FStđ) 
khi thiết kế theo LRFD với hệ số an toàn trong thiết 
kế theo ƯSCP truyền thống. Có thể thấy hệ số an 
toàn tương đương khi áp dụng LRFD thay đổi theo 
phương pháp tính toán và có xu hướng cho thấp hơn 
một chút so với ƯSCP. Tuy vậy trong hầu hết các 
trường hợp có FStđ2 và đặc biệt giá trị lớn nhất của 
FStđ ứng với tính toán sức chịu tải của cọc từ kết quả 
thí nghiệm SPT. 
Kinh nghiệm chuyển đổi từ thiết kế theo ƯSCP 
sang TTGH ở Canada và Mỹ cho thấy xu hướng 
chung là sản phẩm của thiết kế theo phương pháp 
mới (TTGH) cần có được mức độ an toàn tương 
đương với kết quả thiết kế theo phương pháp 
ƯSCP. Nói chung hệ số an toàn của phương pháp 
ƯSCP được lấy làm chuẩn mực để đánh giá sự phù 
hợp của các hệ số riêng của TTGH khi chuyển đổi, 
do phương pháp ƯSCP đã có một quá trình áp 
dụng đủ dài, sản phẩm thiết kế đã được thử thách 
qua thời gian và giới chuyên môn đã tích lũy được 
nhiều kinh nghiệm về áp dụng phương pháp này. 
Bảng 1. Hệ số an toàn tương đương khi thiết kế theo AASHTO LRFD 1997 so với thiết kế theo ƯSCP [6] 
Phương pháp xác định 
sức chịu tải 
FStđ khi thiết kế 
theo LRFD 
FS khi thiết kế 
theo ƯSCP 
Ma sát trong đất dính: 
- Phương pháp  2,0 
2,75 - Phương pháp  2,9 
- Phương pháp  2,6 
Sức chống dưới mũi: 
 - Đất dính 2,0 
2,75 
 - Đá 2,9 
Ma sát và sức chống dưới mũi trong cát: 
 - Theo SPT 3,2 
2,75 
 - Theo CPT 2,6 
Ma sát và sức chống dưới mũi trong các loại đất: 
 - Nén tĩnh 1,8 2,0 
 - PDA 2,0 2,25 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 19 
4. Về áp dụng một số công thức tính toán có nguồn 
gốc ngoài tiêu chuẩn Liên Xô hoặc Nga trong các 
tiêu chuẩn thiết kế móng cọc của Việt Nam 
Ở Việt Nam, các công thức tính toán có nguồn 
gốc từ tài liệu Nhật Bản và phương Tây đã được 
đưa vào tiêu chuẩn thiết kế móng cọc từ cuối những 
năm 1990 và đã được áp dụng rộng rãi trong thực 
tế. Một số vấn đề liên quan đến chuyển đổi các 
công thức tính toán theo ƯSCP vào TCXD 
205:1998 và TCVN 10304:2014 được trình bày và 
phân tích sau đây, từ đó đưa ra các nhận xét và 
kiến nghị tương ứng. 
4.1 Các phương pháp tính toán sức chịu tải của 
cọc lấy từ các tiêu chuẩn dựa trên thiết kế theo 
ƯSCP trong TCXD 205:1998 
TCXD 205:1998 kế thừa các phiên bản trước 
của tiêu chuẩn thiết kế móng cọc, đồng thời đã bổ 
sung nhiều nội dung lấy từ các tiêu chuẩn của 
phương Tây và Nhật Bản. Một số phương pháp tính 
toán sử dụng kết quả thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn 
(SPT) và sử dụng các chỉ tiêu cường độ của đất lần 
đầu đã được đưa vào tiêu chuẩn thiết kế móng cọc 
của Việt Nam. Có thể lấy ví dụ về công thức của 
Nhật Bản để tính toán sức chịu tải aQ (tính bằng 
Tấn) theo số liệu SPT: 
])2,0([
3
1
dcLNANQ sspaa   (11) 
trong đó: 
aN , sN - lần lượt là chỉ số SPT của đất dưới 
mũi cọc và của lớp cát bên thân cọc, búa/30 cm; 
sL , cL - lần lượt là chiều dài đoạn cọc nằm 
trong đất cát và đất sét, m; 
 - hệ số không thứ nguyên, phụ thuộc vào 
phương pháp thi công cọc; 
c - lực dính của đất sét bên thân cọc, T/m2. 
Kết quả tính toán theo công thức (11) là sức 
chịu tải cho phép của cọc, cho thấy đây là công 
thức áp dụng trong thiết kế theo ƯSCP. Để áp dụng 
công thức trên, trong thiết kế cần sử dụng giá trị tiêu 
chuẩn của tải trọng để xác định độ sâu hạ cọc hoặc 
số lượng cọc trong nhóm. 
Sự đan xen giữa các công thức tính toán theo 
ƯSCP và theo TTGH trong cùng tiêu chuẩn có thể 
gây nhầm lẫn. Ví dụ người thiết kế có thể sử dụng 
tải trọng tính toán kết hợp với sức chịu tải cho phép 
để xác định số lượng cọc trong nhóm. Kết quả tính 
toán trong trường hợp này sẽ quá thiên về an toàn 
do số lượng cọc bố trí trong nhóm sẽ nhiều hơn số 
lượng cần thiết. 
4.2 Các phương pháp tính toán sức chịu tải của 
cọc lấy từ các tiêu chuẩn dựa trên thiết kế theo 
ƯSCP trong TCVN 10304:2014 
TCVN 10304:2014 chủ yếu chuyển dịch tiêu 
chuẩn SP 24.13330.2011 của Liên bang Nga, 
ngoài ra trong tiêu chuẩn đã bổ sung một số 
công thức tính toán sức chịu tải của cọc theo kết 
quả thí nghiệm SPT, CPT và theo các chỉ tiêu cơ 
học của đất. So với TCXD 205:1998, tiêu chuẩn 
mới đã thay thế hệ số an toàn kèm theo công 
thức tính toán theo ƯSCP bằng các hệ số riêng 
của SP 24.13330.2011. Áp dụng công thức (11) 
để tính toán tđFS cho kết quả như trình bày 
trong bảng 2. Có thể nhận xét: 
- Trong tiêu chunhận xét: ày trong ch tiêu chuẩn 
SP 24.13330.2011 của Liên bang Nga, ngoài ra 
trong tiêu chuẩn đã bổ sung một sdụ tiêu chuẩn 
hiện nay qui định áp dụng cùng hệ số tin cậy k 
cho nhiêu chunhận xét: ày trong ch tiêu chuẩn SP 
24.13330.2011 của Liên bang Nga, ngoài ra trong 
tiêu chuẩn đã bổ sung một sdụ tiêu chuẩn hiện na 
- tđFS <2 trong phchunhận xét: ày trong. Đối với 
một số phương pháp tính toán đã bổ sung vào TCVN 
10304:2014 như phương pháp tính toán theo SPT thì 
giá trị nêu trên của tđFS là thng phchunhận xét: ày 
trong. Đối với một số phương p2,5 thng phch2], 
FS=3 ở Nhật Bản [1], FS3 thng phch2],5] và Perú 
[4]); 
- Kết quả tính toán trong bảng 2 có thể phù hợp 
với nhận xét của một số nhà chuyên môn là sức 
chịu tải tính toán theo tiêu chuẩn hiện nay khá cao. 
Trong thực tế, thí nghiệm nén tĩnh cọc ở một số 
công trình cũng cho thấy cọc bị phá hoại khi chưa 
đạt 200% tải trọng thiết kế. 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
20 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 
Bảng 2. Hệ số an toàn tương đương, tđFS , khi thiết kế theo TCVN 10304:2014 
Số cọc 
trong móng 
HS tin 
cậy 
k 
HS tầm quan trọng 
n 
HS ĐK 
làm 
việc 
0 
HS an toàn tương đương 
tđFS 
CT cấp I CT cấp II 
CT cấp 
III CT cấp I CT cấp II CT cấp III 
n21 1.4 
1,2 1,15 1,1 1.15 
1.68 1.61 1.54 
Từ 11 đến 20 1.55 1.86 1.78 1.71 
Từ 06 đến 10 1.65 1.98 1.90 1.82 
Từ 01 đến 05 1.75 2.10 2.01 1.93 
4.3 Đề xuất hiệu chỉnh hệ số riêng áp dụng cho 
các công thức tính toán sức chịu tải của cọc từ 
nguồn thiết kế theo ƯSCP 
Trong điều kiện chưa có đủ cơ sở để xác định 
các hệ số riêng cho các phương pháp tính toán sức 
chịu tải của cọc, có thể tiếp thu kinh nghiệm của các 
nước tiên tiến đã chuyển đổi tiêu chuẩn thiết kế 
móng từ ƯSCP sang TTGH. Một trong những cách 
đơn giản nhất là đảm bảo cho hệ số an toàn tương 
đương trong thiết kế theo TTGH không chênh lệch 
nhiều so với hệ số an toàn áp dụng trong thiết kế 
theo TTGH. Đối với trường hợp cụ thể của TCVN 
10304:2014 có thể thực hiện theo nguyên tắc sau: 
a) Áp dụng các hệ số điều kiện làm việc 0 và hệ 
số tin cậy về tầm quan trọng của công trình n đã 
qui định trong tiêu chuẩn, chỉ hiệu chỉnh hệ số tin 
cậy theo đất theo công thức biến đổi từ (10): 
n
tđoHC
k
FS
15,1
 (12) 
trong đó HCk là hệ số tin cậy theo đất đã hiệu chỉnh. 
b) Giá trị của tđFS thay đổi theo hệ số an toàn 
được qui định cho phương pháp tính toán sức chịu 
tải của cọc trong thiết kế theo ƯSCP. Ví dụ có thể 
lấy tđFS =2,53 cho các tính toán theo số liệu SPT, 
còn đối với trường hợp sử dụng số liệu thí nghiệm 
CPT có thể lấy tđFS =2,0. Tính toán theo (11) được 
thực hiện cho 2 trường hợp: 
 Trường hợp 1: tđFS thay đổi theo số lượng cọc 
trong móng theo qui luật tương tự như k trong 
TCVN 10304:2014. Trong trường hợp này giá trị 
của tđFS sẽ lớn nhất khi số lượng cọc trong móng 
nhỏ và ngược lại như thể hiện trong Bảng 3. Kết 
quả tính toán cho thấy khi maxtđFS =3,0 ứng với số 
lượng 15 cọc trong móng thì khi số cọc tăng đến 
21 cây hoặc nhiều hơn thì tđFS được giảm khoảng 
25% so với maxtđFS . 
Bảng 3. Hệ số HCk tương ứng với tđFS 
Số lượng cọc 
trong móng tđFS 
HS tầm quan trọng 
n 
HS ĐK 
làm 
việc 
0 
HC
k 
CT cấp I CT cấp II 
CT cấp 
III CT cấp I CT cấp II CT cấp III 
n21 2.0 
1,2 1,15 1,1 1.15 
1.67 1.74 1.82 
Từ 11 đến 20 2.5 2.08 2.17 2.27 
Từ 06 đến 10 2.8 2.33 2.43 2.55 
Từ 01 đến 05 3 2.50 2.61 2.73 
 Trường hợp 2: tđFS không thay đổi theo số lượng cọc. Kết quả trình bày trong bảng 4 ứng với tđFS
=2,0 và tđFS =3,0 cho thấy 
HC
k cao hơn k trong TCVN 10304:2014 khi tđFS =3,0. Tuy vậy khi tđFS =2,0 
thì HCk  k . 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 21 
Bảng 4. Hệ số HCk tương ứng với tđFS =3,0; 2,5 và 2,0 
Số lượng cọc 
trong móng tđ
FS 
HS tầm quan trọng 
n 
HS ĐK 
làm 
việc 
0 
HC
k 
CT cấp I CT cấp II 
CT cấp 
III CT cấp I CT cấp II CT cấp III 
n21 
3,0 
[2,5] 
(2,0) 
1,2 1,15 1,1 1.15 
2,5 
[2,0] 
(1,67) 
2,61 
[2,08] 
(1,74) 
2,73 
[2,18] 
(1,82) 
Từ 11 đến 20 
Từ 06 đến 10 
Từ 01 đến 05 
4.4 Ví dụ áp dụng 
Công trình xây dựng cấp II ( n =1,15) sử dụng 
cọc khoan nhồi hạ vào các lớp cát rất mịn hoặc bụi 
không dính. Người thiết kế đề xuất tính toán sức 
chịu tải của cọc theo tiêu chuẩn Ấn Độ IS 2911 [2]: 
60,0
10,
ss
ppuc
AN
A
D
L
NR  , kN (13) 
trong đó: 
pN , sN lần lượt là trị trung bình của chỉ số 
SPT ở mũi cọc và dọc thân cọc, búa/30 cm. Trong 
ví dụ lấy pN =15 và sN =12; 
L là chiều dài cọc trong lớp đất chịu lực, m. Ở 
đây cọc có tổng chiều dài 30 m, bao gồm 18 m nằm 
trong lớp chịu lực (L=18 m); 
D là đường kính tiết diện cọc, m. Trong ví dụ có 
B=0,6 m; 
pA , sA lần lượt là diện tích tiết diện mũi và 
diện tích mặt bên cọc trong lớp chịu lực, 2m . Từ đó 
pA =0,283 
2m và sA =33,93 
2m . 
Khi áp dụng công thức (12), tiêu chuẩn qui định 
áp dụng FS2,5 và sức kháng mũi không vượt quá 
pp AN130 . 
Thay các giá trị vào công thức (13), có được: 
678.591272.35
60,0
 33,93*12
283,0
6,0
18
15*10, ucR (kN)
Vì trị giới hạn của sức kháng dưới mũi cọc 
không lớn hơn 551.35 kN nên: 
 678.5935,551,ucR 1229.94 (kN) 
Theo TCVN 10304:2014, 15,10  và với 
nhóm 9 cọc có hệ số k 1.65. Tải trọng lớn nhất 
truyền lên cọc bằng: 
65,1*15,1
15,1*1
dQ *1229,94= 745.4 kN 
Đối với FS=2,5, nếu áp dụng hệ số tin cậy đã 
hiệu chỉnh trong bảng 4 [với HCk =2,08 cho công 
trình cấp II] thì tải trọng lớn nhất truyền lên cọc sẽ 
bằng: 
08,2*15,1
15,1*1
dQ *1229,94= 591,3 kN 
Có thể thấy trong trường hợp này thiết kế theo 
IS 2911 sẽ an toàn hơn. Tuy vậy, sức chịu tải của 
cọc cần được kiểm tra bằng thí nghiệm hiện trường 
và cần thực hiện các nghiên cứu thích hợp để xác 
định hệ số tin cậy tương ứng với phương pháp tính 
toán sức chịu tải của cọc. 
5. Các kiến nghị 
Việc bổ sung các công thức và phương pháp 
tính toán từ các nguồn tài liệu của phương Tây và 
Nhật Bản vào tiêu chuẩn thiết kế móng cọc của Việt 
Nam là cần thiết. Tuy vậy việc đưa các công thức 
tính toán từ tài liệu có nguồn gốc thiết kế theo 
ƯSCP vào áp dụng trong tiêu chuẩn Việt Nam còn 
có những điểm chưa hợp lý. 
Qua nghiên cứu kinh nghiệm chuyển đổi tiêu 
chuẩn từ thiết kế theo ƯSCP sang thiết kế theo 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
22 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 3/2016 
TTGH ở một số nước tiên tiến và ở Việt Nam, có 
thể kiến nghị: 
- Cần xác định các hệ số tin cậy 
k cho mỗi công 
thức hoặc phương pháp tính toán bằng các phương 
pháp thống kê các kết quả thí nghiệm gia tải cọc. Ví 
dụ với cùng phương pháp xác định sức chịu tải của 
cọc bằng tải trọng động không thể áp dụng cùng 
một giá trị của 
k cho các kết quả thu được từ thí 
nghiệm PDA và tính toán bằng công thức động; 
- Khi chưa có cơ sở chắc chắn thì nên sử dụng 
hệ số an toàn FS được khuyến cáo hoặc qui định 
áp dụng cho phương pháp hoặc công thức tính toán 
làm cơ sở để xác định k . Tiêu chí tđFS FS có thể 
được coi là một trong những cơ sở để đánh giá sự 
phù hợp của mức độ an toàn đạt được khi áp dụng 
công thức hoặc phương pháp tính toán trong thiết 
kế theo TTGH; 
- Có thể tham khảo các hệ số k trong bảng 3 và 
bảng 4 khi chuyển đổi công thức hoặc phương pháp 
tính toán lấy từ tài liệu thiết kế theo ƯSCP. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Architectural Institute of Japan (1988), 
Recommendations for Design of Building Foundations. 
2. IS 2911:2010 Code of practice for design and 
construction of pile foundations, Bureau of Indian 
Standards. 
3. Fellenius B.H. (2009), Basics of Foundation Design 
(Electronic Edition). 
4. Ministerio de Transportes, Comunicaciones, Vivienda 
y Construcción del Perú (1997), Reglamento nacional 
de cimentaciones – Norma E05 – Suelos y 
cimentaciones. 
5. The Government of the Hong Kong Special 
Administrative Region (2004), Code of Practice for 
Foundation. 
6. US Federal Highway Administration (2001), Load and 
Resistance Factor Design (LRFD) for Highway Bridge 
Substructures - Reference Manual and Participant 
Workbook, Publication No. FHWA HI-98-032. 
Ngày nhận bài: 13/9/2016. 
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 14/10/2016. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 1481701234trinhvietcuong_7401.pdf 1481701234trinhvietcuong_7401.pdf