Kiến thức, thái độ và thực hành của người dân về chết đuối trẻ em ở vùng đồng bằng sông Mekong

KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, nguy cơ chết đuối của trẻ rất cao ở vùng đồng bằng sông Mekong, đặc biệt là trẻ trai dưới năm tuổi. Kết quả này cũng phù hợp với nhiều nghiên cứu về tuổi của chết đuối ở trẻ em(3) Lý do chính là “bất cẩn” của người trông trẻ có ít sự hiểu biết về các nguy cơ gây ra chết đuối và sơ cứu trẻ khi bị chết đuối. Trong mùa lũ, quan tâm lớn nhất của phần lớn các gia đình có trẻ em dưới 10 tuổi là chết đuối. Hầu hết gia đình đánh giá rằng vấn đề chết đuối của địa phương là từ mức độ trung bình đến trầm trọng và cho rằng “không biết bơi” là nguyên nhân trực tiếp của chết đuối và dạy bơi chơ trẻ là biện pháp bảo vệ cần thiết. Thực tế, gia đình là nơi chính chăm sóc trẻ và bảo vệ trẻ khỏi nguy cơ chết đuối, chỉ có một số trẻ được chăm sóc ở nhà giữ trẻ trong mùa lũ và một số nhỏ trẻ được bố mẹ mang theo khi làm việc. Nghiên cứu này cũng ghi nhận rằng chết đuối của trẻ em có thể xảy ra bất kỳ mùa nào trong năm, nhưng nhiều nhất là trong mùa lũ; thường là trẻ sống trong gia đình nghèo và ở vùng xa, nhà của trẻ thường ở trên các kênh và các dòng sông. Chết đuối vẫn còn xem là một vấn đề của gia đình hơn là một vấn đề của cộng đồng. Quan tâm của chính quyền chưa đáp ứng được mức độ gánh nặng tâm lý và kinh tế mà chết đuối của trẻ em gây ra cho gia đình và cộng đồng. Mặc dù, địa phương đã dành nhiều thời gian hơn và tiến hành nhiều hoạt động hơn cho chết đuối của trẻ trong thời gian gần đây, nhưng tình trạng chết đuối của trẻ vẫn còn là vấn đề y tế công cộng (4). Kết quả cũng cho thấy có một khoảng khác biệt lớn giữa nhận thức của người dân và các tổ chức đoàn thể về các hoạt động đã thực hiện nhằm giảm thiểu chết đuối. Tỉ lệ KAP được xác định trong nghiên cứu này có thể không đại diện cho vùng đồng bằng sông Mekong. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu này có thể giúp cho sự hiểu biết nguyên nhân của chết đuối và sử dụng chúng trong phòng tránh chết đuối ở trẻ em vùng đồng bằng sông Mekong

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 258 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức, thái độ và thực hành của người dân về chết đuối trẻ em ở vùng đồng bằng sông Mekong, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH CỦA NGƯỜI DÂN VỀ CHẾT ĐUỐI TRẺ EM Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG MEKONG Đặng Văn Chính*, Lê Thế Thự*, Ngô Thái Hòe*, Phạm Kim Anh*, Nguyễn Thúy Ngọc*, Võ Hữu Thuận*, Nguyễn Thị Lan Hương* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Một quan tâm lớn của nhiều người dân “sống chung với lũ” là chăm sóc trẻ an toàn. Một số thống kê cho thấy rằng chết đuối ở trẻ em là một vấn đề xã hội đang gia tăng trong khi mức độ của vấn đề và nguyên nhân của nó vẫn chưa được rõ. Mục tiêu: (1) Xác định kiến thức, thái độ và thực hành ở các cộng đồng ở vung đồng bằng sông Mekong về sự an toàn của trẻ trong mùa lũ và (2) Xác định đặc tính dịch tễ của trẻ chết đuối dưới 10 tuổi. Phương pháp: Đây là một cuộc điều tra cắt ngang kết hợp cả hai phương pháp định tính và định lượng, được tiến hành trong hai xã có tỉ lệ chết đuối cao. Các ca chết đuối cũng được điều tra để mô tả các đặc điểm dịch tễ. Mỗi xã chọn ngẫu nhiên 100 hộ gia đình để phỏng vấn dựa trên bảng câu hỏi đã soạn sẵn và một nhóm 15 hộ gia đình được phỏng vấn sâu. Ủy ban phòng chống lụt bão của xã và huyện cũng được phỏng vấn sâu về chết đuối của trẻ và các giải pháp. Số liệu được phân tích trên phần mềm thống kê Epi 2000. Kết quả: 71% trẻ chết đuối là dưới 3 tuổi trong đó 65% là bé trai và 35% bé gái. Nguyên nhân phổ biến nhất đưa đến chết đuối ở trẻ là “sự bất cẩn” (81%) trong chăm sóc trẻ và nguyên nhân phổ biến thứ hai la “trẻ bơi mà không có sự giám sát” (7,8%). 74% hộ gia đình có bận tâm lớn nhất là trẻ chết đuối. Kết luận: “Sự bất cẩn” trong chăm sóc trẻ là nguyên nhân quan trọng nhất trong chết đuối của trẻ. Kết quả nghiên cứu gợi ý nhận thức của người trưởng thành về các nguy cơ trẻ chết đuối còn thấp và thiếu các biện pháp dự phòng hiệu quả. ABSTRACT KNOWLEDGE, ATTITUDE AND PRACTICE OF THE FAMILIES LIVING IN FLOOD REGIONS ON DROWNING OF CHILDREN IN MEKONG DELTA Đang Van Chinh, Le The Thu, Ngo Thai Hoe, Pham Kim Anh, Nguyen Thuy Ngoc, Vo Huu Thuan, Nguyen Thi Lan Huong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 108 - 114 Background: A big problem concerned many people “living together with flood” is the safety and care of children. Several local reports show that drowning in children is a matter of growing concern whereas the extent of the problem and its causes remains unclear. Objectives: (1) To identify the knowledge, attitude and practice in Mekong delta communities regarding the safety of children during flood, (2) To identify epidemiological characteristics of drowning children under ten years old. Methods: It was a cross-sectional survey that combined the qualitative and quantitative methods. The survey was carried out in two communes with high drowning rate. Data of childhood drowning cases in each community were investigated for descriptive epidemiology. In each commune, randomly selected 100 households were interviewed by the prepared KAP questionnaire and a group of 15 households was in-depth- interviewed. Members of Flooding Mitigating Committee of communes and districts were also in-depth interviewed on * Viện Vệ Sinh – Y tế Công Cộng TPHCM Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học drowning and its solutions. Data were processed and analyzed on the EPI 2000 software. Results: 71% of drowned children were under 3 years old. 65% of them were male and 35 % female. The most common reason led to be drowned was “carelessness” (81%) and the second reason was “swimming without supervision” (7.8%). 74% of the households had the greatest concern about children’s drowning. Conclusions: Adults’carelessness appears to be the most important cause of childhood drowning. This finding suggests that the adults’ perception about their children’s drowning risks was low. There is a lack of effectively preventive measures. Ackowlegement: We would like to thank the WHO sponsored this study Many thanks to colleagues and Chau Thanh and Chau Phu District committees for support ĐẶT VẤN ĐỀ Mùa lũ xảy ra hàng năm thường bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 12 ở đồng bằng sông Mekong. Lũ thường gây thiệt hại to lớn về con người, tài sản và vụ mùa.Theo Ủy ban phòng chống thảm họa thiên tai của tiểu vùng sông Mekong có hàng trăm người chết trong năm 2000 và 2001. Tỉnh An Giang, năm 2000, có 134 người chết, trong đó có 94 trẻ; năm 2001 có 134 người chết, trong đó có 104 trẻ do hậu quả của hai cơn lũ liên tiếp xảy ra trong tỉnh(1). Điều này không chỉ xảy ở An Giang mà cũng ghi nhận tương tự cho các tỉnh khác ở vùng sông Mekong. Chết đuối trẻ em không chỉ gây ra thiệt hại con người và đau khổ không thể đền bù được cho gia đình(2) và cũng gây lo lắng cho cộng động, đặc biệt khi mùa lũ đến. Mặc dù hệ thống truyền thông đưa tin về chết đuối như một sự cảnh báo và chính quyền của các địa phương kêu gọi mọi người chú ý chăm sóc trẻ trong mùa lũ, nhưng thực tế tỉ lệ chết đuối ở vùng đông bằng sông Mekong vẫn được ghi nhận rất cao. Tuy nhiên, không có nghiên cứu về chết đuổi ở trẻ em ở vùng này. Vì thế, chúng tôi tiến hành một cuộc điều tra về kiến thức, thái độ và thực hành (KAP) để tìm hiểu nguyên nhân và biện pháp dự phòng chết đuối ở trẻ em trong vùng lũ ở đồng bằng sông Mekong, nhằm giúp người dân hiểu được tình trạng chết đuối trong cộng đồng và tìm ra các biện pháp dự phòng thích hợp. Mục tiêu nghiên cứu Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu KAP trong các cộng đồng vùng đồng bằng sông Mekong về sự an toàn của trẻ trong mùa lũ. Các mục tiêu cụ thể như sau: Xác định tỉ lệ gia đình có trẻ dưới 10 tuổi có kiến thức thực sự về chết đuối Xác định tỉ lệ gia đình có trẻ dưới 10 tuổi có thái độ thực sự về phòng chống chết đuối Xác định tỉ lệ gia đình có trẻ dưới 10 tuổi có thực hành thực sự về phòng chống chết đuối. Xác định đặc tính dịch tễ của các ca chết đuối PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đây là một nghiên cứu cắt ngang kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng. Nghiên cứu này được tiến hành trong 2 xã có tỉ lệ chết đuối cao- xã Phú Hữu tỉnh Đồng Tháp và xã Thạnh Mỹ Tây, tỉnh An Giang từ tháng 10-12 năm 2003. Cỡ mẫu được tính theo công thức sau: n=4 pq / d2 (d = 0,1: độ chính xác tuyệt đối, với d cố định; tích pq đạt cực đại khi p= 0,5, q=0,5; thay vào công thức trên ta có cỡ mẫu n = 100). Mỗi xã chọn ngẫu nhiên 100 hộ gia đình để phỏng vấn KAP và một nhóm 15 hộ gia đình được phỏng vấn sâu và một số trường hợp chết đuối điển hình. Thêm vào đó, phỏng vấn sâu một nhóm thành viên của Ủy ban Phòng Chống Bão Lụt xã và huyện về chết đuối và các giải pháp phòng chống. Số liệu được phân tích với phần mềm Epi 2000. Kết quả bao gồm tỉ lệ KAP, đặc tính dịch tễ của ca chết đuối và những thông tin thu được từ các cuộc phỏng vấn sâu dùng để giải thích nguyên nhân của chết đuối và đề nghị các giải pháp. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học KẾT QUẢ Nghiên cứu định tính Bảng1: Đặc điểm kinh tế- xã hội của mẫu nghiên cứu Đặc điểm Tần suất (n=200) Tỉ lệ (%) Mẹ 116 58 Cha 60 30 Người được phỏng vấn Ông bà 24 12 18-29 72 36 30-39 76 38 Tuổi ≥40 52 26 Nữ 132 66 Giới tính Nam 68 34 Mù chữ 14 7 Cấp I 106 53 Cấp II 59 29 Trình độ học vấn Cấp III và hơn 21 10,5 Nông dân 170 85 Nghề nghiệp Khác 30 15 Gỗ 72 36 Tre 68 34 Gạch 38 19 Nhà Khác 22 11 Radio Có 110 55 Tivi Có 128 64 Có 68 34 Thuyền Có 131 65 Bảng 1 cho thấy đặc điểm kinh tế xã hội của 200 hộ gia đình có trẻ em dưới 10 tuổi trong mẫu nghiên cứu. Tỉ lệ nữ cao hơn nam (66% so với 34%), tuổi từ 18 đến 77 với gần ¾ người được phỏng vấn dưới 40 tuổi. Phần lớn đối tượng phỏng vấn là nông dân có trình độ văn hóa dưới cấp 2 trong đó khoảng 2/3 là trình độ cấp một hoặc mù chữ. 2/3 số hộ gia đình sống trong nhà lợp bằng tre gỗ và có tivi, hơn ½ hộ có radio, phương tiện đi lại phần lớn bằng thuyền. Bảng 2: Kiến thức của người dân vùng lũ về chết đuối. Kiến thức của người dân về trẻ chết đuối Tần suất (n=200) Tỉ lệ (%) Chết đuối 147 73.5 Đói 104 52 Bệnh tật 75 37,5 Bận tâm trong mùa lũ Di chuyển 34 17 Thương tổn 16 8 Rắn cắn 15 7,5 Sập nhà 11 5.5 Kiến thức của người dân về trẻ chết đuối Tần suất (n=200) Tỉ lệ (%) Bất cẩn 161 79,5 Thuyền bị lật 8 4 Nước chảy xiết 14 7 Nguyên nhân dẫn đến chết đuối Bơi và chơi với nước 2 1 Có 152 76 Không 48 24 Nguồn thông tin Truyền hình 106 53 Đài và loa phóng thanh 90 45 Hàng xóm 56 28 Chính quyền địa phương và nhân viên y tế 9 12,5 Tờ bướm, tờ rơi 14 7 Khác 5 2,5 Nội dung thông tin Quan tâm đến trẻ 113 74,3 Đưa trẻ đến nhà giữ trẻ 6 3,9 Thông báo về chết đuối 26 17,2 Sơ cứu chết đuối 2 1,3 Nhận thông tin chết đuối Không nhớ 5 3,3 Truyền hình 66 43.4 Phát thanh 46 30.3 Hàng xóm 6 3.9 Khác 3 2 Nguồn thông tin hữu ích nhất Không biết 31 20.4 Có 50 25 Không chắc 15 7,5 Biết về sơ cứu chét đuối Không 135 67,5 Sơ cứu chết đuối được mô tả là Hô hấp miệng - miệng 8 12,3 Dốc nước ra 23 35,4 Hô hấp miệng - miệng rồi dốc nước ra 2 3,1 Dốc nước ra rồi hô hấp miệng - miệng 32 49,2 Mối lo ngại chính trong mùa lũ của các hộ gia đình là sợ trẻ bị chết đuối (74%), đói (52%) và bị bệnh (37.5%) (Bảng 2). Lý do chính dẫn trẻ đến chết đuối chính là sự “bất cẩn”của người giữ trẻ. Có 76 % hộ gia đình biết thông tin về chết đuối: từ tivi là 53 %, radio và loa phát thanh 45 %, hành xóm 28 % và các nguồn khác 7%. Phần lớn (74 %) nhớ nội dung thông tin là nhắc nhở mọi người chăm sóc trẻ tốt hơn trong mùa lũ, tiếp theo thông báo tình hình chết đuối và có một tỉ lệ nhỏ không nhớ nội dung thông tin. Trong số 200 người được phỏng vấn, ¼ cho rằng họ biết hồi sức cấp cứu. Thực tế, chỉ có 12,3 % người biết hô hấp nhân tạo, 36 % biết cách dốc Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học cho nước chảy ra ngoài, 49,2 % biết dốc nước và hô hấp nhân tạo. Bảng 3: Thái độ của dân vùng lũ về tình trạng trẻ chết đuối Thái độ Tần suất (n=200) Tỉ lệ (%) Không biết bơi là nguyên nhân chính của chết đuối Đồng ý 189 94,5 Không đồng ý 11 5,5 Dạy bơi là biện pháp bảo vệ cần thiết Đồng ý 198 99 Không đồng ý 2 1 Ai dạy trẻ bơi Gia đình 183 91,5 Tổ chức xã hội và khác 20 8,5 Đánh giá chết đuối ở địa phương Nghiêm trọng 127 63,5 Trung bình 58 29 Không nghiêm trọng 15 7,5 Quan tâm của chính quyền địa phương về chết đuối Không 60 30 Ít 58 29 Trung bình 44 22 Tốt 38 19 Cần được hỗ trợ từ chính quyền Có 139 69.5 Không 26 13 Không biết 35 17.5 Thích nghe thông tin nhất từ Truyền hình 106 53 Truyền thanh, loa phóng thanh 52 26 Khác 18 9 Chính quyền địa phương 7 3.5 Nhân viên y tế 5 2.5 Sách 6 1.5 Hàng xóm 3 1.5 Báo 1 0.5 Bảng 3 cho thấy thái độ người dân về tình trạng chết đuối của trẻ em. Gần 2/3 hộ gia đình cho trẻ em chết đuối là nghiêm trọng, gần 1/3 cho rằng mức độ vừa phải. Nói cách khác, hầu hết gia đình cho rằng chết đuối ở trẻ em là vấn đề cần được quan tâm. Tuy nhiên, 7,5 % không quan tâm tới tình trạng này. Hơn ½ hộ gia đình cho rằng quan tâm của chính quyền địa phương là không tốt (59%), vừa phải (22 %), tốt (19 %). Gần 95 % hộ gia đình đồng ý rằng không biết bơi là nguyên nhân chính của chết đuối và dạy cho trẻ biết bơi là cần thiết. Hầu hết các gia đình báo cáo rằng người dạy bơi cho trẻ là các thành viên trong gia đình. Gần 70 % hộ gia đình mong có sự giúp đỡ từ cộng đồng. Bảng 4: Thực hành về phòng tránh chết đuối Thực hành Tần suất Tỉ lệ (%) Nhà có trẻ dưới 5 tuổi có hàng rào (n=176) 42 23.8 Số trẻ trên 5 tuổi biết bơi (n=124) 52 42 Nơi trẻ được gửi khi gia đình đi làm trong mùa lũ (n=200) Ở nhà có người lớn trông 180 90 Nhà giữ trẻ 13 6.5 Đem trẻ theo 6 3 Ở nhà không có người coi 1 0.5 Kiến nghị Nhà giữ trẻ 70 35 Phao cứu sinh 69 34.5 Gia tăng thông tin-giáo dục-truyền thông 49 24.5 Dạy bơi 11 5.5 Huấn luyện sơ cứu 7 3.5 * n: cỡ mẫu Bảng 4 cho thấy thực hành trên dự phòng chết đuối của trẻ. Hầu hết trẻ được giữ ở nhà, một số nhỏ mang trẻ theo khi làm việc và đưa trẻ đến nhà giữ trẻ. Tỉ lệ nhà có hàng rào bảo vệ cho trẻ dưới 5 tuổi là 24% và ít hơn ½ số trẻ trên 5 tuổi biết bơi. Nghiên cứu định lượng Bảng 5: Đặc tính dịch tễ của 52 ca chết đuối ở huyên Châu Thành và Châu Phú 2002-2003 Đặc tính Tần số (n=52) Tỉ lệ (%) Nam 34 65.4 Giới Nữ 18 34,6 1 6 11.5 2 15 28.9 3 16 30,8 4 5 9,6 5 5 9,6 Tuổi 6-10 5 9,6 Bất cẩn 42 80,8 Bơi không có giám sát 4 7,8 Đi chơi một mình 2 3,8 Đi vệ sinh 2 3,8 Lý do dẫn đến chết đuối Khác 2 3,8 Nguồn: Số liệu từ Chau Thanh & Chau Phu District Bảng 5 cho thấy hơn 80% ca chết đuối là trẻ dưới 5 tuổi, trong đó hơn 70% là trẻ dưới 3 tuổi. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Trẻ trai có tỉ lệ cao hơn nữ. Lý do chính đưa đến chết đuối được ghi nhận là do bất cẩn và trẻ bơi mà không có người giám sát BÀN LUẬN Kiến thức “Bất cẩn” của người giữ trẻ được xem như nguyên nhân quan trọng nhất của chết đuối ở trẻ em. Được xem là “ bất cẩn” khi người giữ trẻ không trông chừng trẻ một cách liên tục. Hậu quả là trẻ đi khỏi tầm nhìn và và rơi xuống nước xung quanh nhà và chết đuối. Một số ví dụ minh họa như sau: “ M là một trẻ trai 2 tuổi, ngủ với mẹ. M thức dậy trong khi mẹ vẫn còn ngủ. Em chơi một mình và rơi xuống nước ở dưới nhà và chết” “Bà mẹ N vừa làm và vừa trông chừng trẻ nhưng bà ta quên chú ý đôi phút, hậu quả con của bà tự chơi và rớt xuống nước”. “Bà nội trông trẻ và cảm thấy buồn ngủ. Bà ta buộc trẻ với một cái khăn mặt. Sau đó, khăn tuột ra vì trẻ cố gắng bò đi xa, và rồi trẻ rơi xuống nước và chết. “Ở các gia đình nghèo, đứa lớn trông đứa nhỏ, nhưng đưa lớn thường thích chơi và để đứa nhỏ một mình. Đứa nhỏ đi vòng vòng và té xuống nước. “Có gia đình nghĩ rằng hàng rào xung quanh nhà đủ an toàn để bảo vệ trẻ không bị chết đuối khi chơi trong nhà mà không cần ba mẹ trông coi. Nhưng khi cả nhà đang ngủ, đứa trẻ phá rào ra ngoài và rơi xuống nước. 76 % hộ gia đình nhận được thông tin về chết đuối. Điều đó có nghĩa là tỉ lệ phủ chưa đủ cho toàn cộng đồng. Những hộ này là những hộ có tivi hay/và radio. Thêm vào đó, họ thường là sống gần loa phát thanh thường được đặt ở trung tâm xã. Các hộ không có tivi/radio nghèo hơn và sống ở những làng xa mà tiếp cận của họ đối với phương tiện truyền thông rất hạn chế. Thật vậy, các loa phóng thanh là phương tiện truyền thông chính của chính quyền địa phương nhưng không phủ khắp các xã, đặc biệt là các làng xa xôi. Nội dung thông tin chủ yếu nhắc nhở “cẩn thận, để ý chăm sóc trẻ”, “thông báo tình hình chết đuối”. Các thông tin này quá chung chung, không thật sự cung cấp các biện pháp bảo vệ. Thêm vào đó, thời gian phát thanh quá trễ, khi người dân đã đi làm và môi trường quá ồn ào khiến cho nghe thông tin bị hạn chế. Các phương tiện truyền thông khác không đa dạng và không thực tế. Thí dụ như cuốn sách mỏng với nhan đề “sống với lũ” có “9 lời khuyên cho người lớn bảo vệ trẻ” và“ 8 lời khuyên” trẻ cần chú ý như: “không cho phép trẻ bơi trong trong dòng nước cuốn”, “cần để trẻ ở nơi cao có người lớn chăm sóc”. Các hộ gia đình có thể không cần đến các lời khuyên như vậy vì chúng quá hiển nhiên, không cung cấp thêm thông tin hữu ích. Không có thông tin nào viết về “sự bất cẩn khi trông trẻ”. Mặc dù chết đuối là mối quan ngại lớn nhất của người dân trong cộng đồng xã, ít có buổi họp nào nói hay thảo luận về vấn đề chết đuối. Điều cần thiết là cung cấp thông tin cho người nghèo và ở xa không có tivi/radio. Vì thế, cần có chương trình truyền thông hiệu quả dựa trên nhóm có nguy cơ cao. Sơ cứu “T là một cậu bé 7 tuổi không biết bơi. Nhà của bé ở trên bờ kênh. Một đêm, bé đau bụng và đi đại tiện trong “nhà vệ sinh trên kênh” sau nhà. Chẳng may, bé rơi xuống kênh. Vài phút sau, mẹ bé phát hiện và đem bé lên bờ. Bà không làm gì cả mà chỉ biết đưa bé ngay đến trạm y tế xã. Tại đó, người ta đã cố gắng cứu nhưng bé đã chết. Số hộ gia đình biết cách sơ cứu chết đuối rất thấp. Chỉ hơn 10 % của 200 hộ gia đình trả lời biết. Số còn lại biết chút chút và đôi khi biết sai. Thí dụ, khi được hỏi khi gặp trẻ sắp chết đuối sẽ làm gì, họ trả lời “đem trẻ tới trạm y tế gần nhất” hay “để tro lên người để hút nước ra”. Thiếu kiến thức một phần do hiểu sai thông tin y tế hay do kinh nghiệm sai. Thái độ về trẻ chết đuối Từ thảo luận nhóm sâu và phỏng vấn từng người, đa số cho là “trẻ chết đuối là vấn đề và Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học trách nhiệm chính của gia đình” hơn là của chính quyền. Nâng cao nhận thức của chính quyền là một việc làm cần thiết để làm giảm tỉ lệ chết đuối. Thực hành ngăn ngừa chết đuối Rõ ràng là các hộ gia đình có thái độ tốt bảo vệ con mình không bị chết đuối. Họ cũng cố gắng hết sức mình để giữ cho con mình an toàn. Mặc dù có nhiều nỗ lực, chết đuối vẫn xảy ra thường xuyên. Điều này cho thấy nhận thức của người giữ trẻ về nguy cơ chết đuối chưa đủ và điều này có thể được giải thích như sau: Trước hết, hầu hết các hộ sống trong môi trường có nhiều nguy cơ: nước ở dưới hay xung quanh nhà. Trẻ có thể rơi xuống nước bất kỳ lúc nào. Vì thế, cha mẹ khó mà giữ cho trẻ an toàn từ ngày này sang ngày khác. Thật ra, chỉ có 24 % hộ gia đình có trẻ dưới 5 tuổi nhà có hàng rào và như vậy dường như không có nhiều nhà có thể làm hàng rào. Thứ hai, hàng rào là biện pháp tốt nhưng không phải lúc nào cũng đảm bảo bảo vệ trẻ không bị ngã xuống nước vì có thể hàng rào không vững chắc. Nhưng các bà mẹ, người quá tin cậy vào hàng rào nên chuyện không may có thể xảy ra. Thứ ba, giữ trẻ-nghĩa là luôn luôn để mắt đến trẻ. Đây là một quá trình liên tục và lâu dài khiến cho người giữ trẻ nhàm chán và mệt mỏi. Thật vậy, trẻ năng động và quá khó để kiểm soát liên tục. Hậu quả là, sai sót thường không thể tránh khỏi. Thí dụ, họ đôi khi vừa làm vừa trông trẻ và lơ đễnh trong vài phút. Hậu quả, trẻ té xuống nước và chết. Lý do cuối cùng là trách nhiệm trông trẻ không rõ ràng hay trẻ bơi mà không có sự giám sát của người lớn. Giải pháp Nhà giữ trẻ dường như là giải pháp an toàn và hiệu quả cho cha mẹ về vấn đề an toàn cho trẻ trong mùa lũ. Thực tế, không có nhiều nhà giữ trẻ ở cộng đồng. Vấn đề xây nhà trẻ mới hay tìm nơi có thể thuê nhà để làm nhà giữ trẻ là một thách thức. Một vấn đề khác nên được xem xét về mặt nhân sự và nhân lực chẳng hạn như giáo viên, dinh dưỡng cho trẻ, di chuyển và các chi phí khác. Cuối cùng, các gia đình nghèo không có tiền trả cho nhà giữ trẻ và họ không có thuyền đưa đón trẻ khi gửi trẻ ở nhà trẻ. Thực tế là chỉ có một số nhỏ gia đình gửi trẻ ở nhà giữ trẻ. Sống tập trung trong vùng chống lũ không phải luôn luôn là một giải pháp tốt bởi vì các gia đình nghèo thường thấy khó sống trong một môi trường mới không thuận lợi cho công việc mưu sinh của họ. Vì thể để giải quyết vấn đề này, chính quyền địa phương đề nghị phải được hướng dẫn, chỉ thị và giúp đỡ từ các cấp và nguồn lực bên ngoài. Mặc dù các hộ gia đình biết rằng biết bơi là một kỹ năng quan trọng để sống sót trong vùng lũ và hội chữ thập đỏ gần đây đã tổ chức một số khóa huấn luyện bơi nhưng chỉ có chưa đến một nửa số trẻ trên 5 tuổi có biết bơi. Bố mẹ thường thấy khó khăn khi hướng dẫn trẻ dưới 5 tuổi bơi bởi vì họ thiếu kỹ thuật và kiến thức. Những người khác sợ rằng “trẻ tiếp xúc sớm với nước dễ bị bệnh”. Ngoài ra, cuộc điều tra cũng ghi nhân rằng có một số trẻ từ 3-4 tuổi biết bơi. Vì thế, hướng dẫn bơi sớm có thể cũng là một giải pháp tốt. Một giải pháp khác đó là dùng “nôi” cho trẻ mới sinh cho đến dưới 4 tuổi. Một cái nôi có chiều cao cao hơn chiều cao của trẻ có thể giữ nó an toàn khi bố mẹ làm việc hay nghỉ ngơi. Một áo phao cho trẻ sống trong gia đình trên các kênh rạch là một giải pháp đáng được xem xét khi chẳng may trẻ rơi xuống nước. Mặc dù Ủy ban phòng chống thảm họa và thiên tai đã được thiết lập ở các địa phương, nhưng các hoạt động của ủy ban trên để giảm thiểu chết đuối của trẻ vẫn còn rất hạn chế. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, nguy cơ chết đuối của trẻ rất cao ở vùng đồng bằng sông Mekong, đặc biệt là trẻ trai dưới năm tuổi. Kết Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học quả này cũng phù hợp với nhiều nghiên cứu về tuổi của chết đuối ở trẻ em(3) Lý do chính là “bất cẩn” của người trông trẻ có ít sự hiểu biết về các nguy cơ gây ra chết đuối và sơ cứu trẻ khi bị chết đuối. Trong mùa lũ, quan tâm lớn nhất của phần lớn các gia đình có trẻ em dưới 10 tuổi là chết đuối. Hầu hết gia đình đánh giá rằng vấn đề chết đuối của địa phương là từ mức độ trung bình đến trầm trọng và cho rằng “không biết bơi” là nguyên nhân trực tiếp của chết đuối và dạy bơi chơ trẻ là biện pháp bảo vệ cần thiết. Thực tế, gia đình là nơi chính chăm sóc trẻ và bảo vệ trẻ khỏi nguy cơ chết đuối, chỉ có một số trẻ được chăm sóc ở nhà giữ trẻ trong mùa lũ và một số nhỏ trẻ được bố mẹ mang theo khi làm việc. Nghiên cứu này cũng ghi nhận rằng chết đuối của trẻ em có thể xảy ra bất kỳ mùa nào trong năm, nhưng nhiều nhất là trong mùa lũ; thường là trẻ sống trong gia đình nghèo và ở vùng xa, nhà của trẻ thường ở trên các kênh và các dòng sông. Chết đuối vẫn còn xem là một vấn đề của gia đình hơn là một vấn đề của cộng đồng. Quan tâm của chính quyền chưa đáp ứng được mức độ gánh nặng tâm lý và kinh tế mà chết đuối của trẻ em gây ra cho gia đình và cộng đồng. Mặc dù, địa phương đã dành nhiều thời gian hơn và tiến hành nhiều hoạt động hơn cho chết đuối của trẻ trong thời gian gần đây, nhưng tình trạng chết đuối của trẻ vẫn còn là vấn đề y tế công cộng (4). Kết quả cũng cho thấy có một khoảng khác biệt lớn giữa nhận thức của người dân và các tổ chức đoàn thể về các hoạt động đã thực hiện nhằm giảm thiểu chết đuối. Tỉ lệ KAP được xác định trong nghiên cứu này có thể không đại diện cho vùng đồng bằng sông Mekong. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu này có thể giúp cho sự hiểu biết nguyên nhân của chết đuối và sử dụng chúng trong phòng tránh chết đuối ở trẻ em vùng đồng bằng sông Mekong. ĐỀ NGHỊ Đối với kiến thức Đa dạng hóa các hoạt động thông tin giáo dục truyền thông cả về chiều rộng và chiều sâu để gia tăng nhận thức và thực hành của người dân về nguy cơ chết đuối. Nội dung của thông tin nên tập trung trên các nguy cơ chết đuối ở trẻ em và hướng dẫn về sơ cứu ban đầu một cách thích hợp. Đối với thái độ Chính quyền địa phương cần nâng cao nhận thức về nguy cơ chết đuối, cần tiến hành nhiều hoạt động để giảm thiểu chết đuối ở trẻ em vì chết đuối cũng là một vấn đề của cộng đồng và cần giải quyết bởi cộng đồng, chứ không phải chỉ gia đình. Đối với thực hành Chính quyền địa phương cần có một chương trình hành động cụ thể, có nguồn lực và huy động xã hội cho các hoạt động thích hợp để giảm thiểu nguy cơ chết đuối ở trẻ em. Có lẽ tốt hơn một một bộ phận của chính quyền sẽ chịu trách nhiệm chính về phòng chống chết đuối. Các biện pháp bảo vệ như xây dựng nhà giữ trẻ, “nôi” và hàng rào “kiên cố” nên được khuyến khích. Đồng thời phải xem xét những gia đình khó khăn ở vùng xa sẽ được chuyển đến những vùng đất cao cùng với các hoạt động xóa đói giảm nghèo để có thể góp phần gián tiếp đến chết đuối của trẻ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo thiệt hại do lũ năm (2002). Ban phòng chống lụt bão An Giang. 2. Begg S. Tomijima N, Vos T, Mathers C (2002). Global burden of injury in the year 2000: an overview of methods. Geneva. GPE. World health organization. 3. Peden MM, McGee K (2003). The epidemiology of drowning worlwide. Injury control and safety promotion; 10(4): 195-199. 4. Sethi D, Zwi A (1998). Challenge of drowning prevention in low and middle income countries. Inj Prev; 4:162. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008 Nghiên cứu Y học

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkien_thuc_thai_do_va_thuc_hanh_cua_nguoi_dan_ve_chet_duoi_tr.pdf
Tài liệu liên quan