Kiến thức và thái độ của người dân các quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh đối với bệnh động kinh

Về điều trị, 38,6% nghĩ rằng bệnh động kinh không thể điều trị khỏi bằng thuốc. Theo WHO, 70% bệnh nhân đáp ứng với thuốc chống động kinh. Tuy nhiên, do động kinh là bệnh lý mãn tính, thời gian điều trị thường kéo dài, nhiều trường hợp bỏ trị hoặc điều trị bằng các phương pháp dân gian vì thế bệnh không khỏi. Khi gặp người đang lên cơn động kinh, 62% đồng ý đặt vật cứng vào miệng để ngăn họ cắn lưỡi, việc làm này dễ gây tổn thương cho bệnh nhân. Đáng lưu ý, 77,4% tiếp thu được cách xử trí trên từ kinh nghiệm truyền miệng, chứng tỏ kiến thức sai lệch về cách xử trí này đã được truyền bá rộng rãi trong cộng đồng, 11,1% người dân tiếp thu được cách xử trí này là từ sách báo, truyền hình, một kênh thông tin quan trọng và hiệu quả. Vẫn có 4,8% nhân viên y tế hướng dẫn người dân phương pháp này. Những người trẻ tuổi chọn cách xử trí này cao hơn người lớn tuổi (X2, p< 0,05). Gần một phần ba người dân phản đối người bệnh động kinh kết hôn và và sinh con, thái độ tiêu cực này có khuynh hướng liên quan với quan niệm rất phổ biến đã ngấm sâu trong cộng đồng Việt Nam như đã đề cập ở trên, bệnh động kinh là do di truyền và bệnh động kinh thì không điều trị khỏi được. Chỉ 7,8% đối tượng phản đối con mình tiếp xúc với trẻ động kinh, 18,1% ý kiến yêu cầu cần phải có người giám sát khi trẻ chơi với nhau vì lo lắng con mình có thể bị tổn thương khi trẻ bệnh lên cơn động kinh, đây một trong những quan niệm sai lệch cần lưu ý trong chương trình giáo dục sức khỏe cộng đồng về động kinh. Có đến 43,2% người dân phản đối người thân trong gia đình kết hôn với người động kinh. Kiến thức về nguyên nhân động kinh do di truyền ảnh hưởng sâu sắc đến thái độ phản đối người thân trong gia đình kết hôn với người bệnh động kinh, người dân lo ngại người bệnh động kinh có khả năng sinh ra những đứa trẻ bệnh động kinh, mặt khác cho rằng người bệnh động kinh không có khả năng đảm đương được vấn đề kinh tế gia đình như người không bệnh, tỷ lệ nữ phản đối cao hơn so với nam (X2, p< 0,05). Tương tự, tỷ lệ nữ phản đối người thân trong gia đình kết hôn với người động kinh ở Ba Vì và Nhân Chính cũng cao hơn so với nam.Thái độ hạn chế đối với những vấn đề xã hội thường gặp ở nữ hơn nam, có thể do ở Việt Nam người nữ thường làm công việc nội trợ, ít có điều kiện tiếp xúc bên ngoài, ít tiếp thu thông tin nên kiến thức về xã hội thấp hơn nam

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 147 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức và thái độ của người dân các quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh đối với bệnh động kinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên Đề Nhi Khoa 1 KIẾN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI DÂN CÁC QUẬN TRUNG TÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI BỆNH ĐỘNG KINH Lê Lý Hạ Liên*, Trần Diệp Tuấn** TÓM TẮT Đặt vấn đề và mục đích nghiên cứu: Động kinh là bệnh lý thần kinh mãn tính thường gặp. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy văn hóa, kiến thức, thái độ và nhận thức của người dân về động kinh ảnh hưởng lớn đến hiệu quả điều trị. Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là đánh giá sự hiểu biết, kiến thức, quan niệm sai lệch, và thái độ đối với bệnh động kinh ở cộng đồng các quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp: 480 đối tượng được chọn ngẫu nhiên để tiến hành phỏng vấn “mặt đối mặt” về bệnh động kinh. Kết quả: có 91,2% đối tượng đã từng nghe nói về bệnh động kinh; 29,3% có quen biết người bệnh động kinh; 80,6% đã từng chứng kiến người bệnh lên cơn động kinh; 22,9% nghĩ rằng bệnh động kinh là do di truyền; 62,4% ủng hộ đặt vật cứng vào miệng đề ngăn người bệnh cắn lưỡi khi gặp họ lên cơn động kinh. Một phần ba ý kiến cho rằng người bệnh động kinh không nên lập gia đình và sinh con; 7,8% không cho phép con mình chơi với trẻ bệnh động kinh; 43,2% phản đối con kết hôn với người bệnh động kinh. Có 16,9% nghĩ rằng người bệnh động kinh không nên làm việc và 35,6% sẽ sa thải người bệnh động kinh nếu lên cơn khi đang làm việc mà không khai báo trước. Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy vẫn còn những thái độ hạn chế đối với việc kết hôn, sinh con và việc làm của người bệnh động kinh. Thái độ trên xuất phát từ sự thiếu hụt kiến thức về nguyên nhân và khả năng điều trị bệnh động kinh. Những chương trình giáo dục sức khỏe cộng đồng cung cấp kiến thức về động kinh, cải thiện tình trạng phân biệt đối xử và những quan niệm sai lệch về người bệnh động kinh là rất cần thiết. ABSTRACT PUBLIC KNOWLEDGE AND ATTITUDES TOWARD EPILEPSY IN CENTRAL DISTRICTS OF HO CHI MINH CITY Le Ly Ha Lien, Tran Diep Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 172 - 179 Background and purpose: Epilepsy is one of the most common neurological diseases worldwide. Many studies have shown that cultural and social awareness of, attitudes toward, and knowledge about epilepsy can have an impact on the acceptance of treatment. The aim of this study is to characterize the familiarity with, knowledge of, misunderstandings, and attitudes toward epilepsy among the Ho Chi Minh central districts population. Methods: four hundred and eighty people were randomly selected for face-to-face interviews regarding epilepsy. Results: Of the subjects surveyed; 91.2% had heard of epilepsy; 29.3% knew someone with epilepsy, 80.6% had witnessed an epileptic seizure; 22.9% believed that epilepsy is inheritable; 62.4% indicated that putting an object into the patient’s mouth to prevent tongue biting during a seizure is appropriate. One third thought that the epileptic patients couldn’t be married and have children; 7.8% would not allow their children play with others having epilepsy; 43.2% would object to having their children marry a person with epilepsy. 16.9% believed that epileptic patients shouldn’t work; and 35.6% would terminate the employment contract after an epileptic seizure * Phòng khám Đa Khoa Hồng Lạc-Q.Bình Thạnh- TP Hồ Chí Minh, ** Bộ môn Nhi, Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh. Chuyên Đề Nhi Khoa 2 in an employee with unreported epilepsy. Conclusion: Our study revealed that there were still negative attitudes regarding the marriage, childbearing, and employment of persons with epilepsy, which might result from lacking of knowledge about cause and treatment of epilepsy. Public health education would be needed in order to improve knowledge about epilepsy, and to ameliorate the social discrimination and misconceptions against epileptic patients. ĐẶT VẤN ĐỀ Động kinh là một bệnh lý thần kinh thường gặp nhất, theo WHO trên thế giới hiện có khoảng 50 triệu người mắc bệnh động kinh. Nhiều nghiên cứu trên thế giới về kiến thức, thái độ và thực hành của người dân cho thấy sự thiếu hụt những kiến thức cơ bản về bệnh động kinh, quan niệm sai lệch và tình trạng phân biệt đối xử với người bệnh động kinh vẫn còn tồn tại, chính điều này ảnh hưởng rất lớn đến kết quả điều trị cũng như cuộc sống của người bệnh động kinh. Tại Việt Nam, hiện chỉ có hai nghiên cứu đã thực hiện tại Nhân Chính- Hà Nội và Ba Vì- Hà Tây, kết quả vẫn còn nhiều định kiến đối với người bệnh động kinh. Tuy nhiên, hai nghiên cứu này không thể đại diện cho nhận thức của người dân Việt Nam về bệnh động kinh vì vậy việc tiến hành nghiên cứu ở các vùng miền khác của đất nước rất cần thiết. Do vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Kiến thức và thái độ của người dân các quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh về bệnh động kinh”. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu nhằm đánh giá tỷ lệ các kiến thức, thái độ và những quan niệm sai lệch của người dân các quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh về bệnh động kinh, mối liên quan giữa kiến thức, thái độ với những đặc điểm dân số- xã hội như giới tính, tuổi, học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân. Có 480 đối tượng đã tham gia nghiên cứu. Trong 5 quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, chọn ngẫu nhiên 2 quận là quận 3 và quận Phú Nhuận. Từ danh sách hộ gia đình được cung cấp bởi chính quyền địa phương, chúng tôi chọn ngẫu nhiên 1 người trong gia đình trên 18 tuổi và tiến hành phỏng vấn. Những đối tượng bệnh động kinh, gia đình có người bệnh động kinh, mất trí, câm điếc, tâm thần được loại khỏi nghiên cứu. Trường hợp đối tượng chưa từng nghe nói đến bệnh động kinh thì kết thúc phỏng vấn nhưng mẫu vẫn được đưa vào lô nghiên cứu. Chúng tôi chọn phương pháp phỏng vấn trực tiếp dưới hình thức “mặt đối mặt” dựa vào bộ câu hỏi soạn trước. Các câu hỏi được dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt và ngược lại để đảm bảo tính chính xác trong chuyển ngữ. Phỏng vấn do tác giả và 20 cộng tác viên là sinh viên khoa Xã Hội Học, trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn thành phố Hồ Chí Minh thực hiện. Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.1. Phân tích số liệu bằng phần mềm Stata 10.0 theo phương pháp thống kê mô tả ở mức tin cậy 95%. Phép kiểm Chi bình phương hoặc Fisher’s exact để kiểm định mối liên quan giữa một số yếu tố dân số- xã hội với các câu trả lời về kiến thức, thái độ về bệnh/người bệnh động kinh. Những câu trả lời chung chung như “không rõ”, “không biết” sẽ được loại khỏi phần phân tích. Đối với những câu trả lời có mối liên quan, tiến hành phân tích đa biến bằng phương pháp hồi qui logistic để xác định yếu tố liên quan độc lập. KẾT QUẢ Trong 480 đối tượng được phỏng vấn, tỷ lệ nam/nữ = 1/1,44, nhóm tuổi 18-44 tuổi là 51,1%, 62,5% người có trình độ học vấn trung học, phân bố nghề nghiệp (lao động trí óc, lao động chân tay và không đi làm) tương đương nhau, 76,9% đối tượng đã lập gia đình. Hiểu biết về bệnh động kinh Tỷ lệ nghe nói về bệnh động kinh và chứng kiến người bệnh lên cơn động kinh cao (91,2% và 80,6%). Tỷ lệ quen biết với người bệnh động kinh thấp hơn (29,3%). Người có trình độ học Chuyên Đề Nhi Khoa 3 vấn cao “nghe nói về bệnh động kinh” nhiều hơn người có trình độ học vấn thấp (X2, p< 0,05). Bảng 1: Hiểu biết về bệnh động kinh Kết quả Câu 1 Câu 2 Câu 3 Có (%) Không (%) Có (%) Không (%) Có (%) Không (%) Tổng cộng 91,2 9,8 29,3 70,7 19,4 80,6 Giới Nữ 90,1 9,9 30,9 69,1 78,1 21,9 Nam 90,4 9,6 26,9 73,1 84,3 15,7 Nhóm tuổi 18-44 93,1 6,9 24,1 75,9 78,1 21,9 45-64 87,7 12,3 37,8 62,2 83,5 16,5 > 65 85,4 14,6 24,4 75,6 82,9 17,1 Học vấn Tiểu học 80 20 34,4 65,6 87,5 12,5 Trung học 89,3 10,7 30,6 69,4 80,9 19,1 Trên trung học 95 5 25,6 74,4 78,2 21,8 Nghề nghiệp LĐ trí óc 91,3 5,7 22,4 77,6 80 20 LĐ chân tay 89 11 33,8 66,2 79,2 20,8 Không đi làm 86,8 13,2 33,3 66,7 82,6 17,4 Hôn nhân Độc thân 90,1 9,9 31 69 75 25 Đã kết hôn 90,2 9,8 28,8 71,2 82,2 17,8 Câu 1: Ông/ Bà có từng nghe nói về bệnh động kinh không? Câu 2: Ông/ Bà có quen biết ai là người bị động kinh không? Câu 3: Ông/ Bà đã từng chứng kiến người bệnh lên cơn động kinh chưa? Kiến thức về động kinh Về nguyên nhân, do di truyền 22,9%. Người có trình độ học vấn cao biết đến nguyên nhân di truyền cao hơn người có trình độ học vấn thấp (X2, p< 0,05). Có đến 95,8% chọn co giật và sùi bọt mép là biểu hiện chính của bệnh. Chỉ 0,97% nghĩ động kinh là bệnh truyền nhiễm. Có 38,6% nghĩ rằng bệnh động kinh không thể điều trị khỏi bằng thuốc và 49,4% cho biết ngoài thuốc còn có cách khác có thể điều trị bệnh động kinh, tuy nhiên phần lớn (53,2%) không biết, châm cứu (7,8%), thuốc nam (3,2%), đông y, vật lý trị liệu, Khi gặp người đang lên cơn động kinh, 62,4% đồng ý chèn vật cứng vào miệng để ngăn người bệnh cắn lưỡi. Những đối tượng trẻ tuổi ủng hộ phương pháp trên cao hơn đối tượng lớn tuổi (X2, p< 0,05), 77,4% kiến thức trên có được từ kinh nghiệm truyền miệng, 11,1% từ sách báo, truyền hình và 4,8% từ sự hướng dẫn của nhân viên y tế. Bảng 2: Kiến thức về bệnh động kinh Kết quả Câu 4 Câu 5 Câu 6 Câu 7 Câu 8 Câu 9 Câu 10 Có (%) Không (%) Có (%) Không (%) Có (%) Không (%) Có (%) Không (%) Có (%) Khôn g (%) Có (%) Không (%) Có (%) Không (%) Tổng cộng 43,4 56,6 22,9 77,1 95,8 4,2 99,03 0,97 61,4 38,6 50,6 49,4 62,4 37,6 Giới Nữ 41,2 58,8 22,4 77,6 94,5 5,5 0,4 99,6 64,7 35,3 52,2 47,8 63,5 36,5 Nam 46,6 53,4 23,6 76,4 97,7 2,3 1,7 98,3 56,5 43,5 48,3 51,7 60,7 39,3 Nhóm tuổi 18-44 46,5 53,5 21,9 78,1 96,5 3,5 1,3 98,7 63,5 36,5 51,3 48,7 67,5 32,5 45-64 38,4 61,6 23,2 76,8 93,9 6,1 0 100 58,6 41,4 51,2 48,8 59,8 40,2 > 65 46,3 53,7 26,8 73,2 100 0 2,4 97,6 60,7 39,3 43,9 56,1 43,9 56,1 Học vấn Tiểu học 34,4 65,6 3,1 96,9 90,6 9,4 0 100 50 50 40,6 59,4 50 50 Trung học 41 59 20,9 79,1 96,3 3,7 1,1 98,9 64,6 35,4 52,9 47,1 61,6 38,4 Trên trung học 50,4 49,6 31,6 68,4 96,2 3,8 0,8 99,2 57,3 42,7 48,1 51,9 66,9 33,1 Nghề nghiệp LĐ trí óc 50,9 49,1 25,5 74,5 95,2 4,8 0,6 99,4 62,4 37,6 53,3 46,7 65,5 34,5 LĐ chân tay 37,7 62,3 21,5 78,5 96,9 3,1 1,5 98,5 62,5 37,5 51,5 48,5 65,4 34,6 Không đi làm 39,9 60,1 22 78 95,6 4,4 0,7 99,3 58,8 41,2 46,4 53,6 55,8 44,2 Hôn nhân Chuyên Đề Nhi Khoa 4 Kết quả Câu 4 Câu 5 Câu 6 Câu 7 Câu 8 Câu 9 Câu 10 Có (%) Không (%) Có (%) Không (%) Có (%) Không (%) Có (%) Không (%) Có (%) Khôn g (%) Có (%) Không (%) Có (%) Không (%) Độc thân 45 55 30 70 97 3 1 99 64 36 45 55 58 42 Đã kết hôn 42,9 57,1 20,7 79,3 95,5 4,5 0,9 99,1 60,6 39,4 52,2 47,8 63,7 36,3 Câu 4: Theo ông/bà nguyên nhân động kinh có phải do bệnh lý não, thần kinh không? Câu 5: Theo ông/bà nguyên nhân động kinh có phải do di truyền không? Câu 6: Theo ông/bà biểu hiện bệnh động kinh có phải là “co giật và sùi bọt mép” không? Câu 7: Theo ông/bà bệnh động kinh có phải là bệnh truyền nhiễm, dễ lây lan không? Câu 8: Theo ông/bà bệnh động kinh có thể điều trị khỏi bằng thuốc (Tây hoặc Đông y) không? Câu 9: Theo ông/bà thuốc có phải là cách duy nhất điều trị động kinh không? Câu 10: Khi gặp một người lên cơn động kinh, có nên chèn vật cứng vào miệng để ngăn họ cắn lưỡi không? Thái độ đối với người bệnh động kinh Có 73,6% nghĩ người bệnh động kinh hoàn toàn không được phép lái xe. Gần một phần ba phản đối người bệnh động kinh lập gia đình và sinh con, tuy nhiên, tỷ lệ phản đối phụ nữ động kinh lập gia đình và sinh con thấp 0,5% và 2,7%. Không cho phép con mình học cùng trường hay chơi với trẻ bệnh động kinh (7,8%) và 43,2% phản đối người thân kết hôn với người động kinh, tỷ lệ nữ phản đối cao hơn nam (X2, p< 0,05). Nếu gia đình có người bệnh động kinh, 14,6% không muốn chia sẻ thông tin với cộng đồng vì xấu hổ (9,8%) và sợ phân biệt đối xử (24,6%) và 44,9% khuyên người bệnh nên điều trị theo sự hướng dẫn của bác sỹ. Về việc làm, 16,9% nghĩ rằng người bệnh động kinh không nên làm việc, tỷ lệ đồng ý cao ở những đối tượng có trình độ học vấn thấp (X2, p< 0,05) và 35,6% sẽ sa thải người bệnh động kinh nếu lên cơn khi đang làm việc mà không khai báo trước tình trạng bệnh. Bảng 3: Kết quả trả lời các câu hỏi từ 15 đến 18 15. Người bệnh động kinh có được phép điều khiển ppphương tiện giao thông không? Kết quả % Có, được phép 6,4 Chỉ được phép trong điều kiện hạn chế 20 Hoàn toàn không được phép 73,6 Không (%) 16. Nếu gia đình có người bệnh động kinh, theo ông/bà có nên chia sẻ thông tin này với những người có mối quan hệ, giao tiếp với gia đình không? Tại sao? 14,6 Xấu hổ 9,8 Sợ phân biệt đối xử 24,6 17. Người bệnh động kinh có nên được nhận vào làm việc nếu công khai tình trạng bệnh của mình không? % Hoàn toàn có thể làm việc 37 Chỉ tham gia những công việc đơn giản 46,1 Không nên làm việc 16,9 18. Nếu ông/bà là chủ một doanh nghiệp, ông/bà có sa thải người lên cơn động kinh lúc đang làm việc mà không khai báo trước tình trạng bệnh của mình không? % Có 35,6 Không 64,4 Quan niệm sai lệch về bệnh động kinh Một số quan niệm sai lệch về bệnh động kinh: bệnh động kinh là một dạng bệnh tâm thần (9,5%), trí tuệ người động kinh thấp hơn bình thường (35,1%), cần phải học ở những trường đặc biệt (33,8%), người bệnh động kinh có thể gây nguy hiểm cho người khác (13,1%). Phải (%) 19. Bệnh động kinh là do thần thánh trừng phạt 0,69 20. Bệnh động kinh có phải là bệnh tâm thần? 9,5 21. Người bệnh động kinh có trí tuệ thấp hơn bình thường? 35,1 22. Người bệnh động kinh có nên học ở trường đặc biệt? 33,8 23. Người bệnh động kinh có thể gây nguy hiểm cho người khác? 13,1 Chuyên Đề Nhi Khoa 5 Nguồn cung cấp thông tin, cơ sở y tế điều trị động kinh Khi cần tìm hiểu thêm về bệnh động kinh, 43,4% sẽ tìm đọc sách báo, hỏi trực tiếp bác sỹ hoặc nhân viên y tế (21,9%), đặt câu hỏi trên các phương tiện truyền thông đại chúng (10%), tìm đọc trên internet (9,7%), không biết phải tìm hiểu ở đâu (11,3%). Trên hai phần ba đối tượng không biết những cơ sở y tế chuyên điều trị bệnh động kinh cho trẻ em (75,6%) và người lớn (70%). Trong số những người biết, 57,5% chọn bệnh viện Nhi Đồng là nơi điều trị động kinh trẻ em, điều trị bệnh động kinh người lớn 38,4% chọn bệnh viện Tâm Thần và 33% chọn bệnh viện Nhiệt Đới. Bảng 4: Thái độ đối với người bệnh động kinh Kết quả Câu 11 Câu 12 Câu 13 Câu 14 Có (%) Không (%) Nữ, Không (%) Có (%) Không (%) Nữ, không (%) Có (%) Có,giám sát (%) Không (%) Có (%) Không (%) Tổng cộng 69,6 29,9 0,5 67 30,3 2,7 74,1 18,1 7,8 43,2 56,8 Giới Nữ 65,1 34,5 0,4 61,9 35,4 2,7 73,5 17,7 8,8 48,4 51,6 Nam 76,2 23,1 0,7 74,6 22,7 2,7 75,1 18,7 6,2 34,2 65,8 Nhóm tuổi 18-44 75,1 23,9 1 72,4 25 2,6 71,6 21,2 7,2 40 60 45-64 64 36 0 61,2 35,4 3,4 76,2 15,2 8,6 45,8 54,2 > 65 61,8 38,2 0 60,6 39,4 0 80 12,5 7,5 50 50 Học vấn Tiểu học 64 36 0 58,3 37,5 4,2 75 12,5 12,5 48 52 Trung học 67,9 31,7 0,4 66,2 31,6 2,2 73,8 16,7 9,5 43,5 56,5 Trên trung học 73,9 25,2 0,9 70,2 26,5 3,3 74,6 22,3 3,1 41,2 58,8 Nghề nghiệp LĐ trí óc 76,9 23,1 0 73,3 23,3 3,4 78,7 16,9 4,4 36,9 63,1 LĐ chân tay 63,4 35,7 0,9 59,4 38,7 1,9 68,5 20,8 10,7 45,7 54,3 Không đi làm 66,1 33,1 0,8 65,8 31,7 2,5 74,3 16,9 8,8 47,9 52,1 Hôn nhân Độc thân 69,1 29,7 1,2 67,8 28,6 3,6 75,7 19,2 5,1 39,4 60,6 Đã kết hôn 69,8 29,9 0,3 66,7 30,7 2,6 73,7 17,7 8,6 44,4 55,6 Câu 11: Người bệnh động kinh nói chung có nên lập gia đình không? Câu 12: Người bệnh động kinh có nên có con không? Câu 13: Ông/bà có đồng ý cho con mình học cùng trường hoặc chơi chung với trẻ động kinh không? Câu 14: Ông/bà có phản đối con mình hoặc người thân trong gia đình kết hôn với trẻ động kinh không? BÀN LUẬN Tỷ lệ người dân "nghe nói về bệnh động kinh" theo nghiên cứu của chúng tôi là 91,2% tương tự theo kết quả nghiên cứu ở Seoul 91,8%, tuy nhiên lại thấp hơn so với kết quả ở một số nước châu Phi và châu Âu như Kerela 98,7%, Hy Lạp 94,5%, Cộng hòa Czech 94%, New Zealand 95%. Mặc khác, so với một số nước trong khu vực châu Á, tỷ lệ này cao hơn, Hồng Kông 58,2%, Đài Loan 87%, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập 75%. So với hai nghiên cứu trong nước, kết quả của chúng tôi cũng khả quan hơn, Nhân Chính 54,6%, Ba Vì 67%. Tỷ lệ "quen biết người bệnh động kinh" là 29,3%, thấp hơn so với nghiên cứu ở Nhân Chính 45,5% và 52% ở Ba Vì. Có lẽ do đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi cư ngụ tại các quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, người dân hạn chế tiếp xúc với xung quanh, khác với lối sống gần gũi của người dân Chuyên Đề Nhi Khoa 6 vùng ngoại ô và nông thôn. Hơn nữa, 80,6% đã từng "chứng kiến người bệnh lên cơn động kinh", gần với tỷ lệ "nghe nói", vì vậy, có thể nói những người "nghe nói về bệnh động kinh" phần lớn là do đã từng trực tiếp chứng kiến người bệnh lên cơn động kinh. Sự phát triển của sinh học phân tử đã làm sáng tỏ vai trò của di truyền trong nguyên nhân gây động kinh, tuy nhiên tỷ lệ khá thấp, quá nhấn mạnh vai trò của di truyền sẽ dẫn đến nhiều quan niệm sai lệch đối với vấn đề hôn nhân và sinh con của người bệnh động kinh. Bên cạnh đó, do người dân nhận thấy tần suất mắc bệnh động kinh trong cùng một gia đình cao hơn so với các gia đình khác. Tỷ lệ này trong nghiên cứu chúng tôi là 22,9%. Những người có trình độ học vấn cao biết đến nguyên nhân này nhiều hơn người có trình độ học vấn thấp (X2, p< 0,05). Bảng 5: So sánh sự hiểu biết và thái độ về bệnh /người bệnh động kinh với các nghiên cứu khác Tên nước Năm thực hiện Câu 1 Có (%) Câu 2 Có (%) Câu3 Có (%) Câu 13 Có (%) Câu 14 Có (%) Câu 20 Có (%) Đài Loan 1995 87 70 56 82 72 Hồng Kông 2001 58,2 55 18,9 88,8 32,3 10,4 Nhân Chính- Việt Nam 2003 54,6 45,5 49,2 81,3 56 23,8 Hàn Quốc 2004 91,8 63,9 81,9 67,2 7 Ba Vì-Việt Nam 2007 67 52 49 64 82 10 Quận trung tâm TP.Hồ Chí Minh 2008 91,2 29,3 80,6 74,1 43,2 9,5 Về điều trị, 38,6% nghĩ rằng bệnh động kinh không thể điều trị khỏi bằng thuốc. Theo WHO, 70% bệnh nhân đáp ứng với thuốc chống động kinh. Tuy nhiên, do động kinh là bệnh lý mãn tính, thời gian điều trị thường kéo dài, nhiều trường hợp bỏ trị hoặc điều trị bằng các phương pháp dân gian vì thế bệnh không khỏi. Khi gặp người đang lên cơn động kinh, 62% đồng ý đặt vật cứng vào miệng để ngăn họ cắn lưỡi, việc làm này dễ gây tổn thương cho bệnh nhân. Đáng lưu ý, 77,4% tiếp thu được cách xử trí trên từ kinh nghiệm truyền miệng, chứng tỏ kiến thức sai lệch về cách xử trí này đã được truyền bá rộng rãi trong cộng đồng, 11,1% người dân tiếp thu được cách xử trí này là từ sách báo, truyền hình, một kênh thông tin quan trọng và hiệu quả. Vẫn có 4,8% nhân viên y tế hướng dẫn người dân phương pháp này. Những người trẻ tuổi chọn cách xử trí này cao hơn người lớn tuổi (X2, p< 0,05). Gần một phần ba người dân phản đối người bệnh động kinh kết hôn và và sinh con, thái độ tiêu cực này có khuynh hướng liên quan với quan niệm rất phổ biến đã ngấm sâu trong cộng đồng Việt Nam như đã đề cập ở trên, bệnh động kinh là do di truyền và bệnh động kinh thì không điều trị khỏi được. Chỉ 7,8% đối tượng phản đối con mình tiếp xúc với trẻ động kinh, 18,1% ý kiến yêu cầu cần phải có người giám sát khi trẻ chơi với nhau vì lo lắng con mình có thể bị tổn thương khi trẻ bệnh lên cơn động kinh, đây một trong những quan niệm sai lệch cần lưu ý trong chương trình giáo dục sức khỏe cộng đồng về động kinh. Có đến 43,2% người dân phản đối người thân trong gia đình kết hôn với người động kinh. Kiến thức về nguyên nhân động kinh do di truyền ảnh hưởng sâu sắc đến thái độ phản đối người thân trong gia đình kết hôn với người bệnh động kinh, người dân lo ngại người bệnh động kinh có khả năng sinh ra những đứa trẻ bệnh động kinh, mặt khác cho rằng người bệnh động kinh không có khả năng đảm đương được vấn đề kinh tế gia đình như người không bệnh, tỷ lệ nữ phản đối cao hơn so với nam (X2, p< 0,05). Tương tự, tỷ lệ nữ phản đối người thân trong gia đình kết hôn với người động kinh ở Ba Vì và Nhân Chính cũng cao hơn so với nam.Thái độ hạn chế đối với những vấn đề xã hội thường gặp ở nữ hơn nam, có thể do ở Việt Nam người nữ thường làm công việc nội trợ, ít có điều kiện tiếp xúc bên ngoài, ít tiếp thu thông tin nên kiến thức về xã hội thấp hơn nam Khi đề cập đến vấn đề chia sẻ thông tin với cộng đồng về bệnh động kinh, 14,6% đối tượng không muốn thông báo với người khác nếu gia Chuyên Đề Nhi Khoa 7 đình có người bệnh động kinh vì họ cảm thấy xấu hổ (9,8%) và sợ bị phân biệt đối xử (24,6%). Thái độ này cho thấy, mặc dù y học đã chứng minh cơn động kinh xuất hiện do sự rối loạn chức năng não đột ngột, nhất thời nhưng sự sợ hãi và thiếu hiểu biết về bệnh động kinh dẫn đến thái độ giấu diếm thông tin với cộng đồng. Bên cạnh đó, xã hội có khuynh hướng kết tội người bệnh động kinh là do lối sống thiếu đạo đức của gia đình. Thái độ xem người động kinh là người tàn tật, không có khả năng làm việc càng đẩy người bệnh xa rời cộng đồng, đáng tiếc quan niệm này khá phổ biến trong cộng đồng Việt Nam. Theo Lê Quang Cường 41% cho rằng người bệnh động kinh không nên làm việc, còn theo Nguyễn Anh Tuấn 67% nghĩ người bệnh động kinh không có khả năng làm việc. Kết quả của chúng tôi cho thấy người dân các quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh có thái độ tích cực hơn về việc làm của người bệnh động kinh, 16,9% ý kiến cho rằng người bệnh động kinh không nên làm việc. Người có học vấn trên trung học có thái độ tích cực hơn so với người học vấn thấp (X2, p< 0,05). Kế đến, 35,6% sẽ cho người động kinh nghỉ việc nếu họ lên cơn động kinh trong lúc đang làm việc mà không khai báo trước về tình trạng bệnh của mình. Thái độ trên cho thấy người bệnh động kinh vẫn chưa nhận được sự thông cảm, chia sẻ của xã hội. Có 9,5% nghĩ động kinh là một dạng bệnh tâm thần. Tại Việt Nam, người bệnh động kinh được theo dõi, quản lý bởi những đơn vị chuyên khoa tâm thần, được điều trị bởi các bác sỹ chuyên về tâm thần học, vì vậy người dân thường xem bệnh động kinh như một dạng bệnh tâm thần. Phương tiện truyền thông là một trong những kênh cung cấp thông tin quan trọng, hiệu quả, tuy nhiên chỉ 10% người dân có ý định nhận được thông tin về bệnh động kinh từ đây, và 11,3% không biết phải tìm hiểu ở đâu, chứng tỏ vai trò của kênh thông tin này còn hạn chế rất nhiều. Nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy tỷ lệ người dân các quận trung tâm thành phố Hồ Chí Minh - Việt Nam biết đến bệnh động kinh khá cao, tuy nhiên kiến thức của cộng đồng về căn bệnh này còn nhiều hạn chế, chính điều đó đã dẫn đến những quan niệm sai lệch, tình trạng phân biệt đối xử với người bệnh động kinh. Những chương trình giáo dục sức khỏe cộng đồng về bệnh động kinh nên được tiến hành thường xuyên hơn nhằm cung cấp kiến thức cho người dân, đồng thời xóa dần những thái độ chưa đúng của cộng đồng đối với người bệnh, đưa người bệnh trở lại hòa nhập cộng đồng, nâng cao hiệu quả điều trị. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bener A (1998), “Public awareness and attitudes toward epilepsy in the United Arab Emirates”, Seizure, Vol 7,pp 219- 222. 2. Chung MY (1995), “Survey of Public awareness, understanding, and attitudes toward epilepsy in Taiwan”, Epilepsia, Vol 36 Issue 5, pp 488- 493. 3. Diamantopoulos N et al (2006), “A survey of public awareness, understanding, and attitudes toward epilepsy in Greece”, Epilepsia,Vol 47 Issue 12, pp 2154- 2164, Blackwell Publishing, Inc. 4. Fong GCY (2002), “Public awareness, attitudes, and understanding of epilepsy in Hong Kong special administrative region, China”, Epilepsia, Vol 43, Issue 3, pp 311- 316. 5. Hills MD and Mackenzie HC (2002), “New Zealand community attitudes toward people with epilepsy”, Epilepsia, Vol 43 Issue 12, pp 1583-1589. 6. Kwon SC et al (2004), “Familiarity with, knowledge of, and attitudes toward epilepsy in resident of Seoul,South Korea”, Acta Neurol Scand,Vol 110, pp 39-45. 7. Le QC et al (2006), “Survey of public awareness, attitudes, and understanding toward epilepsy in Nhan Chinh, Hanoi, Vietnam, in 2003”, Epilepsy & Behavior, Vol 8 (2006), pp 176- 180. 8. Mirnics Z et al (2001), “Changes in public attitudes toward epilepsy in Hunggary: Results of surveys conducted in 1994 and 2000”, Epilepsia Vol 42, Issue 1, pp 86- 93. 9. Nguyen AT (2007), “Knowledge attitudes and practice toward epilepsy among adults in Ba Vi, Vietnam: First report from the Population-Based EpiBavi study”, Epilepsia pp1-6, Blacwell Publishing, Inc. 10. Novotná I and Rektor I (2002), “The trend in public attitudes in the Czech Republic towards persons with epilepsy”, European Journal of Neurology, Vol 9, pp 535- 540. 11. Radhakrishnan K et al (2000), “Prevalence, knowledge, attitude, and practice of epilepsy in Kerela, South India”, Epilepsia, Vol 41, Issue 8, pp 1027- 1035. Chuyên Đề Nhi Khoa 8 Chuyên Đề Nhi Khoa 9

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkien_thuc_va_thai_do_cua_nguoi_dan_cac_quan_trung_tam_thanh.pdf
Tài liệu liên quan