Kiến thức và thái độ về thuốc viên tránh thai khẩn cấp ở phụ nữ đến phá thai tại trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Tây Ninh

Chúng tôi ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức đúng về TVTTKC với nghề nghiệp. Người có nghề nghiệp là viên chức có kiến thức đúng về TVTTKC cao gấp 9,6 lần người nội trợ. Không có mối liên quan giữa kiến thức đúng về TVTTKC với trình độ học vấn, địa chỉ, dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, tiền sử phá thai, việc có áp dụng BPTT, loại BPTT đang áp dụng và số con hiện có. Từ đó trong công tác KHHGĐ nên quan tâm đối tượng là những người nội trợ, đây cũng là những người chiếm phần lớn trong nghiên cứu. Những người nội trợ thường chỉ quanh quẩn ở nhà, ít được tiếp xúc với các thông tin về KHHGĐ, do đó đối với đối tượng này vai trò của các cộng tác viên dân số rất quan trọng. Cộng tác viên sẽ là người trung gian truyền tải những kiến thức về TVTTKC mà chúng ta cần phổ biến đến đối tượng này vì thế nên thường xuyên tổ chức những lớp tập huấn về TVTTKC cho các cộng tác viên dân số. Chúng tôi ghi nhận có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thái độ đúng và trình độ học vấn và số con hiện có. Người có trình độ học vấn từ cấp 3 trở lên có thái độ đúng về TVTTKC gấp 7,9 lần người có trình độ từ cấp 2 trở xuống. Thái độ đúng thường sẽ dẫn đến hành vi đúng. Các đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi đa số có trình độ học vấn thấp, điều này có thể sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức đúng khi truyền đạt thông tin về TVTTKC. Họ sẽ ít quan tâm, khó tiếp nhận thông tin từ các tư vấn viên. Điều này sẽ mất nhiều thời gian và công sức hơn so với tư vấn cho một người có trình độ học vấn cao hơn. Phụ nữ có từ 2 con trở lên có thái độ đúng giảm 54% so với người có từ 1 con trở xuống. Ngày nay, mỗi gia đình thường chỉ có từ 1 đến 2 con nên người phụ nữ đã đủ con là những người có nhu cầu rất lớn được tư vấn những BPTT hiệu quả cao cũng như cách áp dụng đúng để đạt được hiệu quả cao nhất. Đa số những người phụ nữ này trong độ tuổi 30‐39, ít biết về TVTTKC. Vì vậy ngoài tư vấn các BPTT có hiệu quả, cách áp dụng đúng các BPTT này thì việc phổ biến TVTTKC để hỗ trợ khi BPTT sử dụng hằng ngày bị thất bại là điều hết sức cần thiết.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 25/01/2022 | Lượt xem: 194 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức và thái độ về thuốc viên tránh thai khẩn cấp ở phụ nữ đến phá thai tại trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Tây Ninh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 20 KIẾN THỨC VÀ THÁI ĐỘ VỀ THUỐC VIÊN TRÁNH THAI KHẨN CẤP   Ở PHỤ NỮ ĐẾN PHÁ THAI TẠI TRUNG TÂM CHĂM SÓC SỨC KHỎE  SINH SẢN TỈNH TÂY NINH  Lê Hồng Cẩm*, Nguyễn Thị Kim Anh**, Nguyễn Lê Điền**, Ngô Thị Tuyến Tân***,   Lê Thị Ánh Nguyệt***, Hà Thị Ngọc Thạnh***, Đoàn Giang Bảo Ngọc***  TÓM TẮT  Mở đầu: Thuốc viên tránh thai khẩn cấp (TVTTKC) sẽ là một giải pháp tình thế tránh mang thai ngoài  ý muốn  trong những  trường hợp giao hợp không  được bảo vệ hoặc  thất bại với các biện pháp  tránh  thai  (BPTT) hằng ngày đang sử dụng.  Mục tiêu:Xác định tỉ lệ phụ nữ đến phá thai có kiến thức đúng, thái độ đúng về viên Postinor‐2 tại Trung  tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Tây Ninh.  Phương  pháp:  Nghiên  cứu  cắt  ngang  được  thực  hiện  tại  Trung  tâm  Chăm  sóc  sức  khỏe  sinh  sản  (TTCSSKSS) Tây Ninh từ 4/2013 đến tháng 6/2013. Chọn mẫu thuận tiện. Tác giả và 4 nữ hộ sinh đã đượctập  huấn phỏng vấn 310 phụ nữ đến phá thai theo bộ câu hỏi soạn sẵn.  Kết  quả:  Trong  thời  gian  nghiên  cứu  phỏng  vấn  được  340  thai  phụ,  41%  phụ  nữ  có  nghe  nói  về  TVTTKC.Kiến thức đúng về TVTTKC: 5% (KTC 95% 2,7‐7,3). Thái độ đúng về TVTTKC: 20,6% (KTC 95%  16,3‐24,9). Kiến thức đúng về TVTTKC có liên quan đến nghề nghiệp (p< 0,05). Có sự khác biệt ý nghĩa thống  kê giữa thái độ đúng về TVTTKC với trình độ học vấn và số con hiện có (p< 0,05).  Kết luận: Kiến thức, thái độ về TVTTKC rất thấp trong số những phụ nữ đến phá thai.   Từ khóa: Thuốc viên tránh thai khẩn cấp, kiến thức, thái độ.  ABSRACT  KNOWLEDGE AND ATTITUDES ABOUT EMERGENCY CONTRACEPTION PILL IN WOMEN  CAME FOR ABORTION IN TÂY NINH REPRODUCTIVE HEATH CARE CENTER  Lê Hong Cam, Nguyen Thi Kim Anh, Nguyen Le Dien, Ngo Thi Tuyen Tan, Le Thi Anh Nguyet,   Ha Thi Ngoc Thanh, Doan Giang Bao Ngoc   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 20 ‐ 27  Background: Emergency contraception (EC) or the morning‐after pill is a way to prevent pregnancy after  unprotected intercourse.  Objective: To assess knowledge, attitudes about emergency contraception (EC) under the label Postinor‐2  among women of childbearing age in Tây Ninh reproductive heath care center.  Methods:A cross‐sectional study was conducted at Tây Ninh reproductive health care center  from April  2013 to June 2013. Select convenience samples. Author and trained midwives interview face to face 310 women  came for termination of pregnancy from 15‐49 years old with written questionnaire.   Result: The  study  comprise 340  females and median age was 29.2± 7.1 years. 41% had heard  the  term  * Bộ môn Phụ Sản Đại học Y Dược TP HCM  ** Bệnh viện đa khoa Tây Ninh   *** Trung tâm chăm sóc sức khỏe tỉnh Tây Ninh  Tác giả liên lạc. PGS. TS. Lê Hồng Cẩm  ĐT: 0913 645517  Email: lehongcam61@yahoo.com   Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 21 “emergency  contraception”. Right knowledge  is 5%  (95% CI 2.7‐7.3) and  true attitudes about EC  is 20.6%  (95%  CI  16.3‐24.9).  Knowledge  of  EC  is  dependently  associated  with  occupation  (p  <  0.05).  There  were  significant differences between attitudes of EC and education, number of children (p < 0.05).   Conclusion: Knowledge, attitudes about EC is low among pregnant females coming for induced abortion.   Keywords: Emergency contraception, knowledge, attitudes.  ĐẶT VẤN ĐỀ  Hiện  nay  có  nhiều  biện  pháp  tránh  thai  (BPTT) hiện đại, tuy nhiên không có một BPTT  nào có hiệu quả 100% và cũng không phải người  phụ nữ nào cũng sử dụng đúng cách. Năm 2011,  tỉ  lệ  các  cặp  vợ  chồng  áp  dụng  các  BPTT  cao  (78% trong đó BPTT hiện đại gần 69%) nhưng tỉ  lệ thất bại cũng nhiều (gần nửa các trường hợp  phá thai cho biết có sử dụng BPTT vào thời điểm  trước khi có thai(7). Những trường hợp không áp  dụng đúng cách hay thất bại với BPTT đang sử  dụng  như  thủng,  tuột  bao  cao  su,  quên  uống  thuốc  viên  tránh  thai  hằng  ngày  và  uống  bù  không  đúng  cách,  rơi dụng  cụ  tử  cung hoặc  giao hợp không được bảo vệ thì thuốc viên tránh  thai  khẩn  cấp  (TVTTKC)  sẽ  là một  biện  pháp  cứu cánh tương đối an toàn và hiệu quả để tránh  mang thai ngoài ý muốn.   Tây Ninh là một tỉnh nằm sát biên giới Tây  Nam‐  Việt  Nam,  thuộc  miền  Đông  Nam  Bộ.  Tình hình nạo phá  thai  trong những năm  qua  không giảm(13). Đề tài nghiên cứu “Kiến thức và  thái độ về thuốc viên tránh thai khẩn cấp ở phụ  nữ  đến  phá  thai  tại  Trung  tâm  chăm  sóc  sức  khỏe sinh sản tỉnh Tây Ninh” với hy vọng trong  tương lai ngành y tế của tỉnh sẽ có những chiến  lược cụ thể giúp nâng cao kiến thức về tránh thai  khẩn cấp  để phụ nữ  trong  độ  tuổi  sinh  sản  có  thể dùng trong những trường hợp cần thiết, làm  giảm nguy cơ mang thai ngoài ý muốn, giảm tỉ  lệ phá thai.   Mục tiêu nghiên cứu  Mục tiêu chính  Xác định  tỉ  lệ phụ nữ đến phá  thai có kiến  thức  đúng,  thái  độ đúng về viên Postinor‐2  tại  TTCSSKSS Tây Ninh  Mục tiêu phụ  Xác  định  các  yếu  tố  liên  quan  (tuổi,  nghề  nghiệp, trình độ học vấn, tôn giáo, tình trạng hôn  nhân, số con, BPTT tiền sử phá thai) đến kiến thức  đúng, thái độ đúng về viên Postinor‐2 của phụ nữ  đến phá thai tại TTCSSKSS Tây Ninh.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Thiết kế nghiên cứu  Nghiên cứu cắt ngang.  Đối tượng nghiên cứu  Dân số mục tiêu  Tất cả phụ nữ có quan hệ tình dục trong lứa  tuổi sinh sản từ 15‐49 tuổi tại tỉnh Tây Ninh.  Dân số nghiên cứu  Tất  cả  phụ  nữ  đến  phá  thai  tại TTCSSKSS  tỉnh Tây Ninh.  Dân số chọn mẫu  Tất  cả  phụ  nữ  đến  phá  thai  tại TTCSSKSS  tỉnh Tây Ninh từ tháng 4/2013 đến tháng 6/2013  đủ tiêu chuẩn nhận vào nghiên cứu.  Tiêu chuẩn chọn mẫu  Tiêu  chuẩn  nhận  vào  nghiên  cứu  thỏa  các  điều  kiện sau  ‐ Các phụ nữ đến phá thai.  ‐ Đồng ý tham gia nghiên cứu.  Tiêu chuẩn loại trừ  ‐ Thai lưu, thai bệnh lý.  ‐ Có bệnh  lý bất  thường về  tâm  thần,  thần  kinh, câm điếc.  ‐ Phiếu trả lời không hợp lệ.  Cỡ mẫu  Cỡ mẫu được  tính  theo công  thức ước  tính  một tỉ lệ trong quần thể:  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 22 2 2 2/1 )1( d PPZ n   n: cỡ mẫu.  Z: trị số phân phối chuẩn.   :  sai lầm loại 1,  = 0,05.  d: độ chính xác tuyệt đối, d = 0,05.   Với P = 0,24 (tham khảo tác giả Trần Thị Thu  Tuyết). Cỡ mẫu  cần  là  280 người. Dự  trù  10%  phụ  nữ  từ  chối  tham  gia  nghiên  cứu. Vậy  cỡ  mẫu cần nghiên cứu là 308 người.   Phương pháp chọn mẫu  Tất cả phụ nữ thỏa tiêu chí chọn mẫu từ thứ  hai  đến  thứ  sáu mỗi  tuần  cho  đến  khi  đủ  số  lượng cỡ mẫu và đồng ý tham gia nghiên cứu.  Phương pháp thu thập số liệu  Địa điểm  Phòng  tư  vấn  của  khoa  kế  hoạch  hóa  gia  đình  (KHHGĐ)  tại  TTCSSKSS  tỉnh  Tây Ninh,  trong khi chờ đợi kết quả xét nghiệm, siêu âm để  tiến hành thủ thuật hay chờ uống thuốc phá thai  nội khoa.  Cách tiến hành  ‐  Bệnh  nhân  sẽ  được  giải  thích  mục  tiêu  nghiên cứu và ký vào bảng đồng thuận tham gia  nghiên cứu.   ‐  Tác  giả  tập  huấn  cho  4  nữ  hộ  sinh  của  TTCSSKSS cách thực hiện phỏng vấn, các nữ hộ  sinh sẽ tiến hành phỏng vấn theo phương pháp  mặt đối mặt theo bộ câu hỏi soạn sẵn.  ‐ Người nghiên cứu sẽ  thu  thập  lại bộ câu  hỏi  đã  được  các nữ hộ  sinh phỏng vấn  trong  một  tuần vào ngày kiểm  tra, giám  sát  các nữ  hộ sinh.  Công cụ thu thập số liệu  Bộ câu hỏi  thu  thập số  liệu được xây dựng  dựa vào tham khảo tác giả trong nước và ngoài  nước: tài liệu tham khảo (TLTK) số 4, 13, 15.  Xử lý số liệu  Nhập  số  liệu bằng phần mềm EpiData  3.1.  Sau đó số  liệu sẽ được xử  lý và phân tích bằng  phần mềm Stata 12.0. Phân  tích gồm hai bước,  đầu  tiên mô  tả  và phân  tích  đơn  biến,  bước  2  dùng mô hình hồi quy đa biến nhằm kiểm soát  yếu  tố  gây  nhiễu  để  tính  PR  cho  các  biến  số.  Tính toán thống kê với độ tin cậy 95%.  KẾT QUẢ  Chúng  tôi  thực  hiện  phỏng  vấn  được  340  trường hợp  thỏa  tiêu  chí  chọn mẫu và  đồng ý  tham gia nghiên cứu.  Đặc điểm đối tượng nghiên cứu  Bảng 1: Những đặc điểm về dân số‐ văn hóa‐ xã hội  của mẫu nghiên cứu   Đặc điểm Tần số(n=340) Tỉ lệ (%) Nhóm tuổi 15-19 31 9,1 20-29 155 45,6 30-39 124 36,5 ≥ 40 30 8,8 Trình độ học vấn ≤ Cấp 1 91 26,8 Cấp 2 144 42,4 Cấp 3 60 17,7 ≥ Cấp 3 45 13,2 Nghề nghiệp Nội trợ 125 36,8 Công nhân 65 19,1 Làm nông 47 13,8 Buôn bán 38 11,2 Viên chức 32 9,4 Khác 34 9,7 Địa chỉ Thị xã 90 26,5 Huyện 250 73,5 Tôn giáo Cao Đài 118 34,7 Phật giáo 60 17,7 Thiên Chúa giáo 27 7,9 Đạo Hồi 2 0,6 Đạo Tin Lành 1 0,3 Không tôn giáo 132 38,8 Dân tộc Kinh 334 98,2 Khác 6 1,8 Đa  số  phụ  nữ  đến  phá  thai  tại  TTCSSKSS  Tây Ninh  có  độ  tuổi  trung  bình  là  29,2  ±  7,1.  Phần đông phụ nữ có trình độ văn hóa từ cấp 2  trở xuống. Nghề nghiệp đa phần nội trợ. Người  Kinh  chiếm  số  đông và  chủ yếu không  có  tôn  giáo hoặc theo đạo Cao Đài.   Tình  trạng hôn nhân chủ yếu  là đang sống  chung với chồng. Đa số phụ nữ có từ 1‐2 con và  chưa phá thai lần nào. Hơn một nửa phụ nữ có  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 23 áp  dụng  BPTT,  trong  đó  biện  pháp  xuất  tinh  ngoài âm đạo được áp dụng nhiều nhất.   Bảng 2: Tiền căn sản phụ khoa  Đặc điểm Tần số (n=340) Tỉ lệ (%) Tình trạng hôn nhân Đang sống chung với chồng 254 74,7 Chồng ở xa thỉnh thoảng mới về 42 12,4 Chưa kết hôn 26 7,7 Ly thân/Ly dị/Goá 18 5,3 Số con Chưa con 63 18,5 1 con 105 30,9 2 con 140 41,2 ≥ 3 con 32 9,4 Số lần phá thai trước đây Không 224 65,9 1 lần 85 25,0 2 lần 27 7,9 ≥ 3 lần 4 1,2 Áp dụng BPTT Có 182 53,5 Không 158 46,5 Nếu có, BPTT đang áp dụng (n=182) Uống thuốc tránh thai phối hợp 32 17,6 Uống viên tránh thai khẩn cấp 18 9,8 Bao cao su 20 11,0 Tránh ngày phóng noãn 27 14,8 Xuất tinh ngoài âm đạo 78 42,9 Dụng cụ tử cung 5 2,8 Khác (DMPA) 2 1,1 Trong số 340 khách hàng đến TTCSSKSS Tây  Ninh có 182 người áp dụng BPTT, trong đó 9,8%  khách  hàng  có  dùng  TVTTKC  nhưng  vẫn  có  thai.  Bảng 3: Kiến thức về TVTTKC  Đặc điểm Tần số Tỉ lệ (%) Có nghe nói về TVTTKC Có nghe nói 139 40,9 Không nghe nói 201 59,1 Kiến thức về TVTTKC Đúng 17 5 Chưa đúng 323 95 Kiến thức đúng về TVTTKC của những người có nghe nói về TVTTKC Đúng 17 12,2 Chưa đúng 122 87,8 Nhận xét:  ‐  Kiến  thức  đúng  về  TVTTKC  của  những  phụ nữ đến phá thai tại TTCSSKSS Tây Ninh là  5% (KTC 95%: 2,7‐7,3).  ‐ Kiến thức đúng về TVTTKC của phụ nữ nghe  nóivề TVTTKC là 12,2% (KTC 95%: 6,7‐17,7).  Bảng 4: Kiến thức từng phần của ngườicó nghe nói  về TVTTKC  Đặc điểm Tần số (n=139) Tỉ lệ (%) Thời gian tối đa cho phép dùng TVTTKC Đúng 64 46,0 Chưa đúng 75 54,0 Theo chị tổng số viên thuốc phải sử dụng là Đúng 71 51,1 Chưa đúng 68 48,9 Nếu uống 2 viên, thì viên thứ hai cách viên thứ nhất bao nhiêu lâu Đúng 43 30,9 Chưa đúng 96 69,1 Chị được dùng TVTTKC tối đa mấy lần trong tháng Đúng 45 32,4 Chưa đúng 94 67,6 Trong 2 giờ đầu nếu nôn ói, bạn có uống liều lập lại không Đúng 32 23,0 Chưa đúng 107 77,0 Hiệu quả của TVTTKC ngăn ngừa có thai Đún 37 26,6 Chưa đúng 102 73,4 TVTTKC có phòng ngừa bệnh lây qua đường tình dục không Đúng 86 61,9 Chưa đúng 53 38,1 TVTTKC nếu thất bại có gây dị tật thai nhi không Đúng 16 11,5 Chưa đúng 123 88,5 Trong  số  những  phụ  nữ  có  nghe  nói  về  TVTTKC có 46% người  trả  lời đúng  thời gian  tối  đa  cho phép dùng TVTTKC;  51,1%  người  trả lời đúng uống 2 viên. Có đến 69,1% phụ nữ  trả lời chưa đúng về khoảng thời gian uống hai  viên thuốc và gần 68% người trả lời chưa đúng  số lần uống TVTTKC trong một tháng. Về cách  xử  trí khi bị nôn  ói  trong  vòng  2h  đầu uống  thuốc  thì  có khoảng 77% phụ nữ  trả  lời  chưa  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 24 đúng. 26,6% người  trả  lời  đúng hiệu quả  của  TVTTKC. Đa số phụ nữ trả  lời đúng TVTTKC  không  thể  phòng  ngừa  các  bệnh  lây  qua  đường tình dục chiếm 61,9%. Số  ít phụ nữ trả  lời đúng khi TVTTKC thất bại sẽ không gây dị  tật cho thai nhi chiếm 11,5%.  Thái độ về TVTTKC  Thái độ đúng về TVTTKC của các đối tượng  đến phá thai là 20,6% (KTC 95%: 16,3‐24,9), thái  độ chưa đúng là 79,4% (KTC 95%: 75,1‐83,7).   Nhận xét:   Số  phụ  nữ  đồng  ý  dùng  TVTTKC  trong  tương  lai khi cần chiếm 58,2%. Ít người đồng ý  thuốc an toàn và hiệu quả chiếm tỉ lệ 25,9%. Có  đến  48,5%  phụ  nữcho  rằng  TVTTKC  là  BPTT  thường xuyên. 83,5% phụ nữ không thấy mắc cỡ  khi mua  TVTTKC.  65,6%  phụ  nữđồng  ý  giới  thiệu TVTTKC cho bạn bè.  Bảng 5: Thái độ từng phầnvề TVTTKC  Đặc điểm Tần số (n=340) Tỉ lệ (%) Chị có đồng ý: dùng TVTTKC trong tương lai khi cần Đúng 198 58,2 Chưa đúng 142 41,8 Chị có đồng ý:TVTTKC an toàn, và hiệu quả Đúng 88 25,9 Chưa đúng 252 74,1 Chị có đồng ý: TVTTKC là BPTT thường xuyên Đúng 175 51,5 Chưa đúng 165 48,5 Chị có cảm thấy mắc cỡ hoặc có tội khi dùng TVTTKC Đúng 284 83,5 Chưa đúng 56 16,5 Chị có giới thiệu TVTTKC cho bạn bè không Đúng 223 65,6 Chưa đúng 117 34,4 Mối liên quan giữa kiến thức của các đối tượng nghiên cứu với các đặc điểm dân số xã hội  Bảng 6: Phân tích đa biến mối liên quan giữa kiến thức về TVTTKC với các đặc điểm dân số xã hội   Đặc điểm Kiến thức chưa đúng (n=323) Kiến thức đúng (n=17) PR* KTC 95% P * Trình độ học vấn ≤ Cấp 1- Cấp 2 235(100) 0 (0) Ref ≥ Cấp 3 88(83,8) 17(16,2) 1 Nghề nghiệp Nội trợ 123(98,4) 2 (1,6) Ref Công nhân 63(96,9) 2 (3,1) 1,5 0,18-12,36 0,708 Viên chức 21(65,6) 11(34,4) 9,56 1,76-51,98 0,009 Khác 116(98,3) 2 (1,7) 1,32 0,16-10,71 0,797 Tôn giáo Đạo Phật 58 (96,7) 2 (3,3) Ref Đạo Cao Đài 116 (98,3) 2 (1,7) 0,4 0,04-3,88 0,426 Đạo khác 30 (100) 0 (0) 1 Không tôn giáo 119 (90,2) 13 (9,8) 1,64 0,27-9,96 0,588 Số con ≤ 1 con 154 (91,7) 14 (8,3) Ref ≥ 2 con 169 (98,3) 3 (1,7) 0,25 0,06-1,07 0,061 (*) Hồi qui logistic với PR hiệu chỉnh  Người có nghề nghiệp  là viên chức có kiến  thức đúng về TVTTKC cao gấp 9,6 lần người nội  trợ, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p <  0,05.  Không  có mối  liên  quan  giữa  kiến  thức  đúng về TVTTKC với trình độ học vấn, tôn giáo  và số con hiện có, với p > 0,05.  Mối  liên  quan  giữa  thái  độ  của  các  đối  tượng nghiên cứu với các đặc điểm dân số  xã hội  Có mối liên quan giữa trình độ học vấn và số  con hiện có với thái độ đúng về TVTTKC với p <  0,05. Không có mối liên quan giữa thái độ đúng  về  TVTTKC  với  nghề  nghiệp,  số  lần  phá  thai  trước đây, với p > 0,05.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 25 Bảng 7: Phân tích đa biến mối liên quan giữa thái độ về TVTTKC với các đặc điểm dân số xã hội  Đặc điểm Thái độ chưa đúng (n=270) Thái độ đúng (n=70) PR* KTC 95% P * Trình độ học vấn ≤ Cấp 1- Cấp 2 215(91,5) 20 (8,5) Ref ≥ Cấp 3 55 (52,4) 50(47,6) 7,88 3,98-15,61 0,001 Nghề nghiệp Nội trợ 104(83,2) 21(16,8) Ref Công nhân 5(89,2) 7(10,8) 0,45 0,17-1,22 0,115 Viên chức 13 (40,6) 19(59,4) 2,06 0,79-5,32 0,136 Khác 95 (80,5) 3(19,5) 1,53 0,73-3,2 0,255 Số con ≤ 1 con 120(71,4) 48(28,6) Ref ≥ 2 con 150(87,2) 22(12,8) 0,46 0,24-0,87 0,018 Số lần phá thai trước đây ≤ 1 lần 241 (78) 68 (22) Ref ≥ 2 lần 29(93,5) 2 (6,5) 0,61 0,12-2,98 0,539 (*) Hồi qui logistic với PR hiệu chỉnh  BÀN LUẬN  Đa  số  các  đối  tượng  có  độ  tuổi  từ  20‐29,  phá thai lần đầu, phần lớn có 2 con và chủ yếu  áp dụng BPTT  truyền  thống. Những  phụ  nữ  này khi  sanh  đủ  2  con  thì không muốn  sanh  thêm nữa nhưng lại áp dụng BPTT không hiệu  quả. Kết cuộc  là có  thai ngoài ý muốn nên đi  phá thai.   Tỉ  lệ phụ nữ có nghe nóivề TVTTKC  trong  nghiên cứu của chúng tôi  là 41%. Tỉ  lệ này gần  với  kết  quả  của  tác  giả  Nguyễn  Hoàng  Lam  (41,9%)(8)  thấp hơn  tác giả Trần Thị Thu Tuyết  (48,1%)(12), Đặng Minh Đức (46,8%)(2) và SN Obi  (51%)(10). So với tác giả Đỗ Anh Thư (11,1%)(3) thì  tỉ  lệ của chúng  tôi cao hơn nhiều. Sự khác biệt  này  có  thể  do  địa  bàn  nghiên  cứu.  Tác  giả  nghiên cứu  trên huyện Ninh Hòa  ‐Khánh Hòa,  một huyện có người dân sống chủ yếu ở nông  thôn (66,5%), miền biển (16,9%) và miền núi nên  có thể ít được tiếp cận với nhiều thông tin về các  BPTT hơn vùng đồng bằng, thành thị. Tuy tỉ  lệ  có nghe nói về TVTTKC 41% nhưng khi khảo sát  về  kiến  thức  thì  kiến  thức  đúng  của  những  người  này  chỉ  có  12,2%.  Kiến  thức  đúng  về  TVTTKC  ở  nhóm  phụ  nữ  có  nghe  nói  về  TVTTKC  tốt hơn dân số chung  (5%),  tuy nhiên  sự hiểu biết về  cách dùng  thuốc, hiệu quả  của  thuốc chưa cao. Ngoài ra, trong nghiên cứu của  chúng  tôi  có  18 phụ nữ uống TVTTKC nhưng  vẫn  co  thai ngoài ý muốn. TVTTKC  được bán  rộng  rãi  nhưng  có  lẽ  những  người  cung  cấp  thuốc  không  truyền  đạt  tốt  thông  tin  về  TVTTKC. Nên chăng  tổ chức  lớp  tập huấn cho  các  tư  vấn  viên,  cộng  tác  viên,  những  người  cung cấp TVTTKC về những vấn đề này.   Nghiên cứu của chúng  tôi ghi nhận  trong  số  những  người  nghe  nói  về  TVTTKC  có  46  người cho là TVTTKC nên sử dụng trong vòng  24 giờ chiếm 33,1%; 64 người cho là thuốc nên  sử dụng trong vòng 72 giờ chiếm 46%, còn lại  là trả lời không biết. Nếu tính luôn nhóm phụ  nữ cho rằng TVTTKC có hiệu quả trong 24 giờ  sau giao hợp thì số phụ nữ có kiến thức đúng  về  thời  gian  TVTTKC  còn  hiệu  quả  là  79%.  Đây là điều đáng mừng chứng tỏ những người  phụ nữ này biết TVTTKC  sẽ có  tác dụng nếu  uống càng sớm càng tốt.   Tác giả Đặng Minh Đức nghiên cứu trên đối  tượng sinh viên tại các trường đại học thành phố  Cần Thơ, trên sinh viên nữ và cả sinh viên nam,  sinh viên nam sẽ không quan tâm và biết nhiều  về TVTTKC bằng nữ. Tỉ  lệ này gần với  tác giả  Nguyễn Thị Phương Dung(9), Faraha  Irfan(5)  và  thấp hơn tác giả Preeti Yadav(16).  Đa số phụ nữ đã có kiến thức đúng về thời  gian của TVTTKC cũng như tổng số viên thuốc  phải sử dụng. Tuy nhiên nếu không dùng đúng  khoảng cách sử dụng 2 viên  thuốc  thì  thuốc sẽ  không có hiệu quả. Do  đó  sẽ  tư vấn nên uống  một lần cả 2 viên đối với Postinor‐2(1). Hiện nay  trên  thị  trường  có  loại  TVTTKC  thành  phần  1,5mg  levonorgestrel  dùng  1  lần  dưới  tên  Escapella và mới đây là Postinor‐1, hiệu quả như  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 26 loại dùng 2 lần và rất tiện dụng, không cần phải  nhớ  thời  gian  dùng  viên  thứ  hai.  Để  dễ  ghi  nhớnên chăng sẽ phổ biến những loại TVTTKC  chỉ dùng 1 lần này tại những nơi cung cấp, giới  thiệu thuốc cho các đối tượng.  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  và  các  tác  giả  Nguyễn  Thị  Phương  Dung  (2004),  Vũ  Tuyết  Ánh Sao (2007)(14), Đặng Minh Đức (2012) có kết  quả tương đồng nhau vềkiến thức về “số lần sử  dụng  TVTTKC/tháng”  cho  thấy  phần  lớn  phụ  nữ rất mơ hồ, không biết rõ số lần nên sử dụng  trong một  tháng. Nếu  các  đối  tượng không  rõ  dùng bao nhiêu  lần  trong một  tháng  thì sẽ  tùy  tiện hay dễ dàng lạm dụng dùng TVTTKC. Đây  là điều không  tốt,  tuy TVTTKC có  thể sử dụng  nhiều hơn 1  lần  trong một chu kỳ  (khuyến cáo  mức  độ  C)(6)  nhưng  nếu  dùng  nhiều  lần  TVTTKC trong một chu kỳ thì khả năng thất bại  sẽ cao hơn so với dùng BPTT khác không phải là  tránh thai khẩn cấp(15), ngoài ra sử dụng thường  xuyên TVTTKC có thể gây rối loạn chu kỳ kinh  nguyệt(11,4). Do đó chỉ nên dùng 2 lần trong một  tháng,  đây  cũng  là một  trong những nội dung  quan trọng cần tư vấn cho các đối tượng.   Đa  số  khách hàng  cho  là Postinor‐2  có  hại  cho sức khỏe của phụ nữ, cho thai nhi từ đó e dè  với TVTTKC, sẽ không dám dùng khi cần do đó  phải  phổ  biến  lại  là  TVTTKC  levonorgestrel  không ảnh hưởng tới thai khi thất bại và người  phụ nữ hoàn  toàn  có  thể yên  tâm  tiếp  tục giữ  thai lại nếu muốn.  Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có 58,2%  đồng ý dùng TVTTKC  trong  tương  lai khi cần.  Đây  là số  liệu đáng mừng. Tuy nhiên giữa thái  độ và hành vi còn một khoảng cách khá xa. Các  phụ  nữ  này  cần  được  hướng  dẫn  cách  uống  thuốc  đúng  để  đảm bảo  đạt hiệu quả  tốt nhất  khi sử dụng  trong những  trường hợp cần  thiết  như lỡ giao hợp không được bảo vệ hoặc sai sót  khi dùng các BPTT tạm thời.   Chúng tôi ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa  thống kê giữa kiến  thức  đúng về TVTTKC với  nghề nghiệp. Người có nghề nghiệp là viên chức  có kiến  thức đúng về TVTTKC cao gấp 9,6  lần  người nội trợ. Không có mối liên quan giữa kiến  thức đúng về TVTTKC với trình độ học vấn, địa  chỉ, dân tộc, tôn giáo, tình trạng hôn nhân, tiền  sử phá  thai,  việc  có  áp dụng BPTT,  loại BPTT  đang  áp dụng và  số  con hiện  có. Từ  đó  trong  công  tác KHHGĐ  nên  quan  tâm  đối  tượng  là  những người nội trợ, đây cũng  là những người  chiếm phần lớn trong nghiên cứu. Những người  nội  trợ  thường  chỉ quanh quẩn  ở nhà,  ít  được  tiếp xúc với các thông tin về KHHGĐ, do đó đối  với đối tượng này vai trò của các cộng tác viên  dân số rất quan trọng. Cộng tác viên sẽ là người  trung  gian  truyền  tải  những  kiến  thức  về  TVTTKC  mà  chúng  ta  cần  phổ  biến  đến  đối  tượng  này  vì  thế  nên  thường  xuyên  tổ  chức  những  lớp  tập huấn về TVTTKC  cho  các  cộng  tác viên dân số.   Chúng  tôi ghi nhận  có mối  liên  quan  có  ý  nghĩa  thống kê giữa  thái  độ  đúng và  trình  độ  học vấn và số con hiện có. Người có trình độ học  vấn từ cấp 3 trở lên có thái độ đúng về TVTTKC  gấp 7,9 lần người có trình độ từ cấp 2 trở xuống.  Thái độ đúng thường sẽ dẫn đến hành vi đúng.  Các  đối  tượng  trong nghiên cứu của chúng  tôi  đa số có trình độ học vấn thấp, điều này có thể  sẽ  ảnh hưởng không nhỏ đến nhận  thức  đúng  khi  truyền  đạt  thông  tin về TVTTKC. Họ  sẽ  ít  quan tâm, khó tiếp nhận thông tin từ các tư vấn  viên. Điều này  sẽ mất nhiều  thời gian và  công  sức hơn so với tư vấn cho một người có trình độ  học vấn cao hơn.  Phụ nữ có từ 2 con trở lên có thái độ đúng  giảm 54% so với người có từ 1 con trở xuống.  Ngày nay, mỗi gia đình thường chỉ có từ 1 đến  2  con nên người phụ nữ đã  đủ  con  là những  người có nhu cầu  rất  lớn  được  tư vấn những  BPTT  hiệu  quả  cao  cũng  như  cách  áp  dụng  đúng  để  đạt  được  hiệu  quả  cao  nhất.  Đa  số  những người phụ nữ này trong độ tuổi 30‐39,  ít  biết  về  TVTTKC.  Vì  vậy  ngoài  tư  vấn  các  BPTT  có  hiệu  quả,  cách  áp  dụng  đúng  các  BPTT này thì việc phổ biến TVTTKC để hỗ trợ  khi  BPTT  sử  dụng  hằng  ngày  bị  thất  bại  là  điều hết sức cần thiết.   Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014  Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 27 KẾT LUẬN  Tỉ lệ phụ nữ có kiến thức đúng về TVTTKC:  5%  (KTC 95%: 2,7‐7,3). Tỉ  lệ phụ nữ có  thái độ  đúng về TVTTKC: 20,6% (KTC 95%: 16,3‐24,9).  Mối  liên quan giữa kiến  thức đúng,  thái độ  đúng với  các  đặc  điểm dân  số  xã hội:  1) Nghề  nghiệp: Người  có  nghề  nghiệp  là  viên  chức  có  kiến  thức đúng về TVTTKC cao hơn người nội  trợ  (PR*=  9,6 với p  <  0,05).  2) Trình  độ học vấn:  Người  có  trình  độ học vấn  từ  cấp 3  trở  lên  có  thái độ đúng về TVTTKC cao hơn người có trình  độ từ cấp 2 trở xuống (PR*= 7,9 với p < 0,05). 3)  Số con hiện có: Phụ nữ có từ 2 con trở lên có thái  độ đúng giảm so với người có từ 1 con trở xuống  (PR*= 0,46 với p < 0,05).  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Bộ Y Tế (2009), Biện pháp tránh thai khẩn cấp, Hướng dẫn quốc  gia về các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, tr. 261‐309.  2. Đặng Minh Đức, (2012), Kiến thức và thái độ về viên uống tránh  thai khẩn cấp của sinh viên các trường Đại học tại thành phố Cần  Thơ, Luận văn  thạc sỹ, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí  Minh, tr. 60‐96.  3. Đỗ Anh Thư, (2008), Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng  biện pháp tránh thai hiện đại trên phụ nữ có chồng trong tuổi sinh  sản tại huyện Ninh Hoà‐ Khánh Hoà, Luận văn thạc sỹ, Đại học  Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, tr. 53.  4. FFPRHC Guidance (2006), ʺEmergency contraceptionʺ, J Fam  Plann Reprod Health Care, 32(2), pp.121‐128.  5. Irfan,  F., Karim,  S.  I., Hashmi,  S., Ali,  S., Ali,  S. A.  (2009),  ʺKnowledge  of  emergency  contraception  among women  of  childbearing age at a teaching hospital of Karachiʺ, J Pak Med  Assoc, 59(4), pp. 235‐240.  6. National  Guideline,  C.  (2013).  Emergency  contraception.  Agency  for  Healthcare  Research  and  Quality  (AHRQ),  Rockville  MD,  from  7. Nguyễn Duy Khuê (2011), ʺThực trạng phá thai ở Việt Nam:  thách  thức & hướng giải quyếtʺ, Hội  thảo quốc gia: Cập nhật  thông tin mới và phổ biến kết quả các nghiên cứu phá thai nội khoa  tại Việt Nam.  8. Nguyễn Hoàng Lam, (2009), Kiến thức và thực hành về các biện  pháp tránh thai hiện đại của nữ công nhân quận 9‐TPHCM, Luận  văn thạc sĩ, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, tr. 52‐ 56.  9. Nguyễn Thị Phương Dung,  (2004), Kiến thức, thái độ và thực  hành về các phương pháp ngừa thai của những phụ nữ nạo phá thai  tại bệnh viện Từ Dũ năm 2003‐2004, Luận văn thạc sĩ, Đại học Y  Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, tr. 61‐62.  10. Obi, S. N., Ozumba, B. C.  (2008),  ʺEmergency  contraceptive  knowledge and practice among unmarried women in Enugu,  southeast Nigeriaʺ, Niger J Clin Pract, 11(4), pp. 296‐299.  11. Raymond  E, Westley  E,  Blithe D,  et  al  (2012),  ʺEmergency  Contraception Pills: Medical and Service Delivery Guidelines,  International Consortium for Emergency Contraceptionʺ, 3th,  pp. 6‐11.  12. Trần Thị Thu Tuyết, (2006), Kiến thức, thái độ, hành vi về thuốc  tránh thai khẩn cấp của các trường hợp phá thai tại bệnh viện Đại  học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, Luận văn nội trú, Đại học  Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, tr.32‐58.  13. Trung tâm chăm sóc sức khoẻ sinh sản Tây Ninh (2013), Báo  cáo công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản năm 2011, 2012, 6 tháng  đầu năm 2013.  14. Vũ Tuyết Ánh Sao,  (2007), Tìm hiểu nguyên nhân thất bại của  một  số  biện  pháp  tránh  thai  ở người  đến  phá  thai  tại  bệnh  viện  Hùng Vương năm  2005, Luận  văn  thạc  sĩ,  Đại  học  Y Dược  Thành Phố Hồ Chí Minh, tr. 46‐47.  15. WHO.  (2012).  Emergency  contraception.,  from  www.who.int/mediacentre/factsheets/fs244/en/ .  16. Yadav,  P.,  Sinha,  A.,  Karan,  J.,  Mody,  P.,  Panwar,  A.  S.,  Kantharia,  N.  D.  (2011),  ʺʺAwareness  about  emergency  contraceptives  pill  in  women  who  came  for  medical  termination  of  pregnancyʺʺ, Natl  J Physiol Pharm Pharmacol,  1(2) pp. 68‐78.  Ngày nhận bài báo:       30/11/2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo:   02/12/2013  Ngày bài báo được đăng:     05/01/2014 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkien_thuc_va_thai_do_ve_thuoc_vien_tranh_thai_khan_cap_o_phu.pdf