Thực hành TKV là một trong những
biện pháp phát hiện khối u tại vú sớm nhất
nếu người phụ nữ thực hành TKV đúng
và thường xuyên. TKV là một trong những
biện pháp quan trọng để nhận thấy sự thay
đổi ở vú. Nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy thực hành TKV đạt là khá thấp, chỉ có
24,1% đối tượng nghiên cứu TKV đạt theo
các bước khuyến cáo. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu
của Saadoun F (2013) khoảng 35% phụ nữ
có thực hành TKV theo đúng 6 bước trong
12 bước khám vú, kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của
Mikiyas (2016) có 21,4% có thực hành tốt,
Đỗ Quang Tuyển (2018) cho biết có 10,4%
đối tượng nghiên cứu tham gia thực hiện
đúng kỹ thuật, nghiên cứu của Obaikol R
(2010) cho biết chỉ có 1% đối tượng thực
hiện đúng các bước TKV [3], [5], [6]. Sự
khác biệt của chúng tôi so với các nghiên
cứu khác là do các yêu cầu đánh giá các
bước TKV khác nhau, tình trạng giáo dục
và khả năng tiếp cận thông tin khác nhau.
Nghiên cứu của chúng tôi đang lấy ngưỡng
kiến thức tốt là 50% số điểm, nghiên cứu
của Mikiyas lại đánh giá theo giá trị trung
bình đạt được của đối tượng nghiên cứu.
Người phụ nữ sẽ thực hành TKV thường
xuyên hoặc duy trì có hiệu quả khi thực sự
họ hiểu biết về UTV, các yếu tố nguy cơ,
mức độ trầm trọng của bệnh và lợi ích của
TKV. Quan sát vú là một bước cần thực
hiện khi bắt đầu một quy trình khám và
đặc biệt quan trọng với TKV. Khi nhìn qua
gương, người phụ nữ có thể tự phát hiện
được kích thước, sự cân xứng vùng da bất
thường tại bầu vú, sự co kéo tại bầu vú,
chảy dịch bất thường hoặc các dấu hiệu co
kéo tại vú, đây là một trong các biểu hiện
dễ nhận thấy.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 15 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức và thực hành tự khám vú của phụ nữ phường Thượng Cát, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
14
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH TỰ KHÁM VÚ
CỦA PHỤ NỮ PHƯỜNG THƯỢNG CÁT, QUẬN BẮC TỪ LIÊM, HÀ NỘI
Phạm Thúy Quỳnh1, Phạm Văn Tân1,
Trần Mai Huyên1, Nguyễn Ngọc Tuân1
1Trường Cao đẳng Y tế Hà Nội
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kiến thức và thực
hành tự khám vú của phụ nữ phường
Thượng Cát, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội
năm 2020. Đối tượng và phương pháp
nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
được thực hiện trên 270 phụ nữ đang sinh
sống tại phường Thượng Cát, Quận Bắc Từ
Liêm, Hà Nội. Bộ công cụ phần kiến thức
được phát triển từ bộ nghiên cứu tác giả
Lê Thị Dung, Võ Thị Ngọc Hà, bộ công cụ
thực hành tự khám vú được xây dựng theo
NCCN (2010). Kết quả: 80,9% đối tượng
tham gia cho biết thông tin về tự khám vú
mà họ nhận được là từ nhân viên y tế. Về
kiến thức, trong số 270 phụ nữ, 49,3% có
kiến thức tự khám vú ở mức đạt, 73,3%
đối tượng nghiên cứu biết rằng tự khám vú
hàng tháng có thể phát hiện ung thư vú,
nhưng có 38,5% cho rằng chỉ cần tự khám
vú mỗi năm 1 lần, 19,6% phụ nữ cho biết
cần khám vú 1 tháng 1 lần. Về thực hành,
24,1% có thực hành tự khám vú ở mức đạt,
bước thực hành yếu nhất là bước kiểm tra
u hạch ở vùng nách với 4,9% phụ nữ thực
hiện đạt. Mặc dù có 50,7% phụ nữ biết
rằng cần phải kiểm tra đầu vú nhưng chỉ
có 26,2% thực hiện tốt bước này. Kết luận:
Phụ nữ tham gia nghiên cứu có kiến thức
và thực hành tự khám vú còn hạn chế với tỷ
lệ đạt lần lượt là 49,3% và 24,1%.
Từ khóa: Kiến thức, thực hành, tự khám
vú
KNOWLEDGE AND PRACTICE OF BREAST SELF-EXAMINING
AMONG WOMEN IN THUONG CAT WARD, BAC TU LIEM DISTRICT, HA NOI
ABSTRACT
Objective: To assess knowledge
and practice of breast self-examination
among women in Thuong Cat ward, Bac
Tu Liem district, Hanoi in 2020. Method:
A cross-sectional descriptive design was
conducted on 270 women living in Thuong
Cat ward, Bac Tu Liem district, Hanoi. The
knowledge tool kit was developed from the
researcher author Le Thi Dung and Vo Thi
Ngoc Ha, the practical tool for breast self-
examination performed by NCCN (2010).
Results: 80,9% of information about breast
Người chịu trách nhiệm: Phạm Thúy Quỳnh
Email: phamthuyquynhcdythn@gmail.com
Ngày phản biện: 18/5/2020
Ngày duyệt bài: 25/5/2020
Ngày xuất bản: 29/6/2020
self-examination were found to be from
health workers. The knowledge of breast
self-examination was 49,3%, the practice
of breast self-examination was low, 24,1%,
the lowest practical step was the breast
examination of breast only 4,9%. 73,3% of
respondents knew that monthly breast self-
examination could detect breast cancer, but
38,5% said that they only need to do breast
exam once a year, 19,6% of women said
they need an examination. breasts 1 month
1 time. 50,7% of women know that a nipple
check is necessary, but only 26,2% did well.
Conclusion: Women who participated
in the study had limited knowledge and
practice of breast self-examination with the
rate of 49,3% and 24,1%, respectively.
Keywords: Knowledge, practice, breast
self-examination
15
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú (UTV) là một trong những
vấn đề sức khỏe cộng đồng, đây cũng là
nguyên nhân số một gây tử vong do ung
thư ở phụ nữ trên toàn thế giới. Tại Việt
Nam, theo số liệu thống kê năm 2010, UTV
là bệnh ung thư đứng hàng đầu ở nữ giới
[10], [11].
WHO năm 2015 chỉ ra rằng 58% các
trường hợp tử vong do UTV xảy ra tại các
nước nghèo, nguyên nhân chính do trình
độ dân trí thấp và hệ thống y tế yếu kém
vì vậy người bệnh không được chẩn đoán
sớm và điều trị kịp thời [11]. Phụ nữ Việt
Nam thường được sàng lọc UTV muộn và
có thời gian sống sau UTV thấp, 80% bệnh
nhân đến khám và điều trị bệnh ở giai đoạn
muộn trong khi tỷ lệ sống của người bệnh
UTV nếu được phát hiện ở giai đoạn sớm
là 96,3%, giai đoạn muộn có di căn xa thì tỷ
lệ sống chỉ còn 20%.
Có 3 phương pháp hiệu quả nhất để
chẩn đoán sớm UTV là: tự khám vú (TKV),
khám vú lâm sàng và chụp nhũ ảnh [10].
TKV thường xuyên là một phương pháp an
toàn, đơn giản, chi phí rất thấp, không tốn
kém về thời gian và kinh tế, không xâm lấn
nhưng thích hợp cho mọi phụ nữ để sàng
lọc UTV [10]. TKV có ảnh hưởng tích cực
đến phát hiện sớm các khối u tại vú, nhưng
thực tế tỷ lệ phụ nữ thực hiện TKV tại nhà
còn rất hạn chế.
Thượng Cát là một phường trọng điểm
của quận Bắc Từ Liêm, công tác tuyên
truyền sức khỏe sinh sản và dự phòng
ung thư phụ khoa của phụ nữ trên địa bàn
phường đặc biệt về TKV còn ít phụ nữ quan
tâm. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm
đánh giá kiến thức và thực hành TKV của
phụ nữ phường Thượng Cát, quận Bắc Từ
Liêm, Hà Nội.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Phụ nữ
đang sống tại phường Thượng Cát, quận
Bắc Từ Liêm, Hà Nội
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn mẫu
- Tuổi từ 20 – 59.
- Không mang thai, không cho con bú.
- Có thể nói, đọc, nghe và hiểu tiếng Việt.
- Tình nguyện tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Phụ nữ mắc các bệnh về vú phát hiện
từ trước đó: u vú, ung thư vú.
- Phụ nữ bị suy giảm nhận thức: không
hợp tác.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu: Mô
tả cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu:
n= z2(1- α/2) p(1-p)/d
2
n: cỡ mẫu nghiên cứu cần thiết
α: mức ý nghĩa thống kê
Z (1-α/2): hệ số giới hạn tin cậy (với α =
0,05 thì Z (1-α/2) = 1,96)
p1 = 0,227 (Tỷ lệ phụ nữ kiến thức tốt
TKV tại Hà Nội và Hồ Chí Minh) [3].
d = 0,05
Vậy: n1 = 1,96
2 x 0,227 x 0,773/0,052
(phụ nữ).
→ theo công thức trên tính được: n1 =
269,6
Cỡ mẫu được chọn tối thiểu theo p1 là
270 (phụ nữ).
p2 = 0,158 (Tỷ lệ phụ nữ thực hành tốt
TKV tại Hà Nội và Hồ Chí Minh) [3].
d = 0,05
Vậy: n2 = 1,96
2 x 0,158 x 0,842/0.052
(phụ nữ).
→ theo công thức trên tính được: n2 =
104,3
Cỡ mẫu được chọn tối thiểu theo p2 là
104 (phụ nữ).
n1 > n2, vậy, đối tượng nghiên cứu là 270
phụ nữ.
Phương pháp chọn mẫu:
- Phường Thượng Cát gồm 7 tổ dân
16
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
phố, lập danh sách số phụ nữ trong độ tuổi
từ 20- 59 tuổi, đang không có thai ước tính
khoảng 2000 phụ nữ đang sống trong 7 tổ
dân phố của phường Thượng Cát, Quận
Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
- Cách tính hệ số khoảng cách: k =
2000/270 = 7,407 vậy k ≈ 7
- Chọn người đầu tiên có số thứ tự 1< k <
7 bằng phương pháp rút thăm ngẫu nhiên,
người kế tiếp cách người trước k số thứ tự
liền kề cho đến khi đủ 270 người tham gia
nghiên cứu.
- Nếu người được chọn vắng mặt, không
hợp tác hoặc không đủ tiêu chuẩn thì chọn
người tiếp theo liền kề ngay bên dưới theo
hàng dọc.
2.2.3. Công cụ đo lường
Bộ công cụ trong nghiên cứu này của
chúng tôi phần kiến thức được phát triển
từ bộ nghiên cứu tác giả Lê Thị Dung, Võ
Thị Hà, bộ công cụ thực hành TKV được
thực hiện theo NCCN (2010) [1]. Bộ công
cụ được xây dựng gồm 3 phần:
Phần 1: Thông tin chung: 12 câu
Phần 2: Đo lường kiến thức về TKV: 14
câu
Phần 3: Đo lường về thực hành TKV
gồm 15 bước
2.2.4. Phương pháp đánh giá
Đánh giá về kiến thức về TKV: Tổng
điểm phần kiến thức tối đa đạt 14 điểm.
Phụ nữ có điểm kiến thức lớn hơn hoặc
bằng 7 là có kiến thức tốt, dưới 7 điểm là
kiến thức chưa tốt
Đánh giá về thực hành TKV gồm 15
bước. Tổng điểm phần thực hành tối đa
đạt 30 điểm. Phụ nữ có điểm thực hành lớn
hơn hoặc bằng 15 là thực hành tốt, dưới 15
điểm là thực hành chưa tốt.
2.3. Vấn đề đạo đức nghiên cứu: Đây
là một nghiên cứu nhằm mục đích góp phần
bảo vệ sức khỏe phụ nữ. Các thông tin thu
được chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu
mà không sử dụng cho mục đích khác. Đề
tài nghiên cứu phù hợp với văn hóa Việt
Nam nói chung và khu vực phường Thượng
Cát, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội nói riêng.
Tất cả các thông tin cá nhân và các câu hỏi
đánh giá đối tượng tham gia được mã hóa
và giữ bí mật tuyệt đối và chỉ có nghiên cứu
viên chính được tiếp cận các thông tin này.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thông tin chung về đối tượng
tham gia nghiên cứu
Bảng 3.1. Tuổi và nghề nghiệp (n = 270)
Đặc điểm SL TL %
Tuổi
(năm)
20 - 29 71 26,3
30 - 39 84 31,1
40 - 45 47 17,4
> 45 68 25,2
Nghề
nghiệp
Viên chức 81 30,0
Sinh viên 08 03,0
Công nhân 53 19,6
Nông dân 57 21,1
Tự do 71 26,3
Nhận xét: Phụ nữ độ tuổi 30 - 39 tuổi
chiếm tỷ lệ cao nhất 31,1%. Nhóm nghề
nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất là nhóm viên
chức (30%), thấp nhất là nhóm sinh viên
với 3%.
Biểu đồ 3.1. Thông tin chung về trình
độ học vấn (n = 270)
Nhận xét: 34,4% đối tượng nghiên cứu
có trình độ cao đẳng, đại học và sau đại
học. Số đối tượng có trình độ trung học cơ
sở chỉ là 21,5%.
21.5%
25.6%
18.5%
34.4%
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Trung học chuyên
nghiệp
Cao đẳng, đại học, sau
đại học
17
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
80.9
46.8
26.8
52.3
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
Nhân viên y tế Bạn bè/đồng
nghiệp
Gia đình Truyền
hình/radio/báo/tạp
chí
T
ỷ
l
ệ
Bảng 3.2. Thông tin chung về tiền sử bệnh (n = 270)
Mắc bệnh SL TL %
Ung thư vú 4 1,5
Ung thư 12 4,4
Nhận xét: Trong nhóm nghiên cứu có 1,5% đối tượng nghiên cứu có tiền sử gia đình
mắc các UTV, tỷ lệ này ở nhóm có ung thư khác là 4,4%.
3.2. Kiến thức, thực hành về TKV
3.2.1. Kiến thức TKV
Biểu đồ 3.2. Nguồn thông tin về tự khám vú (n = 270)
Nhận xét: 80,9% thông tin về TKV đối tượng nghiên cứu biết được là từ nhân viên y tế.
Bảng 3.3. Kiến thức tự khám vú (n= 270)
Kiến thức tự khám vú
Đạt Không đạt
SL TL % SL TL %
Phụ nữ có nên thực hành TKV từ 20 tuổi trở lên 128 47,4 142 52,6
Thời gian TKV tốt nhất 60 22,2 210 77,8
Tần suất TKV 53 19,6 217 80,4
Lần cuối cùng thực hiện TKV cách đây bao lâu? 102 37,8 168 62,2
TKV hàng tháng rất quan trọng, giúp phát hiện sớm UTV 198 73,3 72 26,7
Khám vú cần kiểm tra toàn bộ khu vực kéo dài dưới cánh
tay, qua đường áo ngực, và phía trên xương ngực và trên
xương đòn
188 69,6 82 30,4
Khi TKV cần khám cả 2 bên vú 158 58,5 112 41,5
Khi khám vú nên kiểm tra cả đầu vú và bầu vú 133 49,3 137 50,7
Nhận xét: 73,3% đối tượng nghiên cứu biết rằng TKV hàng tháng có thể phát hiện
UTV, 77,8% đối tượng nghiên không biết hoặc trả lời sai về thời gian nên TKV trong chu
kỳ.
18
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
Bảng 3.4. Kiến thức về tần suất tự khám vú (n = 270)
Tần suất TKV SL TL %
1 lần/1 tháng 53 19,6
1 lần/2-5 tháng 59 21,9
2 lần trong năm 54 20,0
1 lần trong năm 104 38,5
Tổng 270 100
Nhận xét: 80,4% đối tượng nghiên cứu chưa biết nên khám vú định kỳ mỗi tháng một
lần, trong đó có tới 38,5% cho rằng chỉ cần TKV mỗi năm 1 lần.
Bảng 3.5. Tư thế tự khám vú (n = 270)
Tư thế tự khám vú SL TL %
Không cần tư thế nào 45 16,7
Đứng trước gương 112 41,5
Nằm trên giường 85 31,5
Không biết 73 27,0
Nhận xét: 41,5% phụ nữ biết rằng cần khám vú với tư thế đứng trước gương, 31,5%
biết rằng cần khám vú với tư thế nằm trên giường.
3.2.2 Thực hành tự khám vú
Bảng 3.6. Điểm đo lường thực hành tự khám vú (n = 270)
Nội dung câu hỏi
0 điểm 1 điểm 2 điểm
SL TL % SL TL % SL TL %
Cởi áo, ngồi thẳng lưng đứng trước gương ở
tư thế xuôi 2 tay quan sát vú 2 bên tìm dấu hiệu
bất thường
130 48,1 52 19,3 88 32,6
Hai cánh tay dang rộng, bàn tay để sau đầu tìm
dấu hiệu bất thường của ngực 195 72,2 46 17 29 10,8
Nằm ngửa trên giường, đặt gối mỏng sau vai,
dùng 3 ngón tay xòe thẳng vừa ấn vừa xoay tìm
kiếm khối u hoặc khối bất thường từ trong ra
ngoài theo hình xoáy chôn ốc
134 49,6 98 36,3 38 14,1
Di chuyển dần lên vùng nách tới hõm nách xem
có u hạch không 218 80,7 39 14,4 13 4,9
Dùng ngón tay cái và ngón trỏ nắn nhẹ bầu vú
xem có dịch 140 51,9 59 21,9 71 26,2
Nhận xét: 4,9% phụ nữ thực hành đúng và đầy đủ bước kiểm tra u hạch ở vùng nách,
51,9% không thực hiện khám sự tiết dịch ở núm vú.
24.1%
75.9%
Đạt
Không đạt
19
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
3.2.3. Điểm đo lường kiến thức tự
khám vú
Biểu đồ 3.3. Điểm đo lường kiến
thức tự khám vú (n=270)
Nhận xét: 49,3% đối tượng nghiên cứu
có kiến thức tốt về TKV.
Biểu đồ 3.4. Điểm đo lường thực
hành tự khám vú (n=270)
Nhận xét: 24,1% thực hiện tốt thực
hành TKV, 75,9% chưa thực hiện tốt quy
trình này.
4. BÀN LUẬN
4.1. Bàn luận về thông tin chung của
đối tượng nghiên cứu
Theo khuyến cáo của Hiệp hội ung thư
Hoa Kỳ, phụ nữ nên bắt đầu khám vú từ tuổi
20. Nghiên cứu của chúng tôi có lựa chọn
nhóm phụ nữ có độ tuổi từ 20-59 tuổi, trong
đó nhóm tuổi 30-39 có tỷ lệ cao nhất chiếm
31,1%, nghiên cứu cho kết quả của nhóm
tuổi 40-45 chỉ có 17,4%. Đối tượng nghiên
cứu của chúng tôi ở độ tuổi này thấp hơn
so với đối tượng nghiên cứu của Đỗ Quang
Tuyển, trong nghiên cứu này của tác giả
độ tuổi chủ yếu là 41-45 tuổi chiếm 62,3%
[3]. Sự khác biệt này trong nghiên cứu của
chúng tôi so với Đỗ Quang Tuyển có thể do
nghiên cứu của chúng tôi tiến hành tại cộng
đồng là xã Thượng Cát còn nghiên cứu của
Đỗ Quang Tuyển đã lựa chọn chủ đích một
số doanh nghiệp tại Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh mà ở đó độ tuổi lao động 41-
45 tuổi là chủ yếu. Sự phân bố độ tuổi trong
nghiên cứu của chúng tôi tương tự như kết
quả nghiên cứu của Thổ Nhĩ Kỳ (2014) cho
rằng khả năng TKV của phụ nữ trẻ trong độ
tuổi dưới 39 cao hơn so với các nhóm tuổi
khác.
Với những nhận định về phường Thượng
Cát đang chuyển mình từ nhóm ngành
nghề làm nông nghiệp của những năm
trước đây sang nhóm nghề có trình độ cao
hơn, đưa phường Thượng Cát là một trong
những phường trọng điểm của quận Bắc
Từ Liêm. Nghiên cứu của chúng tôi cho kết
quả rằng nhóm nghề nghiệp là tri thức, văn
phòng giáo viên chiếm tỷ lệ cao nhất 30%,
thấp nhất ở nhóm đối tượng là sinh viên.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hằng thì
tỷ lệ trình độ học vấn trong nghiên cứu của
chúng tôi với nghề nghiệp là tri thức, văn
phòng giáo viên cao hơn, trong nghiên cứu
này tỷ lệ tri thức văn phòng, giáo viên chỉ
là 18,2% [2]. Theo chúng tôi, tỷ lệ này là
phù hợp do nghiên cứu của chúng tôi được
thực hiện tại một phường của Hà Nội còn
Nguyễn Thị Hằng thực hiện tại một xã của
tỉnh Hải Dương. Theo Đỗ Quang Tuyển,
nhóm có trình độ là tri thức chỉ là 9,5%,
nghiên cứu của Đỗ Quang Tuyển thực hiện
tại một số doanh nghiệp may nên đối tượng
hầu hết là công nhân, lao động phổ thông
nên có trình độ học vấn là trung học phổ
thông (54,9%) là chủ yếu [3].
24.1%
75.9%
Đạt
Không đạt
20
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
Chiếm phần đông trong đối tượng
nghiên cứu là các phụ nữ có tiền sử gia
đình và bản thân khỏe mạnh, chỉ có 1,5%
mắc UTV và 4,4% mắc các bệnh ung thư
khác. Một nghiên cứu của Ethiopia (2016)
cho biết rằng có 10,1% đối tượng nghiên
cứu của họ có tiền sử gia đình mắc bệnh
ung thư vú [5].
4.2. Bàn luận về kiến thức TKV của
phụ nữ phường Thượng Cát, Quận Bắc
Từ Liêm, Hà Nội
Chúng tôi lựa chọn ra được 270 phụ nữ
tham gia phỏng vấn, thông tin về TKV có
được đến đối tượng nghiên cứu chủ yếu từ
nhân viên y tế (80,9%), thông tin về TKV do
có thông tin từ truyền hình, báo, (52,3%).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi về thông
tin có được do tivi và internet thấp hơn so
với kết quả của Abolfotouh MA (78,7%) [4],
sự khác biệt này có thể do kiến thức, khả
năng thông tin từ các nước tốt hơn so với
Việt Nam.
TKV là phương pháp đầu tiên, sớm nhất
mà người phụ nữ có thể tự thực hiện, TKV
đơn giản, hiệu quả nhưng lại không tốn
kém về mặt kinh tế do người phụ nữ tiến
hành khám. Việc có thực hiện TKV thường
xuyên cũng ảnh hưởng tới kiến thức về
TKV. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy rằng kiến thức về TKV của phụ
nữ phường Thượng Cát không cao lắm, chỉ
có 49,3% đạt về mặt kiến thức, điều đó cho
thấy chỉ phân nửa số đối tượng tham gia
nghiên cứu thực sự có quan tâm tới TKV.
Theo nghiên cứu của Đỗ Quang Tuyển chỉ
có 235 phụ nữ (22,7%) đối tượng tham
gia nghiên cứu có kiến thức tốt về TKV, có
77,3% không đạt. Nghiên cứu của Mikiyas
tại Ethiopia cho biết rằng có 49,9% có kiến
thức tốt về TKV [5], kết quả nghiên cứu của
Salman AA (2015) cho thấy tỷ lệ có kiến
thức đạt về TKV chiếm 67,7% [8]
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp
hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của
Salman có thể do nghiên cứu của Salman
thực hiện trên đối tượng giáo viên có trình
độ cao hơn nghiên cứu của chúng tôi tiến
hành tại một phường của Hà Nội. Đồng
thời, với số lượng chỉ là 270 phụ nữ không
thể đại diện cho toàn bộ phụ nữ, điều này
cũng có những ảnh hưởng tới tính tổng
quát của nghiên cứu.
Phần đông người phụ nữ trong nghiên
cứu của chúng tôi biết cần TKV hàng tháng
phát hiện sớm UTV (73,3%), , Abolfotouh
MA (43,5%), Nguyễn Thị Hằng (40,9%).
Lý do của sự hiểu biết hạn chế này cũng
có thể do đa số đối tượng nghiên cứu của
Nguyễn Thị Hằng ở trình độ thấp (42,7% là
nông dân và 26,4% là công nhân) [2], [4].
Khi thực hiện khám vú, 69,6% đối tượng
nghiên cứu cho rằng không những chỉ cần
khám bầu vú mà còn cần khám cả toàn bộ
khu vực kéo dài dưới cánh tay, qua đường
áo ngực, phía trên xương ngực và phía trên
xương đòn. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi tương đồng với kết quả nghiên cứu của
Võ Thị Ngọc Hà, về kiến thức kiểm tra phần
u hạch ở vùng nách (69%) và cao hơn so
với Nguyễn Thị Hằng (34,5%) [1], [2].
Theo khuyến cáo của WHO thì khám vú
vào thời điểm ngay sau sạch kinh khi đó
vú mềm, dễ khám và dễ dàng phát hiện ra
những bất thường tại vú. Tuy nhiên, chỉ có
22,2% đối tượng nghiên cứu biết rằng nên
khám vú ngay sau sạch kinh, phần lớn còn
lại trả lời khám vú vào trước khi có kinh
hoặc bất kỳ thời điểm nào trong chu kỳ kinh
(77,8%). Theo Võ Thị Ngọc Hà, chỉ có 11,7%
đối tượng nghiên cứu cho rằng nên khám vú
ở thời điểm ngay sau sạch kinh, theo nghiên
cứu ở Ghana thì có tới 62% sinh viên thực
hiện khám vú vào thời điểm thích hợp đó là
những ngày đầu sau sạch kinh [9]. Sự khác
biệt này của chúng tôi so với Ghana là do
trong nghiên cứu của Ghana là những sinh
viên điều dưỡng có nhiều kinh nghiệm hơn
và kiến thức tốt hơn về TKV.
21
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
Người phụ nữ cần TKV mỗi tháng 1 lần
sau sạch kinh nhằm mục đích phát hiện
sớm khối u tại vú. Trong nghiên cứu của
chúng tôi chỉ có 19,6% phụ nữ cho rằng nên
TKV 1 lần trong 1 tháng, có tới 80,4% đối
tượng nghiên cứu trả lời chưa đúng về thời
gian cần thiết TKV, đặc biệt, có 38,5% cho
rằng chỉ cần khám vú 1 năm 1 lần. Kết quả
nghiên cứu về thời gian TKV của chúng tôi
thấp hơn so với tác giả Al Dubai (2012) là
28,5%. Tác giả Võ Thị Ngọc Hà cho biết có
42,8% đối tượng nghiên cứu cho rằng nên
khám vú 1 lần trong tháng, kết quả nghiên
cứu của chúng tôi thấp hơn rất nhiều so
với kết quả của Võ Thị Ngọc Hà có thể do
nghiên cứu của Võ Thị Ngọc Hà được thực
hiện ở 3 quận của thành phố Đà Nẵng còn
nghiên cứu của chúng tôi chỉ thực hiện tại
một quận ven thành phố Hà Nội [1].
4.3. Bàn luận về tự hành TKV của phụ
nữ phường Thượng Cát, Quận Bắc Từ
Liêm, Hà Nội
Thực hành TKV là một trong những
biện pháp phát hiện khối u tại vú sớm nhất
nếu người phụ nữ thực hành TKV đúng
và thường xuyên. TKV là một trong những
biện pháp quan trọng để nhận thấy sự thay
đổi ở vú. Nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy thực hành TKV đạt là khá thấp, chỉ có
24,1% đối tượng nghiên cứu TKV đạt theo
các bước khuyến cáo. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu
của Saadoun F (2013) khoảng 35% phụ nữ
có thực hành TKV theo đúng 6 bước trong
12 bước khám vú, kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của
Mikiyas (2016) có 21,4% có thực hành tốt,
Đỗ Quang Tuyển (2018) cho biết có 10,4%
đối tượng nghiên cứu tham gia thực hiện
đúng kỹ thuật, nghiên cứu của Obaikol R
(2010) cho biết chỉ có 1% đối tượng thực
hiện đúng các bước TKV [3], [5], [6]. Sự
khác biệt của chúng tôi so với các nghiên
cứu khác là do các yêu cầu đánh giá các
bước TKV khác nhau, tình trạng giáo dục
và khả năng tiếp cận thông tin khác nhau.
Nghiên cứu của chúng tôi đang lấy ngưỡng
kiến thức tốt là 50% số điểm, nghiên cứu
của Mikiyas lại đánh giá theo giá trị trung
bình đạt được của đối tượng nghiên cứu.
Người phụ nữ sẽ thực hành TKV thường
xuyên hoặc duy trì có hiệu quả khi thực sự
họ hiểu biết về UTV, các yếu tố nguy cơ,
mức độ trầm trọng của bệnh và lợi ích của
TKV. Quan sát vú là một bước cần thực
hiện khi bắt đầu một quy trình khám và
đặc biệt quan trọng với TKV. Khi nhìn qua
gương, người phụ nữ có thể tự phát hiện
được kích thước, sự cân xứng vùng da bất
thường tại bầu vú, sự co kéo tại bầu vú,
chảy dịch bất thường hoặc các dấu hiệu co
kéo tại vú, đây là một trong các biểu hiện
dễ nhận thấy.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng
chỉ có 32,6% phụ nữ đang thực hiện tốt
bước quan sát 19,3% đối tượng nghiên
cứu thực hiện việc quan sát qua gương
không để tay đúng khi quan sát hoặc chỉ
nhìn xuống bằng mắt, 48,1% không thực
hiện quan sát vú, nghiên cứu của chúng tôi
cho kết quả thấp hơn so với Nguyễn Thị
Hằng (36,4%) [2].
Khám u hạch ở vùng nách có bước thực
hành không tốt là thấp nhất trong quy trình
TKV, đối tượng nghiên cứu là đúng đủ là
4,9%; không làm là 80,7%, có thể nói do
người phụ nữ còn chủ quan khi thực hiện
khám vú. Một trong những bất thường tại
vú khi khám có thể phát hiện sớm do có
những biểu hiện ra bên ngoài là có sự tiết
dịch ở núm vú. Trong nghiên cứu này có
26,2% thực hiện tốt, 21,9% có thực hiện,
khi phỏng vấn những đối tượng không
thực hiện bước này, có một số phụ nữ
cho rằng chỉ cần khám bầu vú, 50,7% đối
tượng nghiên cứu không cho rằng tiết dịch
núm vú là một dấu hiệu nguy cơ dẫn tới
ung thư vú.
22
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
5. KẾT LUẬN
- Kiến thức TKV đạt là 49,3%, 73,3% đối
tượng nghiên cứu biết rằng TKV hàng tháng
có thể phát hiện UTV nhưng có 38,5% cho
rằng chỉ cần TKV mỗi năm 1 lần, 19,6% phụ
nữ cho biết cần khám vú 1 tháng 1 lần
- Thực hành TKV đạt thấp 24,1%, bước
thực hành đạt thấp nhất là bước kiểm tra u
hạch ở vùng nách chỉ có 4,9%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Võ Thị Ngọc Hà, Trần Thiện Trung,
Jane Dimmitt Champion (2016), Nghiên
cứu thực hành tự khám vú của phụ nữ và
các yếu tố liên quan. Tạp chí Y học thành
phố Hồ Chí Minh, phụ bản 20, số 5, 244-
252.
2. Nguyễn Thị Hằng (2016), Đánh giá
kiến thức về ung thư vú và tự khám vú sau
can thiệp giáo dục cho phụ nữ xã Ngọc
Liên – Cẩm Giàng – Hải Dương năm 2016.
Luận văn Thạc sĩ Điều dưỡng – Trường Đại
học Điều dưỡng Nam Định.
3. Đỗ Quang Tuyển, Trần Thị Thanh
Hương, Trương Việt Dũng (2018), Một số
yếu tố liên quan tới kiến thức, thực hành tự
khám vú của phụ nữ một số doanh nghiệp
tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tạp
chí Y học Việt Nam, tháng 10, số chuyên đề
ung thư năm 2018, tập 471, 313-323.
4. Abolfotouh, M. A., BaniMustafa, A. A.,
Mahfouz, A. A., et al. (2015), Using the
health belief model to predict breast self
examination among Saudi women. BMC
Public Health, 15(1). doi:3.1186/s12889-
015-2510-y.
5. Mikiyas Amare Getu, Mesfin Wudu
Kassaw, Kenean Getaneh Tlaye, Awet Fitiwi
Gebrekiristos (2016), Assessment of breast
self-examination practice and its associated
factors among female undergraduate
students in Addis Ababa University, Addis
Ababa, Ethiopia, 2016.
6. Obaikol R, Galukande M, Fualal J
(2010), Knowledge and Practice of Breast
Self Examination among Female Students
in a Sub Saharan African Journal of Surgery,
Vol 14(1), pp, 22-27.
7. Saadoun F, Alkhabbaz A, Almutawa
HA, Ismaiel AE, Makboul G, El-Shazly MK
(2013), Practicing breast self-examination
among women attending primary health
care in Kuwait, Alexandria Journal of
Mdicine, Vol 14, pp, 218-286.
8. Salman AA, Abass BR (2015), Breast
Cancer: Knowledge, Attitudes and Practices
of Female Secondary School teachers and
Students in Samarra City, Iraqi Journal of
Cancer and Medical Genetics, Vol 8 (1), pp,
52-59.
9. Sarfo LA, Awuah-Peasah D,
Acheampong E. Knowledge, attitude, and
practice of self-breast examination among
female university students at Presbyterian
University College, Ghana. Am J Res
Commun. 2013;1(11):395–404.
10. Tastan, S., Iyigun, E., Kilic, A., &
Unver, V. (2011), Health Beliefs Concerning
Breast Self-examination of Nurses in
Turkey. Asian Nurser Research 5(3), 151-
156. Doi: 3.1016/j.anr.203.09.001.
11. WHO, (2015), Breast Cancer
Awareness Month. Bulletin of the:http://
www.who.int/mediacentre/commentaries/
breast-cancer awareness/en/.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
kien_thuc_va_thuc_hanh_tu_kham_vu_cua_phu_nu_phuong_thuong_c.pdf