+ Không có người cao tuổi nào biết về hội
chứng chuyển hóa nhưng có kiến thức về các
thành tố của HCCH (86% biết về bệnh THA,
80,2% về bệnh ĐTĐ, 60,9% về rối loạn lipid
máu, 62,9% về bệnh béo phì) và có 22,1% biết
rằng các bệnh này có liên quan với nhau.
+ Hiểu biết về các thói quen có lợi cho sức
khỏe không đồng đều (biết nên ăn nhạt 82,6%,
sử dụng dầu thực vật 89,0%, ăn nhiều cá
72,4%, ăn nhiều rau quả 95,7% và sử dụng sữa
76,4%, cần sống thoải mái 97,8%, vận động
81,1%, tập dưỡng sinh 77,3%, không hút thuốc
lá 98,8%, không uống nhiều rượu 99,3% và
không sử dụng nhiều cà phê 93,2%).
+ Đánh giá chung có 35,51% người cao
tuổi có kiến thức tốt về phòng ngừa HCCH.
Do đó trong công tác giáo dục sức khoẻ cần
chú trọng đến những kiến thức bệnh nhân
chưa nắm được để họ có cái nhìn tổng quát về
nguy cơ bệnh tật của mình
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 476 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức về phòng ngừa hội chứng chuyển hoá ở người cao tuổi thành phố Cần Thơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 98
KIẾN THỨC VỀ PHÒNG NGỪA HỘI CHỨNG CHUYỂN HOÁ
Ở NGƯỜI CAO TUỔI THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Ngô Kim Phụng*, Nguyễn Trung Kiên*
TÓM TẮT
Mở đầu: Ngày nay chúng ta đối mặt với rất nhiều loại bệnh, đa số hội chứng lâm sàng xảy ra trên
người cao tuổi (NCT). Vì thế nghiên cứu về những thay đổi hình thái, chức năng ở lứa tuổi này là hết sức
cần thiết. Một trong những thay đổi quan trọng ở NCT là thay đổi về chuyển hoá được đề cập trong hội
chứng chuyển hoá (HCCH).
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ người cao tuổi có kiến thức đúng về phòng ngừa hội chứng chuyển hóa tại
thành phố Cần Thơ.
Đối tượng: 673 người cao tuổi tại thành phố Cần Thơ được chọn từ 4 phường và 4 xã tại thành phố
Cần Thơ.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Số liệu được xử lý bởi phần mềm SPSS 16.0.
Kết quả: Không có NCT nào đã được nghe về HCCH nhưng có từ 60-85% các đối tượng biết về các
thành tố của HCCH và có 22,1% biết rằng các bệnh này có liên quan với nhau, tỷ lệ hiểu biết về các thói
quen có lợi cho sức khoẻ cao nhưng kiến thức tốt về phòng ngừa HCCH thấp chỉ chiếm 35,51%.
Kết luận: đánh giá chung có 35,51% người cao tuổi có kiến thức tốt về phòng ngừa HCCH. Do đó
trong công tác giáo dục sức khoẻ cần chú trọng đến những kiến thức NCT chưa nắm được để họ có cái
nhìn tổng quát về nguy cơ bệnh tật của mình.
Từ khoá: Kiến thức, hội chứng chuyển hoá, người cao tuổi.
ABSTRACT
KNOWLEDGE FOR PREVENTION METABOLIC SYNDROME ON THE ELDERLY
AT CANTHO CITY
Ngo Kim Phung, Nguyen Trung Kien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 98 - 104
Background: The fact showed that today we are faced with many disease, the most clinical syndromes
have on the elderly. Therefore the study of morphological changes, functions and pathologies related to age is
very necessary. One of the important changes in the elderly is the changing metabolism that is mentioned in
the metabolic syndrome.
Objective: Identify right knowledge ratio about prevention metabolic syndrome of the elderly at
Cantho city.
Subjects: A total of 673 the elderly were selected from 4 wards and 4 communes at Cantho city.
Method: A descriptive cross-sectional survey design was used. Data were analyzed using SPSS
version 16.0
Results: Nobody of the subjects ever heard about metabolic syndrome but having from 60-85% subjects
know about elements of metabolic syndrome and 22.1% subjects know that these diseases are related
* Đại học Y Dược Cần Thơ
Địa chỉ liên hệ: ThS. Ngô Kim Phụng ĐT: 0918492299 Email: nkphung61@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y tế Công cộng 99
together. Knowledge ratio for habits which has profitable for health is hight but good knowledge for
prevention metabolic syndrome was low as evidenced by only a 35.51% correct answer rate.
Conclusion: General evaluation 35.51% of the elderly have good knowledge on prevention metabolic
syndrome. Thus in the work of health education should focus to knowledge that the elderly haven’t it to
they have overview for risk by themselves.
Keywords: Knowledge, metabolic syndrome, elderly.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Một diễn biến tất yếu của quá trình tích
tuổi là sự thay đổi về chuyển hóa mà hậu quả
của nó là sự xuất hiện các bệnh lý làm giảm
chất lượng sống của NCT. Đây cũng chính là
nguyên nhân khiến tỷ lệ NCT mắc HCCH
ngày càng gia tăng. Hội chứng này có rất
nhiều tiêu chí chẩn đoán khác nhau nhưng
đều có những điểm giống nhau đó là béo phì
(đặc biệt là béo phì vùng bụng), tăng huyết
áp, rối loạn chuyển hóa lipid, rối loạn dung
nạp glucose và đề kháng insulin. Đặc biệt
cùng với sự phát triển của xã hội và các dịch
vụ chăm sóc y tế, mức sống và tuổi thọ của
người dân ngày càng được nâng cao, đồng
hành với đó là sự gia tăng tỉ lệ thừa cân béo
phì đã góp phần làm gia tăng tỷ lệ rối loạn
chuyển hoá. Việc nâng cao chất lượng cuộc
sống, hạnh phúc, sức khoẻ và tuổi thọ của con
người luôn là mối quan tâm của một xã hội
văn minh. Do đó với mong muốn nâng cao
chất lượng cuộc sống và sức khoẻ cho NCT
đồng thời hạn chế các bệnh lý ở lứa tuổi này
chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mong
muốn sẽ đáp ứng những yêu cầu cấp thiết
trong việc xây dựng một chương trình giáo
dục sức khỏe cho người cao tuổi.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ người cao tuổi có kiến thức
đúng về phòng ngừa hội chứng chuyển hóa
tại thành phố Cần Thơ từ tháng 3/2010 đến
tháng 7/2010
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả
cắt ngang
- Địa điểm nghiên cứu: các quận, huyện
thành phố Cần thơ
- Thời gian nghiên cứu: tháng 3/2010 đến
tháng 7/2010
- Dân số nghiên cứu: Người cao tuổi
Thành phố Cần thơ
- Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu
dùng để tính tỷ lệ trong một nghiên cứu cắt
ngang như sau:
2
2
)2/1(
)1(
d
ppZn
Trong đó:
n: là cỡ mẫu ước lượng.
Z: là trị số phân phối chuẩn.
: chọn = 0,05 bởi vậy Z(1-/2) = 1,96.
d: sai số cho phép, chọn d = 0,05.
p: do chưa có nghiên cứu về kiến thức về
phòng ngừa HCCH nên chọn p = 0,5 để đạt n
lớn nhất.
Tính được n = 384, sử dụng hiệu ứng thiết
kế là 1,5 nên cỡ mẫu nghiên cứu là 576 người.
Trong thực tế chúng tôi đã tiến hành phỏng
vấn được 673 đối tượng đủ tiêu chuẩn
nghiên cứu.
- Kỹ thuật chọn mẫu: chọn mẫu cụm.
- Phương pháp thu thập: phỏng vấn trực
tiếp NCT qua bộ câu hỏi soạn sẵn.
- Công cụ thu thập: bảng câu hỏi.
- Kiểm soát thông tin sai lệch: phỏng vấn
thử trước khi tiến hành phỏng vấn thật, bộ
câu hỏi đơn giản, dễ hiểu.
- Phân tích số liệu và xử lý số liệu: Dữ liệu
được mã hoá và xử lý bằng phầm mềm
SPSS 16.0.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 100
KẾT QUẢ
Kiến thức của người cao tuổi về phòng
ngừa HCCH
Bảng 1: Kiến thức về các thành tố của HCCH
Nội dung Tần số
(n)
Tỷ lệ
(%)
Có 579 86,0 Có nghe/biết về bệnh Không 94 14,0
Có 437 64,9 Hiểu biết về mức độ
bệnh Không 236 35,1
Có 437 64,9
Bệnh
tăng
huyết
áp Hiểu biết về biến chứng
của bệnh Không 236 35,1
Có 540 80,2 Có nghe/biết về bệnh Không 132 19,8
Có 359 53,3 Hiểu biết về mức độ
bệnh Không 314 46,7
Có 296 44,0
Bệnh
đái
tháo
đường Hiểu biết về biến chứng
của bệnh Không 377 56,0
Có 410 60,9 Có nghe/biết về bệnh Không 263 39,1
Có 216 32,1 Hiểu biết về mức độ
bệnh Không 457 67,9
Có 146 21,7
Bệnh
rối
loạn
lipid
máu Hiểu biết về biến chứng
của bệnh Không 527 73,8
Có 423 62,9 Có nghe/biết về bệnh Không 250 37,1
Có 214 31,8 Hiểu biết về mức độ
bệnh Không 459 68,2
Có 154 22,9
Bệnh
béo
phì
Hiểu biết về biến chứng
của bệnh Không 519 77,1
Nhận xét: kết quả bảng 1 cho thấy đa số
các đối tượng nghiên cứu biết về các bệnh
tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid
máu và béo phì. Tuy nhiên hiểu biết về mức
độ bệnh và các biến chứng của bệnh còn hạn
chế
Bảng 2: Kiến thức chung về hội chứng chuyển hóa
Nội dung Tần số
(n)
Tỷ lệ
(%)
Có 0 0,0 Có nghe/biết về HCCH Không 673 100
Có 149 22,1 Những bệnh THA, ĐTĐ,
RLMM và béo phì có liên
quan với nhau
Không 524 77,9
Biết 612 90,9 Cách phát hiện bệnh Không biết 61 9,1
Đúng 575 85,4 Điều kiện thuận lợi dẫn
đến THA, ĐTĐ, RLMM,
béo phì
Chưa đúng 98 14,6
Đúng 377 56,0 Khi bị THA, ĐTĐ, RLMM,
béo phì phải điều trị liên
tục
Chưa đúng 296 44,0
Nhận xét: kết quả bảng 2 cho thấy không
có người nào đã nghe về HCCH nhưng có
22,1% biết các thành tố của HCCH có liên
quan nhau.
Bảng 3: Kiến thức về thói quen ăn uống có lợi cho
sức khỏe
Nội dung Tần số
(n)
Tỷ lệ
(%)
Đúng 556 82,6 Ăn mặn/nhạt có lợi cho
sức khoẻ Chưa đúng 117 17,4
Đúng 599 89,0 Ăn dầu/mỡ có lợi cho sức
khoẻ Chưa đúng 74 11,0
Đúng 487 72,4 Ăn cá/thịt có lợi cho sức
khoẻ Chưa đúng 186 27,6
Đúng 644 95,7 Ăn đồ ngọt/rau quả có lợi
cho sức khoẻ Chưa đúng 29 4,3
Đúng 514 76,4 Sử dụng sữa hoặc sản
phẩm từ sữa có lợi cho
sức khoẻ
Chưa đúng 159 23,6
Nhận xét: kết quả bảng 3 cho thấy đa số
đối tượng nghiên cứu có hiểu biết đúng về các
thói quen ăn uống có lợi cho sức khỏe như
nên ăn nhạt (82,6%), sử dụng dầu (89%), ăn
nhiều cá (72,4%), ăn nhiều rau quả (95,7%) và
sử dụng sữa (76,4%).
Bảng 1.4. Kiến thức của người dân về thói quen
sinh hoạt và lối sống có lợi cho sức khỏe
Nội dung Tần số
(n)
Tỷ lệ
(%)
Đúng 658 97,8 Lối sống căng thẳng/thoải
mái có lợi cho sức khoẻ Sai 15 2,2
Đúng 546 81,1 Lối sống vận động/tĩnh tại
có lợi cho sức khoẻ Sai 127 18,9
Đúng 520 77,3 Tập dưỡng sinh/không
cần tập có lợi cho sức
khoẻ
Sai 153 22,7
Đúng 665 98,8 Thói quen hút thuốc
lá/không hút có lợi cho
sức khoẻ
Sai 8 1,2
Đúng 668 99,3 Thói quen uống
rượu/không uống nhiều
rượu có lợi cho sức khoẻ
Sai 5 0,7
Đúng 627 93,2 Thói quen uống cà
phê/không uống nhiều cà
phê có lợi cho sức khoẻ
Sai 46 6,8
Nhận xét: kết quả bảng 1.4 cho thấy đa số
đối tượng nghiên cứu có hiểu biết đúng về các
thói quen sinh hoạt và lối sống có lợi cho sức
khỏe như nên sống thoải mái (97,8%), lối sống
vận động (81,1%), tập dưỡng sinh (77,3%);
không nên hút thuốc lá (98,8%), uống nhiều
rượu (99,3%) và sử dụng cà phê (93,2%).
Từ các kết quả nghiên cứu về kiến thức
cho thấy có 35,51% các đối tượng nghiên cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y tế Công cộng 101
có kiến thức tốt về phòng ngừa HCCH (biểu
đồ 1)
Kiến thức
tốt,
35,51%
Kiến thức
chưa tốt,
64,49%
Biểu đồ 1: Phân bố điểm kiến thức của người
cao tuổi
BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy tỷ lệ người dân có nghe nói về bệnh THA
là 86%, hiểu được THA là một bệnh nặng và
có nhiều biến chứng chiếm tỉ lệ 64,9%. Kết
quả này cũng phù hợp với nghiên cứu về kiến
thức, thái độ, hành vi về THA tại Seychells
Islands (Indian Ocean). Nghiên cứu cho thấy
rằng người dân có kiến thức cơ bản tốt về
THA, thí dụ trên 96% biết rằng muối và béo
phì có liên quan đến THA và THA có liên
quan đến các bệnh tim mạch. Những người
được phỏng vấn còn cho rằng vận động thể
dục đối với THA là rất tốt mặc dù tỷ lệ chiếm
thấp hơn (79% số dân tham gia nghiên cứu)
và đa số cho rằng thuốc lá là một trong những
nguyên nhân gây THA. Nhiều nghiên cứu
cho thấy THA là bệnh hay gặp nhất ở NCT do
đó tỉ lệ người cao tuổi trong nghiên cứu của
chúng tôi có nghe về bệnh này khá cao, tuy
vậy tỷ lệ người có hiểu biết về mức độ và biến
chứng bệnh chưa tương xứng. Rõ ràng việc
tuyên truyền giáo dục về bệnh THA vẫn hết
sức cần thiết.
Tỷ lệ người dân có nghe nói về bệnh đái
tháo đường type 2 trong nghiên cứu của
chúng tôi là 80,2%, hiểu biết về mức độ của
bệnh là 53,3%, hiểu biết về biến chứng của
bệnh là 44,0%. Hình thái về kiến thức này
cũng tương tự với hiểu biết về bệnh tăng
huyết áp, đa số người dân có nghe về bệnh
đái tháo đường nhưng biết về mức độ và biến
chứng bệnh còn hạn chế.
Theo nghiên cứu của Trần Tiến Hùng, đa
phần các bệnh nhân đái tháo đường đều có
hội chứng chuyển hoá. Như vậy nâng cao
nhận thức cho người dân về đái tháo đường
sẽ góp phần không nhỏ vào việc hạn chế tình
trạng mắc hội chứng chuyển hóa.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, người
dân có nghe nói về rối loạn mỡ máu chiếm tỷ
lệ thấp hơn (60,9%) so với bệnh tăng huyết áp
(86%) và đái tháo đường (80,2%), hiểu biết về
mức độ của bệnh là 32,1%, hiểu biết về biến
chứng của bệnh là 21,7%. Tương tự, chỉ có
62,9% người dân có nghe nói về bệnh béo phì
và hiểu biết về mức độ của bệnh là 31,8%,
hiểu biết về biến chứng của bệnh là 22,9%.
Ghi nhận này của chúng tôi cho thấy mối
quan tâm của người cao tuổi về rối loạn mỡ
máu và béo phì còn rất hạn chế so với bệnh
tăng huyết áp và đái tháo đường. Rối loạn mỡ
máu và béo phì đặc biệt là béo phì trung tâm
thường gắn liền nhau và là lời cảnh báo cho
nguy cơ tăng huyết áp, xơ vữa động mạch và
đề kháng insulin. Bệnh nhân béo phì là những
bệnh nhân có nguy cơ rất cao đối với hội
chứng chuyển hoá như tác giả Alexander đã
đề cập. Theo Trần Tiến Hùng, người béo phì
có tỉ lệ bị HCCH là 89%. Vì thế nhu cầu tăng
hiểu biết cho cộng đồng về béo phì và rối loạn
lipid máu là hết sức cần thiết.
Theo nghiên cứu của Đào Thu Giang, béo
phì là vấn đề nổi cộm của các nước phát triển
và có xu hướng tăng mạnh mẽ ở các nước
đang phát triển. Đây là hệ quả của sự phát
triển xã hội với đời sống dinh dưỡng ngày
càng nâng cao. Các nước đang phát triển có tỷ
lệ béo phì gia tăng nhanh chóng, ở nước ta
cùng với sự tăng trưởng kinh tế, tốc độ đô thị
hoá nhanh, sự thay đổi về lối sống, dinh
dưỡng đang làm tăng tỷ lệ thừa cân, béo phì.
Hiện tại béo phì được nhận định là vấn đề
thường gặp ở người nghèo của nước giàu và
gặp ở người giàu của nước nghèo. Béo phì và
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 102
tăng huyết áp là những yếu tố nguy cơ tim
mạch trong hội chứng chuyển hoá.
Theo Nguyễn Kim Thủy và Đào Thu
Giang, béo phì cùng với rối loạn lipid máu
được nhiều tác giả trên thế giới và trong nước
quan tâm. Đây là những yếu tố nguy cơ tim
mạch trong hội chứng chuyển hoá góp phần
làm tăng tỉ lệ bệnh và tỉ lệ tử vong trong bệnh
lý này. Nghiên cứu cho thấy yếu tố nguy cơ
rối loạn lipid máu tăng cao hơn ở nhóm bệnh
nhân thừa cân và béo phì, chỉ số BMI và tỉ số
vòng bụng/vòng mông cũng có liên quan đến
các yếu tố này.
Một điều quan trọng hơn nữa là khi nhắc
đến hội chứng chuyển hoá, 100% người cao
tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi hoàn
toàn không biết và cũng chưa hề nghe nói về
hội chứng này. Hội chứng chuyển hóa hiện
nay mới đang là vấn đề thời sự của giới y học
trong cả nước nên việc người dân biết về hội
chứng này rất ít là điều dễ hiểu. Một số sách
báo phổ thông đã bắt đầu đề cặp đến hội
chứng này tuy nhiên để có thể tạo mối quan
tâm thật sự cho người dân thì công tác truyền
thông giáo dục sức khỏe vẫn còn rất nhiều
việc phải làm. Điều đặc biệt cần lưu ý là chỉ
có 22,1% người cao tuổi biết cho rằng các
bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn
mỡ máu và béo phì có liên quan mật thiết với
nhau. Như vậy sẽ có rất nhiều người bị một
trong các bệnh này không quan tâm đến việc
kiểm tra các bệnh khác và hậu quả là các rối
loạn chuyển hóa sẽ diến biến ngày càng phức
tạp hơn cùng với gánh nặng tuổi tác.
Ngược lại với những hiểu biết chung về
hội chứng chuyển hóa, có đến 90,9% đối
tượng nghiên cứu của chúng tôi biết được
cách để phát hiện các bệnh là thành tố của hội
chứng chuyển hóa như đi kiểm tra sức khỏe,
theo dõi huyết áp, cân nặng. Bên cạnh đó
cũng có đến 85,4% người cao tuổi biết điều
kiện thuận lợi để dẫn đến các rối loạn chuyển
hóa là do chế độ ăn uống, sinh hoạt và lối
sống. Tuy nhiên, chỉ có 56% biết rằng cần điều
trị liên tục khi mắc các bệnh tăng huyết áp,
đái tháo đường, rối loạn lipid máu và béo phì.
Như vậy, nếu thật sự đối tượng bị mắc các
bệnh này thì khả năng tái phát sẽ rất cao.
Khảo sát kiến thức của người cao tuổi về
các yếu tố nguy cơ của hội chứng chuyển hoá
và các thành tố của hội chứng chuyển hoá
trong ăn uống cho thấy rằng họ nhận thức
được ăn nhiều đồ ngọt là yếu tố nguy cơ
được biết nhiều nhất 95,7%, có lẽ người dân
cho rằng ăn nhiều đồ ngọt sẽ dễ bị bệnh đái
tháo đường. Ăn mỡ là yếu tố nguy cơ được
biết đứng hàng thứ hai (89,0%), kế đến là thói
quen ăn mặn (82,6%). Tỉ lệ này cao hơn so với
nghiên cứu của tác giả Trần Thiện Thuần và
cộng sự (69,5% và 75,5% đối tượng hiểu biết
ăn mỡ và ăn mặn là yếu tố nguy cơ gây tăng
huyết áp). Ăn mỡ và ăn mặn được người cao
tuổi đánh giá là có hại cho sức khoẻ vì có thể
họ cho rằng những yếu tố này khiến cho
người ta dễ bị béo phì. Đa số người cao tuổi
cho rằng ăn cá sẽ có lợi cho sức khoẻ hơn ăn
thịt (72,4%) và cuối cùng có đến 76,4% tỷ lệ
người cao tuổi cho rằng uống sữa có lợi cho
sức khoẻ. Kết quả này rất đáng khich lệ vì
người dân nhận ra rằng cá, sữa và các sản
phẩm từ sữa là một phần quan trọng đối với
chế độ dinh dưỡng cân bằng và khoẻ mạnh.
Về thói quen sinh hoạt và lối sống, đại đa
sô người cao tuổi cho rằng việc hút thuốc lá
(99,3%), uống rượu (98,8%) và có đời sống
căng thẳng (97,8%) cũng như uống nhiều cà
phê (93,2%) là có hại cho sức khoẻ. Ngoài ra,
có 81,1% người cao tuổi cho rằng nên có cuộc
sống vận động hơn là tĩnh tại và 77,3% cho
rằng nên tập thể dục dưỡng sinh. Trong điều
kiện khi các tài liệu kinh điển đều cho rằng lối
sống căng thẳng, tĩnh tại, lạm dụng các chất
kích thích làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh
có liên quan đến chuyển hóa thì đây là những
con số rất đáng mừng cho công tác truyền
thông giáo dục sức khỏe. Đặc biệt, khi người
dân có nhận thức người cao tuổi vẫn phải tiếp
tục làm việc, vận động theo tình trạng sức
khỏe chứ không phải là nghỉ ngơi tuyệt đối
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y tế Công cộng 103
thì đây không chỉ là một nhận thức đúng về
sức khỏe mà sẽ còn rất hữu ích cho việc phát
huy vai trò của người cao tuổi trong đời sống
cộng đồng.
Từ các kết quả nghiên cứu về kiến thức
chúng tôi đã ghi nhận có 35,51% các đối
tượng nghiên cứu có kiến thức tốt về phòng
ngừa HCCH, đây là một tỉ lệ còn rất khiêm
tốn. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao
hơn so với kết quả nghiên cứu của Phạm
Hùng Lực (20-30%) về phòng ngừa tăng huyết
áp và thấp hơn kết quả phòng ngừa tăng
huyết áp của Đàm Khải Hoàn (74,5%). Để
phòng chống tăng huyết áp từ ban đầu trong
cộng đồng có hiệu quả thì người dân trong
cộng đồng đó cần có kiến thức về THA sớm
hơn, trước khi mắc tăng huyết áp. Nếu chiến
lược này thực hiện được sẽ có tác dụng hướng
dẫn người dân tổ chức đời sống thuận lợi
phòng chống tăng huyết áp cho các cá nhân
trong cộng đồng và từ đó sẽ kiểm soát được
tỷ lệ THA mới xuất hiện trong cộng đồng.
Điều này không chỉ đúng cho bệnh tăng
huyết áp mà còn có thể áp dụng cho các bệnh
khác thuộc hội chứng chuyển hóa.
KẾT LUẬN
+ Không có người cao tuổi nào biết về hội
chứng chuyển hóa nhưng có kiến thức về các
thành tố của HCCH (86% biết về bệnh THA,
80,2% về bệnh ĐTĐ, 60,9% về rối loạn lipid
máu, 62,9% về bệnh béo phì) và có 22,1% biết
rằng các bệnh này có liên quan với nhau.
+ Hiểu biết về các thói quen có lợi cho sức
khỏe không đồng đều (biết nên ăn nhạt 82,6%,
sử dụng dầu thực vật 89,0%, ăn nhiều cá
72,4%, ăn nhiều rau quả 95,7% và sử dụng sữa
76,4%, cần sống thoải mái 97,8%, vận động
81,1%, tập dưỡng sinh 77,3%, không hút thuốc
lá 98,8%, không uống nhiều rượu 99,3% và
không sử dụng nhiều cà phê 93,2%).
+ Đánh giá chung có 35,51% người cao
tuổi có kiến thức tốt về phòng ngừa HCCH.
Do đó trong công tác giáo dục sức khoẻ cần
chú trọng đến những kiến thức bệnh nhân
chưa nắm được để họ có cái nhìn tổng quát về
nguy cơ bệnh tật của mình
KIẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu chúng tôi rút ra một số
kiến nghị sau:
1. Cần tăng cường công tác tuyên truyền,
giáo dục sức khỏe cho người cao tuổi về hội
chứng chuyển hóa và mối liên quan giữa các
thành tố của hội chứng chuyển hóa thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng và các
buổi sinh hoạt truyền thông giáo dục
sức khỏe.
2. Khuyến khích người cao tuổi kiểm tra
sức khỏe định kỳ mỗi 6 tháng, thường xuyên
theo dõi về huyết áp và tự theo dõi cân nặng
nhằm phát hiện sớm bệnh. Bên cạnh đó cũng
cần khuyến cáo người dân về các thói quen ăn
uống, sinh hoạt, lối sống có lợi cho sức khỏe
nhằm hạn chế việc mắc bệnh.
3. Tiếp tục triển khai nghiên cứu rộng hơn
trong cộng đồng về hội chứng chuyển hóa
theo hướng có can thiệp nhằm giúp hoạch
định những chính sách xã hội hợp lý đồng
thời nâng cao chất lượng sống, kéo dài tuổi
thọ cho người cao tuổi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chee – Eng Tan (2004). Can we apply the National
Cholesterol Education program adult treatment Panel
Definition of the Metabolic syndrome to Asians?. Diabetes
Care. Vol 27. No 5, pp. 1182-1186.
2. Mai Thế Trạch, Nguyễn Thy Khuê (2007). Hội chứng
chuyển hoá. Nội tiết học đại cương. Nhà xuất bản Y học
thành phố Hồ Chí Minh, tr. 503-508.
3. Meneilly GS, Elliott T (1999). Metabolic alterations in
middle-aged and elderly obese patients with Type 2
diabetes. Diabetes Care, 22, pp. 112-118.
4. Nguyễn Kim Thủy, Đào Kim Giang (2006). Tìm hiểu mối
liên quan giữa béo phì với rối loạn lipid máu. Tạp chí Y học
thực hành. Nhà xuất bản Bộ Y tế. Hà Nội. Số 8 (551), tr. 8-10
5. Peter C Elwood, Janet E Pickering, Ann M Fehily (2007).
Milk and dairy consumption, diabetes and the metabolic
syndrome: The caerphitly prospective study. Journal of
epidemiology and community health;61, pp. 695-698.
6. Phạm Khuê (1990). Lão khoa đại cương. Nhà xuất bản
Y học.
7. Phạm Hùng Lực .(2003). Nghiên cứu sự tương quan giữa
bệnh tăng huyết áp với môi trường sống khu vực đồng bằng
sông Cửu Long và biện pháp can thiệp xã hội. Luận án tiến
sĩ y khoa. Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 104
8. Susan B. Sisson, Sarah M.Camhi, Timothy S.Church, Catrine
Tudor-Locke, William D.Johnson, Peter T.Katzmarzyk
(2010). Accelerometer-Determined steps/day and metabolic
syndrome. American Journal Preventive medicine. June
2010. Vol 38. Issue 6. pp. 575-582
9. Trần Tiến Hùng .(2008). Một số nhận xét về hội chứng
chuyển hoá ở bệnh nhân đái tháo đường tại bệnh viên Việt
Nam - Cu Ba Đồng Hới Quãng Bình. Tạp chí Y học thực
hành (608+609) – số 5/2008, tr. 136-1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kien_thuc_ve_phong_ngua_hoi_chung_chuyen_hoa_o_nguoi_cao_tuo.pdf