Chúng tôi phải thực hiện mổ lại lần hai cho 3
trường hợp (11,7%) để cắt tiếp thùy tuyến giáp
còn lại do kết quả giải phẫu bệnh lý sau mổ là
ung thư tuyến giáp. Điều này do kết của FNA
trước mổ không phát hiện được, chúng tôi lấy
làm tiếc cho những trường hợp này vì bệnh
nhân phải chịu 2 cuộc phẫu thuật trong thời gian
ngắn, mặc dù chúng tôi vẫn thực hiện an toàn và
nhanh chóng qua phẫu thuật nội soi cho bệnh
nhân. Tuy nhiên, bệnh nhân phải tốn nhiều vật
chất và tin thần hơn. Hiện tại cả 3 bệnh nhân
đều khỏe mạnh và đang được điều trị với I-131.
Thời gian nằm viện của chúng tôi 2.05 (2-3)
ngày so với Jun-Ho Choe 4 ngày, Eckhard
Barlehmer 2,7 ngày Jeryong 5,37 ngày
gian nằm viện của nghiên cứu chúng tôi ngắn
hơn tác giả khác. Tuy nhiên cần có số liệu lớn
hơn để đánh giá chính xác vấn đề này. Với kết
quả có được chúng tôi vẫn cho rằng thời gian
nằm viện trung bình từ 2-3 ngày là thích hợp
hơn cả.
Tất cả bệnh nhân trở lại tái khám đều rất hài
lòng với vết mổ, họ rất tự tin khi mặc những
trang phục theo ý thích của mình. Sự hài lòng
cao cuả bệnh nhân cũng là nguồn động viên lớn
đối với chúng tôi để thực hiện tiếp đề tài này.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 398 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh nghiệm bước đầu cắt tuyến giáp nội soi: Tiếp cận đường nách và quầng vú, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 249
KINH NGHIỆM BƯỚC ĐẦU CẮT TUYẾN GIÁP NỘI SOI: 
TIẾP CẬN ĐƯỜNG NÁCH VÀ QUẦNG VÚ 
Đỗ Hữu Liệt*, Phạm Hữu Thông**, Đoàn Tiến Mỹ*, Nguyễn Thái Tuấn* 
Mục tiêu:Phẫu thuật cắt tuyến giáp nội soi gần đây đã phát triển nhanh chóng trong lĩnh vực phẫu thuật 
tuyến giáp kể từ khi Gagner mô tả phẫu thuật cắt tuyến cận giáp lần đầu tiên năm 1996(6). Có nhiều cách tiếp 
cận tuyến giáp cho việc phẫu thuật nội soi tuyến giáp của nhiều tác giả trên thế giới. Trong nghiên cứu này 
chúng tôi chọn phương pháp tiếp cận bằng đường nách và đường quầng vú để thực hiện phẫu thuật này. 
Đối tượng và phương pháp:Từ tháng 2.2010 đến tháng 1.2011 chúng tôi thực hiện 26 trường hợp,100% 
nữ. Tuổi trung bình là 35,5±9,46 (21-53) tuổi. Chúng tôi sử dụng 3 trocar:1 trocar 5mm ở phía trên quầng vú,1 
trocar 5mm và 1 trocar 10mm ở vùng nách cùng bên. Mô bệnh phẩm được bỏ vào bao và lấy qua lỗ trocar 10mm 
ở nách. 
Kết quả:Đường kính trung bình của bướu giáp là 3,58±0,86 (3-6)cm. Tất cả bệnh nhân đều được thực hiện 
thành công với phương pháp mổ nội soi. Có 18 trường hợp (69,2%) bướu thùy phải, 7 trường hợp bướu thùy 
trái (26,9%), và 1 trường hợp (3,9%) bướu 2 thùy. Chúng tôi thực hiện cắt thùy cho 25 trường hợp, và cắt gần 
trọn tuyến giáp cho 1 trường hợp. Có 3 trường hợp chúng tôi phải thực hiện phẫu thuật cắt thùy đối diện còn lại 
do kết quả giải phẫu bệnh lý sau mổ là ung thư tuyến giáp. Thời gian mổ trung bình 65,25±20.49 (35-125) phút. 
Không có biến chứng do CO2 gây ra. Có 1 trường hợp bị khàn tiếng sau mổ cho trong quá trình mổ bị chấn 
thương thần kinh quặt ngược thanh quản nhưng sau đó bệnh nhân hồi phục hoàn toàn sau 6 tuần. Thời gian 
nằm viện trung bình 2,05± 0,02 (2-3) ngày. 
Kết luận: Phẫu thuật cắt tuyến giáp qua ngã nội soi với tiếp cận đường bên và quầng vú là an toàn và hiệu 
quả, đảm bảo yều tố thẩm mỹ cao, ít tai biến và biến chứng. 
Từ khóa: Cắt tuyến giáp qua nội soi, đường nách và quầng vú. 
ABSTRACT 
INITIAL EXPERIENCES OF ENDOSCOPIC THYROIDECTOMY:IPSILATERAL AXILLARY AND 
BREAST AREOLAR APPROACH 
Do Huu Liet, Pham Huu Thong, Doan Tien My, Nguyen Thai Tuan 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 249 - 253 
Background: Endoscopic thyroidectomy is a recently developed procedure in the field of thyroid surgery 
since the first description of endoscopic parathyroidectomy by Gagner in 1996. There are ways to approach to 
thyroid gland for this procedure of many authors in the world. The present study reviews our initial experiences 
with endoscopic thyroidectomy using ipsilateral axillary and breast areolar approach to evaluate its safety and 
feasibility. 
Materials and methods: From February 2010 to January 1011, we performed 26 cases with 100% female, 
mean age 35,5±9,46 (range, 21-53) years. We inserted 3 tocars with two 5mm-trocar and 10mm-trocar at 
ipsilateral axilla and the other at upper margin of breast areola. Specimen was put into an endobag and pulled out 
through the axillary skin incision. 
* Khoa ngoại gan mật tụy BV Chợ Rẫy, ** Bộ môn ngoại ĐHYD TP Hồ Chí Minh 
 Tác giả liên lạc: Đỗ Hữu Liệt, ĐT: 0913849434 Email: dohuuliet73@yahoo.com 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 250
Results: The mean diameter of goiter was 3.58±0.86 (range, 3-6)cm. All patients were successfully 
performed with endoscopic procedure. Eghteen cases (69.2%) from right lobe,seven cases (26.9%) from left lobe 
and one (3.9%) from bilateral site. Endoscopic procedures were 25 lobectomies,1 near total thyroidectomy. There 
were three cases we must perfomed reoperation with contralateral lobe due to postoperative pathology was thyroid 
cancer. The operating time 65.25±20.49 (range, 35-125) minutes. No CO2 gas-related complications, such as 
subcutaneous emphysema or hypercapnia. There was one case of hoarseness due to recurrent laryneal nerve 
injury but she recovered for 6 weeks. The mean length of the hospital stay was 2.05± 0.02 (range, 2-3) days. 
Conclusion: Endoscopic thyroidectomy with breast areolar and ispilateral axillary appoach is safe and 
feasible. The cosmetic results were considered excellent by all patients and less morbility. 
Key words: endoscopic thyroidectomy: ipsilateral axillary and breast areolar approach 
MỞ ĐẦU 
Kể từ năm 1996, Gagner mô tả lần đầu tiên 
cắt tuyến cận giáp qua ngả nội soi, phẫu thuật 
cắt tuyến giáp nội soi một thời gian dài chưa 
trở thành phẫu thuật tiêu chuẩn(2). Tuy nhiên 
trong mười năm trở lại đây phẫu thuật này 
phát triển mạnh mẽ và được nhiều phẫu thuật 
viên trên thế giới quan tâm(8). Có nhiều cách 
tiếp cận tuyến giáp cho việc phẫu thuật nội soi 
tuyến giáp của nhiều tác giả trên thế giới như 
tiếp cận từ đường cổ trước của Gagner, tiếp 
cận từ đường cổ bên của Henry, Inabnet; tiếp 
cận đường vú của Park hay tiếp cận từ đường 
nách của Ikeda(2).Tất cả các đường tiếp cận 
đều có những ưu và nhược điểm khác nhau. 
Trong nghiên cứu này chúng tôi chọn phương 
pháp tiếp cận bằng đường nách và đường 
quầng vú của tác giả Trần Ngọc Lương(7). Đây 
là đường tiếp cận kết hợp được sự hài hòa của 
hai tác giả Park và Ikeda và cũng tương tự 
cách tiếp cận Hybrid mà tác giả Charles 
T.K.Tan đã giới thiệu(0). 
Mục tiêu nghiên cứu 
Đánh giá hiệu quả phương pháp này trong 
phẫu thuật nội soi tuyến giáp 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp nghiên cứu 
Can thiệp không nhóm chứng. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
-Bệnh nhân có bướu kích thước nhỏ hơn 6cm 
-Chức năng tuyến giáp bình thường 
-Đồng ý phẫu thuật nội soi 
 -Qui trình thực hiện: 
 -Bệnh nhân được gây mê nội khí quản, nằm 
ngửa, kê gối nhỏ dưới vai. 
 -Chúng tôi sử dụng 3 trocar cho phẫu 
thuật này. Trocar 10mm được đặt ở hõm nách 
đường nách giữa, 1 trocar 5mm được đặt ở 
đường nách trước ngay chỗ nếp gấp của cánh 
tay và thành ngực. Khi đặt xong 2 trocar này 
chúng tôi dùng mốc đốt tạo khoảng trống dưới 
da trước cơ ngực lớn. Khi có khoảng trống đủ 
rộng trocar còn lại 5mm được đặt phía trên 
Tư thế bệnh nhân trước mổ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 251
quầng núm vú. Tất cả các trocar đều ở cùng 
bên với bướu của tuyến giáp. 
 -CO2 được bơm với áp lực 10mmHg. 
Chúng tôi dùng mốc đốt và ống hút để tạo 
khoảng trống từ ngực lên đến cổ và bộc lộ toàn 
bộ thùy và bướu của tuyến giáp. 
 -Sau đó dùng dao siêu âm phẫu tích các cực 
của tuyến giáp, bộc lộ tuyến cận giáp và thần 
kinh thanh quản quặt ngược trước khi cắt thùy 
tuyến giáp. 
 -Sau khi cắt xong thùy tuyến giáp, chúng tôi 
bơm nước kiểm tra chảy máu, cho bệnh phẩm 
vào bao, đặt 1 ống dẫn lưu nhỏ qua lỗ trocar 
5mm đường nách trước, lấy bệnh phẩm qua lỗ 
trocar 10mm đường nách giữa và gởi giải phẫu 
bệnh lý. Các lỗ trocar được khâu với chỉ vicryl 
4.0 tan nhanh và không cần phải cắt chỉ. Ống 
dẫn lưu được rút 1 ngày sau mổ. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 2.2010 đến tháng 1.2011 chúng tôi 
thực hiện 26 trường hợp, tất cả đều là bệnh nhân 
nữ, tuổi trung bình 35,5±9,46(21-53). Có 3 
(11,7%) trường hợp bướu dạng nang và 23 
trường hợp (88,3%) dạng nhân, trong đó có 1 
trường hợp (3,9%) bướu 2 thùy. FNA trước mổ 
được thực hiện 100% trường hợp không trường 
hợp nào được ghi nhận là ung thư. Đường kính 
trung bình của bướu giáp là 3,58±0,86 (3-6)cm. 
Tất cả bệnh nhân đều được thực hiện thành 
công với phương pháp mổ nội soi. Có 18 trường 
hợp (69,2%) bướu thùy phải, 7 trường hợp bướu 
thùy trái (26,9%), và 1 trường hợp (3,9%) bướu 2 
thùy. Chúng tôi thực hiện cắt thùy cho 25 
trường hợp, và cắt gần trọn tuyến giáp cho 1 
trường hợp. Có 3 trường hợp (11,7%) chúng tôi 
phải thực hiện phẫu thuật cắt thùy đối diện còn 
lại do kết quả giải phẫu bệnh lý sau mổ là ung 
thư tuyến giáp. Thời gian mổ trung bình 
65,25±20.49 (35-125)phút. Không có biến chứng 
do CO2 gây ra. Có 1 trường hợp (3,9%) bị khàn 
tiếng sau mổ cho trong quá trình mổ bị chấn 
thương thần kinh quặt ngược thanh quản nhưng 
bệnh nhân hồi phục hoàn toàn sau 6 tuần. Thời 
gian nằm viện trung bình 2,05± 0,02 (2-3) ngày. 
Tất cả bệnh nhân đều trở lại tái khám và rất hài 
lòng với vết mổ của mình. 
BÀN LUẬN 
Kể từ khi Gagner báo cáo kết quả cắt tuyến 
cận giáp qua ngã nội soi năm 1996(7), ông đã đặt 
nền móng cho phẫu thuật cắt tuyến giáp nội soi 
sau này. Năm 1997 Huscher và cộng sự báo cáo 
kết quả cắt thùy tuyến giáp hoàn toàn qua ngã 
nội soi với đường tiếp cận trước cơ ức đòn 
chủm(2). Sau đó một số tác giả đã giới thiệu một 
số đường tiếp cận thực hiện cắt tuyến giáp qua 
ngã nội soi(3). Thế nhưng, các phương pháp này 
đều không đạt được yếu tố thẩm mỹ vì vẫn để 
lại sẹo ở vùng cổ. Năm 2000, Ikeda báo cáo kết 
quả tiếp cận bằng đường nách phương pháp 
này đạt được yếu tố thẩm mỹ. Tuy nhiên, 
phương pháp này khó thực hiện hơn do 3 trocar 
nằm gần nhau vì thế thao tác dễ va chạm nhau 
và thời gian mổ dài hơn(9). Sau đó năm 2003, 
Park và cộng sự báo cáo 100 trường hợp tiếp cận 
từ đường vú. Tác giả dùng trocar kích thước 10-
15mm,phẫu tích sang 2 bên ngực. Đều này 
Sẹo sau mổ-không sẹo ở 
ổ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 252
không đảm bảo yếu tố thẩm mỹ và sau mổ bệnh 
nhân đau nhiều hơn(3). Chính vì những yếu tố 
trên chúng tôi thực hiện phương pháp tiếp cận 
của tác giả Trần Ngọc Lương năm 2010, tác giả 
báo cáo với số lượng lớn 1435 bệnh nhân. Ông 
cho rằng với tiếp cận bằng đường nách và 
quầng vú, tuyến giáp được bộc lộ dễ dàng, việc 
kiểm soát chảy máu và thần kinh thanh quản 
quặt ngược cũng tiện lợi hơn. Chúng tôi chọn 
đường tiếp cận này đến thời điểm hiện tại chưa 
gặp khó khăn gì trong việc tiếp cận tuyến giáp(8). 
Chúng tôi chọn 2 trocar 5mm cho đường 
tiếp cận ở đường nách trước và phía trên quầng 
vú. Điều này không ảnh hưởng nhiều đến yếu tố 
thậm mỹ của bệnh nhân vì lỗ trocar nhỏ, được 
che khuất bởi nếp gấp cánh tay và quầng của vú. 
Khi được thực hiện khâu dưới da thẩm mỹ thì 
hầu như không còn thấy sẹo. Chúng tôi không 
thực hiện đặt trocar 10mm ở quầng vú như các 
tác giả Park hay K.Jeryong vì điều này không 
cần thiết và làm bệnh nhân đau nhiều dễ gây 
biến chứng chảy máu hơn. 
Chúng tôi chọn bướu không quá 6cm vì đây 
là những kinh nghiệm ban đầu của chúng tôi, 
với bướu lớn hơn 6cm việc tạo phẫu trường sẽ 
khó hơn vì thế việc phẫu tích và bộc lộ tuyến 
giáp cũng sẽ khó hơn. Thực tế, qua 10 trường 
hợp ban đầu chúng tôi chỉ chọn những bệnh 
nhân có bướu dưới 4 cm, tuy nhiên khi thao tác 
đã trở nên quen thuộc chúng tôi thực hiện đến 
những bệnh nhân có bướu 6cm mà không gặp 
trở ngại gì, có chăng đó là khi thực hiện lấy bệnh 
phẩm mất thời gian lâu hơn bướu có kích thước 
nhỏ. Hiện nay theo tác giả Trần Ngọc Lương 
những bướu có đường kính dưới 7cm đều có thể 
thực hiện được qua ngã nội soi. Chúng tôi chưa 
thực hiện trường hợp nào như trên. 
Thời gian mổ chúng tôi trung bình 65,25phút 
so với Jeryong 89,93 phút, Eckhard Barlehner là 
132 phút, Jun-Ho Choe là 165,3 phút(2,6,7). Thời 
gian phẫu thuật của chúng tôi ngắn hơn, tuy 
nhiên tiêu chuẩn chọn bệnh của mỗi tác giả khác 
nhau và số lượng bệnh nhân cũng khác nhau. 
Nhưng điều này cũng gợi ý rằng phương pháp 
tiếp cận của chúng tôi phù hợp cho phẫu thuật 
này. Tác giả Trần Ngọc Lương thực hiện 
phương pháp cắt tuyến giáp nội soi với tiếp cận 
giống như chúng tôi với số lượng 1354 trường 
hợp và có thời gian mổ trung bình 56,5 phút(8). 
Điều này khẳng định phương pháp này là phù 
hợp, với thời gian mổ ngắn hơn các phương 
pháp khác. 
Tai biến và biến chứng trong cũng như sau 
mổ của chúng tôi thấp-1 trường hợp (3,9%) bệnh 
nhân bị khàn tiếng tạm thời. Trường hợp này 
chúng tôi phẫu tích rõ dây thần kinh quặt 
ngược,tuy nhiên khi thực hiện cắt dây chằng 
Berry chúng tôi không cẩn thận để cành sau của 
dao sieu âm chạm vào dây thần kinh dẫn đến 
bệnh nhân bị khàn tiếng trong thời gian khá dài 
(6 tuần), điều đó đã ảnh hưởng rất nhiều đến 
công việc của bệnh nhân (bệnh nhân là thông 
dịch viên). Cho nên, sau này khi thực hiện các 
trường hợp cắt dây chằng Berry, chúng tôi luôn 
quan sát cận thận cành sau của dao siêu âm 
trước khi cắt vì thế không gặp lại trường hợp 
nào tương tự. Chúng tôi nghĩ rằng đây là biến 
chứng hoàn toàn có thể tránh được nếu chúng ta 
cẩn thận hơn trong phẫu thuật cắt dây chằng 
Berry. Chúng tôi không gặp trường hợp nào 
chảy máu phải mổ lại hay phải chuyển mổ mở 
như một số tác giả, có thể số liệu của chúng tôi 
còn ít. 
Chúng tôi phải thực hiện mổ lại lần hai cho 3 
trường hợp (11,7%) để cắt tiếp thùy tuyến giáp 
còn lại do kết quả giải phẫu bệnh lý sau mổ là 
ung thư tuyến giáp. Điều này do kết của FNA 
trước mổ không phát hiện được, chúng tôi lấy 
làm tiếc cho những trường hợp này vì bệnh 
nhân phải chịu 2 cuộc phẫu thuật trong thời gian 
ngắn, mặc dù chúng tôi vẫn thực hiện an toàn và 
nhanh chóng qua phẫu thuật nội soi cho bệnh 
nhân. Tuy nhiên, bệnh nhân phải tốn nhiều vật 
chất và tin thần hơn. Hiện tại cả 3 bệnh nhân 
đều khỏe mạnh và đang được điều trị với I-131. 
Thời gian nằm viện của chúng tôi 2.05 (2-3) 
ngày so với Jun-Ho Choe 4 ngày, Eckhard 
Barlehmer 2,7 ngày Jeryong 5,37 ngày(2,5,7). Thời 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 253
gian nằm viện của nghiên cứu chúng tôi ngắn 
hơn tác giả khác. Tuy nhiên cần có số liệu lớn 
hơn để đánh giá chính xác vấn đề này. Với kết 
quả có được chúng tôi vẫn cho rằng thời gian 
nằm viện trung bình từ 2-3 ngày là thích hợp 
hơn cả. 
Tất cả bệnh nhân trở lại tái khám đều rất hài 
lòng với vết mổ, họ rất tự tin khi mặc những 
trang phục theo ý thích của mình. Sự hài lòng 
cao cuả bệnh nhân cũng là nguồn động viên lớn 
đối với chúng tôi để thực hiện tiếp đề tài này. 
KẾT LUẬN 
Qua 26 trường hợp thực hiện cắt tuyến giáp 
qua ngã nội soi với tiếp cận bằng đường nách và 
quầng vú, chúng tôi nhận thấy rằng đây là 
phương pháp an toàn, hiệu quả và thẩm mỹ cao, 
đáp ứng được kỳ vọng về thẩm mỹ của bệnh 
nhân và có thể áp dụng cho nhiều loại bệnh lý 
tuyến giáp khác nhau. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Charles T.K.Tan, W.K.Cheak, Leigh Delbridge (2008), 
“Scarless” (in the Neck) Endoscopic Thyroidectomy (SET):An 
Evidence-based Review of Published Techniques, World J 
Surg, 32, 1349-1357 
2. Eckhard Barlehner, Tahar Benhidjeb (2008), Cervical scarless 
endoscopic thyroidectomy:Axillo-bilateral-breast approach 
(ABBA), Surg Endosc, 20, 339-342 
3. E.Th.Slotema, F. Sebag, J.F. Henry (2008), What is the 
Evidence for Endoscopic Thyroidectomy in the Management 
of Benign Thyroid Disease?,World J Surg 32, 1325-1332 
4. F.F.Palazzo, F.Sebag, J.F.Henry (2006), Endoscopic surgical 
technique: endoscopic thyroidectomy via lateral approach, 
Surg Endosc, 20, 339-342 
5. F.Sebag, F.F.Palazzo, J.Harding et al (2006), Endoscopic 
Lateral Approach Thyroid Lobectomy:Safe Evolution from 
Endoscopic Parathyroidectomy, World J Surg, 30, 802-805 
6. Jun-Ho-Choe, Seok Won Kim, Ki-Wook Chung et al (2007), 
Endoscopic Thyroidectomy Using a New Bilateral Axillo-
Breast Approach, World J Surg, 31, 601-606 
7. K.Jeryong, L.Jinsun, K. Hyegyong, C. Eilsung et al (2008), 
Total Endoscopic Thyroidectomy with Bilateral Breast Areola 
and Ipsilateral Axillary(BBIA) Approach.World J Surg, 32, 
2488-2493 
8. Tran Ngoc Luong, Nguyen Giang Son, Pham Tan Duc et al 
(2010),The Results of 7 years (May 2003-June 2010) 0f 
Endoscopic Thyroidectomy, 10th meeting of endoscopic and 
laparoscopic surgeons of ASIA, 256-257 
9. Y.Ikeda, H.Takami, M.Niimi et al (2001), Endoscopic 
Thyroidectomy by the axillary approach, Surg Endosc, 15, 
1362-1364 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 kinh_nghiem_buoc_dau_cat_tuyen_giap_noi_soi_tiep_can_duong_n.pdf kinh_nghiem_buoc_dau_cat_tuyen_giap_noi_soi_tiep_can_duong_n.pdf